Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Phủ định biện chứng với sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.5 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ
BỘ MÔN KỸ THUẬT HỆ THỐNG CÔNG NGHIỆP

PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

Sinh viên
: Trần Thị Hồng Diễm
Mã số sinh viên: MIEIU 15001

Thành phố Hồ Chí minh
Tháng 12/ 2015


PHẦN MỞ ĐẦU
Việc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan
liêu bao cấp sang nền thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa mà Đảng cộng sản Việt Nam đã lựa chọn từ đại hội Đảng VI
(1996) đang từng bước thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Thực tiễn
tình hình kinh tế của nước ta trong những năm qua cho thấy công cuộc đổi mới
kinh tế của Việt Nam đang đi trên con đường đúng đắn. Công cuộc công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước đang dần dần thu được những thành quả đáng chú ý.
Từ một nước phải nhập khẩu gạo trong những năm đầu giải phóng đất nước,
đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế
giới, sánh vai cùng với Mỹ và Thái Lan. Quan hệ thương mại của nước ta cũng
ngày càng được mở rộng với chủ trường “ Việt Nan muốn làm bạn với tất cả
các nước trên thế giới”. Nước ta nhập WTO tổ chức thương mại thế giới – và
đến khi đó thì nền kinh tế của Việt Nam sẽ có những bước tiến mới, hứa hẹn
một sự tăng trưởng cao. Không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà trong những


ngành khoa khọc cơ bản cũng dần dần được đầu tư thích đáng hơn và có sự chú
ý hơn của Nhà nước, bằng chứng là ngân sách Nhà nước cho những ngành này
đã tăng lên đáng kể so với những năm đầu thập kỷ 90. Trong quá trình lãnh dạo
đất nước để thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh” tiên lên CNXH Đảng ta đã kiên định đường lối lãnh đạo, kế thừa và phát
huy chủ nghĩa Mác – Lênin và biết áp dụng thực tiễn phép biện chứng của Mác
một cách linh hoạt trong những đường lối, định hướng, chính sách hoạch định
phát triển kinh tế xã hội trong nước. Phép phủ định biện chứng với hai đặc
trưng cơ bản là tính tất yếu khách quan và tính kế thừa được thể hiện rõ trong
quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. Đó là sự ra đời của nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước phủ định lại nền kinh tế tập trung quan liêu
1


bao cấp đã không còn phù hợp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam qua
những thành tựu mà nó mang lại ta có thể khẳng định chủ nghĩa duy vật biện
chứng Mác – Lênin luôn là nền tảng vững chắc, là kim chỉ nam dẫn đường.
Nhận thức được tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin
đặc biệt là phép phủ định biện chứng đối với công cuộc đổi mới kinh tế của
Việt Nam mà bộ môn triết học Mác – LêNin đã nâng lên thành một đề tài
nghiên cứu khoa khọc cho sinh viên, “Phủ định biện chứng với sự nghiệp đổi
mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay”.


NỘI DUNG
PHẦN 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
I. Khái niệm phủ định biện chứng
1. Định nghĩa phủ định biện chứng
Thế giới vật chất vận động và phát triển không ngừng. Một dạng nào đó của
vật chất được sinh ra, tồn tại, rồi mất đi được thay thế bằng một dạng vật chất

khác. Triết học Mác sinh ra, tồn tại, rồi mất đi được thay thế bằng một dạng về
chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật
cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Triết học goị sự thay thế đó là sự phủ định. Phủ
định bao gồm phủ định siêu hỡnh và phủ định biện chứng. Trái với phủ định
siêu hỡnh làm chấm dứt sự phỏt triển thỡ phủ định biện chứng lại tạo ra những
điều kiện tiền đề cho sự phát triển hay một thay đổi nào đó làm cho sự vật phát
triển. Ở đây ta chỉ nghiên cứu về phủ định biện chứng là hỡnh thức giải quyết
cỏc mõu thuẫn nội tại của bản thõn sự vật bị phủ định sự phủ định mà mỗi sự
thay thế chuyển hoá làm thành một mắt khâu trong sợi dây xích phát triển của
hiện thực và của tư duy. Từ những sự nhận định trên chủ nghĩa duy vật đó đưa
ra khái niệm: Phủ định biện chứng là quá trỡnh tự thõn vận động phủ định, tự
thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến
bộ hơn so với cái bị phủ định.
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng
- Tính khách quan:
Những người theo quan điểm siêu hình coi phủ định là do những nguyên
nhân bên ngoài đưa lại, xem sự vật và hiện tượng là những cái cô lập, tách rời
nhau. Phương pháp biện chứng khẳng định cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm


