Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến các vùng nuôi trồng thủy sản ven biển tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.72 KB, 29 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng
dẫn khoa học của Ths.Bùi Đức Thuyết. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài
này là trung thực và chưa công bố dưới bất kì hình thức nào trước đây. Những số liệu
trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả
thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra,
trong báo cáo còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả
khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có
bất kỳ gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung báo cáo của mình.
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội không liên quan đến những vi
phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong quá trình thực hiện (Nếu có).
Hà Nội, ngày 19 tháng 1 năm 2017
Sinh viên
Ngô Thanh Hùng

1


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và tri ân sâu sắc đến Ths.Bùi Đắc Thuyết đã
giúp đỡ, hướng dẫn em trong suốt quá trình hình thành ý tưởng , triển khai và hoàn
thành Báo cáo Khoa học. Em cũng gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong Khoa Khoa
Học biển và Hải đảo đã dạy dỗ, chỉ bảo trong thời gian em học tập. Trong quá trình
thực tập, cũng như là trong quá trình làm bài Báo cáo Khoa học, khó tránh khỏi sai sót,
rất mong thầy bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn
còn hạn chế nên bài báo cáo không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận
được ý kiến đóng góp thầy để em học thêm được nhiều kinh nghiệm và sẽ hoàn thành
tốt hơn bài báo cáo tốt nghiệp sắp tới.
Em xin chân thành cảm ơn!

2




MỤC LỤC

3


I.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, tiềm năng Nuôi trồng thuỷ sản
(NTTS) lớn với vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km 2 với sự đa dạng của
các hệ sinh thái ven biển gồm đất vùng triều, mặt nước eo vịnh, đầm phá ven
biển, cộng thêm giống loài thủy sản nuôi phong phú, nguồn lao động dồi dào, đã
tạo cho vùng ven biển có khả năng phát triển thủy sản rất năng động. NTTS phát
triển mang lại thu nhập, tạo công ăn việc làm cho người dân, đặc biệt là nuôi
thủy sản ven biển. Những vùng NTTS ven biển tập trung điển hình của Miền
Bắc: nuôi tôm nước lợ (tôm sú, tôm he), nuôi ngao và nuôi cá lồng biển. Quảng
Ninh là tỉnh biên giới - hải đảo, nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam với đặc điểm
địa hình có rừng, biển và đồng bằng, trong đó đồi núi chiếm 90% diện tích đất
liền. Đây là 1 tỉnh có ngành công nghiệp, thương mại và du lịch rất phát triển.
Ngoài ra Quảng Ninh có bờ biển dài 250 km, diện tích vùng nội thủy trên 6.000
km2, có trên 43 nghìn ha rừng ngập mặn và bãi triều có điều kiện phát triển nuôi
các loài thủy đặc sản. Tổng diện tích đất nuôi trồng thủy sản là 20,000 ha. Vùng
biển Quảng Ninh - Hải Phòng còn được xác định là một trong bốn ngư trường
trọng điểm của cả nước, có nguồn lợi hải sản đa dạng, đặc sắc và có giá trị kinh
tế cao, trong đó NTTS đang theo hướng sản xuất hàng hóa phục vụ cho ngành
công nghiệp, du lịch, dịch vụ và xuất khẩu.
Bên cạnh những lợi ích to lớn về kinh tế và xã hội thì nghề NTTS hiện
nay đang gặp nhiều rủi ro, ngư dân gặp nhiều khó khăn trong việc nuôi, chăm

sóc các đối tượng thủy sản. Những năm qua bên cạnh việc tăng về diện tích và
sản lượng thì vấn đề ô nhiễm môi trường và dịch bệnh thủy sản đã gây thiệt hại
không nhỏ cho người nuôi. Những nguyên nhân của ô nhiễm môi trường có thể
là do nước thải không được xử lý và thải không đúng quy định, do tích tụ vật
chất hữu cơ trong quá trình nuôi thủy sản như: thức ăn dư thừa, sản phẩm thải,
do sử dụng thuốc, hóa chất không được kiểm soát. Những nguyên nhân bệnh
dịch có thể xuất phát từ ô nhiễm môi trường, từ gia tăng mật độ của vi sinh vật
hoặc do khả năng kháng thuốc của chúng, do người nuôi không tuân thủ quy
4


trình nuôi… Tuy nhiên trong đó còn một số nguyên nhân cả môi trường và bệnh
đều không thể giải thích như hiện tượng ngao chết hàng loạt các năm 2009 và
2010, tu hài chết năm 2011. Cũng có thể là do biến đổi khí hậu (BĐKH) đã gây
ra những biến đổi cực đoan về môi trường (khí hậu, thời tiết…) từ đó gia tăng
stress cho vật nuôi và theo đó tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh và sự xâm lấn
của các loài ngoại lai. Sự thay đổi nhiệt độ giữa đất liền và đại dương, giữa các
vùng cực và các vùng nhiệt đới sẽ ảnh hưởng đến cường độ, tần số của các hiện
tượng khí hậu như El nino, lũ lụt, hạn hán, bão. Những sự kiện này là nguyên
nhân dẫn đến nguồn tài nguyên biển không được ổn định, tác động mạnh đến
lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.
Với điều kiện địa lý và xã hội như trên, Quảng Ninh là một trong những
tỉnh chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu. Diễn biến thời tiết trong những
năm gần dây có nhiều hiện tượng bất thường, rét đậm, rét hại kéo dài, bão lũ
diễn ra kéo dài từ tháng 5 tới tháng 10 với trung bình 5-6 cơn bão lớn/năm.
Riêng trong năm 2009, cơn bão số 6 gây lũ lụt cho các huyện miền núi Bình
Liêu, Ba Chẽ và các huyện ven biển Tiên Yên gây thiệt hại hơn 200 tỷ đồng cho
riêng ngành NTTS. Cơn bão số 5 năm 2011 làm hư hại 93 nhà bè NTTS, trên 5
triệu con giống tu hài cấp hai, 750 bè nuôi hàu thương phẩm, 250 bè hàu giống,
2,000 lồng tu hài thương phẩm, 10 tấn cá song, 1 tấn cá Hồng Mỹ, 3 tấn cá Chim

vây vàng, 1 tấn ghẹ. Hiện tượng bất thường trên đây cũng đã ảnh hưởng đến môi
trường sống, hoạt động sản xuất nói chung và cộng đồng cư dân ven biển nói
riêng. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá tác động
của biến đổi khí hậu đến các vùng nuôi trồng thủy sản ven biển tỉnh Quảng
Ninh” nhằm đánh giá tác động của các hiện tượng thủy tai đối với các hoạt động
sản xuất và nuôi trồng thủy sản của người dân trong bối cảnh BĐKH và diễn
biến phức tạp của thủy tai, từ đó tạo cơ sở cho việc đề xuất được những giải
pháp ứng phó trước những diễn biến ngày càng phức tạp của BĐKH.

5


TỔNG QUAN

II.
1.

Tình hình chung trên thế giới
Biến đổi khí hậu (BĐKH) không phải là vấn đề mới hoàn toàn, tuy nhiên
ngày nay vấn đề này đang xảy ra đến mức nghiêm trọng nên không thể không
thu hút sự chú ý của con người. Gần đây thời sự và báo chí liên tục đưa tin về
những thảm họa thiên nhiên, đó là những hệ quả của biến đổi khí hậu ngày càng
phức tạp. Do sự nóng lên của khí hậu toàn cầu nên các lớp băng tuyết sẽ bị tan
nhanh trong những thập niên tới. Trong thế kỷ XX, mực nước biển tại châu Á
dâng lên trung bình 2,4 mm/năm, riêng thập niên vừa qua là 3,1 mm/năm. Mực
nước biển dâng lên có thể nhấn chìm nhiều vùng rộng lớn, nơi ở của hàng triệu
người. BĐKH có thể gây ra một số tác động lớn. Cho đến nay, theo ước tính,
khoảng từ 20-30% loài có nguy cơ tuyệt chủng nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu
tăng khoảng 30C (tương ứng từ năm 1980-1999). Khi nhiệt độ toàn cầu tăng hơn
3,50C, dự báo mô hình cho thấy trên toàn cầu sẽ có từ 40-70% loài tuyệt chủng.

