Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường cao đẳng ở tỉnh kiên giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.92 KB, 95 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục lý
luận chính trị, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn quan tâm chỉ
đạo, lãnh đạo, xác định công tác giáo dục LLCT là một bộ phận quan trọng
của công tác tư tưởng, góp phần xây dựng bồi đắp nền tảng tinh thần xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng giáo dục LLCT, theo
Người, giáo dục lý luận là nền tảng trên cơ sở đó nâng cao trình độ văn hóa và
chuyên môn. Người luôn nhấn mạnh công tác giáo dục LLCT cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân, coi đây là yếu tố tiên quyết cho sự thành công của
cách mạng.
Đảng ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác giáo dục LLCT. Tại
Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên. Cải tiến việc giảng dạy và
học tập các bộ môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề” [13,tr
110,111]. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Đổi mới
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý luận”, “Coi
trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất
nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng,
của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống
của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại [13,tr207]. Đến Đại hội lần thứ XI Đảng ta
xác định nhiệm vụ:
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa
tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng,
tuyên truyền học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của


2


Nhà nước.... Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý
luận chính trị, giáo dục công dân trong hệ thống các trường chính
trị, các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. [18, tr256, 257].
Như vậy, công tác giáo dục LLCT được Đảng ta đặc biệt quan tâm, nhất
là công tác giáo dục LLCT đối với thanh niên, sinh viên. Do đó, chúng ta phải
tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cụ thể hóa, phát triển và khẳng
định tính đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thời kỳ mới.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ cách mạng
khoa học - công nghệ, đẩy mạnh CNH, HĐH và tăng cường hội nhập quốc tế
hiện nay thì chất lượng giáo dục LLCT cho sinh viên ở các trường đại học,
cao đẳng còn chưa ngang tầm. Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương
khóa X đánh giá: “Chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục LLCT
trong nhà trường chậm đổi mới, chưa theo kịp trình độ phát triển và yêu cầu
xã hội” [15, tr40]. Nội dung, chương trình chưa chú ý đúng mức đến chức
năng phương pháp luận, chưa cập nhật kịp thời những thành tựu mới nhất của
khoa học hiện đại và chưa đảm bảo tính lôgic. Phương pháp giảng dạy thiếu
hấp dẫn, việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực chưa được nhiều giảng
viên vận dụng có hiệu quả. Trong giờ thảo luận, thường rất tẻ nhạt, hời hợt,
mang tính hình thức, đối phó. Trong khâu đánh giá kết quả học tập chưa thực
sự khoa học, thiếu công bằng... Những hạn chế nêu trên, đã làm giảm tính
hứng thú của sinh viên khi học các môn LLCT. Từ đó, không thấy rõ tính hữu
ích của việc học lý luận, xem nhẹ giáo dục LLCT cho sinh viên. Đáng lo ngại
là một bộ phận sinh viên có biểu hiện thụ động và thờ ơ chính trị. Một số sinh
viên do thiếu bản lĩnh, kinh nghiệm trong cuộc sống lại gặp phải tác động từ
những thông tin xấu, độc hại lan truyền trên internet, những âm mưu và hành
động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đã mất phương hướng