ngay trong bản thân sự vật, nó là kết quả của những mâu thuẫn được giải quyết
trong bản thân mỗi sự vật.
Khi đề cập tới vấn đề này, chúng ta lưu ý rằng, mỗi sự vật cú phương thức
phủ định biện chứng riêng, do đó mà có sự phát triển. Sự phủ định là kết quả
hoạt động của quy luật mâu thuẫn và quy luật lượng chất trong đó mâu thuẫn
mới phủ định mâu thuẫn cũ, chất mới thay thế chất cũ và xuất phát từ xu hướng
vận động của sự vật hiện tượng, từ chính trong nội lực của sự vật.
Ví dụ: CNXH phủ định CNTB là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn cơ
bản, khách quan, vốn có trong lũng xó hội tư bản, mâu thuẫn giữa tớnh chất xó
hội hoỏ của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân TBCN về tư

liệu sản xuất được biểu hiện về hoc thuyết khoa khọc ngày càng phát triển là kết
quả của quá trỡnh phủ định của những tri thức đúng đắn, sâu sắc đối với những
tri thức sai lầm hoặc kém sâu sắc, không đầy đủ.
- Tính kế thừa: Kế thừa là việc cái mới ra đời từ cái giữ lại trong đó những
yếu tố tích cực tiến bộ từ cái cũ cải tạo đi cho phù hợp. Phủ định biện chứng là
kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở giải quyết những mâu thuẫn vốn có
của các sự vật và hiện tượng, cho nên cái mới ra đời không thể là một sự phủ
định tuyệt đối, phủ định, sạch trơn, đoạn tuyệt siêu hình đối với cái cũ, mà là
một sự phủ định có kế thừa. Để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định
biện chứng bao hàm trong đó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái
phủ định. Phủ định biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính kế thừa. Với ý
nghĩa như vậy, phủ định đồng thời là khẳng định, diễn đạt tư tưởng đó, LêNin
viết:
“Không phải sự phủ định sạch trơ, không phải sự phủ định không suy nghĩ,
không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự
nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà lại sự phủ


định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy
trì cái khẳng định”.
Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự
ra đời của cái mất. Không có cái mới nào lại ra đời từ hư vô, nhờ việc giữ lại
nhân tố tích cực của cái phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện của
mình.
Cái quá khứ không biến đổi đi mà không để lại một dấu vết nào trong dòng
chảy vô tận của thời gian. Thật ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó
tạo thành mối liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức
quan trọng của cái được kế thừa trong đòi sống xã hội là truyền thống. Truyền
thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái
mới.

Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái phủ đinh được giữ lại, nó vẫn
được duy trì dưới lớp lọc bỏ. Thực chất của sự phát triển là sự biến đổi, mà gia
đoạn sau còn bảo tồn tất cả những gì tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước
chẳng hạn trong khi phủ định. Chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ lỗi
thời chủ nghĩa xã hội cũng kế thừa toàn bộ những thành quả của sự phát triển
tiến bộ xã hội đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, song, những yếu tố được giữ
lại đó cũng phải được cải tạo, đựơc biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc của
chủ nghĩa xã hội để trở thành những yếu tố nội tại của CNXH.
Trong quá trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa những di sản
tích cực của dân tộc cũng như của thế giới. Nhưng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc
khai thác vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sạch trơn. Ngược lại
có lúc có nơi lại phục hồi cả những phong tục tập quán đã lỗi thời, không biết
đứng trên yêu cầu mới của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó
cho phủ hợp.


3. So sánh phủ định biện chứng với phủ định siêu hình
Đối lập với quan điểm biện chứng, những người theo quan điểm siêu hình coi
phủ định là sự xoá bỏ hoàn toàn cái cũ là chấm dứt sự liên hệ, sự vận động, sự
phát triển của bản thân sự vật. Do đó quan điểm siêu hình không thấy được tiền
đề của sự nảy sinh ra cái mới. Mặt khác, khi nói đến kế thừa, thì họ lại hiểu kế
thừa một cách nguyên xi, không phê phán, không cải tiến cải tạo chúng hoặc lắp
ghép các yếu tố của cái cũ vào cái mới một cách đơn giản, máy móc.
Những người thuộc “Phái văn hoá vô sản” ở Nga đầu những năm cách mạng
có thái độ phủ định sạch trơn nền văn hoá quá khứ. Theo họ nền văn hoá vô sản
không có liên quan gì với nền văn hoá trước họ chủ trương xây dựng lại từ đầu
nền văn hoá mới của giai cấp vô sản. Đây là quan điểm siêu hình xem phát triển
chỉ là sự phát triển tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lương, không có sự thay
đổi về chất. Tất cả tính muôn vẽ về chất bất biến trong toàn bộ quá trình tồn tại
của nó. Sự phát triển chỉ là thay đổi số lượng của từng loại đang có, không có

