Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN DUY

GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN DUY

GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢƠNG LAN


Hà Nội – 2017

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Văn Duy

iii


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ...........................................................................3
Chƣơng 1 ..................................................................................................................11
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH .......................................11
1.1.

Khái niệm gia đình ......................................................................................11


1.1.1. Gia đình theo quan điểm triết học ..................................................................11
1.1.2. Gia đình theo quan điểm xã hội học ..............................................................13
1.1.3.
1.2

Gia đình theo quan điểm luật học ............................................................16
. Khái niệm thành viên gia đình ..................................................................19

1.3
. Các chức năng cơ bản và đặc điểm của gia đình trong điều kiện kinh tế xã
hội hiện nay ..............................................................................................................21
1.3.1. Các chức năng cơ bản của gia đình ..............................................................22
1.3.2 Đặc điểm và mục tiêu của gia đình Việt Nam ................................................24
1.4. Khái quát sự điều chỉnh của pháp luật hôn nhân và gia đình về gia đình qua
các thời kỳ ................................................................................................................28
1.4.1. Gia đình theo quy định của pháp luật phong kiến Việt Nam.........................28
1.4.2. Gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc ............31
1.4.3. Gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám
đến nay .....................................................................................................................32
1.5. Sự cần thiết điều chỉnh của pháp luật về gia đình ............................................36
Chƣơng 2 ..................................................................................................................40
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC QUAN HỆ CỦA GIA ĐÌNH ..........................40
2.1. Quan hệ giữa vợ và chồng ................................................................................40
2.1.1. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng.............................................................41
2.1.2. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng .......................................................................47
1


2.1.3. Quyền đại diện giữa vợ và chồng ..................................................................59
2.2. Quan hệ giữa cha, mẹ và con ............................................................................65

2.2.1 Cơ sở phát sinh quan hệ giữa cha, mẹ và con .................................................65
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ - con ...........................................................73
2.3. Quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình .............................................78
2.3.1. Quan hệ giữa anh chị em với nhau ................................................................78
2.3.2. Quan hệ giữa ông bà và cháu .........................................................................81
2.3.3. Quan hệ giữa cô, dì, chú, bác, cậu, cháu........................................................84
CHƢƠNG 3 .............................................................................................................88
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIA ĐÌNH, MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH ...............88
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về gia đình ...................................................88
3.1.1. Những vƣớng mắc về quy định đại diện cho nhau giữa vợ và chồng ...........88
3.1.2. Những vƣớng mắc về quy định chế độ tài sản vợ chồng...............................92
3.1.3. Những khó khăn thực thi quy định về mang thai hộ .....................................95
.3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về hôn nhân và gia
đình ...........................................................................................................................97
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định đại diện giữa vợ và chồng ............................97
3.2.2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng
................................................................................................................................100
KẾT LUẬN ............................................................................................................107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................109

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt

Tên viết đầy đủ

1


Luật HN&GĐ

Luật hôn nhân và gia đình

2

BLDS

Bộ luật dân sự

3

BLHS

Bộ luật hình sự

4

UBND

Ủy ban nhân dân

5

NLHVDS

Năng lực hành vi dân sự

Số thứ

tự

6

Nghị định 10/2015/NĐ-CP Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng
01 năm 2015 Quy định về kỹ thuật sinh
con trong ống nghiệm và điều kiện mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo.

7

Nghị định 126/2014/NĐCP

8

Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng
12 năm 2014 Quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và
gia đình.

Nghị định 67/2015/NĐ-CP Nghị định 67/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của nghị định số
110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm
2013 của chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tƣ
pháp, hành chính tƣ pháp, hôn nhân gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã
3



9

Quốc hội nƣớc
CHXHCNVN

10

Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam

Thông tƣ liên tịch

Thông tƣ liên tịch số 01 ngày 06 tháng 01
01/2016/TTLT-TANDTC- năm 2016 giữa Tòa án nhân dân tối cao –
Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tƣ
VKSNDTC- BTP
pháp

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Lời nói đầu của Luật HN&GĐ năm 2000 đã thể hiện tầm quan trọng của gia
đình: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi
trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng
tốt”.
Gia đình là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Mỗi ngành khoa

học có cách nhìn khác nhau, nghiên cứu về gia đình với những mục tiêu khác nhau.
Nói đến gia đình là nói đến các thành viên gia đình cùng chung sống, đùm bọc và
giúp đỡ nhau. Dƣới góc độ pháp lý, nghiên cứu về gia đình nhằm xác định thành
viên gia đình, mối quan hệ giữa những thành viên gia đình để từ đó quy định nghĩa
vụ và quyền tƣơng ứng đối với mỗi thành viên. Trải qua các thời kỳ, thành viên gia
đình cũng có sự thay đổi nhất định. Tuy nhiên, xác định quan hệ gia đình vẫn dựa
trên các mối quan hệ chính là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dƣỡng. Gia đình cơ bản đƣợc xây dựng trên cơ sở nền tảng của các mối quan
hệ này.
Theo pháp luật hiện hành, quan hệ gia đình đƣợc hiểu theo nghĩa rất hẹp.
Chẳng hạn, quan hệ hôn nhân chỉ đƣợc hiểu là quan hệ giữa ngƣời nam và ngƣời
nữ có đăng ký kết hôn. Quan hệ huyết thống dƣờng nhƣ cũng chỉ đƣợc hiểu là
quan hệ giữa những ngƣời có cùng huyết thống về trực hệ và những ngƣời có họ
trong phạm vi ba đời. Trong quan hệ nuôi dƣỡng cũng chỉ có quan hệ giữa cha mẹ
và các con của ngƣời nhận nuôi với ngƣời con nuôi. Pháp luật HN&GĐ Việt Nam
hiện hành không sử dụng các thuật ngữ mà trong đời sống hàng ngày ngƣời Việt
Nam vẫn sử dụng nhƣ quan hệ họ hàng, thân thuộc.
5