3

chính trị, mờ nhạt về lý tưởng cách mạng. Nguy hiểm hơn, do sự tiếp xúc với
một số quan điểm, tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật, lối sống không phù hợp từ
bên ngoài, một số sinh viên đã dao động về lập trường, ảo tưởng về nền dân
chủ phương Tây với chủ trương đa nguyên, đa đảng. Thực tế này đặt ra yêu
cầu phải đổi mới phương pháp giáo dục LLCT ở các trường đại học, cao đẳng
ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tìm ra những giải pháp khả
thi để góp phần hữu hiệu vào việc nâng cao chất lượng giáo dục LLCT cho
sinh viên, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH hướng tới mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện lý tưởng của
Đảng “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”. Với những lý do nêu trên tác giả
lựa chọn vấn đề “Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho sinh
viên các trường cao đẳng ở tỉnh Kiên Giang hiện nay” làm đề tài luận văn
thạc sĩ ngành Chính trị học, chuyên ngành Công tác tư tưởng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm qua vấn đề chỉ đạo giáo dục LLCT cho sinh viên đã được đề
cập trong nhiều nghị quyết của Đảng; văn bản, quyết định của Chính phủ, của
Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục LLCT
trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng. Đã có rất nhiều hội thảo, bài viết
trên các tạp chí, luận văn, luận án nghiên cứu đến vấn đề này ở những khía
cạnh khác nhau các công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- Vũ Ngọc Am (2009), Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy lý luận
chính trị, Nxb Thông tấn, HN. Cuốn sách được coi như cẩm nang nghiệp vụ
của những người làm công tác giảng dạy LLCT, cuốn sách cũng đã đưa ra nội
dung đề cương bài giảng dành cho giảng viên tham khảo - đây là một nội
dung mới mà các nghiên cứu trước đây chưa có.


4

- Nguyễn Duy Bắc (chủ biên) (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về dạy và học môn Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại
học, Nxb CTQG, HN. Cuốn sách đã tập hợp những bài viết của các nhà
nghiên cứu lý luận chuyên sâu, tập trung phân tích chất lượng dạy và học các
môn LLCT. Các nhà khoa học đã thống nhất cho rằng nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy các môn Mác - Lênin và chất lượng giảng dạy và học
tập các môn LLCT cho sinh viên nước ta hiện nay.
- Hoàng Quốc Bảo (2006), Học tập phương pháp tuyên truyền cách
mạng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, HN. Cuốn sách trình bày phương pháp và
nguồn gốc, phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh. Đặc trưng
phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh, vận dụng phương pháp
tuyên truyền Hồ Chí Minh để đổi mới phương pháp tuyên truyền của cán bộ
tư tưởng trong thời kỳ mới.
- Trần Thị Anh Đào (chủ biên) (2010), Công tác giáo dục lý luận chính
trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, HN. Cuốn sách trình bày
một số vấn đề chung về công tác giáo dục LLCT cho sinh viên Việt Nam.
Phân tích thực trạng công tác giáo dục LLCT cho sinh viên Việt Nam hiện
nay và vạch ra phương hướng, đề ra những giải pháp chủ yếu nâng cao chất
lượng công tác giáo dục LLCT cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Phạm Huy Kỳ (2010), Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý
luận chính trị, Nxb CTHC, HN. Cuốn sách trình bày một số vấn đề lý luận và
phương pháp công tác nghiên cứu, giáo dục LLCT, công tác nghiên cứu, biên
soạn, giáo trình lịch sử đảng bộ địa phương. Phần lý luận và phương pháp
giáo dục LLCT cuốn sách tập trung trình bày lý luận và phương pháp dạy học
LLCT của Đảng ta hiện nay.
- Hồ Chí Minh với công tác giáo dục lý luận chính trị (2007), Nxb
CTQG, HN. Cuốn sách giới thiệu các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về