sự nảy sinh những loại mới với những tính quy định mới về chất, có thay đổi về
chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép kín.
Quan điểm siêu hình về sự phát triển cũng xem sự phát triển như là một quá
trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp.
Như vậy, việc thừa nhận hay không thừa nhận sự phát triển vẫn không đủ căn
cứ để phân biệt một quan điểm biện chứng với một quan điểm siêu hình. Điều
chủ yếu để phân định hai quan điểm đó là phải làm rõ quá trình phát triển diễn
ra như thế nào. trong quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù
triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Theo quan điểm đó, phát triển là một trường hộp đặc biệt của sự vận động.
Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn về chất,


nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và của sự liên hệ, làm cho cả
cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cùng chức năng vốn
có của nó ngày càng hoàn thiện hơn.
Trong quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi
về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo đường xoay trôn
ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm xuất
phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
Với đặc điểm như vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục
cái cũ, mà còn là gắn liền cái cũ với cái mới, cái khẳng định với cái phủ định.
Phủ định biện chứng trở thành vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát triển.

II. Tính đặc thù của phủ định biện chứng với đổi mới trong lĩnh vực
kinh tế xã hội
Nền kinh tế xã hội nào cũng có những khuyết tật, những mâu thuẫn tồn tại
trong lòng nó, và một xã hội mà luôn giữ một kiểu tổ chức sản xuất, phương
thức sản xuất thì chắc chắn sẽ không thể tiến lên được. Vì vậy nền sản xuất phải

luôn được đổi mới phù hợp với phép phủ định biện chứng. Nền sản xuất lỗi
thời, không còn năng động nữa sẽ được thay thế bởi nền sản xuất tiến bộ, năng
động và phát triển hơn phù hợp với thời đại.
Công cụ sản xuất bằng cơ khí ra đời thay thế công cụ sản xuất bằng lao động
thủ công là một tất yếu. Đến lượt nó sản xuất tự đồng hoá ra đời thay thế công
cụ bằng cơ khí của quá trình sản xuất cũng là một tất yếu. Nguyên nhân của quá
trình thay thế này là do những động lực tự thân của nền sản xuất xã hội quy
định, do những nhu cầu không ngừng biến đổi và phát triển của con người. Sự
thay thế đó không phải là vứt bỏ, phủ định sạch trơn phương thức sản xuất cũ
mà chúng vẫn đựơc giữ lại, tồn tại song song với phương thức sản xuất mới và


trở thành các ngành, các phương thức sản xuất truyền thống đôi khi chúng rất
cần đối với nền kinh tế của một số nước.

PHẦN 2: PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI QUÁ
TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ VIỆT NAM
I. Tính khách quan tất yếu của sự ra đời nền kinh tế hàng hóa có sự
quản lý của nhà nước, phủ định lại nền kinh tế quan liêu bao cấp đã
không còn phù hợp trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
Việt Nam
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất
nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình
thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nổ lực của nhân dân ta và sự
giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác mô hình kinh tế kế hoạch hoá đã
phát huy đựơc tính ưu việt của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng
công cụ kế hoạch hoá Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật
chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phủ

định, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng
thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng
việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước
huy động ở mức độ cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sai giải phóng Miền Nam, bức tranh toàn cảnh về hiện trạng kinh tế đã
có nhiều thay đỏi to lớn. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại
hình kinh tế tự cấp, tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hh.
Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ


trương xây dựng kinh tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ
kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện nền
kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng loạt các hiện tượng tiêu cực.
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh
mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu của
Nhà nước, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy
luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật giá trị bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho
tình hình lưu thông tiền tệ, giá cả bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình
lưu thông tiền tệ , giá cả không kiểm soát được, đặc biệt là trong những năm 80,
lạm phát của nước ta đã lên đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vô cùng
khó khăn và tình hình kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền sản
xuất kém phát triển được sự bảo hộ của Nhà nước lại càng trở nên trì trệ. Bộ
máy quản lý doanh nghiệp không hiệu quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian
và không năng động, phong cách thì cửa quyền dưới chính sách bù lỗ của Nhà
nước ngày càng không đem lại bất cứ một hiệu quả kinh tế nào.
Đồng thời do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phủ hợp của cơ chế
quản lý kinh tế, chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên
sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm
trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường
bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những

việc đó gây ra rất nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp
nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nền,
thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không
có vốn đầu tư chủ yếu vào vay và viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm
80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liều với lạm phát cao đã làm cho
đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình


rập. Nguyên nhân sâu xa về sự xuy thoái nền kinh tế ở nước ta là do đã áp dụng
dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ nước
ngoài bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách đòi hỏi phải đổi
mới. Đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên.
2. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý
của Nhà nước là một xu hướng phát triển tất yếu khách quan
Trước những tồn tại và bất cập trên của nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng
VI (1986) đã chủ chương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện
hạch toán kinh doanh XHCN. Đến Đại hôi Đảng VII Đảng ta xác định rõ việc
đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã
diễn ra ở đó, tức là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự
thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong
thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xét dưới góc độ triết học,
việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn và phù hợp với quy luật
phủ định của phủ định và xu thế của thời đại.
Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì
không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn
để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ được
thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế nhưng hiệu quả đạt được của nèn sản xuất xã hội rất thấp sản

xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng xã hội tích luỹ hầu như không có
đôi khi còn ăn làm vào cả vón vay nước ngoài.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung còn rất cứng nhắc nên nó chỉ
có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác


dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn
tại quá dài do đó nó không những không có tác dụng đáng kể trong việc thúc
đẩy phát triển sản xuất mà nó còn sản sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm
giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, xét về những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có rất
nhêìu ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường nước ta là thị
trường mới hình thành còn non yếu và là thị trường sơ khai. Thực tế thị trường
đã hình thành và phát triển được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các
đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nước đã được thông
suốt và vươn tới những vùng hẻo lánh xa xôi và đang được mở rộng với thị
trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu
hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn và thị
trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của Nhà
nước còn tất thấp, chưa có sự quản lý chặt chẽ sự hệ thống và liên kết các thị
trường một cách đồng bộ theo pháp luật.
Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang
hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và
đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta
gần gủi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại
hàng hoá quốc tế.
Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh
tế của mỗi nước không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự cạnh
tranh giữa các quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông,
vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiền lực kinh tế. Mục đích của các quốc gia

là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình đạt tốc độ phát
triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực


kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc là
công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền.
Vì vậy chúng cần phải đổi mới để phát triển kinh tế cũng như những mặt xã hội
khác để khẳng định vị trí của Đảng của dân tộc mình trên trường quốc tế.
Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không
thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế và bản thân đời sống
kinh tế- xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp lạm phát khủng hoảng, ô
nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như những hiện tượng xã hội khác.
những tình trạng và hiện tượng trên ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp
đều có tác dụng ngược trở lại làm cản trở sự phát triển bình thường của xã hội
nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng, vì vậy, sự tác động của Nhà
nước một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan
vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kỳ dài tiến hành xây dựng nền
kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phủ định “bàn tay vô hình” của thị
trường, cơ chế này đã có một vai trò lịch sử trong những năm 1950-1979 và đã
có tác dụng đáng kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đáp ứng nhu cầu của
cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Song cơ chế này đã
được duy trì quá lâu, làm cho từ tập trung ở mức cần thiết chuyển sang tập
trung cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp kìm hãm và cản trở sự phát triển kinh
tế trong thời bình. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, khi thay đổi, đồng thời
nhận thức sâu sắc phép phủ định biện chứng là cái mới sẽ tất yếu khách quan ra
đời thay thế cho cái cũ không còn phù hợp nữa, vì vậy, trong Đại hội lần thứ IV
của Đảng (1986), Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra đường lối đổi mới,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế để chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp

sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại của thành


phần kinh tế tư nhân và có những chính sách mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa
nền kinh tế nước ta dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo hướng căn
bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp
tục được Đại hội VII Đảng khẳng định: “Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước ”.
3. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung qua liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam
Trước đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần khiết
XHCN, Nhà nước ta đã xây dựng mọt nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ
yếu mà không chú ý tới yếu tố thị trường, hàng hoá sản xuất ra được định giá
sẵn và không tuân theo những quy luật của thị trường. Trên thực tế, cơ chế kinh
tế đó đã là vật cản đối với sự phát triển kinh tế. Do đó nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ra đừi mang tính khách quan nó là kết quả của giải quyết mâu
thuẫn tự có của nền kinh tế tự cung tự cấp. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần không có nghĩa là phủ định sạch trơn tất cả những
gì của nền kinh tế cũ mà là một sự chuyển đổi có tính chất kế thừa, trên cơ sở
khắc phục, sửa đổi những tồn tại, sai lầm vốn có và phát huy những mặt tốt, mặt
tích cực của nó, điều này được thể hiện như sau:
Trước hết đó là việc công nhấn sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác bên
cạnh hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các thành
phần kinh tế: Thành phần kinh tế quốc doanh, thành phần kinh tế tập thể, thành
phần kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân..... Như vậy mặc dù đã phủ định loại
bỏ những mặt yếu kém của nền kinh tế cũ nhưng nền kinh tế mới đã biết kế