Gia đình đƣợc xây dựng trên cơ sở mối quan hệ giữa các thành viên gia đình.
Khái niệm gia đình và khái niệm thành viên gia đình có mối liên hệ mật thiết, chặt
chẽ với nhau. Tuy nhiên, có thể nhận thấy có sự không phù hợp giữa lý luận và đời
sống thực tiễn trong việc xác định thành viên gia đình. Dƣới góc độ pháp lý, các
mối quan hệ giữa các thành viên gia đình chƣa đƣợc điều chỉnh đầy đủ, chƣa rõ
ràng và còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Ví dụ: Trong quan hệ nuôi dƣỡng, mối
quan hệ giữa ngƣời đƣợc nhận nuôi với những thành viên khác trong gia đình cha
mẹ nuôi, quan hệ chung sống giữa những ngƣời họ hàng trong cùng gia đình, quan
hệ cụ và chắt, quan hệ giữa con dâu và cha mẹ chồng... Từ việc không có quy
phạm pháp luật điều chỉnh nên không định hƣớng cho hành vi của các thành viên

trong gia đinh, dẫn đến các thành viên gia đình có thể có những hành vi xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của nhau. Hơn nữa, Việt Nam hiện đang hội nhập với
nền kinh tế thế giới, trong đó sự tƣơng đồng của các quy phạm pháp luật cũng là
điều cần thiết và tạo điều kiện tốt hơn cho hội nhập. Tìm hiểu quy định của pháp
luật một số nƣớc ở Châu Á nhƣ Hàn Quốc, Thái Lan, In-Đô-Nê-Xi-a... cũng dễ
dàng nhận ra quy định về thành viên gia đình của những nƣớc này rất rộng. Nói
cách khác, quan hệ gia đình cần đƣợc hiểu theo nghĩa rộng,
Trƣớc thực tiễn đó đòi hỏi phải nghiên cứu để làm sáng tỏ về gia đình từ đó
xây dựng những quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình,
sao cho các hành vi của các thành viên gia đình phù hợp đúng chuẩn mực đạo đức
xã hội. Nghiên cứu đề tài “Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam”
nhằm phục vụ cho mục đích đó.

2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

6


Hiện nay đã có nhiều học giả nghiên cứu về gia đình, không chỉ có riêng
ngành luật mà nhiều ngành khoa học khác cũng nghiên cứu vấn đề này. Trong lĩnh
vực pháp luật, chuyên ngành Luật HN&GĐ đã có nhiều bài viết về các khía cạnh
của gia đình nhƣ: Quan hệ nhân thân giữa vợ chồng; quan hệ cha mẹ con, … Một
số công trình nghiên cứu đã đề cập đến thành viên gia đình nhƣ: Bình luận khoa
học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Tập I – Gia đình , NXB Trẻ TP.HCM
của TS.Nguyễn Ngọc Điện (2002); Việt Nam dân luật lược giảng – Luật gia đình.
Quyển tập 1, tập 1 của Vũ Văn Mẫu (1973); Ngoài ra còn có các cuốn sách chuyên
khảo về những vấn đề liên quan đến HN&GĐ: Hỏi đáp về chế độ kết hôn và ly hôn
theo luật Hôn nhân và gia đình 2000 do tác giả Lê Thi biên soạn, NVB Khoa học

xã hội (2004); Gia đình Việt Nam quan hệ quyền lực và xư hướng biến đổi do tác
giả Vũ Hào Quang do NXB Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2006. PGS.TS
Nguyễn Văn Cừ đã viết nhiều cuốn sách khác nhau nhƣ: Chế độ tài sản của vợ
chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (NXB Tƣ Pháp), Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về Luật hôn nhân và gia đình 2000 xuất bản năm 2002
(NXB Chính trị quốc gia). Bên cạnh đó còn có nhiều luận văn, luận án hay những
khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu về những vấn đề khác nhau trong HN&GĐ... Tuy
nhiên, những tác phẩm này mới chỉ phân tích một số quan hệ cụ thể trong gia đình
chƣa có cách nhìn một cách hệ thống về gia đình.
Đây là công trình nghiên cứu về gia đình một cách có hệ thống và hoàn chỉnh
theo luật HN&GĐ 2014, có sự so sánh đối chiếu với công trình nghiên cứu của
một số ngành khoa học khác, có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để đánh giá sự
điều chỉnh của pháp luật về gia đình một cách phù hợp nhất. Công trình là cái nhìn
xuyên suốt các quy phạm pháp luật quy định về thành viên gia đình, mô hình gia
đình trong hệ thống pháp luật HN&GĐ Việt Nam.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
7