Trong hơn 50 năm qua, nhiệt độ ở các lục địa (trừ Nam Cực) đã tăng lên đáng
kể. Nóng lên toàn cầu làm gia tăng mực nước biển. Từ năm 1961, mực nước
biển trung bình trên toàn cầu dâng cao với tốc độ trung bình là 1,8 mm/năm (từ
1,3 - 2,3 mm/năm) và từ năm 1993 ở mức 3,1 mm/năm (từ 2,4 - 3,8 mm/năm),
do sự dãn nở vì nhiệt, tan các mũ băng và những tảng băng ở vùng cực. Tốc độ
băng tan diễn ra nhanh nhất trong thời gian từ 1993 đến 2003 thể hiện sự biến
đổi trong một thập kỷ, chứ chưa phải là một xu thế tan chảy dài hạn rõ ràng. Từ
năm 1900 đến 2005, lượng mưa tăng đáng kể ở các khu vực phía đông của Bắc
và Nam Mỹ, Bắc Âu, Bắc và Trung Á, nhưng giảm ở Sahel, Địa Trung Hải,
Nam Phi và các khu vực Nam Á. Tổng diện tích bị ảnh hưởng bởi hạn hán đã
tăng lên từ những năm 1970. Bão nhiệt đới gia tăng, xuất hiện với cường độ
mạnh ở Bắc Đại Tây Dương từ khoảng năm 1970 và không thấy tăng lên ở
những nơi khác. Chúng ta chưa thể xác định được xu thế rõ ràng về số lượng các
cơn bão nhiệt đới hàng năm. Cũng như xu hướng lâu dài về hoạt động của bão,
đặc biệt trước năm 1970.
6


Nóng lên toàn cầu và nước biển dâng có thể tiếp diễn trong nhiều thế kỷ
do tính phức tạp và sự phản hồi của các quá trình khí hậu, thậm chí ngay cả khi
nồng độ các khí nhà kính đã ổn định. Với các hệ sinh thái trên cạn, mùa xuân
đến sớm hơn, xu thế dịch chuyển lên các cực và dịch chuyển lên cao đối với một
số hệ động vật, thực vật có liên quan đến hiện tượng nóng lên gần đây. Còn với
các hệ sinh thái biển và nước ngọt, những thay đổi về hệ động vật, thực vật và
sự phong phú của tảo, sinh vật phù du và cá liên quan đến sự gia tăng nhiệt độ
của nước, cũng như liên quan đến những thay đổi về độ che phủ của băng, độ
mặn, hàm lượng ôxy và sự lưu thông của nước.
Đến nay, mặc dù hiện tượng BĐKH toàn cầu do con người gây ra đã được
thừa nhận, nhưng từ phương diện nghiên cứu khoa học, thông tin liên quan đến
BĐKH còn chứa nhiều yếu tố không chắc chắn. Nghiên cứu tổng quan của De

Silva và Soto (2009), De Silva (2012), Cochrane et al. (2009), Badjeck et al.
(2010) về tác động tiềm tàng của BĐKH đến ngành thủy sản cho thấy các
nghiên cứu tác động BĐKH trong ngành thủy sản đều chứa đựng yếu tố không
chắc chắn, thường dựa trên các tính chất đặc thù của giống loài thủy sản và mối
tương quan với môi trường tự nhiên để phán đoán. Đây là những điểm cần lưu ý
khi thực hiện đánh giá tác động của BĐKH đến hoạt động nuôi thủy sản tại
Quảng Ninh.
Ngành thủy sản toàn cầu đang bị đe dọa do biến đổi khí hậu và sự axit hóa
các đại dương. Báo cáo lần thứ 5 của nhóm liên chính phủ về biến đổi khí hậu
cho thấy, đến năm 2050 sản lượng cập cảng thủy sản thiệt hại do biển đối khí
hậu sẽ nằm trong khoảng từ 17 - 41 tỷ USD do trái đất ấm lên 2 độ. Sản lượng
thủy sản sẽ tăng 30 – 70% ở các khu vực cao tuy nhiên giảm 40 – 60% ở các
khu vực nhiệt đới và Nam Cực do trái đất ấm lên 2 độ. Các loài cá có kích cỡ
lớn như cá ngừ ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương có khả năng di chuyển về
hướng đông. Biến đổi khí hậu và axit hóa sẽ ảnh hưởng tới công việc của 400
triệu người kiếm sống bằng nghề cá. Ngư dân đánh bắt thủy sản thủ công ở các
vùng nhiệt đới có nguy cơ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Sự thay đổi về phân bổ
7


nguồn lợi hải sản có thể dẫn tới xung đột giữa các quốc gia cùng khai thác thủy
sản và khiến nạn khai thác bất hợp pháp gia tăng mạnh. Hậu quả của biến đổi
khí hậu và axit hóa sẽ trầm trọng thêm bởi các yếu tố khác như ô nhiễm, hủy
hoại môi trường sinh thái.
Trong nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế vùng Châu Mỹ La tinh và Caribe về
tác động của BĐKH lên lĩnh vực nông nghiệp Guyana, trong đó có thủy sản, mô
hình kinh tế lượng đã được áp dụng để lượng hóa mối quan hệ này. Trong mô
hình, nhóm tác giả đã xây dựng được mối quan hệ về sự phụ thuộc của sản
lượng hải sản (bao gồm cả khai thác và NTTS trên biển) với các yếu tố như giá
hải sản xuất khẩu, nhiệt độ bề mặt nước biển (SST) và lượng mưa năm (Rain)

theo 3 kịch bản BĐKH đến năm 2050 của IPCC xây dựng.
Dựa trên phương pháp tiếp cận của Uỷ ban Liên chính phủ về BĐKH về
đánh giá tác động của BĐKH, đã có một số nghiên cứu liên quan đến đánh giá
ảnh hưởng của BĐKH đến NTTS ven biển. Nghiên cứu của Chen tại Đài Loan
về tác động của nhiệt độ bề mặt nước biển đến sản lượng cá măng đã áp dụng
mô hình nhiệt độ phi tuyến tính theo thời gian để xây dựng mối quan hệ giữa
nhiệt độ trung bình năm và nhiệt độ nhỏ nhất trong mùa đông (tháng 1-3 hàng
năm) với sản lượng cá măng nuôi trên biển. Trong nghiên cứu này, dữ liệu để
chạy mô hình là sản lượng cá măng được thu thập trong giai đoạn năm 19822008 từ Cục Nông nghiệp của thành phố Cao Hùng (Đài Loan) và số liệu nhiệt
2.