thừa những yếu tố tích cực của nền kinh tế trước và phát triển nó một cách toàn
diện tốt hơn. Hai thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể
vẫn giữ vai trò chủ đạo trong đường lối phát triển kinh tế. Những bước đổi mới
quan trọng của Đảng của Nhà nước là việc thừa nhận sự tồn tại của các thành
phần kinh tế khác như kinh tế ư bản tư nhân. Với sự chuyển đổi đó, phân công
lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng những
không mất đi, trái lại ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển. bên cạnh
những ngành nghề mới ra đời và phát triển đó, những ngành nghề cổ truyền có
tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị cơ
chế kinh tế cũ làm mai một nay được phục hồi và phát triển. Trong nội bộ từng
khu vực, từng ngành, địa phương, phân công lao động ngày càng chi tiết hơn.
Điều đó được phản ánh ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng cao hơn của
sản phẩm lao động đưa ra trên thị trường. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá
lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành quốc tế.
Cùng với việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là
sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động
như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thhể của những người sản xuất
hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, sở hữu hỗn hợp khác: tư bản
Nhà nước, Công ty cổ phần.
Đây cũng là một bước ngoặt quan trọng để giải phóng sức lao động, tạo điều
kiện cho quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất và phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại.
Ngoài việc chuyển đổi tư tưởng mạnh mẽ về việc đa dạng hoá các hình thức
sở hữu, các thành phần kinh tế, tính kế thừa trong công cuộc đổi mới ở nước ta
còn được thể hiện trong việc tiếp tục duy trì và phát huy công cụ kế hoạch hoá


một cách linh hoạt bằng việc kết hợp “bàn tay vô hình” với “bàn tay hữu hình”.

Nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung phụ thuộc hoàn toàn
vào sự quản lý của Nhà nước đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, tôn trọng những quy luật khách quan của thị trường như quy luật cung
cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... nhưng không phải để cho những quy
luật này tự do chi phối điều tiết thị trường mà ở đây có sự can thiệp của Nhà
nước. Nhà nước xuất hiện vừa với tư cách là một chủ thể kinh tế hoạt động kinh
doanh trên thị trường, vừa với tư cách là một chủ thể quản lý, bằng những chính
sách linh hoạt của mình để điều tiết hoạt động của thị trường. Nhà nước không
còn đưa ra kế hoạch sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu mà vấn đề này sẽ được
thực hiện bởi thị trường. Nhà nước can thiệp với tư cách định hướng, điều tiết
trên cơ sở đưa ra các kế hoạch dài hạn.
Như vậy nền kinh tế mới không thổi phồng, tuyệt đối hoá vai trò kinh tế của
Nhà nước tới mức phủ nhận thủ tiêu vai trò chủ thể kinh tế của các Công ty, Xí
nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập. Thực hiện quản lý kinh tế của
Nhà nước trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp là sai lầm. Trái lại
vịn vào việc xây dựng và phát triển vận động của các quy luật khách quan mà
lại bỏ vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước cũng không đúng. Ở Việt Nam hiện
nay để xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN tức là một mặt phải tiếp tục củng
cố lại nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước, mặt khác phải không
ngừng phát huy vai trò của Nhà nước, của Đảng, luôn bảo đảm niềm tin của
người lao động. Hơn nữa, cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta.
Việc bổ sung pháp luật tiếp tục đổi mới cơ chế và ngân sách về kế hoạch hoá,
về giá, tỷ giá, tài chính, Ngân hàng, lao động, tiền công, đất đai... đang tạo môi


trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy tính năng động tự chủ tự chịu
trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
4. Những thành tựu của công cuộc đổi mới

Với sự chuyển đổi sâu sắc trong đường lối phát triển kinh tế, chúng ta đã đạt
giải quyết được hàng loạt các vấn đề kinh tế cơ bản như:
- Thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công
lao động, chuyên môn sản xuất cũng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế
và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề
cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ.
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá sự
tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc người
sản xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất
lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với
nhu cầu xã hội, tìm mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích
hợp với thị hiếu người tiêu dùng .... kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển gắn sản xuất với thị trường.
- Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giai lưu kinh tế trong
nước và hoà nhập nền kinh tế thế giới.
- Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất
khép kín với kìm hãm sự phát triển cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế
phát triển ở trình độ cao thực hiện với hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta sau công cuộc đổi mới không những
vững mà còn đạt được những thành tựu nổi bật, khắc phục nhiều mặt đình đốn,
suy thoái, tốc độ tăng trưởng khá và liên tục, điển hình là: Lạm phát được đẩy
lùi từ 67% năm 1991 xuống 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm 1993. Đến nay


lạm phát của nước ta chỉ còn 0,1%. Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân
hàng năm 7,2%. Sản xuất Nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, vấn đề
lương thực được giải quyết tốt, sản lượng lương thực năm 1993 xấp xỉ 25 triệu
tấn, vượt mức đề ra trong năm 1995. Hiện nay, nước ta đã vươn lên là nước
xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng
trưởng bình quân hàng năm 13% cao hơn chỉ tiêu đề ra cho kế hoạch. Năng lực