Mục đích của đề tài là nghiên cứu vấn đề lý luận chung về gia đình, cơ sở để
phát sinh, hình thành gia đình, mối quan hệ, quyền và nghĩa vụ của các thành viên
gia đình theo quy định của pháp luật HN&GĐ. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp
dụng pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên gia đình, từ đó làm rõ
những điểm đã đạt đƣợc, vƣớng mắc hạn chế cần khắc phục, hoàn thiện.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận gia đình từ
nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là từ góc độ luật HN&GĐ. Nghiên cứu về các
mối quan hệ tạo thành gia đình theo luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014, trên cơ sở
phân tích, so sánh với các quy định điều chỉnh quan hệ gia đình trong các văn bản

pháp luật trƣớc đây. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định điều
chỉnh về gia đình trong cuộc sống hiện tại.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về gia đình theo quan điểm luật

học; những quy định của pháp luật HN&GĐ điều chỉnh về gia đình và các mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình; Thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật về gia đình.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn, vấn đề gia đình đƣợc xem xét, nghiên cứu theo

Luật HN&GĐ năm 2014 theo 3 mối quan hệ cơ bản tạo thành gia đình là quan hệ
giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên khác
trong gia đình. Trong quá trình nghiên cứu có sự so sánh, đối chiếu với các quy
định điều chỉnh về gia đình trong hệ thống pháp luật HN&GĐ Việt Nam. Trên cơ
sở đó đánh giá về hiệu quả điều chỉnh, việc áp dụng các quy định hiện hành về gia
đình để phát hiện những điểm vƣớng mắc, bất cập và đƣa ra các đề xuất, kiến nghị.
8


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp luận của chủ nghĩa MácLênin với phép biện chứng duy vật và lịch sử, gắn kết tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và

quan điểm đƣờng lối của Đảng và pháp luật nhà nƣớc về vấn đề gia đình trong
pháp luật HN&GĐ
Bên cạnh đó, các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành đƣợc sử
dụng để thực hiện đề tài cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu, hệ thống, diễn giải, quy nạp...để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra.
6. Tính mới và đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu, tƣơng đối toàn diện, có hệ
thống về sự điều chỉnh của pháp luật về gia đình từ góc độ lý luận và thực tiến theo
Luật HN&GĐ năm 2014.
Luận văn đã phân tích khái quát trên cơ sở khoa học để xây dựng khái niệm
gia đình và thành viên gia đình, cũng nhƣ khắc họa đƣợc những chức năng cơ bản
của gia đình trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, để từ đó làm rõ cơ sở xây
dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình hiện nay
một cách hiệu quả…
Đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh gia đình về quyền
và nghĩa vụ giữa các thành viên gia đình, tính khả thi, hiệu quả điều chỉnh cũng
nhƣ những vƣớng mắc, bất cập còn tồn tại cần khắc phục, sửa đổi và đề xuất
hƣớng hoàn thiện.

7. Kết cấu của Luận văn
9


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận chung về gia đình
Chƣơng 2. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ của gia đình
Chƣơng 3. Thực tiễn thực hiện các quy định về gia đình và một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật điều chỉnh về gia đình


10


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm gia đình
1.1.1. Gia đình theo quan điểm triết học
Triết học nghiên cứu gia đình trong quá trình phát triển của lịch sử và các hình
thái kinh tế - xã hội. Theo quan điểm triết học, HN&GĐ không ngừng vận động và
phát triển. Theo C.Mac – Ph.Anghen thì quan hệ hôn nhân tƣơng ứng có với ba
giai đoạn phát triển của nhân loại: Ở thời đại mông muội có chế độ quần hôn; ở
thời đại dã man có chế độ hôn nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh có chế độ một vợ
một chồng [2; tr.55 - 129].
Gia đình là một phạm trù lịch sử, các hình thái và chức năng của gia đình là
do tính chất của quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội cũng nhƣ trình độ phát triển văn
hóa của xã hội quyết định. Trong lịch sử của xã hội loài ngƣời đã trải qua bốn hình
thái gia đình, đó là gia đình huyết tộc, gia đình pu-na-lu-an, gia đình cặp đôi, gia
đình một vợ một chồng.
Gia đình huyết tộc là hình thái gia đình đầu tiên trong lịch sử. Lúc này các
quan hệ hôn nhân hình thành theo thế hệ: Trong phạm vi gia đình, tất cả ông và bà
đều là vợ chồng với nhau; các con của ông bà tức là các ngƣời cha và các bà mẹ
cũng là vợ chồng với nhau; đến lƣợt con cái của những ngƣời này tức là cháu của
ông bà cũng hợp thành một nhóm vợ chồng thứ ba; đến lƣợt con cái của những
ngƣời con ấy là chắt của ông bà lại hợp thành nhóm vợ chồng thứ tƣ. Nhƣ vậy,
những ngƣời cùng thế hệ là vợ chồng của nhau, những ngƣời khác thế hệ không có
quyền và không có nghĩa vụ vợ chồng với nhau. Quan hệ hôn nhân đƣợc ngăn cấm
lần đầu tiên theo hệ dọc giữa các thế hệ. Các nhóm hôn nhân đƣợc hình thành theo
thế hệ và chỉ đƣợc phép quan hệ tính giao với nhau trong phạm vi nhóm đó. Vì
11