5

chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định rõ về mặt nội dung và nhiệm vụ học tập LLCT, vấn đề để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục LLCT.
- Lâm Quang Thiệp (2012), Đo lường và đánh giá hoạt động học tập
trong nhà trường, Nxb ĐHSP, HN. Cuốn sách đã đưa ra các nội dung cơ bản
về đo lường và đánh giá trong giáo dục ở các bậc học. Nêu ra phương pháp
đánh giá kết quả học tập, điều kiện, nội dung, xây dựng, thiết kế, tiêu chí đánh
giá kết quả các phương pháp.
Ngoài ra còn một số cuốn sách cũng đề cập đến một số nội dung của đề
tài như: Lương Gia Ban (2002), Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và
đổi mới nội dung, chương trình các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb CTQG, HN; Lê Xuân Nam, Lê Thanh Sinh, Nguyễn Thanh,
Lương Minh Cừ, Hoàng Trung (2002) (đồng chủ biên), Một số ý kiến trao đổi
về phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở đại học và cao
đẳng, Nxb Tp.HCM; Vũ Hiền và Đinh Xuân Lý (2002), Quán triệt vận dụng
nghị quyết Đại hội IX, nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, HN; Phạm Tất Thắng (2010) Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn của công tác tư tưởng, lý luận, Nxb CTQG, HN.
Ngoài ra, còn có môt số đề tài nghiên cứu về giảng dạy LLCT, tiêu biểu
là:
- Nguyễn Hữu Vui (chủ nhiệm) (2002), Đổi mới phương pháp giảng dạy
các môn khoa học Mác - Lênin ở Việt Nam - Những vấn đề chung, Đề tài KX
10-08, HN. Đề tài đã đánh giá thực trạng sử dụng phương pháp trong giảng
dạy các môn khoa học Mác - Lênin hiện nay và đề ra những giải pháp cơ bản
để đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học này.
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tình hình giảng dạy, học tập các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học,


6

cao đẳng và chỉ trương, giải pháp cho thời gian tới, Đề tài nghiên cứu khoa
học. Các tác giả nghiên cứu một cách tổng quát đội ngũ giảng dạy môn khoa
học này với tư cách là một trong những yếu tố quan trọng, trực tiếp tác động
đến chất lượng quá trình dạy và học.
- Hoàng Đình Cúc (chủ nhiệm) (2008), Đào tạo giảng viên các môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Học viện Báo chí và Tuyên
truyền đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh. Tập thể tác giả đã minh chứng luận điểm chất lượng
đào tạo giảng viên các môn LLCT quyết định chất lượng đội ngũ cán bộ giảng
dạy LLCT.
- Trần Thị Anh Đào (Chủ nhiệm) (2009), Giáo dục lý luận chính trị cho
sinh viên Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp bộ mã B.09-27. Đề tài đã làm rõ
những khái niệm LLCT, phân tích được vai trò của giáo dục LLCT đối với
sinh viên, đưa ra được những định hướng, giải pháp cần giáo dục LLCT cho
sinh viên.
Các kỷ yếu hội thảo khoa học: Đổi mới giảng dạy, học tập môn Triết học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học toàn quốc
(2002- Bộ Giáo dục và Đào tạo); Vấn đề dạy và học các môn khoa học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học ở Hà Nội, Thực trạng
và giải pháp (2003- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh); Nâng cao
chất lượng dạy và học các môn LLCT (2013), Đại học KT &QTKD,TN....
Nhìn chung, các công trình nói trên cho thấy Đảng, Nhà nước, ngành
giáo dục - đào tạo và các trường đại học, cao đẳng luôn quan tâm đến việc
nâng cao chất lượng công tác giáo dục LLCT trên cả nước nói chung, ở các
địa phương nói riêng. Đến nay chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào
nghiên cứu về tình hình giảng dạy, học tập LLCT các trường cao đẳng ở tỉnh
Kiên Giang. Vì thế, việc thực hiện đề tài Nâng cao chất lượng công tác giáo


7
dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường cao đẳng ở tỉnh Kiên Giang

hiện nay là một cố gắng bước đầu nhằm góp phần cho việc xem xét đánh giá
khách quan trong vấn đề nâng cao chất lượng công tác giáo dục LLCT cho
sinh viên các trường cao đẳng ở Kiên Giang, là vấn đề vẫn còn chưa dành sự
quan tâm thích đáng và chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác giáo dục LLCT trong các trường cao đẳng ở Kiên Giang
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Công tác giáo dục LLCT ở các trường cao đẳng
- Về không gian: Các trường cao đẳng ở tỉnh Kiên Giang
- Về thời gian: Từ năm 2008 đến 2014.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và khảo sát thực trạng nâng cao
chất lượng công tác giáo dục LLCT trong các trường cao đẳng trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang, tác giả luận văn đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục nâng
cao công tác giáo dục LLCT trong các trường cao đẳng ở địa phương, đáp
ứng yêu cầu thời kỳ mới.
Để đạt mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về công tác giáo dục LLCT trong các
trường cao đẳng.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng nâng cao công tác giáo dục LLCT các
trường cao đẳng ở Kiên Giang hiện nay.
- Đề xuất giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng công tác giáo dục LLCT
các trường cao đẳng ở Kiên Giang trong thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí


8
Minh, quan điểm của Đảng ta về chính trị, LLCT, giáo dục LLCT.

Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp: logic - lịch sử, phân
tích - tổng hợp, so sánh, nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tiễn…
6. Đóng góp khoa học của đề tài
Những đóng góp mới của luận văn:
- Làm rõ những căn cứ và chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác
giáo dục LLCT các trường cao đẳng.
- Trình bày quá trình tiến hành, kết quả tiến hành giáo dục LLCT các
trường cao đẳng ở Kiên Giang trong thời gian qua.
- Chỉ ra một số giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng công tác giáo dục
LLCT các trường cao đẳng ở Kiên Giang trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn gồm có 3 chương,7 tiết.


9
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm lý luận chính trị
Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của thực tiễn cải tạo tự
nhiên và xã hội. Thực tiễn đã chứng minh rằng, khi xã hội phân chia thành
giai cấp thì bất kỳ một giai cấp một chính đảng nào muốn giữ vị trí thống trị
xã hội thì trước hết phải nâng cao trình độ LLCT cho giai cấp mình.
Lý luận là một phạm trù rộng lớn tồn tại và phát triển cùng với sự phát
triển của tri thức nhân loại, theo sự phát triển của lịch sử có rất nhiều định
nghĩa, khái niệm lý luận khác nhau và những khái niệm định nghĩa đó ngày
càng được bổ sung, phát triển một cách đầy đủ và phong phú hơn.

Theo Từ điển tiếng Việt: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là
những kiến thức được khái quát và hệ thống hóa trong lĩnh vực nào đó” [74,
tr 544, 545].
Từ điển triết học định nghĩa: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự
nhiên và xã hội tích lũy được trong quá trình” là “hệ thống tư tưởng chủ đạo
trong một lĩnh vực tri thức” [76, tr 526].
V.I.Lênin chỉ rõ: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào
cách mạng, chỉ có đảng nào có được lý luận tiên phong dẫn đường thì đảng
đó mới hoàn thành vai trò cách mạng tiền phong” [23, tr 30, 32].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa rất đơn giản và dễ hiểu là: “Đem
thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét,
so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh
với thực tế. Đó là lý luận chân chính” [38, tr 233].


10
Như vậy, về thực chất lý luận chính là “hệ thống những tri thức đã được
khái quát tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên hệ cơ
bản của hiện thực” [54, tr 341]. Hay nói một cách khái quát: “lý luận là kinh
nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người; là toàn bộ những tri thức
về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác
dụng tái hiện trong lôgíc của các khái niệm cái lôgíc khách quan của các sự vật”
[54, tr 342]. Vì vậy, lý luận không thể chỉ là sự mô tả hiện thực khách quan, là sự
sao chép giản đơn các kinh nghiệm trong thực tiễn, mà trên cơ sở phản ánh hiện
thực của thực tiễn, nó phát hiện ra những quy luật vận động và dự báo những xu
hướng, những vấn đề được đặt ra cần giải quyết trong thực tiễn.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận, nhưng đều thống nhất
ở chỗ, lý luận là sản phẩm của quá trình tư duy của con người, được hình
thành trên cơ sở khái quát kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, đa