độ bề mặt nước biển từ năm 1960-2008.
Tình hình trong nước
Nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) là ngành kinh tế có tiềm năng phát triển của
Việt Nam. Những năm gần đây NTTS của nước ta đã có những bước phát triển
mạnh mẽ và đạt đựơc nhiều thành tựu to lớn, góp phần thúc đẩy công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngành có vai trò hết sức quan trọng trong
việc góp phần xoá đói giảm nghèo, cung cấp dinh dưỡng và nâng cao thu nhập
cho nhân dân, và từng bước nâng cao kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Đến
năm 2003, NTTS và các hoạt động thuỷ sản chiếm tới 5,1% tổng số lao động
trên toàn quốc; đến cuối năm 2006, sản lượng nuôi trồng đạt 1.526.000 tấn, tăng
8


khoảng 14% so với năm 2005. Nuôi trồng thuỷ sản tập trung chủ yếu ở đồng
bằng Nam bộ, và sau đó là đồng bằng sông Hồng. Nhiều năm qua, nuôi trồng,
chế biến, xuất khẩu thủy sản đã trở thành thế mạnh kinh tế đặc biệt ở Việt Nam,
để nước ta trở thành một vùng trọng điểm về nuôi trồng thủy sản cho tiêu dùng
và xuất khẩu của cả khu vực. Việc phát triển hoạt động nuôi trồng thủy sản vùng
ven biển không chỉ khai thác hiệu quả các lợi thế về điều kiện tự nhiên mà còn

giải quyết việc làm và ổn định đời sống của cư dân vùng ven biển. Hệ sinh thái
rừng ngập mặn nước ta vốn có diện tích tới 450 nghìn ha, riêng Nam Bộ là 300
nghìn ha, lớn thứ hai trên thế giới sau rừng ngập mặn Amazon ở Nam Mĩ. Hệ
sinh thái rừng ngập mặn cho năng suất sinh học cao, đặc biệt là sinh vật nước lợ.
Các hệ sinh thái trên đất phèn và hệ sinh thái rừng trên các đảo cũng rất đa dạng
và phong phú. Theo báo cáo của Tổng cục Thuỷ sản, trong 10 năm qua (20012011), sản lượng nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) đã tăng 4 lần - từ hơn 700 nghìn
tấn lên khoảng 3 triệu tấn, với tốc độ tăng bình quân 15,7%/năm. Trong đó, sản
lượng NTTS ven biển (mặn, lợ) chiếm gần 30%. Tại Việt Nam, rất nhiều mô
hình NTTS ven biển đã được phát triển cho từng nhóm đối tượng có đặc tính
phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng. Toàn quốc có 6
vùng nuôi chính: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc
Trung Bộ, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và ĐBSCL.
Trong đó, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung là vùng trọng điểm phát
triển NTTS ven biển. Đây cũng là một trong ba vùng sản xuất giống phục vụ
NTTS cả nước (cùng với Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL). Về đối tượng
NTTS ven biển, có 4 nhóm chính là: giáp xác, nhuyễn thể, cá biển và thực vật
thủy sinh. Nhóm giáp xác chủ yếu là tôm, cua; Nhóm nhuyễn thể chủ yếu là
ngao, hàu, tu hài, ốc hương; Nhóm cá biển và cá nước lợ có cá giò, cá mú, cá
vược, cá bớp, rô phi; Nhóm thực vật thủy sinh chủ yếu là rong câu, rong mơ và
rong sụn... Cho đến nay, tôm nước lợ vẫn là đối tượng nuôi chủ lực trong lĩnh
vực NTTS ven biển và tiếp tục là đối tượng nuôi chủ lực của ngành theo Chiến
lược phát triển ngành thủy sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Tổng diện tích
9


mặt nước mặn, lợ Việt Nam có thể khai thác là 1,44 triệu ha, nhưng hiện mới
khai thác được một nửa đến 0,7 triệu ha. Trong đó, diện tích nuôi tôm chiếm
88,5% với hai đối tượng chính là tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Tại các tỉnh ven
biển, tôm sú được nuôi theo các mô hình quảng canh, bán thâm canh và thâm
canh tại các vùng hạ triều, trung triều và cao triều. Ngoài ra, tôm sú còn được

nuôi xen rừng ngập mặn, nuôi luân canh (tôm-rong câu) hay nuôi xen tôm-lúa,
kết hợp tôm cua ghẹ, cá nước lợ… Riêng tôm thẻ chân trắng, mặc dù mới được
nuôi rộng rãi khoảng 5 năm lại đây nhưng đã trở thành một trong những đối
tượng chủ lực có thể thay thế tôm sú bản địa ở nhiều vùng ven biển (có dấu hiệu
suy giảm chất lượng môi trường). Hình thức nuôi chủ yếu là nuôi thâm canh
hoặc nuôi ở quy mô công nghiệp trên các vùng cao triều - nơi có thể quản lí
được các yếu tố môi trường.
Việt Nam là một nước chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của BĐKH và nước
biển dâng. Theo tính toán của các chuyên gia nghiên cứu BĐKH đến năm 2100
nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 3 0C và mực nước biển có thể
dâng 1m. Theo đó, khoảng 40.000 km2 đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ bị ngập.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn và hệ sinh thái cửa sông là những hệ sinh thái quan
trọng bậc nhất trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo tính đa dạng
nguồn lợi thủy sản tỉnh Sóc Trăng. Các yếu tố khí hậu tác động một cách tổng
hợp lên hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM). Khi khí hậu nóng lên, các yếu tố
như sự biến động nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng sẽ là những yếu tố tác
động mạnh nhất lên hệ sinh thái rừng ngập mặn. Nước mặn lấn sâu vào nội địa,
làm mất nơi sinh sống thích hợp của một số loài thuỷ sản nước ngọt, lợ vùng cửa
sông và vào sâu trong nội đồng. Rừng ngập mặn hiện có bị thu hẹp, ảnh hưởng
đến hệ sinh thái của một số loài thuỷ sản vùng cửa sông và trong rừng ngập
mặn. Nước biển dâng làm cho chế độ thủy lý, thủy hoá và thủy sinh xấu đi. Kết
quả là quần xã hiệu hữu thay đổi cấu trúc và thành phần, trữ lượng giảm sút của
các loài khu vực cửa sông, rừng ngập mặn. Các loài thực vật nổi, mắt xích đầu
tiên của chuỗi thức ăn cho động vật nổi bị huỷ diệt, làm giảm mạnh động vật
10


nổi, do đó làm giảm nguồn thức ăn chủ yếu của các động vật tầng giữa và tầng
trên. Nước biển dâng sẽ dẫn đến mực nước cao hơn và độ mặn ven biển ngày
càng tăng tại hệ thống các cửa sông. Các tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu

đối với các cửa sông có thể do những thay đổi về đặc tính vật lý gây ra bởi
những thay đổi trong dòng chảy nước ngọt. Luồng nước ngọt ra các cửa sông
ảnh hưởng đến thời gian lưu trữ nước, cung cấp chất dinh dưỡng, phân tầng theo
chiều dọc, độ mặn, kiểm soát tốc độ tăng trưởng thực vật phù du và gia tăng sự
phân tầng theo chiều dọc, và ngược lại. Mực nước biển dâng cùng với cường độ
của bão tố, thay đổi thành phần của trầm tích, độ mặn và mức độ ô nhiễm của
nước sẽ đe dọa đến sự suy thoái và sống còn của rừng ngập mặn cũng như các
loài sinh vật rất đa dạng trong đó. Xu hướng biến đổi của khí hậu khiến nước
biển dâng, độ mặn nước biển trong rừng ngập mặn sẽ có thể vượt quá 25%.
Những biến đổi đó đã làm mất đi rất nhiều loài sinh vật, làm thay đổi mạnh mẽ
hệ sinh thái rừng ngập mặn. Hệ sinh thái rừng ngập mặn có những phản ứng
khác nhau đối với biến đổi khí hậu, có thể tăng tốc độ tăng trưởng sinh khối là
kết quả của gia tăng hàm lượng CO2 khí quyển và nhiệt độ nhưng cũng chịu tác
động mạnh mẽ bởi quá trình xói lở và ngập do nước biển dâng. Nước biển dâng
cùng với gió mùa, bão, triều cường đã làm xói lở bờ biển, gây xói mòn nền đất
rừng ngập mặn, lộ rễ cây, sạt lở bờ sông ở các vùng cửa sông, cuốn trôi cây ngập
mặn. Đồng thời, nước biển dâng đã tạo điều kiện cho cây ngập mặn lấn sâu vào
nội địa và tiêu diệt các loại cây trồng khác. Nếu nhiệt độ tăng thì quá trình quang
hoá và phân huỷ các chất hữu cơ nhanh hơn, ảnh hưởng đến nguồn thức ăn của
sinh vật. Các sinh vật tiêu tốn nhiều năng lượng hơn cho quá trình hô hấp cũng
như các hoạt động sống khác làm giảm năng suất và chất lượng thuỷ sản. Cường
độ và lượng mưa lớn làm cho nồng độ muối giảm đi trong một thời gian dài dẫn
đến sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc biệt là nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, sò,
…) bị chết hàng loạt do không chống chịu nổi với nồng độ muối thay đổi. Sự
xâm nhập mặn là đặc biệt quan trọng trong hệ thống nuôi tôm và cá tra ven biển,
trong đó các trang trại nuôi tôm quảng canh và trang trại nuôi cá tra nội địa là
11


đặc biệt nhạy cảm với lũ lụt. Nước biển dâng làm cho quá trình ngập và diễn

biến xâm nhập mặn trở nên phức tạp hơn. Vùng nuôi tôm nước lợ ven biển tỉnh
Sóc Trăng ảnh hưởng bởi gia tăng xâm nhập mặn trong mùa khô, đặc biệt ở đây
các đầm tôm nằm bên ngoài của vùng bờ biển được bảo vệ bởi đê biển và các
cống điều tiết nước. Thêm vào đó, độ chịu mặn của tôm Sú có thể ở mức cao là
35 - 40ppt nhưng khi ở giới hạn chống chịu này thì các loài này phải đối mặt với
việc dễ bị nhiễm bệnh hơn.
BĐKH ngoài biểu hiện của nó như nước biển dâng thì nhiệt độ tăng, bão
lũ, sóng lớn, triều cường và các hiện tượng thời tiết cực đoan… đã ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp đến các hệ sinh thái quan trọng ven bờ và nghề NTTS nói
chung trong đó các vùng nuôi trong điểm của các đối tượng như ngao, tôm nước
lợ và cá lồng biển phải chịu tác động rất lớn và ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả
sản xuất. Các biểu hiện khắc nghiệt của thời tiết có thể dẫn đến việc giảm các
loài tự nhiên là nguồn giống của NTTS, làm tăng stress cho vật nuôi ảnh hưởng
đến năng suất mà còn tăng nguy cơ bệnh tật gây thiệt hại cho nông dân. Trong
các hoạt động NTTS ven biển thì nuôi tôm nước lợ chịu nhiều bất lợi do BĐKH
gây ra. Mực nước biển dâng sẽ gây nên nhiều tác động đối với hoạt động sản
xuất NTTS nói chung trong đó nuôi tôm nước lợ sẽ phải chịu nhiều tác động
như: xâm nhập mặn, xói lở và thay đổi diện tích nuôi. Sự xâm nhập mặn ảnh
hưởng tới phân bố về không gian nuôi, thay đổi đối tượng nuôi và làm thay đổi
nguồn thức ăn tự nhiên. Nước biển dâng sẽ kéo theo tác động gây xói lở cơ sở
hạ tầng vùng nuôi, trang trại nuôi, gây thất thóa vật nuôi thậm chí nguy hiểm tới
tính mạng con người canh tác NTTS. Nước biển dâng làm thay đổi diện tích
nuôi, nuôi tôm ven biển đa số sẽ tăng diện tích nước mặn lợ và năng suất sản
lượng có thể tăng tương ứng.
Do nằm trong vành đai nhiệt đới nên Việt Nam phải chịu ảnh hưởng của
hiện tượng bão và áp thấp nhiệt đới. Bão và áp thấp nhiệt đới gây ra mưa to gió
lớn. Bão cũng là một trong những nguyên nhân gây nên hiện tượng nước biển
dâng và gây tác động đến việc khai thác, đánh bắt thủy sản của các tàu thuyền,
12



ngư dân đánh bắt, có thể gây ra thiệt hại lớn lao về người và của nếu không di
trú kịp thời vào bờ hay neo đậu vào nơi an toàn khi bão đổ bộ. Bão đã gây ra
những cơn sóng giữ dội có thể tàn phá hoàn toàn hệ thống đê bao của các ao
nuôi, lồng bè trên biển, làm xói lở, hư hại cơ sở hạ tầng, bờ cống ao đầm, nhà
cửa trang trại, làm thất thoát tôm nuôi gây thiệt hại kinh tế. Những cơn bão xuất
hiện hàng năm vào các tỉnh ven biển với tần suất và cường độ ngày một khốc
liệt hơn do tác động của BĐKH làm phá hủy các rừng ngập mặn tự nhiên hay
được trồng để bảo vệ, phá hủy môi trường sống của nhiều loài tôm cá cũng như
chim nước. Nước biển dâng cao trong những ngày có mưa bão kết hợp với triều
cường, có khi lên tới 5 – 8m gây ra thiệt hại to lớn về tài sản của cộng đồng ngư
dân ven biển, làm bờ biển bị xói lở, kể cả những vùng có các dải rừng ngập mặn
phòng hộ. Mực nước biển dâng ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc nuôi trồng
thủy sản, làm cho tình trạng xâm mặn ở các vùng ven biển diễn ra nhanh hơn,
nghiêm trọng hơn trong khi diện tích nhiễm mặn của đồng bằng sông Cửu Long
là rất lớn: 1,77 triệu ha chiếm 45% diện tích toàn vùng. Nếu mực nước biển sẽ
tiếp tục dâng cao lên 30cm thì theo kịch bản BĐKH năm 2050 thì khoảng 50%
các khu đât ngập nước có tầm quan trọng quốc gia sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
Điều này sẽ gây ảnh hưởng lớn đến các nghề khai khác thủy sản nội địa và ven
biển thủ công và một số nghề khai thác ven bờ có quy mô nhỏ. Đồng thời nguồn
lợi giống tự nhiên cung cấp cho việc nuôi nhiều đối tượng khác nhau cũng sẽ bị
ảnh hưởng, đẩy giá giống lên cao so tình trạng khan hiếm nguồn cung cấp. Sự
tàn phá của bão và áp thấp nhiệt đới còn ảnh hưởng đến hệ sinh thái của vùng
nuôi – cần thời gian dài mới có thể phục hồi. Bão và áp thấp nhiệt đới thưởng
khó có thể dự đoán và mức độ ảnh hưởng của nó ảnh hưởng nghiêm trọng rất
nhiều. Có thể nói rằng, hiện tượng khắc nghiệt của biến đổi khí hậu này ảnh
hưởng rất lớn đến mọi vấn đề không chỉ riêng nuôi trồng thủy sản. Đối với vùng
ven biển, nơi mà cộng đồng cư dân sống chủ yếu dựa vào hoạt động nuôi trồng
thủy sản, nếu bão xảy ra thì thiệt hại về kinh tế là điều khó tránh khỏi, sinh kế
của họ sẽ bị mất. Tuy nhiên nếu xét một khía cạnh khác, khi nước biển dâng,

