LỜICẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân em luôn nhận được sự quan tâm
giúp đỡ chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo trong khoa Quản lý đất đai- Trường
Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, cùng các phòng, ban của nhà trường và
địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để em hoàn thành đề tài này.
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Trường Đại
học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội nói chung, các thầy, cô giáo trong khoa
Quản lý đất đai nói riêng đã tận tình dạy dỗ, chỉ bảo ân cần trong suốt thời gian em
học tập tại trường; trong đó đặc biệt Ths.Nguyễn Trọng Trường Sơn người đã trực
tiếp hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt thời gian em thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn UBND xã Long Xuyên đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu làm đề tài tại xã. Cuối cùng từ đáy lòng
mình, em xin kính chúc các thầy, cô giáo và các cô, chú mạnh khỏe, hạnh phúc,
thành đạt trong cuộc sống.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2017
Sinh viên
HÀ NGỌC KHÁNH
1
MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng
cho con người. Đất đai là nền tảng để con người định cư và tổ chúc các hoạt động
kinh tế xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản xuất không
thể thay thế được, đặc biệt là đối với ngành sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng là
môi trường duy nhất sản xuất ra những lương thực, thực phẩm nuôi sống con người.
Việc sử dụng đất có hiệu quả và bền vững đang trở thành vấn đề cấp thiết với mỗi
quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất của đất đai cho hiện tại và tương lai.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là cơ sở của sản xuất nông nghiệp, là đối
tượng lao động độc đáo đồng thời cũng là môi trường sản xuất ra lương thực, thực
phẩm với giá thành thấp nhất, là một nhân tố quan trọng của môi trường sống và
trong nhiều trường hợp lại chi phối sự phát triển hay huỷ diệt các nhân tố khác của
môi trờng. Vì vậy, chiến lược sử dụng đất hợp lý là một phần của chiến lược nông
nghiệp sinh thái bền vững của tất cả các nước trên thế giới cũng như của nước ta
hiện nay.
Nông nghiệp là hoạt động sản xuất cổ nhất và cơ bản nhất của loài
người.Hầu hết các nước trên thế giới đều phải xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở
phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác tiềm năng của đất, lấy đó làm bàn đạp cho
việc phát triển các ngành khác. Vì vậy, tổ chức sử dụng nguồn tài nguyên đất hợp
lý, có hiệu quả cao theo quan điểm sinh thái và phát triển bền vững đang trở thành
vấn đề mang tính toàn cầu. Mục đích của việc sử dụng đất là làm thế nào để bắt
nguồn tư liệu có hạn này mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả sinh thái, hiệu quả xã
hội cao nhất, đảm bảo lợi ích trớc mắt và lâu dài.Nói cách khác, mục tiêu hiện nay
của loài ngời là phấn đấu xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện về kinh tế, xã
hội, môi trường một cách bền vững.
Để thực hiện mục tiêu này cần bắt đầu từ nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong
nông nghiệp một cách toàn diện, như GS. Bùi Huy Đáp đã viết “phải bảo vệ một
3
cách khôn ngoan tài nguyên đất còn lại cho một nền sản xuất nông nghiệp bền
vững”. Theo P. Buringh, toàn bộ đất có khả năng sản xuất nông nghiệp của thế giới
chừng 3,3 tỷ ha. Đất trồng trọt toàn thế giới đạt 1,5 tỷ ha (chiếm 10,8% tổng số đất
đai và 46% đất có khả năng nông nghiệp). Theo FAO (Tổ chức Lương thực nông
nghiệp thế giới của Liên hiệp quốc), một số kết quả đạt được 2 của quá trình sử
dụng đất nông nghiệp như năng suất lúa mỳ 18 tạ/ha; năng suất lúa nước bình quân
đạt 27,7 tạ/ha; năng suất ngô bình quân đạt 30 tạ /ha. Tuy nhiên, hàng năm thế giới
thiếu khoảng 150 –200 triệu tấn lương thực. Thêm vào đó, hàng năm có khoảng 5-6
triệu ha đất nông nghiệp bị mất đi do tình trạng thoái hoá hoặc bị huỷ hoại vì sử
dụng không đúng mức.
Xã hội ngày càng phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao, con
ngời tìm ra nhiều phương thức sử dụng đất có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do có sự
khác nhau về chất lượng, mỗi loại đất bao gồm những yếu tố thuận lợi và hạn chế
cho việc khai thác sử dụng (chất lượng đất thể hiện ở yếu tố tự nhiên vốn có của đất
như địa hình, thành phần cơ giới, hàm lượng các chất dinh dưỡng, chế độ nước, độ
chua, độ mặn) nên phương thức sử dụng đất cũng khác nhau ở mỗi vùng, mỗi khu
vực, mỗi điều kiện kinh tế xã hội cụ thể.
Hiện nay, mặc dù đã qua nhiều năm đổi mới, song người nông dân vẫn còn
có tư tưởng bao cấp, nhận thức của nhân dân về sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị
trường còn rất hạn chế.Trong khi đó, những chính sách về phát triển nông nghiệp
nông thôn, đặc biệt là những chính sách cụ thể để phát triển các ngành sản xuất còn
đang bất cập, không đồng bộ.