sản xuất một số ngành và sản phẩm quan trọng như: điện, dầu, dầu thô, thép, xi
măng .... được tăng thêm. Hệ thống thông tin liên lạc mở rộng nhanh với thiết bị
công nghệ mới. Các ngành xây dựng, vận tải, thương nghiệp dịch vụ khác đều
phát triển. Cơ cấu kinh tế đang biến đổi, một số ngành sản xuất kinh doanh mới
xuất hiện. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và
đa phương hoá. Đã khắc phục được hầu hết hậu quả do thị trường truyền thống
bị giảm sút đột ngột: mở rộng giao lưu với nhiều bạn hàng mới, tăng kim ngạch
xuất khẩu hàng năm xấp xỉ 20%. Tính đến năm 1993 đã cấp 836 giấy phép đầu
tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 7,5 tỷ USD nhưng tới năm
1996 đã cấp 16454 giấy phép đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký đã là
21,8 tỷ USD, bước đầu thu hút thêm viện trợ phát triển và vốn vay ưu đãi từ các
Chính phủ: lập lại quan hệ bình thường với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc
gia.
Tuy vậy theo nhận định của Đảng ta thì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang
trong gia đoạn hình thành, các doanh nghiệp Nhà nước bước đầu được sắp xếp
và đăng ký lại. Đã giảm bớt một số lượng lớn những doanh nghiệp làm ăn thua
lỗ kéo dài. Số đơn vị kinh doanh có hiệu quả tăng lên. Khu vực kinh tế Nhà
nước nhìn chung vẫn phát triển, nắm những lĩnh vực then chốt và giữ vị trí chủ
đạo trong nền kinh tế quốc doanh, tỷ trọng GDP tăng từ 34% năm 1990 lên
39,9% năm 1992. Hợp tác xã Nông nghiệp có phương hướng đổi mới rõ hơn kể
từ đại hội Trung ương Vi vai trò tự chủ của các hộ nông dân được khẳng định.


Một số loại hình kinh tế hợp tác xã mới xuất hiện. Luật đất đai chính thức giao
quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho dân. Đã giúp kinh tế hộ nông dân
có thêm động lực phát triển mới. Kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân phát
triển đáng kể. Doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút vốn đầu tư thuộc
nhiều hình thức sở hữu xuất hiện ngày càng nhiều.

II. Xu hướng của nền kinh tế và một số giải pháp

Tại đại hội VIII Đảng ta đã xác định rõ “Xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đối với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”
Định hướng XHCN là sự lựa chọn về mục tiêu, con đường tiến lên CNXH
của một quốc gia, dân tộc dựa trên những điều kiện khách quan cho phép và bao
hàm một nội dung kinh tế, chính trị xã hội rộng lớn (Liên hệ định hướng XHCN
nhìn từ góc độ triết học – tạp chí triết học số 4 (116) tháng 8-2000 trang 62)
Như vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có đặc
điểm mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, nền kinh tế ấy lấy
các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể làm nền tảng,
lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo, lấy việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh xã hội công bằng văn minh làm mục tiêu.
Muốn vậy nền kinh tế ấy phải đảm bảo:
- Có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định
- Lấy việc giải phóng sức lao động làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu
thành phần kinh tế, hình thức sở hữu
- Làm cho nền kinh tế Nhà nước phát triển trước hết về chất để nắm vai trò
chủ đạo kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng.


- Xác định và cũng cố nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền
kinh tế thị trường, giải quyết vấn đề công bằng xã hội phù hợp từng bước với sự
tăng trưởng kinh tế.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối: Do đó để thực hiện chủ trương của
Đảng đề ra: “Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN cần có
các giải pháp thực hiện”.
Các giải pháp thực hiện
Theo phương diện triết học khi chuyển đổi sang nền kinh tế cơ chế thị trường
với ự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, để đạt được một nền kinh
tế vững mạnh thì trước hết phải tìm ra con đường nhanh nhất để thực hiện đồng

bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
- Đẩy mạnh cách mạng khoa khọc – công nghệ nhằm phát triển nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Đảng ta đã xác định muốn phát triển
kinh tế thì phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học – công nghệ vào sản
xuất và lưu thông, đảm bảo cho nền kinh tế hàng hoá đủ sức cạnh tranh trên thị
trường.
- Nhà nước cần chỉ đạo xây dựng đúng đắn quy hoạch phát triển kinh tế – xã
hội của các vùng, các tỉnh trở thành vùng, tỉnh khá giàu có. ưu tiên tập trung
đầu tư ngân sách Nhà nước đ phát triển nhanh kinh tế xã hội của các tình khó
khăn theo quy hoạch phát triển đã được duyệt. - Mở rộng phân công lao động,
phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa
phương, từng vùng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá phân công lại lao
động giữa các ngành theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá, lao động công
nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối.
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại: Ta phải đa dạng hoá hình thức, đa
phương hoá đối tác phải quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Phải triệt để