cấm quan hệ tính giao theo hệ dọc trên cơ sở huyết thống trực hệ giữa các thế hệ
với nhau, nên gia đình này đƣợc gọi là gia đình huyết tộc.
Gia đình pu-na-lu-an: Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định, một
hay nhiều nhóm chị em gái trở thành vợ chung của cộng đồng những ngƣời đàn
ông khác không cùng họ mẹ; còn những anh em trai cùng mẹ của họ lại trở thành
chồng chung của cộng đồng và những chị gái khác. Bằng cách này mà từ hình thái
gia đình huyết tộc đã xuất hiện hình thái gia đình pu-na-lu-na. Theo hình thái gia
đình pu-na-lu-an, một số chị em gái cùng mẹ hay xa hơn đều là vợ chung của một
số ngƣời chồng, trừ những anh em trai cùng mẹ của những ngƣời chị em gái này.
Ngƣợc lại, một số ngƣời anh em trai sẽ là ngƣời chồng chung của các chị em gái,
trừ những chị em gái do cùng một mẹ đẻ ra. Lúc đó, những ngƣời này gọi nhau là
“người bạn đường” hay “người cùng hội cùng thuyền”. Một cách tƣơng tự, một số
anh em trai cùng mẹ hoặc xa hơn, đều lấy chung một số vợ không phải là chị em
gái của họ và những ngƣời vợ ấy đều gọi nhau là pu-na-lu-a. Đây là hình thức cổ
điển của một kết cấu gia đình có đặc trƣng là: Chung chồng, chung vợ với nhau
trong phạm vi nhất định, nhƣng phải loại trừ những anh em trai của các ngƣời vợ,
đồng thời cũng loại trừ những chị em gái của những ngƣời chồng.
Gia đình cặp đôi: Là một loại hình thức kết hôn từng cặp, lúc bấy giờ, trong
số những ngƣời vợ của mình, ngƣời đàn ông có một vợ chính, và trong số nhiều
ngƣời chồng khác, anh ta là ngƣời chồng chính của ngƣời đàn bà ấy. Do thị tộc
ngày càng phát triển và những nhóm “anh em trai” và “chị em gái” không còn có
thể lấy nhau đƣợc nữa ngày càng nhiều, càng mở rộng và phát triển hơn nữa thì tất
cả những ngƣời bà con họ hàng cùng dòng máu đều không đƣợc lấy nhau. Trong
tình trạng cấm kết hôn ngày càng phức tạp thì chế độ quần hôn ngày càng không
thể thực hiện đƣợc, chế độ ấy đang bị gia đình cặp đôi ngày càng lấn át và thay thế.
Một ngƣời đàn ông sống với một ngƣời đàn bà với một sự gắn bó với nhau rất lỏng
12



lẻo, mối liên hệ vợ chồng vẫn có thể bị bên này hay bên kia cắt đứt một cách dễ
dàng và con cái lúc này cũng chỉ thuộc về ngƣời mẹ.
Gia đình một vợ một chồng: Gia đình một vợ một chồng nảy sinh từ gia đình
cặp đôi, nó đánh dấu cho buổi ban đầu của thời đại văn minh. Gia đình ấy dựa trên
sự thống trị của ngƣời chồng, nhằm chủ đích là làm cho con cái sinh ra phải có cha
đẻ rõ ràng không ai tranh cãi đƣợc và sự rõ ràng về dòng dõi đó là cần thiết, vì
những đứa con đó sau này sẽ đƣợc thừa hƣởng tài sản của ngƣời cha với tƣ cách là
ngƣời kế thừa trực tiếp. Gia đình một vợ một chồng khác với gia đình cặp đôi ở
chỗ là quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn nhiều, hai bên không còn có thể tùy ý bỏ
nhau đƣợc nữa.
Qua bốn hình thái gia đình trên ta thấy triết học nghiên cứu gia đình trong sự
vận động và phát triển của nó theo các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội. Các
hình thái gia đình cũng vận động và phát triển theo quy luật tự nhiên và của sự vận
động phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội.
1.1.2. Gia đình theo quan điểm xã hội học
Các ngành nghiên cứu về gia đình cố gắng đƣa ra khái niệm về gia đình nhƣ
các nhà triết học, tâm lý học, giáo dục học, văn hóa… nhƣng chƣa có ngành nào
nghiên cứu về gia đình nhiều nhƣ ngành xã hội học. Tuy nhiên đến nay vẫn chƣa
có một khái niệm thống nhất về gia đình. Tùy vào từng lĩnh vực nghiên cứu mà
mỗi nhà khoa học lại có một khái niệm gia đình riêng phù hợp với lĩnh vực mà
mình nghiên cứu. Có thể nói, chƣa có ngành nào lại đƣa ra nhiều khái niệm gia
đình nhƣ ngành xã hội học.
Trong tập bài giảng Xã hội học của trƣờng đại học Luật Hà Nội, nhóm tác giả
đã nêu hai khái niệm về gia đình để phục vụ cho việc giảng dạy:

13


Gia đình là một thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt
(hoặc đặc biệt cùng chung sống). Gia đình là một phạm trù biến đổi mang tính lịch

sử và phản ánh văn hóa của dân tộc và thời đại. Gia đình là trường học đầu tiên
có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội [38; tr.335]
Gia đình – đơn vị xã hội (nhóm xã hội nhỏ), là hình thức tổ chức xã hội quan
trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống,
tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc
khác cùng chung sống và có kinh tế chung [38; tr.335]
Môn Xã hội học đƣợc giảng dạy ở trƣờng Đại học Luật là môn học nhằm mục
đích giúp ngƣời học hiểu biết hơn về xã hội nhằm nhanh chóng tiếp cận hiểu biết
pháp luật từ đó thực hiện ba chức năng cơ bản là chức năng nhận thức, chức năng
thực tiễn và chức năng tƣ tƣởng. Khái niệm gia đình đƣợc các tác giả đƣa ra cũng
không nằm ngoài ba chức năng trên. Vì vậy, có thể thấy hai khái niệm trên chƣa
phản ánh một cách đầy đủ về khái niệm gia đình. Ngoài hai khái niệm trên thì còn
có những khái niệm khác nhau của các tác giả xã hội học khác khi nghiên cứu về
gia đình.
Trong cuốn “Gia đình trong bối cảnh đổi mới”, gia đình đƣợc định nghĩa nhƣ
sau: Gia đình là một nhóm người có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống,
hoặc quan hệ nuôi dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng
chung sống, có chung ngân sách[39; tr114]. Do trong thực tiễn tồn tại nhiều loại
mô hình gia đình nên việc nghiên cứu gia đình và giới trong thời kỳ đổi mới nhằm
thực hiện quản lý xã hội của các nhà quản lý cũng chỉ nghiên cứu những gia đình
mang tính chất tiêu chuẩn. Do vậy, khái niệm nêu trên cũng chƣa thực sự đầy đủ và
bao quát hết mọi gia đình trong xã hội.

14


Khi nghiên cứu xã hội học về “Một số lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học”,
nhóm tác giả là GS. Phạm Tất Long – TS. Lê Ngọc Hùng đã đƣa ra khái niệm về
gia đình cho lĩnh vực mình nghiên cứu nhƣ sau: Gia đình là một thiết chế xã hội
đặc thù,một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi mối

quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi,bởi tính cộng đồng
về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng
của các thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất
con người[15; tr310]. Khái niệm do nhóm tác giả đƣa cũng chƣa phản ánh đầy đủ
về gia đình bởi hình thức gia đình rất đa dạng. Khái niệm này khá tƣơng đồng với
quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014.
Mặc dù chƣa có một khái niệm chung về gia đình nhƣng các nhà xã hội học
đều ghi nhận gia đình là một nhóm xã hội nhỏ, trong đó các thành viên có quan hệ
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dƣỡng, cùng chung sống.
Bởi tính đa dạng của gia đình mà làm cho bất cứ một khái niệm nào về gia đình
cũng trở nên lỏng lẻo, điều này đã tạo nên nhiều tranh luận giữa các nhà khoa học,
nó đã và đang thách thức các nhà xã hội học đƣa ra một khái niệm về gia đình.
Xã hội học coi gia đình là một thể chế xã hội luôn vận động và phát triển. Vì
gia đình là một thể chế nên mỗi con ngƣời từ khi sinh ra đã đặt vào những quan hệ
nhất định. Gia đình là một cơ thể sống, nằm trong quá trình phát triển không
ngừng, gắn với sự phát triển chung của xã hội. Khi xã hội phát triển, sự phân chia
lao động càng đƣợc đẩy mạnh, gắn liền với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa
sẽ dẫn đến sự xé nhỏ gia đình, từ gia đình lớn trong đó có nhiều thế hệ chuyển sang
gia đình nhỏ chỉ có bố mẹ và con cái. Sự phát triển từ gia đình gia trƣởng sang gia
đình hạt nhân trở thành một quá trình có tính quy luật.
Nhìn chung thì các nhà xã hội học vẫn nhìn nhận gia đình là một thiết chế xã
hội gồm những ngƣời dựa trên ba mối quan hệ truyền thống là quan hệ hôn nhân,
15


quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dƣỡng mà chƣa có nhà xã hội học nào mở
rộng ba mối quan hệ trên khi nghiên cứu về gia đình.
1.1.3. Gia đình theo quan điểm luật học
Luật học nhìn nhận gia đình là sự liên kết của nhiều ngƣời có quan hệ với
nhau do có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dƣỡng.