13


diện tích của chúng ta sẽ có nhiều hơn, có nghĩa là diện tích nuôi trồng thủy sản
mặn, lợ có thể được mở rộng, nguồn lợi thủy sản và sản lượng khai thác xa bờ sẽ
tăng lên.
Nguồn nước là một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công cho
phát triển nuôi trồng thủy sản. Hiện tượng nắng nóng kéo dài đã làm cạn kiệt
nguồn nước ngọt, làm tăng mức độ bốc hơi nước trong các ao nuôi. Đối với các
ao nuôi gần nguồn cung cấp nước hoặc nuôi lồng bè trong vực nước lớn (sông
suối, biển) thì ảnh hưởng này không lớn, nhưng đối với ao nuôi cách xa nguồn
nước thì nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Miền Trung là nơi
có số ngày nắng, mức độ bốc hơi nước lớn nhất cả nước, cho nên hạn hán xảy ra
nghiêm trọng nhất. Nhiều ao nuôi tôm cá đã bị bỏ hoang vì không có nước để
cung cấp trong quá trình nuôi. Một số ao nuôi chưa đến thời gian thu hoạch đã bị
cạn kiệt nguồn nước trong ao, nên người dân phải thu hoạch sớm hoặc bỏ nuôi.
Tôm cá chưa đến kích thước thương phẩm bán với giá quá rẻ hoặc làm thức ăn
cho gia súc và gia cầm. Bên cạnh dó hạn hán gây thiếu nước sản xuất và ảnh
hưởng tới một số thông số môi trường như tăng độ mặn, tăng nhiệt độ ao đầm
nuôi gây sốc nhiệt và sốc độ mặn. Nắng lắm ắt phải mưa nhiều, gây ra hiện
tượng lũ lụt ở nhiều nơi. Lượng mưa trung bình khác nhau ở mỗi vùng . Lũ lụt
đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng ở nhiều địa phương trong cả nước. Nhiều nơi có
thể được xem là nơi thuận lợi phát triển nếu hiện tượng khô hạn xảy ra, nhưng
chính nơi đây là nơi dễ bị rủi ro nhất nếu lũ lụt xảy ra. Khô hạn có thể cung cấp
nước, nhưng lũ lụt thì rất khó chống. Nhiều ao nuôi đã được chuẩn bị bao đê
kiên cố, cao để chống nước dân cao vào mùa mưa, nhưng không thể chống được
lũ lụt. Đối với nghề nuôi thủy sản mặn lợ, độ mặn lại là yếu tố ảnh hưởng rất lớn
đến sinh trưởng và phát triển của loài nuôi. Khi xảy ra mưa lớn, độ mặn trong
các ao nuôi giảm xuống đột ngột vượt ra khỏi ngưỡng chịu đựng làm cho tôm cá
bị sốc, chết hoặc chậm lớn. Lũ xãy ra còn làm cho độ mặn các vực nước gần bờ

như các cửa sông giảm xuống, nghề nuôi nhuyễn thể, tôm cá, rong đề bị ảnh
hưởng nghiêm trọng.
14


Nhiệt độ đóng vai trò quan trọng cho quá trình sinh trưởng và phát triển
của sinh vật nói chung và các loài nuôi trồng thủy sản nói riêng. Theo dự báo
của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hàng năm, nhiệt độ nước ta có khả năng tăng
khoảng 0,3 - 0,50C, thậm chí nhiệt độ có thể tăng thêm 3 0C vào cuối năm 2100.
Tuy nhiên, nhiệt độ không phải tăng đều và tính cực đoan ngày càng mạnh thêm.
Nhưng, tại những thời điểm, do ảnh hưởng của El Nino và La Nina, nhiệt độ có
thể quá nóng hoặc quá lạnh (như đợt rét kỷ lục vừa qua ở miền Bắc, dẫn đến
hàng nghìn ha cá nuôi ở miền Bắc bị chết rét...); Hoặc nhiệt độ quá cao dẫn đến
nghêu chết ở ĐBSCL ước thiệt hạ hàng trăm tỷ đồng. Chỉ tính riêng Bến Tre,
trước năm 2009 sản lượng nghêu thịt luôn dao động 7.000 - 10.000 tấn/năm,
nhưng kể từ năm 2010, sản lương nghêu thịt tại đây chỉ 3.000 - 4.000 tấn/năm,
giảm khoảng 50%. Mỗi loài thủy sản chỉ thích ứng trong một dải nhiệt độ nhất
định. Khả năng chống chịu của chúng nằm trong khoảng giới hạn nhất định .
Đối với tôm sú, nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển 25 - 30 0C, lớn hơn 350C
hoặc thấp hơn 120C kéo dài sẽ làm tôm sinh trưởng chậm. Nhiệt độ ảnh hưởng
đến rất nhiều yếu tố khác trong ao, đặc biệt là chất lượng nước; đồng thời, cũng
ảnh hưởng đến khả năng bắt mồi và lấy thức ăn. Ví dụ, tôm thẻ chân trắng, ở
nhiệt độ 300C chỉ sau 20 - 25 phút là tôm ăn đầy ruột, nhưng nếu ở 24 0C thì phải
mất tới 50 - 55 phút. Ếch dưới 20 0C giảm hoặc không ăn; dưới 200C men tiêu
hóa của cá sấu không hoạt động. Nhiệt độ nước trong các ao hồ phụ thuộc hoàn
toàn vào thời tiết và từng địa phương. Khi nhiệt độ không khí tăng lên làm cho
nước nóng lên, tuy nhiên biến động nhiệt độ nước trong các ao hồ chậm hơn so
với không khí. Ở Việt nam, đặc biệt là các tỉnh miền trung, hiện tượng nắng
nóng đã làm cho nhiệt độ nước tăng lên quá mức chịu đựng của nhiều loài sinh
vật, trong đó có các loài nuôi. Nước nóng đã làm cho tôm cá chết hàng loạt, đặc

biệt nghiêm trọng đối với các ao hồ có độ sâu nhỏ. Đối với các vực nước có độ
sâu cao, vực nước lớn hoặc chảy thì sự thay đổi về nhiệt độ hiện xảy ra chậm
hơn và nước ít bị nóng hơn. Vì vậy việc nuôi lồng bè trên các vực nước lớn như
sông suối, biển thường ít bị ảnh hưởng của sự tăng nhiệt độ quá mức và lâu dài,
15


còn các vực nước tù và nhỏ thường dễ bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Sự tăng
nhiệt độ có thể làm suy giảm sản lượng thủy sản trong các ao hồ. Nhiều nghiên
cứu cho thấy rằng khi nhiệt độ tăng lên làm cho hàm lượng oxi trong nước trong
giảm mạnh vào ban đêm, do sự tiêu thụ quá mức của các loài thực vật thủy sinh,
hoặc quá trình phân hợp chất hữu cơ. Sự suy giảm hàm lượng oxi làm ảnh
hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của loài nuôi, tôm có thể bị chết hoặc
chậm lớn. Điều này dễ nhận thấy qua hiện tượng hiện tượng phù dưỡng của các
ao nuôi; cá nổi đầu vào buổi sáng trong các ao nuôi; thủy triều đỏ và tảo chết
hàng hoạt ở các vùng ven biển. Ngoài ra, nắng nóng cùng với độ mặn tăng cao
làm các loại cây cỏ thủy sinh trong vuông nuôi bị chết và phân hủy nhanh. Đây
là nguồn dinh dưỡng cho tảo phát triển mạnh, kéo theo sự biến đổi về độ trong,
đục của nước trong ao. Những yếu tố môi trường nuôi càng thay đổi giảm đột
ngột hơn khi xuất hiện những trận mưa trái vụ hay những cơn mưa đầu mùa.
Nước mưa cuốn trôi phèn từ bờ vuông xuống ao nuôi làm pH giảm thấp, nhiệt
độ thay đổi đột ngột, dẫn đến hiện tượng tôm chết do bị sốc nhiệt và pH hay tôm
nuôi yếu đi, mất khả năng đề kháng, dễ mắc bệnh. Thay đổi nhiệt độ còn là điều
kiện phát sinh của nhiều loài dịch bệnh xảy ra cho các loài nuôi. Nhiệt độ tăng
cao làm cho sức khỏe của các loài nuôi, môi trường nước bị xấu đi, là điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của các loài vi sinh vật gây hại. Trong những năm gần
đây do môi trường nuôi bị suy thoái kết hợp với sự thay đổi khắc nghiệt của thời
tiết đã gây ra hiện tượng tôm sú chết hàng loạt ở hầu hết các tỉnh, như bệnh do
nhóm vi khuẩn Vibrio gây ra, bệnh do virus (MBV, HPV). Các bệnh này thông
thường xảy ra và lan truyền rất nhanh và rộng, khó chữa nên mức độ gây rủi ro