khai thác lợi thế của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế nhằm khai thác tiềm
năng lao động, tài nguyên thiên nhiên của đất nước, thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật
công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi phù hợp
với yêu cầu của kinh tế thị trường.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp
Nhà nước.
- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần coi đây là điều
kiện cơ sở, để thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển nhờ đó mà sử dụng có hiệu
quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế huy động những tiềm năng
to lớn còn bị phân tán của xã hội và phát triển sản xuất.
- Giữ vững ổn định chính trị hoàn thiện về hệ thống pháp luật đổi mới các

chính sách tài chính tiền tệ, giá cả.
Quá trình vận động của lịch sử nhân loại chỉ thấy mặt lý luận, mặt tư tưởng
khoa khọc hoặc đường lối hay mãi mãi chỉ là lý thuyết tồn tại trên giấy tờ nếu
chúng không được thể chế hoá thành hiến pháp, pháp luật, thành cơ chế chính
sách của Nhà nước chỉ có bằng sức mạnh của hiện pháp, pháp luật chính sách
của Nhà nước, định hướng XHCN mới có thể đi vào cuộc sống nhờ đó các năng
lực sản xuất hiện có trong xã hội ta mới được giải phóng, được cởi bỏ những
xiềng xích của chế độ cũ, những tập quán, lề lối làm ăn, lạc hậu. Nhờ đó chúng
ta mới lập được nền kinh tế thị trường đồng bộ, mới có khả năng khai thác được
các lợi thế cạnh tranh thúc đẩy nền kinh tế phát triển với nhịp điệu nhanh mạnh
và vững chắc.


PHẦN 3: PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG VỚI QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
I. Tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
1. Xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới
Nền kinh tế thế giới đang phát triển thành một thể thống nhất tuy vẫn bao
gồm các mặt đối lập và mâu thuẫn nhau. Những quan hệ kinh tế toàn thế giới
vốn có những sức mạnh không thể cưỡng lại. Thực tế trong nhiều thập kỷ qua,
kể từ khi Chủ nghĩa xã hội ra đời, sự đối đầu giữa hai hệ thống kinh tế xã hội đã
đưa nền kinh tế thế giới tới những nguy cơ to lớn chưa thể lường hết được, trái
với xu thế khách quan quốc tế hóa đang phát triển. Ngay trong thời kỳ chiến
tranh lạnh và đối đầu gay gắt, các quan hệ kinh tế Đông – Tây vẫn tồn tại bất
chấp ý chí của các chính phủ. Trong những điều kiện mới hiện nay, kinh tế các
nước vừa phát triển vừa tăng cường liên kết. Mỗi nước không chỉ tăng cường
tiềm lực kinh tế của mình, mà còn mở rộng buôn bán với các nước khác. Xu
hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới phát triển trên cơ sở xuất hiện ngày càng
nhiều những vấn đề kinh tế toàn cầu, đòi hỏi phải có sự phối hợp chung để giải
quyết các vấn đề đó.

Với đà phát triển như vũ bão của Khoa học -công nghệ- kỹ thuật đặc biệt là
công nghệ thông tin, sự phát triển không ngừng của giao thông cùng với sự lưu
chuyển ngày càng tăng của dòng vốn và thương mại đã thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất đã có bước phát triển vượt bậc trên phạm vi toàn cầu làm
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, đồng thời cuốn hút ngày càng
mạnh mẽ các quốc gia vào quá trình toàn cầu hóa.
Xu hướng quốc tế hóa kinh tế thế giới khiến cho việc hợp tác kinh tế và điều
hòa kinh tế quốc tế ngày càng trở nên tất yếu. Trước hết là do sự phát triển quốc