Hôn nhân là mối quan hệ giữa vợ và chồng, là tiền đề để xây dựng gia đình.
Khoản 1 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 giải thích: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ
và chồng sau khi kết hôn”. Quan hệ hôn nhân giữa hai bên nam, nữ đƣợc xác lập
khi tuân thủ các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn
và phải đƣợc đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn. Nhƣ vậy, khi
một ngƣời nam và một ngƣời nữ kết hôn với nhau thì giữa hai ngƣời này tồn tại
quan hệ hôn nhân và hai ngƣời trở thành những thành viên của gia đình.
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con; ông bà và cháu; cụ và
chắt; cô, dì, chú, bác, cậu và cháu; anh chị em với nhau… phát sinh do sự kiện
sinh đẻ. Cụ là ngƣời sinh ra ông bà và các anh em của ông bà, thế hệ ông bà là thế
hệ tiếp theo của cụ; ông bà là ngƣời sinh ra cha mẹ và các anh em của cha mẹ nhƣ
cô dì chú bác cậu, thế hệ này lại là thế hệ tiếp theo của ông bà; đến lƣợt cha mẹ là
ngƣời sinh ra các con, các con trở thành thế hệ tiếp theo của cha mẹ. Sự nối tiếp
giữa các thế hệ dựa trên sự kiện sinh đẻ để tạo ra thế hệ tƣơng lai, các thế hệ này
đƣợc sinh ra từ một gốc, nên giữa họ có quan hệ huyết thống với nhau.
Quan hệ nuôi dƣỡng là quan hệ phát sinh do sự kiện nuôi con nuôi. Do việc
nhận nuôi con nuôi, ngƣời nhận con nuôi đƣợc gọi là cha mẹ nuôi và ngƣời đƣợc
nhận làm con nuôi đƣợc gọi là con nuôi. Ngƣời con nuôi trở thành thành viên gia
đình của ngƣời nuôi, bình đẳng với những ngƣời con đẻ của ngƣời nuôi. Theo quy
định trên ngƣời con nuôi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ với các thành viên gia đình
16


của cha mẹ nuôi theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật hôn nhân và gia
đình. Ngƣời con nuôi sẽ bình đẳng với mọi ngƣời con khác trong gia đình về quyền
và nghĩa vụ. Những ngƣời này có quan hệ với nhau do cùng quan tâm, chăm sóc và
giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, cùng nhau xây dựng kinh tế gia đình và
cũng cùng nhau vun đắp phát triển khối tài sản chung của gia đình. Trong trƣờng
hợp, nếu một trong số những ngƣời này có khối tài sản riêng thì ngƣời đó phải
đóng góp tài sản để duy trì đời sống chung phù hợp với thu nhập, khả năng thực

tiễn của mình. Những thành viên gia đình là những ngƣời tích cực trong việc giúp
đỡ nhau về mặt tinh thần, là chỗ dựa tinh thần của nhau, là nơi động viên, an ủi
những thành viên khác tốt nhất khi gặp khó khăn, thất bại trong cuộc sống. Đồng
thời, gia đình cũng là nơi để các thành viên gia đình chia sẻ thành công của nhau
một cách chân tình nhất. Các thành viên gia đình có quyền và nghĩa vụ tƣơng ứng
với nhau, nghĩa vụ của ngƣời này là quyền của ngƣời kia và ngƣợc lại.
Không phải gia đình nào cũng có đầy đủ các mối quan hệ nêu trên, trong
từng trƣờng hợp cụ thể, gia đình có thể chỉ có một mối quan hệ nhƣ chỉ có quan hệ
hôn nhân hoặc chỉ có quan hệ nuôi dƣỡng, cũng có thể có hai, ba hoặc có nhiều
mối quan hệ.
Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986 không giải thích về gia
đình, Luật HN&GĐ năm 2000 tại khoản 10 Điều 8 đã giải thích: “Gia đình là tập
hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan
hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy
định của Luật này”.
Theo Từ điển luật học thì gia đình là: “Tập hợp những người gắn bó với nhau
do quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các
nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật Hôn nhân và gia
đình.Gia đình Việt nam thường bao gồm nhiều thế hệ cùng chung sống như: ông
17


bà, cha mẹ, con cháu… Họ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và
tinh thần, sinh đẻ hay nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình chăm sóc,
giúp đỡ lẫn nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt
nam. Gia đình có các chức năng cơ bản: 1) chức năng sinh đẻ; 2) chức năng giáo
dục; 3) chức năng kinh tế. Bên cạnh chức năng cơ bản đó, gia đình còn phải thực
hiện chức năng quan tâm và chăm sóc người cao tuổi” [1; tr.282]. Giải thích trên
về gia đình tƣơng đồng với khoản 2 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014. Từ điển đã