rất lớn. Bên cạnh những ảnh hưởng bất lợi, tăng nhiệt độ cũng là điều kiện thuận
lợi cho nuôi trồng thủy sản. Sự tăng lên của nhiệt trong khoảng cho phép tăng
năng suất sơ cấp cho các ao nuôi, tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của các loài
thủy sinh là nguồn thức ăn quan trọng cho các loài nuôi. Ở các tỉnh miền Bắc,
nuôi trồng thủy sản bị giới hạn bởi nhiệt độ mùa xuân và ngọt hóa của nước vào
mùa hè. Nhiệt độ nước tăng vào xuân thúc đẩy sự phát triển của sinh khối thủy
16


vực, người dân có thể thả con giống sớm hơn, cho nên có thể tránh được rủi ro
tôm cá chết do độ mặn của nước giảm đột ngột. Nhiệt độ chỉ cần thay đổi 1 0C
cũng tác động rất lớn đến khả năng tiêu hóa, bắt mồi, sinh trưởng và nguy cơ
bệnh tật cho thủy sản nuôi. Trong bối cảnh BĐKH, nhiệt độ thay đổi thất
thường, gây thiệt hại rất lớn đến nuôi thủy sản.
Ngược lại, một số hình thức nuôi tôm cũng đã và đang làm tăng phát thải
khí nhà kính (như: nuôi bán thâm canh, thâm canh, hoặc nuôi ở quy mô công
nghiệp). Những hình thức nuôi có khả năng làm giảm phát thải khí nhà kính,
như: nuôi tôm cua xen rừng ngập mặn, nuôi tôm xen rong câu, nuôi kết hợp cá
nước lợ, cua ghẹ, nuôi luân canh tôm - rong câu... Như vậy, để thích ứng với
BĐKH, cần xác định các tác động của BĐKH và tình trạng thực tế, từ đó xây
dựng giải pháp đặc thù cho từng mô hình nuôi nhằm dần dần thích ứng với
những điều kiện bất lợi do BĐKH gây ra. Năm 2012, Viện Kinh tế và Quy
hoạch thủy sản đã thực hiện dự án "Điều tra, đánh giá tình trạng dễ bị tổn
thương với BĐKH làm cơ sở xây dựng các chính sách và hoạt động hỗ trợ hiệu
quả cho các vùng chịu tác động của BĐKH". Qua đó, xác định vùng ven biển là
vùng bị tổn thương cao và cộng đồng những người NTTS ven biển quy mô nhỏ
là một trong những đối tượng nhạy cảm nhất với BĐKH cả về mặt kinh tế, xã
hội và năng lực thích ứng. Tháng 1/2013, trong một công bố của Tổ chức DARA
International về tính dễ bị tổn thương với BĐKH, Việt Nam được xếp ở mức báo
động đỏ, là nước đứng đầu danh sách về mức thiệt hại thủy sản do BĐKH. Theo

đó, ngành thủy sản bị thiệt hại khoảng 1,5 tỷ USD năm 2010 và mức thiệt hại
này sẽ tăng lên 25 tỷ USD vào năm 2030. Nhìn chung, các nghiên cứu đều chỉ ra
rằng, các tác động của BĐKH lên NTTS nói chung và NTTS ven biển nói riêng
có thể được giảm nhẹ thông qua các biện pháp thích ứng hiệu quả của người
nuôi và các tổ chức cộng đồng. Cụ thể là quản lí trang trại hiệu quả, sử dụng hợp
lí các nguồn thức ăn và năng lượng trong hoạt động nuôi, thực hiện chuyển dịch
mùa vụ, né vụ theo lịch của các cơ quan quản lí ban hành để thích ứng với diễn
biến bất lợi của thời tiết, giảm thiểu khí nhà kính từ hoạt động NTTS.
17


Là tỉnh ven biển, trong những năm qua, Quảng Ninh đã phải chịu hậu quả
nặng nề do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (BĐKH) dẫn đến thời tiết bất
thường, nắng nóng kéo dài, mưa lớn, lũ lụt... Có thể nhận thấy, những tác động
của BĐKH tới Quảng Ninh rõ nét nhất là đợt mưa vượt ngưỡng lịch sử kéo dài
hơn một tuần qua đã gây ra những thiệt hại về người và tài sản, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống sinh hoạt của người dân. Quảng Ninh có tài nguyên
nước khá phong phú và đặc sắc, có hầu hết các chủng loại hải sản Việt Nam: các
loại cá chim, thu, nhụ, đé, song…. Các đối tượng nhuyễn thể tự nhiên ở đây rất
đa dạng như Ngao, Tu Hài và Ốc Hương được nuôi khá phổ biến. Hàu nhập nội
(Hàu Thái Bình Dương) đang được nuôi với sản lượng lớn ở vịnh Bái Tử Long
(Quảng Ninh). Nhóm đối tượng này vừa có khả năng làm giảm phát thải khí nhà
kính (KNK) nhưng đồng thời chịu nhiều tác động tiêu cực của BĐKH làm môi
trường của chúng bị thay đổi đột ngột và dịch bệnh lây lan. Cá biển cũng là đối
tượng được chú trọng trọng những năm gần đây ở các tỉnh Quảng Ninh. Hiện
nuôi cá biển ở Việt Nam chủ yếu dựa vào nuôi cá lồng bè trong các vũng vịnh
nửa kín. Bên ngoài các lồng nuôi có thể trồng rong câu, nuôi nhuyễn thể. Thức
ăn chủ yếu của nuôi cá lồng là cá tạp. Hình thức nuôi này chịu nhiều tác động
của BĐKH do có nhiều rủi ro từ bão lũ, sóng và phát thải KNK do ô nhiễm từ
thức ăn thừa và sinh hoạt của người nuôi trên các lồng bè nổi. Nhiệt độ tăng quá

cao hay xuống quá thấp gây chết hàng loạt cá nuôi lồng bè ở khu vực Cát Bà và
Hạ Long. Mực nước biển dâng gây ra tác động đối với nuôi cá lồng như: xâm
nhập mặn, thay đổi diện tích nuôi. Sự xâm nhập mặn sẽ ảnh hưởng tới phân bố
về không gian nuôi, ảnh hưởng tới việc thay đổi đối tượng nuôi và làm thay đổi
nguồn thức ăn tự nhiên. Nước biển dâng sẽ kéo theo tác động gây xói lở cơ sở
hạ tầng vùng nuôi, trang trại nuôi, gây thất thóa vật nuôi thậm chí nguy hiểm tới
tính mạng con người canh tác NTTS. Mực nước biển dâng sẽ làm thay đổi diện
tích nuôi, những vùng ven biển đa số sẽ tăng diện tích NTTS nước mặn lợ và
năng suất sản lượng có thể tăng tương ứng theo đó. Đối tượng nuôi có thể cũng
được thay đổi theo hướng phù hợp hơn với môi trường nước mặn lợ. Lượng mưa
18