Vì vậy việc định hướng cho người dân trong xã khai thác và sử dụng hợp lý,
có hiệu quả đất sản xuất nông nghiệp là một trong những vấn đề hết sức cần thiết để
nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp nhằm đề xuất hướng sử dụng đất và loại
hình sử dụng đất thích hợp là việc rất quan trọng. Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và
được sự đồng ý của khoa Quản Lý Đất Đai – Trường Đại học Tài nguyên và môi
trường Hà Nội, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo ThS. Nguyễn Trọng Trường Sơn
4
để tôi thực hiện đề tài: "Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa
bàn xã Long Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội ”
2.Mục đích và yêu cầu nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu đề tài
- Đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến nông nghiệp.
- Xác định được các loại hình sử dụng đất chính của xã Long Xuyên từ đó
đánh giá được hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường của các loại hình sử dụng đất.
- Lựa chọn các loại hình sử dụng đất có hiệu quả cao hơn để đưa ra để áp dụng
đại trà.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại
Phường Đề Thám.
2.2. Yêu cầu của đề tài
- Số liệu, tài liệu phải đầy đủ, kịp thời, chính xác.
- Quá trình đánh giá phải đúng, trung thực, khách quan về hiệu quả của mỗi
loại hình sử dụng đất.
- Đề xuất ra hướng giải quyết phải mang tính khả thi cao nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn phường.
2.3. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài
- Củng cố kiến thức đã được tiếp thu trong nhà trường và những kiến thức
thực tế cho sinh viên trong quá trình thực tập tại cơ sở.
- Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin của sinh viên trong
quá trình làm đề tài.
- Trên cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng đất của đất sản xuất nông nghiệp từ đó
đề xuất được những giải pháp sử dụng đất đạt hiệu quả cao.
5
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CÚU
1.1. Khái niệm đất nông nghiệp và sử dụng đất nông nghiệp.
1.1.1.Khái niệm đất và đất nông nghiệp
a.Khái niệm về đất
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến những khái niệm, định nghĩa
về đất. Trong đó có các khái niệm sau:
Theo nguồn gốc phát sinh của học giả người Nga Docutraiep năm 1987 cho
rằng : “ đất là một vật thể thiên nhiên cấu tạo độc lập lâu đời do kết quả quá trình
hoạt động tổng hợp của 5 yếu tố hình thành đất đó là : sinh vật, đá mẹ, khí hậu, địa
hình và thời gian”. Đất xem như một thể sống nó luôn vận động và phát triển”.
Theo C.Mac: “ Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất của sản
xuất nông nghiệp, là điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và tái sinh của
hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau”.
Theo quan niệm của các nhà thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng
“Đất là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cât cối có thể mọc được” và đất đai
được hiểu theo nghĩa rộng: “Đất đai là một phần diện tích cụ thể của bề mặt trái đất,
bao gồm tất cả các yếu tố cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề
mặt bao gồm: khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng, địa hình, mặt nước, các lớp trầm tích
sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lũng đất, động thực vật, trạng
thái định cư của con người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại
để lại”.
Như vậy có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất nhưng khái
niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đai là khoảng không gian có giới hạn theo chiều
thẳng đứng gồm khí hậu của bầu khí quyển, lớp phủ thổ nhưỡng, thảm thực vật,
động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất.
Theo chiều ngang đất đai là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình, thủy văn, thảm
thực vật với các thành phần khác, nó tác động giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa
to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống của xã hội loài người.
6
b. Khái niệm về đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là đất sẽ dùng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm
về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục đích bảo vệ phát
triển rừng: bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy
sản và đất nông nghiệp khác.
c. Phân loại đất nông nghiệp
Theo Luật đất đai 2013, nhóm đất nông nghiệp được phân thành các loại sau:
- Đất trồng cây hàng năm ( đất canh tác ) là loại đất dùng trồng các loại cây
ngắn ngày, có chu kỳ sinh trưởng không quá 1 năm.
Ngoài ra đất trồng cây hàng năm còn phân theo các tiêu thức khác và được
chia thành các nhóm đất chuyên trồng lúa, đất chuyên trồng màu....
- Đất trồng cây lâu năm gồm đất dùng để trồng các loại cây có chu kỳ sinh
trưởng kéo dài trong nhiều năm, phải trải qua thời kỳ kiến thiết cơ bản mới đưa vào
kinh doanh, trồng 1 lần nhưng thu hoạch trong nhiều năm.
- Đất rừng sản xuất là diện tích đất được dùng để chuyên trồng các loại cây
rừng với mục đích sản xuất.
- Đất rừng phòng hộ: là diện tích đất để trồng rừng với mục đích phòng hộ.
- Đất rừng đặc dụng: là diện tích đất được Nhà nước quy hoạch, đưa vào sử
dụng với mục đích riêng.
- Đất nuôi trồng thủy sản là diện tích đất dùng để nuôi trồng thủy sản như:
tôm, cá...
- Đất làm muối: là diện tích đất được dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất
muối.
d. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
- Cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội
Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định sự tồn tại
phát triển của con người và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Những hàng hóa
có tính chất nuôi sống con người này chỉ có thể có được thông qua hoạt động sống
của cây trồng và vật nuôi, hay nói cách khác là thông qua quá trình sản xuất nông
7
nghiệp.
- Nông nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sản
xuất công nghiệp và khu vực thành thị phát triển
Nông nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là công
nghiệp chế biến.
Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu vực
dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp, các nghành kinh tế quốc
dân khác và đô thị.
Nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng hóa công nghiệp và các
nghành kinh tế khác.