dạng của con người, là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên và xã hội được
tích lũy trong quá trình lịch sử con người.
Xét về bản chất, lý luận là một hệ thống tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của các sự vật
hiện tượng trong một lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan.
Chính trị, theo tiếng Hy Lạp là “politics” có nghĩa là những công việc
liên quan đến thành bang, những công việc nhà nước. Trong đó việc cốt lõi
nhất, quan trọng nhất, thực chất nhất là tổ chức ra cơ quan cai trị (chính phủ)
và sau này từ thế kỷ XVI trở đi gọi là nhà nước. Theo quan niệm chủ nghĩa
Mác - Lênin, chính trị là một hiện tượng lịch sử xuất hiện và tồn tại khi xã hội
phân chia giai cấp và hình thành nhà nước. Chính trị giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong đời sống xã hội, là lĩnh vực hoạt động phức tạp nó luôn thu hút
các nhà tư tưởng đi sâu nghiên cứu, khám phá làm sáng tỏ bản chất của nó.
Chính trị là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các


11
nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng
quyền lực nhà nước. Chính trị có vai trò to lớn, không có lập trường chính trị
đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ được sự thống trị, không
thể thực hiện được mục tiêu của mình. “Chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế... Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế” [tr
168]. “Chính trị có tính lôgíc khách quan của nó, không phụ thuộc vào những
dự tính cá nhân này hay các nhân khác, của đảng này hay đảng khác” [24, tr
246]. Như vậy, tùy theo những cách tiếp cận khác nhau có những quan niệm
khác nhau về chính trị song hiểu theo nghĩa chung nhất. Chính trị là những
vấn đề về điều hành bộ máy nhà nước hoặc những hoạt động của giai cấp,
chính đảng nhằm duy trì quyền điều hành nhà nước.
LLCT là bộ phận quan trọng trong kho tàng lý luận của nhân loại giới
hạn trong lĩnh vực chính trị, phản ánh mối quan hệ của các giai cấp trong việc

giành và giữ chính quyền. Từ góc độ tiếp cận khái niệm lý luận, chính trị như
đã trình bày ở trên có thể hiểu: LLCT là hệ thống các quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của một chính đảng, một giai cấp nhằm giành, giữ và
thực thi quyền lực nhà nước.
Như vậy, LLCT được hiểu là những vấn đề lý luận gắn liền với cuộc đấu
tranh giữa các giai cấp trong việc giành và giữ quyền lực nhà nước. Nó phản
ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội thể hiện lợi ích và
thái độ của giai cấp đối với nhà nước.
1.1.2. Khái niệm giáo dục lý luận chính trị
Giáo dục là một quá trình đào tạo con người một cách có mục đích,
nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản
xuất, nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những
kinh nghiệm lịch sử, xã hội của loài người.


12
Giáo dục LLCT là một bộ phận nằm trong sự nghiệp giáo dục đó, nó trực
tiếp truyền thụ và trang bị cho người học thế giới quan Mác - Lênin, nhân
sinh quan, đạo đức cách mạng. Từ thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng
người học có khả năng tư duy khoa học, có năng lực sáng tạo trong trong hoạt
động thực tiễn, củng cố lòng tin vào lý tưởng, mục tiêu cách mạng, vào đường
lối của Đảng.
Giáo trình Nguyên lý công tác tư tưởng của khoa Tuyên truyền, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền đưa ra khái niệm: “Giáo dục LLCT là quá trình
truyền bá và tiếp thu những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân” [23, tr 99].
Giáo dục LLCT là việc truyền bá những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân. Đó là quá trình tác động vào đối tượng
giáo dục bằng cách trình bày, giải thích một cách khoa học những khái niệm,

những quan điểm nhằm làm cho cán bộ đảng viên và nhân dân nhận thức
đúng đắn những nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin kiên định mục tiêu, lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhất trí cao với đường
lối, quan điểm của Đảng, nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt
động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc
sống
Theo tác giả Dương Xuân Ngọc:
Giáo dục LLCT là hoạt động nhận thức, vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm
hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản,
phương pháp tư duy và phương pháp làm việc biện chứng, khoa
học góp phần nâng cao và phát huy tính tích cực chính trị xã hội