giải thích ngắn gọn về gia đình Việt Nam trong đó có các thành viên của nhiều thế
hệ chung sống, chăm sóc và giúp đỡ nhau, cùng với đó là nêu lên chức năng cơ bản
của gia đình.
Giáo trình Luật HN&GĐ của Trƣờng Đại học luật Hà Nội đã đƣa khái niệm
về gia đình theo Luật HN&GĐ nhƣ sau: “Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi
dưỡng, có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau
về vật chất và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của
Nhà nước và xã hội”. Khái niệm gia đình phù hợp với quy định của pháp luật
HN&GĐ.
Nhƣ vậy các khái niệm gia đình trên đều chƣa bao quát đƣợc các trƣờng hợp
trong thực tiễn khi nghiên cứu về thành viên gia đình. Trong thực tiễn, gia đình
không chỉ có ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dƣỡng mà còn có
những mối quan hệ khác nhƣ cấp dƣỡng,… nhằm thể hiện sự gắn kết giữa các
thành viên trong gia đình. Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tác giả mạnh dạn
đƣa ra khái niệm gia đình của mình:
“Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống quan hệ nuôi dưỡng hoặc những người từ ba mối quan hệ đó mà cùng
18


sống chung với nhau, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo
quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.”
1.2 . Khái niệm thành viên gia đình
Tìm hiểu gia đình trong thƣc tế cho thấy thành viên gia đình đƣợc xác định
dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dƣỡng nhƣng phạm vi xác định rộng
hơn so với quy định của pháp luật. Thực tiễn xác định thành viên gia đình dựa trên
ba cơ sở.
Quan hệ hôn nhân trong thực tiễn không chỉ những ngƣời có đăng ký kết hôn
mà bao gồm cả những ngƣời chung sống với nhau nhƣ vợ chồng mà không đăng

ký kết hôn. Giữa những ngƣời này có tổ chức đám cƣới hoặc không tổ chức đám
cƣới, họ chung sống với nhau với mục đích xây dựng hạnh phúc gia đình lâu bền.
Ngƣời thân của những ngƣời có quan hệ hôn nhân sống cùng nhà với nhau vẫn
đƣợc xem là thành viên của gia đình. Một trong những quan hệ phổ biến của quan
hệ này là con dâu sống cùng cha mẹ chồng, con rể sống cùng bố mẹ vợ. Có thể hôn
nhân giữa ngƣời con dâu và ngƣời con trai đã chấm dứt khi một trong hai ngƣời
chết hoặc mất tích không làm chấm dứt hôn nhân, nhƣng ngƣời con dâu vẫn đƣợc
coi là con trong gia đình và là thành viên của gia đình. Thực tiễn ghi nhận có nhiều
trƣờng hợp sau khi chồng chết con dâu đã sống cùng cha mẹ chồng, chăm sóc cha
mẹ chồng cho đến khi cha mẹ chồng chết để trọn đạo làm con thay cả cho chồng.
Cũng có trƣờng hợp cha mẹ chồng không còn thì ngƣời con dâu còn về nhà anh
trai chồng sinh sống để nhờ cậy chăm sóc con cái. Trong quan điểm ngƣời Việt
Nam cho rằng khi đã lấy chồng là thuộc về nhà chồng và là ngƣời của dòng họ
chồng, nếu chồng chết thì anh em bên nhà chồng sẽ có nghĩa vụ thay chồng chăm
sóc nuôi dạy các cháu. Khi đó, ngƣời con dâu và các con trở thành thành viên gia
đình trong nhà anh trai chồng. Nhƣ vậy, từ quan hệ hôn nhân dẫn đến những ngƣời
đƣợc xem là thành viên gia đình bao gồm: những ngƣời có quan hệ hôn nhân,
19


những ngƣời đang tồn tại hôn nhân thực tế và quan hệ giữa những ngƣời do quan
hệ hôn nhân mang lại.
Quan hệ huyết thống, do đặc điểm của ngƣời Việt Nam là tính cộng đồng rất
lớn nên những ngƣời thuộc chi, nhánh, họ đều đƣợc xem là có cùng huyết thống.
Theo quy khoản 17 và 18 Điều 3 luật HN&GĐ 2014 quy định về những ngƣời
cùng dòng máu trực hệ và những ngƣời có họ trong phạm vi ba đời. Những ngƣời
cùng dòng máu trực hệ hiển nhiên đƣợc xem là thành viên gia đình nếu họ có nơi
sinh sống chính ở trong gia đình đó. Trong trƣờng hợp nhƣng ngƣời có cùng dòng
máu trực hệ này chuyển đi đến nơi khác sống một thời gian thì tƣ cách thành viên
trong gia đình chính không bị mất đi, nhƣ con cái đi học đại học, bố mẹ đi công tác

một thời gian nhất định. Những ngƣời có họ trong phạm vi ba đời, những ngƣời
trong họ hàng (trừ những ngƣời trên) thì chỉ đƣợc xem là thành viên gia đình khi
họ cùng sống chung trong gia đình. Nhƣ vậy tƣ cách thành viên gia đình của những
ngƣời có cùng dòng máu trực hệ thì luôn đƣợc ghi nhận, từ các thành viên gia đình
của những ngƣời còn lại có quan hệ huyết thống chỉ đƣợc ghi nhận khi họ cùng
sống chung trong một gia đình. Những ngƣời có quan hệ huyết thống trực hệ, trong
phạm vi ba đời, họ hàng ở trên suy cho cùng thì họ có chung nguồn gốc.
Quan hệ nuôi dƣỡng. Ngƣời con nuôi là thành viên của gia đình ngƣời nhận
nuôi con nuôi, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về
nuôi con nuôi. Nhƣng nếu trƣờng hợp con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự
nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi thì quan hệ con nuôi chấm dứt. Nhƣng thực
tiễn thì ngƣời con này vẫn là thành viên của gia đình nếu ngƣời con này vẫn sống
với những thành viên còn lại trong gia đình. Nhƣ vậy những ngƣời có quan hệ nuôi
dƣỡng hay đã từng có quan hệ nuôi dƣỡng khi sống cùng nhau thì tƣ cách thành
viên gia đình vẫn đƣợc thừa nhận trong thực tiễn.