- Nông nghiệp là nguồn thu ngân sách quan trọng của Nhà nước
Nông nghiệp là nghành kinh tế sản xuất có quy mô lớn nhất của nước ta. Tỷ
trọng giá trị sản lượng và thu nhập quốc dân trong khoảng 25% tổng thu ngân sách
trong nước. Việc huy động một phần thu nhập từ nông nghiệp được thực hiện dưới
nhiều hình thức: thuế nông nghiệp, các loại thuế kinh doanh khác... Hiện nay xu
hướng tăng tỷ trọng GDP của nông nghiệp sẽ giảm dần trong quá trình tăng trưởng
kinh tế.
- Nông nghiệp là hoạt động sinh kế chủ yếu của đại bộ phận dân nghèo nông thôn.
Nước ta với hơn 80% dân cư tập trung ở nông thôn họ sống chủ yếu dựa vào
sản xuất nông nghiệp, với hình thức sản xuất tự cấp tự túc đã đáp ứng được nhu cầu
cần thiết hàng ngày của người dân.
1.2. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Sử dụng các nguồn tài nguyên có hiệu quả cao trong sản xuất để phát triển một
nền nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu đối với các nước trên thế giới.
Nói một cách chung nhất thi hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu của việc
làm mang lại.
Làm rõ bản chất của hiệu quả cần phân định làm rõ sự khác nhau và mối liên
hệ giữa kết quả và hiệu quả. Kết quả, là kết quả hữu ích, là một đại lượng vật chất
8
tạo ra do mục đích của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu do tính chất
mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của con người mà ta
phải xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra là bao nhiêu?Có
đem lại kết quả hữu ích hay không?Chính vì vậy, khi đánh giá kết quả của hoạt
động sản xuất không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất
lượng công tác họa động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm đó.
Trên phạm vi toàn xã hội, các chi phí bỏ ra dể thu được kết quả phải là chi phí
lao động xã hội. Vì thế, bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả lao động xã hội và
được xác định bằng tương quan so sánh giữa kết quả hữu ích thu được với lượng
hao phí lao động xã hội. Tiêu chuẩn của hiệu quả là sự tối đa hóa kết quả và tối
thiểu hóa chi phí trong điều kiện tài nguyên thiên nhiên hữu hạn.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng trong sản xuất nông nghiệp sử
dụng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây
trồng là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các nước trên thế
giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà hoạch định
chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là sự mong muốn của nông
dân, những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Sử dụng đất đai có hiệu quả là các hệ thống, các biện pháp nhằm điều hòa mối
quan hệ người - đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên khác và môi trường.
Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hóa cây trồng trên cở sở
lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương, từ đó nghiên cứu áp dụng công
nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đó là một trong những
điều kiện tiên quyết để phát triển được nền nông nghiệp có tính ổn định, bền vững
đồng thời phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế, xã hội,
môi trường cao nhất.
1.2.2. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững
a. Khái niệm
Sử dụng đất bền vững là khái niệm động và tổng hợp, liên quan đến các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường, hiện tại và tương lai.
9
Sử dụng đất bền vững là làm giảm suy thoái đất và nước đến mức tối thiểu,
giảm phí sản xuất bằng cách sử dụng thông qua các nguồn tài nguyên bên trong và
áp dụng hệ thống quản lý phù hợp.
Sử dụng đất nông nghiệp bề vững là bảo vệ môi trường, tạo dựng một môi
trường trong lành và sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Khái niệm “Hệ thống nông nghiệp bền vững” bao hàm sự quản lý thành công
các tài nguyên cho nông nghiệp để thỏa mãn các nhu cầu đa dạng và thay đổi của
con người trong khi vẫn suy trì hay tăng cường chất lượng của môi trường và bảo
tồn tài nguyên thiên nhiên (TAC, 1989, CGIAR, 1990b).
b. Quan điểm
Đất đai đối với mỗi quốc gia là có hạn, đặc biệt trong quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa như hiện nay vốn đất nông nghiệp của nước ta đang dần bị thu
hẹp. Cùng với đó việc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả là mối quan tâm
đặc biệt đối vơi sự tồn tài và phát triển của nước ta.
Theo Fetry, :Sự phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp chính là sự bảo
tồn đất, nước, các nguồn động và thực vật, không bị suy thoái môi trường, kỹ thuật
thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội” ( FAO, 1994). FAO đã
đưa ra các chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững là:
- Thỏa mãn nhu cầu dinh dướng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương lai về
số lượng, chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác.
- Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhậ và các điều kiện sống, làm việc tốt cho
mọi người trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
- Duy trì và có thể tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở tài nguyên
thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các nguồn tài nguyên thiên nhiên tái tạo
được mà không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở và cân bằng tự
nhiên, không phá vỡ bản sắc văn hóa - xã hội của các cộng đồng sống ở nông thôn
hoặc không gây ô nhiễm môi trường.
- Giảm thiếu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng tin trong dân.
Tại hội thảo năm 1991 ở Nairobi đã đề ra 05 nguyên tắc chính, là nền tảng cho
10
việc sử dụng đất bền vững là:
- Duy trì và nâng cao sản lượng
- Giảm tối thiểu mức rủi ro trong sản xuất
- Bảo vệ tiềm năng tài nguyên tự nhiên và ngăn chặn sự thái hóa đất
- Đất có khả năng sử dụng lâu bền
- Được xã hội chấp nhận
Vận dụng các nguyên tắc trên, ở Việt Nam một loại hình sử dụng đất được
xem là bền vững phải đạt được 03 yêu cầu sau:
- Bền vững về kinh tế: Cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp nhận.
Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức bình quân
vùng có cùng điều kiện đất đai, nếu không sẽ không cạnh tranh được trong cơ chế
thị trường. Năng suất sinh học bao gồm các sản phẩm chính và phụ phẩm ( đối với
cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả... và tàn dư để lại ).