và tần suất mưa thay đổi, ảnh hưởng tới dao động độ mặn, nhiệt độ và pH, làm
tăng độ đục, lượng phù sa và mùn bã hữu cơ. Do vậy có thể làm tăng tỷ lệ chết
và giảm sức đề kháng đối với thay đổi của môi trường và yếu tố bệnh. Nhiệt độ
cực đoan (cao hoặc thấp) ảnh hưởng tới cá nuôi, trường hợp nhiệt độ cực đoan
kéo dài ảnh hưởng tới quá trình hoạt động, dinh dưỡng của cá. Gây sốc, giảm
dinh dưỡng và làm tăng khả năng bị nhiễm bệnh đối với cá nuôi. Bão, lũ, làm hư
hại cơ sở vật chất như lồng bè nuôi, nhà nổi, làm thất thoát cá nuôi ảnh hưởng
tới hiệu quả sản xuất. Làm thay đổi các thông số môi trường như: độ mặn, ôxy
thay đổi đột ngột và phân tầng, gây ảnh hưởng tới đời sống, sức khỏe cá. Hạn
hán làm giảm độ sâu mực nước ảnh hưởng tới điều kiện môi trường như tăng
nhiệt độ nước, tăng phân hủy chất hữu cơ tầng đáy... gây tác động xấu tới cá
nuôi. Bên cạnh đó BĐKH gây ra biến đổi môi trường, dịch bệnh tăng cao, khó
kiểm soát và khó phòng trị. Sự bùng phát dịch bệnh và tác nhân gây bệnh mới
dẫn tới tỷ lệ chết đối với cá biển tăng cao, gây ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất
và thiệt hại kinh tế. Tuy nhiên BĐKH như nước biển dâng cũng tạo thuận lợi
cho diện tích nuôi cá biển tăng lên. Bão, thủy triều có thể làm sạch môi trường
vùng nuôi.

Các loại tôm he như tôm thẻ chân trắng, tôm sú, tôm rảo… đứng đầu về
chất lượng tôm Việt Nam cũng được nuôi nhiều tại Quảng Ninh. Tuy nhiên, hoạt
động này thường xuyên chịu tác động của thời tiết và thiên tai do BĐKH gây ra,
các biểu hiện như nước biển dâng, nhiệt độ tăng, bão lũ, sóng lớn, triều cường
và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác. Một số nghiên cứu đã cho thấy,
BĐKH có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến NTTS thông qua nguồn
nước, diện tích nuôi, môi trường nuôi, con giống, dịch bệnh… và qua đó gây
ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng và cơ sở hạ tầng của các vùng NTTS nói
chung và NTTS ven biển nói riêng. Nước biển dâng có thể làm thay đổi diện
tích vùng nuôi hoặc thay đổi cả vùng nuôi. Các hiện tượng thời tiết bất thường
như bão lũ, hạn hán, nắng nóng hoặc giá rét kéo dài có thể tác động tiêu cực đến
nguồn nước và sức đề kháng của các đối tượng nuôi, gây bùng phát dịch bệnh.
19


Lượng mưa và tần suất mưa làm thay đổi độ mặn, nhiệt độ, pH gây sốc đối với
tôm nuôi, làm xói lở bờ ao đầm, hư hại cống làm tăng độ đục, giảm sức đề
kháng tạo diều kiện cho mầm bệnh phát triển và tăng tỷ lệ chết đối với tôm nuôi
ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất. Hiện tượng nhiệt độ cực đoan (cao hoặc thấp)
ảnh hưởng lớn đến tôm nuôi, làm giảm khả năng vận động và bắt mồi, dinh
dưỡng của tôm nuôi. Nhiệt độ quá thấp ảnh hưởng tới thời vụ thả tôm, nhiệt độ
cao quá ảnh hưởng tới môi trường nuôi như quá trình phân hủy chất hữu cơ xảy
ra nhanh gây bất lợi cho môi trường vào thời điểm cuối vụ nuôi. Dịch bệnh đã
gây không ít khó khăn cho người nuôi trồng thủy sản. Đã có trên 240ha tôm
nuôi bị mắc các bệnh đốm trắng, đỏ than, teo gan… chủ yếu tập trung ở các địa
phương Yên Hưng, Đầm Hà, Tiên Yên, Hải Hà…gây nhiều thiệt hại về kinh tế,
xã hội cho cộng đồng người nuôi. Các tác động bất lợi và tiêu cực này nếu
không có biện pháp can thiệp, sẽ đe dọa các mục tiêu tăng trưởng bền vững của
ngành thủy sản.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, thời gian qua Quảng Ninh đã chịu

những tác động của BĐKH đến chế độ thuỷ văn sông suối, gây khô hạn vào mùa
đông (đặc biệt ở huyện Tiên Yên, TX Đông Triều); gây ngập lụt vào mùa mưa
tập trung ở các địa phương Ba Chẽ, Tiên Yên, Hạ Long, Cẩm Phả. Do tác động
của BĐKH dẫn đến sự thay đổi thành phần loài các vùng cửa sông như khu vực
cửa sông Cầm, sông Uông, sông Diễn Vọng, Ba Chẽ, Tiên Yên, sông Hà Cối và
sông Ka Long; gây suy giảm loài và đa dạng sinh thái (diện tích san hô và thảm
cỏ biển Vịnh Hạ Long hiện đang bị suy giảm, chỉ còn ở một số đảo phía ngoài
khơi)... BĐKH còn tác động đến đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh. Năm
2008 mưa lớn kết hợp với lũ và triều cường đã làm ngập 620ha đầm nuôi thuỷ
sản tại xã Hải Lạng (Tiên Yên). Mùa đông rét đậm, rét hại 38 ngày đã làm 80%
hộ nuôi trồng thuỷ sản bị mất trắng, ước thiệt hại 50 tỷ đồng. Năm 2010, mưa
bão cũng đã làm 140 lồng bè bị vỡ tại các địa phương Hạ Long, Cẩm Phả, Vân
Đồn; cuốn trôi và tàn phá 10ha nuôi nhuyễn thể ở Vân Đồn. Năm 2014 tại Tiên
Yên và Đầm Hà diện tích nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại trên 40,6 ha, hư hỏng
20


20 ô lồng. Chỉ tính riêng những hộ nuôi cá lồng bè ở làng chài Bến Do, Cẩm
Phả, Quảng Ninh, thiệt hại từ cơn bão Hải Yến năm 2014 đã lên tới vài trăm tỷ
đồng. Đối với nuôi thủy sản trong ao, đầm, các hiện tượng như bão, lụt làm vỡ
bờ bao, hư hỏng thiết bị và làm mất cáNước biển dâng làm cho quá trình ngập
và diễn biến xâm nhập mặn trở nên phức tạp hơn. Vùng nuôi tôm nước lợ ven
biển tỉnh Quảng Ninh ảnh hưởng bởi gia tăng xâm nhập mặn trong mùa khô, đặc
biệt ở đây các đầm tôm nằm bên ngoài của vùng bờ biển được bảo vệ bởi đê
biển và các cống điều tiết nước. Thêm vào đó, độ chịu mặn của tôm Sú có thể ở
mức cao là 35 - 40ppt nhưng khi ở giới hạn chống chịu này thì các loài này phải
đối mặt với việc dễ bị nhiễm bệnh hơn.
Trong vòng hơn 60 năm qua, tốc độ mất rừng ngập mặn ở Việt Nam là rất
cao, từ 408.500 ha (1943) còn 209.740 ha (2008), đã giảm mất 198.759 ha (48,5
%) trung bình mỗi năm giảm 3.200 ha, riêng giai đoạn 1985-2000 ước khoảng