tế hóa vế các mặt vốn, kỹ thuật, thị trường sản phẩm nên giữa các nước đã tăng
thêm sự phụ thuộc lẫn nhau.Hơn nữa sự phát triển của sản xuất và vốn quốc tế
hóa đã liên kết hoạt động kinh tế các nước có nhiều kiểu sản xuất khác nhau và
trình độ phát triển khác nhau, hình thành thể kết hợp cùng dựa vào nhau, cùng
ràng buộc lẫn nhau, cạnh tranh và cùng xâm nhập vào nhau .
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa
và dịch vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nước này sang nước khác thông qua
các cam kết mở cửa thị trường. Các cam kết này cụ thể là giữa hai nước theo
hiệp định mậu dịch tự do song phương (FTA) cụ thể là giữa các nhóm nước
theo hiệp định mậu dịch tự do khu vực (RTA) hoặc rộng hơn trên quy mô toàn
cầu trong tổ chức thương mại thế giới.
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) đóng vai trò là khung
lý chủ yếu chủa hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm. Các
nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa
ước thương mại mới. Vòng đàm phám thứ 8 – vòng đàm phám Uruguay, kết
thúc vào năm 1994 với sự thành lập , tổ chức Thương mại Thế giới (WTO ).
WTO chính thức được thành lập vào ngày 01/01/1995 thu hút tới 136 và nay là
153 quốc gia và lãnh thổ. Bên cạnh sự ra đời của WTO, xuất hiện rất nhiều tổ
chức tiểu vùng, khu vực, liên khu vực như các tam tứ giác phát triển, các khu
vực mậu dịch tự do (AFTA – Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, NAFTA –

Hiệp hội các quốc gia Bắc Mỹ), những tổ chức liên kết toàn châu lục (EU) hoặc
giữa các châu lục (APEC).
Điều quan trọng nữa là quốc gia nào không tham gia vào tiến trình này quốc
gia đó sẽ không có địa vị bình đẳng trong việc bàn thảo và xây dựng định chế
của nền thương mại thế giới, không có điều kiện để đấu tranh bảo vệ quyền lợi
của mình.


Nhận thức được tình hình đó, các nước lớn, nhỏ đều dành ưu tiên cho phát
triển kinh tế, theo đuổi chính sách kinh tế mở. Ngay những nước có tiềm năng
và thị trường rộng lớn như Trung Quốc, Nga , ấn độ, Mỹ… và cả một số nước
kể cả các nước trước đây vẫn thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch nghiêm
ngặt, vốn khép kín theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần mở cửa với bên ngoài
tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Nhờ đó kinh tế các nước này liên tục phát
triển với tốc độ cao. Trung Quốc và ấn Độ đang nổi lên thành những trung tâm
kinh tế lớn cùng với Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản.
Mặt khác, cộng đồng thế giới đứng truớc nhiều vấn đề toàn cầu: suy thoái
môi trường, bùng nổ dân số, nghèo đói, các bệnh hiểm nghèo,… không một
quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được mà cần phải có sự hợp tác đa
phương.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói
chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương khóa VII tại đại hội toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng tháng 6 năm 1996 khẳng định: “ Tiếp tục thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa các quan hệ đối
ngoại… hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ
chức quốc tế và khu vực dựa trên nguyên tắc tự chủ độc lập toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, bình đẳng cùng có lợi…”.

Thực hiện đường lối của Đảng, chúng ta đã phát triển mạnh quan hệ toàn diện
,gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), diễn đàn kinh tế Châu á
Thái Bình Dương (APEC), là sáng lập viên diễn đàn hợp tác á- âu (ASEM)….
Cùng với các nước ASEAN ký hiệp định thành lập khu vực tự do ASEAN-


Trung Quốc, ASEAN- ấn độ, ASEAN- úc và NewZealand. Ký hiệp định
thương mại song phương với Hoa Kỳ.
Thực tiễn những năm qua chỉ rõ: khi mở cửa thị trường chúng ta gặp khó
khăn. Mở cửa buôn bán qua biên giới Trung Quốc hàng hóa nước ngoài tràn
đầy vào thị trường nước ta đẩy doanh nghiệp nước ta vào thế bị động, một số
ngành sản xuất lao đao, một số doanh nghiệp phải giải thể. Tuy nhiên với thời
gian các doanh nghiệp nước ta đã vươn lên và trụ vững. Nhiều doanh nghiệp đã
đổi mới sản xuất cải tiến kiểu dáng, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ
đó nâng cao được sức cạnh tranh, phát triển được sản xuất, mở rộng thị trường.
Thực hiện các cam kết theo hiệp định mậu dịch tự do ASEAN chúng ta đã
loại bỏ hàng rào phi thuế quan, giảm thuế nhập khẩu. Đến năm 2006, có 10.283
dòng thuế chiếm 99,43% biểu thuế nhập khẩu ASEAN có thuế suất chỉ ở mức
0-5% nhưng các ngành sản xuất của ta vẫn phát triển với tốc độ cao. Trong
nhiều năm qua sản xuất công nghiệp tăng trung bình 15-16% năm,kim ngạch
xuất khẩu tăng trung bình trên 20% năm là nhân tố quan trọng bảo đảm tăng
trưởng kinh tế khá cao và liên tục tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
Điều đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế
theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ
có trình độ chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, xuất hiện một đội ngũ
những nhà doanh nghiệp mới, có kiến thức, năng động và tự tin dám chấp nhận
mạo hiểm đối đầu với cạnh tranh. Đây là nguồn lực quý báu cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.



×