Về chất lượng, sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương, trong
nước và xuất khẩu, tùy vào mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất của
hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một giai đoạn
hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó thì nguy cơ
người sản xuất sẽ không có lãi lãi xuất phải lớn hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng.
- Bền vững về mặt xã hội: Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống xã hội
phát triển. Đáp ứng các nhu cầu cần thiết yếu của nông hộ là việc được ưu tiên hàng
đầu, nếu họ muốn quan tâm đến lợi ích lâu dài ( bảo vệ đất, môi trường...). Sản
phẩm thu được cần thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc, ở của người nông dân. Nội lực và
nguốn lực địa phương phải phát huy. Về đất đai, hệ số sử dụng đất phải được tổ
chức trên đất mà nông dân có thể hưởng thụ lâu dài, đất đã được giao và rừng đá
được khoán với lợi ích các bên cụ thể.
Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hóa dân tộc và tập quán địa
phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ.
- Bền vững về môi trường: Các loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ màu
11
mỡ của đất, ngăn chặn sự thoái hóa đất và bảo vệ môi trường hệ sinh thái đất.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất nông nghiệp
a. Nhân tố về điều kiện tự nhiên
Việc sử dụng đất đai luôn chịu sự ảnh hưởng của nhân tố tự nhiên, do khi sử
dụng đất đai ngoài bề mặt không gian cần chú ý đến việc thích ứng điều kiện tự
nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như yếu tố quanh mặt đất như
nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, không khí và các khoáng trong lòng đất...
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết...) có ảnh hưởng trực tiếp đến
sản xuất nông nghiệp.Bởi vì, các yếu tố của điều kiện tự nhiên là yếu tố để sinh vật
tạo nên sinh khối. Do vậy, cần đánh giá đúng điều kiện tự nhiên để trên cơ sở đó xác
định cây trồng vật nuôi chủ lực phù hợp và định hướng đầu tư thâm canh hợp lý.
Theo Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I. Theo
N.Borlang - người được giải Noben về giải quyết lương thực cho các nước phát
triển cho rằng: yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây trồng ở tầm cỡ thế
giới của các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ phì của đất.
Điều kiện về đất đai, khí hậu thời tiết có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất
nông nghiệp. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, các hộ nông dân có thể lợi dụng
những yếu tố đầu vào không kinh tế thuận lợi để tạo ra nông sản hàng hóa với giá rẻ.
Sản xuất nông nghiệp là nghành kinh doanh năng lượng ánh sáng mặt trời dựa
trên các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác.
- Yếu tố khí hậu
Thực vật nói chung và cây trồng nói riêng muốn sống, sinh trưởng và phát
triển đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố sinh trưởng là ánh sáng, nhiệt độ, không khí,
nước và dinh dưỡng. Trong đó, ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm và không khí
chính là các yếu tố khí hậu. Chính vì thế, khí hậu là một trong những yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, năng suất và sản lượng cây trồng, ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, vì sự khác biệt về vĩ độ địa
lý và địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng
12
vùng. Miền bắc có nhiệt độ trung bình 22,2 - 23,5 độ, lượng mưa trung bình từ
1.500 - 2.400 mm, tổng số giờ giờ nắng từ 1.650 - 1.750 giờ/năm.
Trong khi đó, ở Miền Nam khí hậu mang tính chất xích đạo, nhiệt độ trung
bình 22,6 - 27,5 độ C, lượng mưa trung bình 1.400 - 2.400mm, nắng trên 2.000
giờ/năm.
Nước ta còn tồn tại 7 tiểu vùng khí hậu khác nhau nên chúng ta có thể đa dạng
hóa các loại cây trồng, vật nuôi.Chính vì thế, sử dụng đất cũng đa dạng và giảm
được rủi ro vì có thể trồng các loại cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới, á nhiệt đới và
cả ôn đới.
Khí hậu là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc phân bố các loại cây
trồng, cũng như thời vụ cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Nếu như ở trung du
và miền núi phía Bắc có thể trồng mận, hồng, đào, chuối, đậu côve ,súp lơ xanh... ở
đồng bằng sông Hồng có thể trồng các loại rau vụ đông có nguồn gốc ôn đới thì
đồng bằng sông Cửu Long có thể trồng sầu riêng, măng cụt... hay miền Đông Nam
Bộ và Tây Nguyên có thể trồng chôm chôm, trái bơ, thanh long... là những cây nhiệt
đới điển hình.
Yếu tố khí hậu nhiều khi ảnh hưởng rõ nét đến hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp với các mức độ khác nhau. Ở đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, nhiệt
độ thấp vụ đông và thời kỳ đầu vụ xuân kèm theo ẩm ướt, mưa phùn, thiếu ánh sáng
làm hạn chế sinh trưởng và phát triển của cây trồng ưa nắng, ưa nhiệt nhưng lại phù
hợp cho cây trồng ưa lạnh có nguồn gốc ôn đới. Trời âm u thiếu ánh sáng cũng là
điều kiện cho sâu bệnh phát triển phá hại mừa màng.
- Yếu tố đất trồng
Cùng với khí hậu, đất tạo nên môi trường sống của cây trồng.Đất trồng với các
đặc tính như loại đất, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì... có vai trò quan
trọng đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng, ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Đất giữ cây đứng vững trong không gian, cung cấp cho cây các yếu tố sinh
trưởng như nước, dinh dưỡng và không khí. Độ phì là một trong những yếu tố quan
13
trọng nhất của đất.Vị trí từng mảnh đất có ảnh hưởng đến quá trình hình thành độ
phì của đất.Độ phì nhiêu của đất liên quan trực tiếp đến năng suất cây trồng thích
hợp trên từng loại đất mới cho năng suất, hiệu quả sử dụng đất cao.