20


Quy định về khái niệm thành viên gia đình có ý nghĩa lớn trong nghiên cứu
đề tài bởi lẽ việc xác định mối quan hệ giữa các thành viên gia đình tạo nên giá trị
gia đình Việt Nam với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc
văn hóa dân tộc. Qua nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia đình
Việt Nam có những thay đổi, nhƣng chức năng cơ bản của gia đình vẫn còn tồn tại
và gia đình vẫn là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh
tế- xã hội của đất nƣớc. Tại Khoản 16 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 quy định “Thành
viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha
mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con
rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng
mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha

khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô,
dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột.” Quy định trên liệt kê những ngƣời đƣợc coi là
thành viên của gia đình dù họ sống chung hay không sống chung với nhau. Những
ngƣời này đƣợc xác định từ trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi
dƣỡng và những ngƣời do quan hệ hôn nhân hợp pháp mang lại. Thiết nghĩ với
một khái niệm về thành viên gia đình mang tính chất liệt kê nhƣ trên sẽ hạn chế
tính chất của sự phát triển mang tính truyền thống của gia đình Việt. Dựa trên
những phân tích trên, tác giả rút ra khái niệm về thành viên gia đình nhƣ sau:
“Thành viên gia đình bao gồm những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng và những người có mối quan
hệ với nhau do quan hệ hôn nhân hợp pháp mang lại cùng sống chung hoặc không
cùng sống chung với nhau nhưng quan tâm, giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần”
1.3 . Các chức năng cơ bản và đặc điểm của gia đình trong điều kiện kinh tế xã
hội hiện nay
21


1.3.1. Các chức năng cơ bản của gia đình
Gia đình là một hiện tƣợng xã hội có tính chất tự nhiên. Bất cứ xã hội nào cũng
đều quan tâm tới gia gia đình, tập hợp các gia đình để hình thành nên xã hội.
Ngƣợc lại, xã hội muốn tồn tại và phát triển thì cần dựa trên nền tảng gia đình.
Theo quy luật tự nhiên, mỗi ngƣời khi sinh ra đều có gia đình, lớn lên trong gia
đình đó. Khi trƣởng thành lại thành lập một gia đình mới. Gia đình có địa vị rất
quan trọng và thƣờng đƣợc coi là nền tảng quốc gia. Về nguyên tắc để điều chỉnh
các vấn đề liên quan đến gia đình pháp luật thƣờng sử dụng các quy phạm, quy
định có tính chất hƣớng dẫn: Các thành viên gia đình không thể tự ý thỏa thuận gạt
bỏ các điều khoản ấy đƣợc. Mỗi gia đình đƣợc coi là một tế bào của xã hội. Để góp
phần xây dựng quốc gia vững mạnh thì mỗi gia đình phải vững mạnh. Để xây dựng
gia đình vững mạnh thì mỗi thành viên gia đình phải có cách xử sự phù hợp. Để
mọi ngƣời trong gia đình nói riêng và trong cả cộng đồng xã hội nói chung có cách

xử sự phù hợp thì cần có những quy định chung cho cách xử sự đó. Do đó, bất kỳ
quốc gia nào cũng đều dùng pháp luật để điều chỉnh vấn đề gia đình và bắt buộc
mọi ngƣời trong xã hội phải tuân theo. Khi có thành viên không tuân theo thì phải
chịu những chế tài do pháp luật dự liệu. Chẳng hạn, Luật HN&GĐ quy định nữ từ
đủ 18 tuổi trở lên đƣợc đăng ký kết hôn thì khi nữ chƣa đủ 18 tuổi thì không đƣợc
thỏa thuận kết hôn khi chƣa đạt độ tuổi luật định.
Trong gia đình, luân thƣờng đạo lý là yếu tố quan trọng giữ vững trật tự gia
đình mà ở đó mỗi thanh viên gia đình phải tuân theo. Trong mỗi cộng đồng hay
dân tộc đều đỏi hỏi phải có đạo đức, luân thƣờng đạo lý của cộng đồng, dân tộc đó,
song chƣa có nơi nào luân thƣờng đạo lý lại đƣợc thể hiện rõ nét nhƣ trong gia
đình. Lịch sử nhân loại chứng tỏ rằng nền tảng và tổ chức gia đình chỉ bền vững,
nếu dựa trên một nền đạo lý nghiêm chỉnh. Cũng vì lẽ ấy, ở các quốc gia mà gia
đình có một tổ chức bền vững, các điều khoản trong luật gia đình thƣờng cũng có
22


×