15.000 ha/năm. Nghiên cứu tại bãi triều huyện Tiên Yên và Đầm Hà (tỉnh Quảng
Ninh) cho thấy, nước biển dâng làm thay đổi thành phần trầm tích, tăng độ muối
và mực nước trong rừng ngập mặn làm giảm một số loài cây ngập mặn như
mắm (Avicennia), bần (Sonneratia), và đước (Rhizophora), giảm dòng chảy
sông vào mùa khô kìm hãm sự phát triển của cây bần (Sonneratia spp.), thông
qua đó đe doạ sự tồn tại của rừng ngập mặn. Các thay đổi rừng ngập mặn vừa
nêu và của hệ thống bãi triều và cửa sông ở khu vực Tiên Yên và Đầm Hà gây
khó khăn cho chim kiếm ăn, làm giảm sự đa dạng và phong phú chim nước,
giảm cá và tôm. Khả năng thích ứng của đất ngập nước với BĐKH, lũ lụt ở mức
trung bình nên tính dễ bị tổn thương của đất ngập nước ở đây cũng ở mức trung
bình, nhưng lại làm giảm sinh kế của cộng đồng liên quan. Do suy thoái và giảm
diện tích rừng ngập măn nên đa dạng sinh học vùng bờ và nguồn lợi thủy hải sản
giảm sút, nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm về trữ lượng, sản lượng và kích
thước đánh bắt, năng suất nuôi tôm quảng canh trong rừng ngập mặn giảm sút
nghiêm trọng, từ 200 kg/ha/vụ năm 1980 đến nay chỉ còn 80 kg/ha/vụ; 1 ha rừng

21


ngập mặn trước kia có thể khai thác được 800 kg thủy sản, nhưng hiện chỉ thu
được 1/20 so với trước.
Do thiếu thông tin dẫn đến hạn chế về nhận thức. Do điều kiện kinh tế
khó khăn, cơ sở vật chất thấp… Để người NTTS thấy được lợi ích và trách
nhiệm trong hoạt động ứng phó BĐKH, ngoài các hoạt động thông tin tuyên
truyền, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cần phối hợp xây
dựng một số mô hình NTTS ven biển để người nuôi có thể tiếp cận trực quan và
tự điều chỉnh các hoạt động sản xuất sao cho phù hợp với điều kiện đặc thù của
vùng nuôi và gia đình. Đồng thời, cần phải có những đánh giá mang tính dự báo
về tác động tiềm tàng của BĐKH lên hệ thống cơ sở hạ tầng, diện tích, năng
suất, sản lượng NTTS ven biển. Các mô hình thử nghiệm sẽ kiểm chứng tính

hiệu quả của các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ BĐKH tại các hệ thống NTTS
ven biển. Từ đó, nhân rộng trong thực tiễn. Về phía người nuôi, sẽ chuyển từ
nhận thức sang hành động - thực hành, học hỏi những biện pháp kỹ thuật cụ thể
trong quá trình sản xuất và quản lí trang trại giúp giảm thiểu khí nhà kính, thích
ứng tốt với BĐKH, phát triển NTTS ven biển bền vững.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

III.
1.

2.
-

Mục tiêu chung
Đánh giá chung ảnh hưởng của BĐKH đến việc nuôi thủy sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh.
Mục tiêu cụ thể
Xác định khả năng tổn thương, thích ứng của các hộ nuôi thủy sản do tác động
của BĐKH, tập trung vào ảnh hưởng của lượng mưa, lũ lụt, mực nước biển

-

dâng.
Đo lường mức độ thiệt hại đến sản lượng và thu nhập của các hộ nuôi.
Tìm hiểu nhận thức của hộ nuôi đối với vấn đề BĐKH và các biện pháp ứng phó
của họ.

ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


IV.
1.

Địa điểm: Các hộ nuôi tại khu vực nuôi trồng thủy sản ven biển tỉnh Quảng

2.
3.

Ninh: Móng Cái, Đầm Hà, Vân Đồn, Quảng Yên, …
Thời gian: T2 – T6/2017
Đối tượng nghiên cứu: Các nông hộ tham gia trực tiếp nuôi trồng thủy sản
vùng ven biển tại tỉnh Quảng Ninh dưới tác động của BĐKH.
22


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

V.
-

Đề tài cần làm rõ những vấn đề sau
Hiện tượng BĐKH có ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập của các hộ nuôi

-

thủy sản hay không.
Xu hướng tác động của BĐKH đến việc nuôi thủy sản ra sao.
Các biện pháp ứng phó của hộ nuôi đối với vấn đề BĐKH

PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG NGHIÊN CỨU


VI.
1.

Phương pháp luận
Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của nông dân
(PRA): Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp PRA như là một công cụ để tiến
hành làm việc với chính quyền và người dân địa phương nhằm tìm hiểu, phân
tích, đánh giá tình hình kinh tế-xã hội, những tác động của biến đổi khí hậu và
khả năng thích ứng của người dân địa phương.
Phương pháp phỏng vấn là phương pháp nghiên cứu khoa học thu nhận
thông tin qua hỏi – trả lời giữa các nhà nghiên cứu với các cá nhân khác nhau
về vấn đề quan tâm. Các thông tin được ghi chép lại vào những mấu biểu đã
soạn thảo, được xử lý sau khi hỏi. Từ đó rút ra những kết luận có giá trị về
phương diện khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học, sau khi đã thu thập số liệu điều tra thì vấn đề
quan trọng là phải trình bày, xử lý số liệu đó như thế nào để khai thác có hiệu
quả những số liệu thực tế đó, rút ra được những nhận xét kết luận khoa học,
khách quan đối với những vấn đề nghiên cứu, khảo sát. Hiện nay có những phần
mềm xử lý số liệu thống kê như SPSS. Phần mềm này giúp nhà nghiên cứu xử lý

2.
-

nhanh, chính xác các số liệu thu được từ các cuộc phỏng vấn, điều tra.
Phương pháp nghiên cứu
Xây dựng bản câu hỏi điều tra, phỏng vấn: phỏng vấn thử và hoàn chỉnh bản câu

-


hỏi.
Phương pháp điều tra, khảo sát ngoài thực địa, thu thập thông tin sơ cấp : Thông
tin sơ cấp được thu thập qua tham vấn cán bộ địa phương bao gồm những dữ
liệu về biến đổi khí hậu(ví dụ nhiệt độ, mưa, lũ lụt, mực nước biển dâng và xâm
mặn) có được từ các đài khí tượng trong khu vực. Điều tra phỏng vấn các hộ gia

-

đình nuôi thủy sản.
Phương pháp phân tích số liệu: phân tích thống kê mô tả SPSS.
23


VII.

DỰ KIẾN KẾT QUẢ
Đánh giá chung tác động của biến đổi khí hậu đến việc nuôi trồng thủy
sản và cách ứng phó với vấn đề BĐHK của các hộ nông dân khu vực ven biển
tại địa bàn Quảng Ninh.

24


VIII.

KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
Nội dung
Xây dựng đề cương
nghiên cứu
Báo cáo thông qua đề

cương nghiên cứu
Điều tra, phỏng vấn thu
thập số liệu
Viết báo cáo đồ án
Báo cáo đồ án trước hội
đồng

25

Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6
x
x
x

x

x

x

x
x


×