- Yếu tố cây trồng
Trong sử dụng đất nông nghiệp, cây trồng là yếu tố trung tâm. Con người
hưởng lợi trực tiếp từ những sản phẩm của cây trồng. Những sản phẩm này cung
cấp lương thực, thực phẩm cho các nhu cầu thiết yếu cho con người và cho xuất khẩu.
Việc bố trí cây trồng và kiểu sử dụng đất hợp lý trên đất đem lại những giá trị
cao về mặt hiệu quả cho cả người sản xuất và môi trường đất. Ngược lại, nếu cây
trồng được bố trí bất hợp lý, sử dụng đất bừa bãi không những gây thất thu cho
người nông dân mà còn ảnh hưởng xấu đến đất.
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của những tiến bộ khoa học, kỹ thuật,
các giống cây trồng mới với chất lượng và năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn
xuất hiện ngày càng nhiều. Sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển gắn với việc
tăng hệ số sử dụng đất. Vì vậy, những tiến bộ trong công tác giống cây trồng đã tạo
cơ hội cho việc phát triển nong nghiệp hàng hóa.
b. Nhân tố về điều kiện kinh tế - xã hội
Nhân tố kinh tế xã hội bao gồm các yếu tố như độ xã hội, dân số và lao động,
mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, sử dụng lao động, khả
năng áp dụng tiến bô khoa học trong sản xuất. Trong đó có một số yếu tố sau:
- Yếu tố con người
Con người là nhân tố tác động trực tiếp tới đất và hưởng lợi từ đất. Khi dân số
thấp, trình độ và nhu cầu thấp, việc khai thác quỹ đất nông nghiệp còn ở mức hạn
chế, không tận dụng được hết tiềm năng vốn có của đất, hiệu quả sử dụng đất không
cao nhưng sự bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp được đảm bảo. Ngược lại,
ngày nay khi dân số tăng nhanh kéo theo sự gia tăng các nhu cầu thì tài nguyên
nông nghiệp bị khai thác nhiều, triệt để hơn nhằm đạt năng suất và hiệu quả cao
hơn. Vì vậy, quy luật sinh thái và tự nhiên bị xâm phạm, tính bền vững tài nguyên
đất kém hơn. Việc đảm bảo cân bằng giữa sử dụng và bảo vệ đất trở thành vấn đề
cấp thiết.
14
Đối với các hoạt động kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng, dân
số vừa là thị trường cầu của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, vừa là nguồn cùng về
lao động cho sản xuất. Các hoạt động kinh tế sẽ không thể phát triển nếu không có
thị trường tiêu thụ các sản phẩm do chúng tạo ra.
Đặc biệt, đối với một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa thì điều này lại càng
trở nên quan trọng.
Chất lượng nguồn lao động cũng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động
sản xuất nông nghiệp. Nếu người nông dân có kinh nghiệm, kỹ thuật, có ý thức
trong sản xuất thì việc sử dụng đất nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao.
- Yếu tố kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân có ảnh
hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất nói chung và sử dụng đất nông nghiệp nói
riêng và ngược lại. Nếu sử dụng đất có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Khi kinh tế phát triển, nó sẽ làm tiền đề cho quá trình sử dụng đất đạt
được hiệu quả cao hơn, thông qua việc đâu tư, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ
cao sẽ nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cây trồng.
- Cơ chế chính sách
Trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp hàng hóa, người
nông dân thường chịu thiệt thòi do hạn ché về kiến thức thị trường, thông tin thị
trường, sức mua... Hơn nữa, các hiệu ứng tràn ra ngoài trong sản xuất nông nghiệp
cũng làm cho sản xuất không hiệu quả, việc sử dụng bừa bãi phân hóa học, thuốc
trừ sâu, thuốc diệt cỏ... có tác động tiêu cực đến môi trường, nguồn nước, không khí
và đất. Do vậy, việc Nhà nước can thiệp bằng các chính sahs và pháp luật thích hợp
đã tạo điều kiện, khuyến khích, hướng dẫn sản xuất nông nghiệp và đảm bảo tính
bền vững của các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Cũng bằng chính sách thích hợp, sử dụng đất nông nghiệp được đảm bảo ổn
định và lâu dài. Trong những năm qua, Chính phú đã không ngừng ban hành sửa đổi
và bổ sung những chủ trương, chính sách về đất đai nhằm mục đích thúc đẩy sự
15
phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn. Luật đất đai sửa đổi ( chính thức có hiệu
lực vào ngày 1/7/2003 ) và đặc biệt là chính sách “Đồn điền đổi thửa” đã và đang
được thực hiện rất tích cực đã thể chế hóa và nới rộng quyền của người sử dụng đất.
Đây là một chính sách khuyến khích người nông dân đầu tư vào sản xuất dài hạn,
thay đổi cơ cấu cây trồng nhằm phát triển sản xuất hàng hóa một cách có hiệu quả.
Mặc dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng pháp luật công nhận quyền sử dụng lâu
dài đối với đất. Người sử dụng đất không chỉ được quyền sử dụng đất lâu dài mà
còn được quyền thừa kế những đầu tư trên đất.Điều đó đã trở thành động lực quan
trọng trong phát triển nông nghiệp.Nó làm cho người nông dân yên tâm đầu tư trên
đất, sử dụng đất nông nghiệp một cách chủ động và hiệu quả, phát huy được lợi thế
so sánh của từng vùng, từng miền. Thực tế cho thấy, chính sách về đất đai thông
thoáng, sẽ là cơ sở để hình thành các phương thức sản xuất mới như thâm canh,
tăng vụ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác, đặc biệt là sử dụng để sản xuất cây
trồng có giá trị hàng hóa cao. Các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp
cũng là cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng, vật nuôi và khai thác đất một cách
đầy đủ hợp lý, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành
tập trung hóa, chuyên môn hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp.
c. Nhóm yếu tố các biện pháp canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây trồng,
vật nuôi, nhằm tạo nên sự hài hòa giữa các yếu tố của quá trình sản xuất để hình
thành, phân bố và tích lũy năng suất kinh tế. Đây là những vấn đề thể hiện sự hiểu
biết về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và thể hiện những
dự báo thông minh của người sản xuất. Lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn
chủng loại và cách sử dụng các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh
vật nhằm đạt được các mục tiêu đề ra là cơ sở để phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hóa. theo Frank Ellí và Douglass C.North, ở các nước phát triển, khi có tác
động tích cực của kỹ thuật, giống mới, thủy lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt
ra yêu cầu mới đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản
16
xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh
dựa trên việc chuyển đổi sử dụng đất.
Cho đến giữa thế kỷ 20, trong nông nghiệp nước ta, quy trình kỹ thuật có thể
góp phần đến 30% của năng suất kinh tế. Như vậy, nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc
biệt có ý nghĩa quan trọng tron quá trình khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Cải tiến kỹ thuật trước hết làm tăng cung về
hàng hóa nông sản, cũng tức là làm phát triển kinh tế. Áp dụng khoa học (kiến
thức), kỹ thuật (công cụ), công nghệ (kỹ năng) để tăng năng suất, hiệu quả sản xuất,
kinh doanh, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn một cách bền vững.thông
qua việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp như
giống cây trồng vật nuôi mới, các quy trình kỹ thuật trong canh tác, trong chế biến
bảo quản... làm tăng năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi, tăng hiệu quả sử dụng
nguồn lực như đất đai, lao động, vốn.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Với tính cách là một nghành sản xuất đặc thù, nông nghiệp có những đặc điểm
chung như sau:
- Sản xuất nông nghiệp có tính vùng rõ rệt: Sản xuất nông nghiệp tiến hành
trên không gian rộng lớn, mỗi vùng lại chịu tác động từ những điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa, tập quán,... rất khác nhau. Đặc điểm này đòi
hỏi nhà quản lý phải hiểu rõ tính chất vùng, quy hoạch nông nghiệp, lựa chọn và bố
trí cây trồng, vật nuôi, ứng dụng kỹ thuật canh tác phù hợp với điều kiện từng vùng,
nhằm tránh rủi ro và khai thác lợi thế so sánh nông sản của mỗi vùng.
-Ruộng đất: là tư liệu sản xuất trong nông nghiệp và ngày càng khan hiếm. Dù
cố định về vị trí, tuy nhiên do không bị đào thải trong quá trình sản xuất, và nếu
được sử dụng hợp lý thì độ phì nhiêu của đất không ngừng tăng lên, và ruộng đất là
tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp. Do đó, việc
17
bảo tồn quỹ đất và không ngừng nâng cao độ phì nhiêu của đất là vấn đề sống còn
của sản xuất nông nghiệp.
- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống, phát sinh, phát
triển theo những quy luật sinh học nhất định: Quá trình sản xuất kinh tế trong nông
nghiệp gắn với quá trình sinh học. Vì vậy muốn hoàn thành quá trình sản xuất phải
hiểu biết sâu sắc chu trình sinh trưởng của sinh vật.
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao: Đặc điểm này xuất phát từ hai
lý do cơ bản. Một là quá trình sản xuất nông nghiệp gắn với quá trình tái sản xuất tự
nhiên, thời gian lao động gắn với thời gian sản xuất nhưng không hoàn toàn trùng
khớp với thời gian sản xuất. Thứ hai, mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ phù hợp với
một điều kiện thời tiết nhất định. Để khai thác tốt nhất ánh sáng, ôn độ, độ ẩm,
lượng mưa cho cây trồng thì các khâu gieo trồng, bón phân, làm cỏ, tưới tiêu... phải
đúng thời vụ. Vì vậy, việc nghiên cứu các phương pháp canh tác nhằm hạn chế
những tác động của thời tiết khí hậu sẽ giúp cho nông nghiệp phát triển bền vững và
ổn định.
1.3.2. Các vấn đề liên quan tới hiệu quảsử dụng đất nông nghiệp
a. Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh chất lượng của các hoạt động kinh
tế. Theo nghành thống kê định nghĩa thì hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế,
biều hiện của sự tập trung phát triển theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các
nguồn lực và sự chi phí các nguồn lực trong quá trình sản xuất. Nâng cao hiệu quả
kinh tế là một tất yếu của mọi nền sản xuất xã hội, yêu cầu của công tác quản lý
kinh tế buộc phải nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế làm xuất hiện hiệu quả
kinh tế.
Nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phát triển theo hai chiều: chiều rộng và chiều
sâu, phát triển theo chiều rộng là huy động mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng đầu tư chi
phí vật chất, lao động, kỹ thuật, mở mang thêm nhiều nghành nghề, xây dựng thêm
nhiều nhà máy, xí nghiệp... pháttriển theo chiều sâu là đẩy mạnh việc áp dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tiến hành hiện đại hóa, tăng cường
18
chuyên môn hóa và hợp tác hóa, nâng cao trình độ sử dụng các nguồn lực, chú trọng
chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Phát triển theo chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế. Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các
tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt
được với lượng chi phí bỏ trong các hoạt động sản xuất. Kết quả đạt được là phần
giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của các
nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối với
tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.Hiệu quả
kinh tế còn là phạm trù mà trong đó sản xuất đạt hiệu quả kinh tế và hiệu quả phân
bổ.Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến khi xem xét sử
dụng các nguồn lực trong nông nghiệp.Nếu đạt được một trong 2 yếu tố hiệu quả kỹ
thuật và phân bổ thì khi đó hiệu quả sản xuất mới đạt được hiệu quả kinh tế.
Qua những vấn đề trên ta có thể kết luận rằng: bản chất của hiệu quả kinh tế
sử dụng đất là: Trên một diện tích đất nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải
vật chất nhiều nhất, với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất
nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội. Xuất phát từ vấn đề
này mà trong quá trình đánh giá đất nông nghiệp cần phải chỉ ra được loại hình sử
dụng đất hiệu quả kinh tế cao.
*Chỉ tiêu về kinh tế
- Giá trị sản xuất (GTSX): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất, dịch vụ được
tạo gia trong một thời kì nhất định (thường là 1 năm).
GTSX = Sản lượng sản phẩm x giá bán sản phẩm
- Chi phí trung gian (CPTG): là toàn bộ chi phí vật chất được sử dụng trong
quá trình sản xuất, như chi phí nguyên vật liệu, giống, phân bón, chi phí dịch vụ
phục vụ cho sản xuất.
- Giá trị gia tăng (GTGT): là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh tổng giá trị sản phẩm
vật chất và dịch vụ xã hội được tạo ra thêm trong một thời gian nhất định (thường
tính theo 1 năm).
19
GTGT = GTSX – CPTG
- Thu nhập hỗn hợp (TNHH): là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh thu nhập thuần tuý
của người sản xuất bao gồm cả lao động và lợi nhuận sản xuất.
TNHH = GTGT – T – K – L
Trong đó:
T: Thuế;
K: Khấu hao tài sản cố định;
L: Lao động thuê ngoài.
- Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTSX/CPTG,
GTGT/CPTG): đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử dụng
các chi phí biến đổi và thu dịch vụ.
- Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, gồm có (GTSX/LĐ,
GTGT/LĐ). Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống cho từng kiểu
sử dụng đất và từng cây trồng làm cơ sở để so sánh với chi phí cơ hội của
người lao động.
b. Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và
tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả về mặt xã hội trong sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu
được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một dơn vị diện tích đất nông
nghiệp.
Từ những quan niệm trên cho thấy giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có
mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là một phạm trù thống
nhất, phản ánh mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với các lợi ích xã hội mà nó mang
lại. Trong giai đoạn hiên nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử
dụng đất nông nghiệp là nội dung được nhiều nhà khoa học quan tâm.
*Chỉ tiêu về xã hội
Khi phân tích hiệu quả xã hội với mõi loại hình sử dụng đất phải đạt được
những chỉ tiêu cơ bản sau:
- Khả năng đảm bảo đời sống của nông dân cũng như của toàn xã hội (như vấn
đề về an ninh lương thực, khả năng cung cấp chất đốt cho sinh hoạt,...)
20
- Loại hình sử dụng đất có phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của
địa phương và phong tục tập quán canh tác của người dân địa phương hay không.
- Khả năng thu hút lao động, giải quyết công ăn, việc làm cho người dân.
- Tính ổn định, bền vững của những loại hình sử dụng đất bố trí ở các vùng
định canh định cư, vùng kinh tế mới.
- Chỉ tiêu về số lượng sản phẩm sử dụng làm hàng hóa nông sản.
Với các chỉ tiêu về mặt xã hội như trên, mỗi loại hình sử dụng đất sẽ đạt được
tất cả những chỉ tiêu riêng.Có những loại hình sử dụng đất sẽ đạt được chỉ tiêu đó
nhưng cũng có loại hình sử dụng đất chỉ đạt được một trong những chỉ tiêu đó.
c. Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là xem xét sự phản ứng của môi trường đối với hoạt
động sản xuất.Từ các hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp đều ảnh
hưởng không nhỏ đến môi trường.Đó có thể là ảnh hưởng tích cực đồng thời có thể
là ảnh hưởng tiêu cực.Thông thường, hiệu quả kinh tế thường mâu thuẫn với hiệu
quả môi trường. Chính vì vậy khi xem xét cần phải đảm bảo tính cân bằng với phát
triển kinh tế, nếu không thường sẽ bị thiên lệch và có những kết luận không tích cực.
Xét về khía cạnh hiệu quả môi trường, đó là việc đảm bảo chất lượng đất
không bị thoái hóa, bạc màu và nhiễm các chất hóa học trong canh tác. Bên cạnh đó
còn có các yếu tố như độ che phủ, hệ số sử dụng đất, mối quan hệ giửa các hệ
thống phụ trợ trong sản xuất nông nghiệp như chế độ thủy văn, bảo quản chế biến,
tiêu thụ hàng hóa.
* Chỉ tiêu về hiệu quả môi trường
Chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường trong quản lý sử dụng đất bền vững ở
vùng nông nghiệp được tính là (Đỗ Nguyên Hải 1999) [5]:
- Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn;
- Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
- Đánh giá quản lý đất đai;
- Đánh giá hệ thống cây trồng;
21
- Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất và bảo vệ
cây trồng;
- Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên;
- Sự thích nghi của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
1.4. Thực trạng vấn đề sử dụng đất nông nghiệp Việt nam
Hiện nay Việt Nam có khoảng 9.345,3 nghìn ha đất nông nghiệp chiếm 28,4 %
diện tích tự nhiên. Bình quân đất nông nghiệp tính theo đầu người là 1.224m 2/
người. Trong đó:
- Đất trồng cây hàng năm: 6.129,5 nghìn ha chiếm 65,6 % diện tích đất nông nghiệp.
- Đất trồng cây lâu năm: 2.181,9 nghìn ha chiếm 23,3 % diện tích đất nông nghiệp.
- Đất vườn tạp: 628,5 nghìn ha chiếm 6,7 % diện tích đất nông nghiệp.
- Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: 367,8 % diện tích đất nông nghiệp.
Diện tích đất nông nghiệp của nước ta có xu hướng ngày càng tăng ( so với
năm 1990 tăng 2.351,9 nghìn ha ). Trong đó, tỷ trọng diện tích trồng cây hàng năm
giảm ( bằng 76,3% diện tích đất nông nghiệp năm 1990; 69,1 % diện tích đất nông
nghiệp năm 1997; 65,5 % diện tích đất nông nghiệp năm 2000) và tỷ trọng diện tích
đất trồng cây lâu năm tăng ( bằng 14,9% diện tích đất nông nghiệp năm 1990;
19,2% diện tích đất nông nghiệp năm 1997; 23,3 % diện tích đất nông nghiệp năm
2000).
Theo phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng
đất 5 năm ( 2011-2015 ) do Chính phủ trình Quốc hội ngày 20/10/2011, được Ủy
ban Kinh tế Quốc hội thông qua, đất nông nghiệp của cả nước đến năm 2020 là
26.732.000 ha, tăng 506.000 ha so với năm 2010. Đến thời điểm hiện nay, cả nước
còn trên 4trieu ha đất trồng lúa, diện tích này vẫn đang giảm một cách nhanh chóng.
Quốc hội đã nhất trí phương án giữ diện tích đất trồng lúa đến năm 2020 là 3,81
triệu ha. Với quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm
(2011-2015), Chính phủ đề ra 3 mục tiêu cơ bản đó là:
- Đáp ứng yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ( giao thông, thủy
lợi, văn hóa, y tế, giáo dục, thể dục thể thao...).
22
- Công nghiệp và đô thị để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đảm bảo an ninh, quốc phòng và an ninh xã hội.
- Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển
bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu.
23
CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG,PHẠM VI, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng
Đất nông nghiệp và các loại hình sử dụng đất nông nghiệp tại xã Long Xuyên,
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
2.1.2. Phạm vi
Phạm vi không gian: Toàn bộ quỹ đất nông nghiệp trong phạm vi trong địa
giới hành chính của xã Long Xuyên
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Long Xuyên
- Đặc điểm về điều kiện tự nhiên:
+Vị trí địa lý
+ Địa hình địa mạo
+ Khí hậu
- Đặc điểm về điều kiện kinh tế xã hội:
+ Tình hình dân cư
+ Hiện trạng dân số
+ Cơ sở hạ tầng của phường
2.2.2. Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã Long
Xuyên
- Hiện trạng sử dụng đất tại khu vực nghiên cứu
- Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp tại khu vực nghiên cứu
- Biến động diện tích đất nông nghiệp
2.2.3. Mô tả các loại hình dử dụng đất nông nghiệp
- Các loại hình sử dụng đất và các kiểu sử dụng đất chính trên địa bàn xã Long
Xuyên năm 2014.
24
2.3. Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp của khu vực
nghiên cứu.
- Hiệu quả về mặt kinh tế
- Hiệu quả về mặt xã hội
- Hiệu quả về mặt môi trường
2.4. Định hướng sử dụng đất nông nghiệp tại xã
- Lựa chọn loại hình sử dụng đất triển vọng
+ Cơ sở đề xuất các loại hình sử dụng đất có triển vọng trên địa bàn nghiên cứu
+ Các loại hình sử dụng đất triển vọng trên địa bàn nghiên cứu
2.5. Đề xuất một số giải pháp sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp
- Giải pháp về chính sách
- Giải pháp về khoa học kinh tế
- Giải pháp về thị trường
- Giải pháp về nguồn nhân lực
- Giải pháp vềsản xuất phân hữu cơ từ chế phẩm nông nghiệp
- Một số giải pháp khác
2.6. Phương Pháp nghiên cứu
2.6.1. Phương pháp thu thập số liệu tài liệu sơ cấp, thứ cấp
a.Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu sơ cấp
Điều tra phỏng vấn các cán bộ và phỏng vấn nông hộ theo mẫu phiếu có sẵn.
Nội dung điều tra hộ chủ yếu là loại cây trồng, vật nuôi, diện tích, năng suất
cây trồng, vật nuôi, chi phí sản xuất, lao động, tỷ lệ hàng hóa, giá cả, mức độ thích
hợp của cây trồng với đất đai và những ảnh hưởng đến môi trường.
b. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu thứ cấp
Thu thập tài liệu có sẵn, tài liệu thu thập từ các cơ quan quản lý chuyên môn
như: Phòng tài nguyên môi trường, phòng nông nghiệp, phòng thống kê ... của
huyện. Tiến hành điều tra bổ sung ngoài thực địa để điều chỉnh cho phù hợp với
thực tế và chuẩn hóa các số liệu.
25