13
của các chủ thể chính trị trong xã hội trong hoạt động thực tiễn”
[35, tr 322].
Từ các cách tiếp cận trên có thể hiểu: Giáo dục LLCT ở nước ta hiện nay
là quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành cho người học thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa thông qua việc truyền thụ
những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó, giúp cho
người học có tư duy khoa học, đạo đức cách mạng, năng lực sáng tạo trong
hoạt động thực tiễn.
Giáo dục LLCT là bộ phận của khoa học chính trị, bộ phận công tác tư
tưởng của Đảng, góp phần làm rõ vai trò chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng
sản Việt Nam và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam, hình thành thế
giới quan, phương pháp luận khoa học, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng
lực hoạt động thực tiễn cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu cầu

xây dựng và phát triển của đất nước.
Giáo dục LLCT chính là thực hiện mục tiêu của giáo dục:”Đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ
và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 2, Luật Giáo dục).
Để đạt được những yêu cầu giáo dục trên, giáo dục LLCT phải đảm bảo
truyền thụ cho người học những tri thức khoa học sau:
- Lý luận Mác - Lênin (bao gồm ba bộ môn cơ bản: Triết học MácLênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, CNXHKH).
- Các môn LLCT cơ bản: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Xây dựng Đảng, Nhà
nước và pháp luật.
- Những vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước.


14
Đó chính là những nội dung cơ bản trong giáo dục LLCT. Tuy nhiên với
từng đối tượng cụ thể, yêu cầu của nội dung chính trong giáo dục LLCT có
thể ở các mức độ khác nhau. Để chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương, chính sách được tuyên truyền sâu rộng trong
Đảng, trong quần chúng, phải tiến hành việc giáo dục LLCT. Đây là công việc
hàng đầu của các Đảng Cộng sản nhằm thực hiện thành công mục tiêu xây
dựng CNXH, CNCS trên đất nước mình.
1.1.3. Khái niệm công tác giáo dục lý luận chính trị
Tại Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm
xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [31, tr 83]. Lý luận Mác Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục là “kim chỉ nam”, là động lực
tinh thần thúc đẩy công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta tiến vững chắc lên CNXH.
Như vậy, công tác giáo dục LLCT là hoạt động có chủ đích của Đảng

Cộng sản và các tổ chức trong hệ thống chính trị nhằm xác lập thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương pháp luận duy vật biện chứng
cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động dựa trên lập trường chủ nghĩa
Mác - Lênin [11, tr22]. Công tác giáo dục LLCT của chúng ta là nhằm góp
phần xây dựng nên những chiến sĩ cộng sản trong sáng, biết nghĩ và biết làm
cách mạng góp phần xây dựng con người mới cho xã hội mới.
Thực chất của công tác giáo dục LLCT cho sinh viên là đưa những lý
luận khoa học tiên tiến thâm nhập vào lực lượng xã hội ưu tú, hình thành ở
đội ngũ trí thức tương lai của đất nước có đủ phẩm chất chính trị, bản lĩnh và
trí tuệ để bảo vệ và xây dựng đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH hướng tới
mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Giáo dục LLCT thông qua giảng dạy sẽ là con đường ngắn nhất và hiệu


15
quả nhất làm cho quá trình giáo dục, nhận thức đạt đến chiều sâu vững chắc.
Vì vậy, công tác giáo dục LLCT cho sinh viên được biểu hiện chủ yếu thông
qua tính đặc thù của môn học, của đội ngũ giáo viên giảng dạy các môn
LLCT và những người làm công tác giáo dục LLCT ở các trường đại học, cao
đẳng ở nước ta.
1.1.4. Khái niệm chất lượng và chất lượng công tác giáo dục lý luận
chính trị
Trong giáo dục LLCT, vấn đề được quan tâm hàng đầu của quá trình này
là chất lượng, hiệu quả giáo dục. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “chất
lượng là một phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự
vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật, phân biệt nó với sự
vật khác. Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật” [43, tr 134]. Trong
Từ điển tiếng Việt, “chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con
người, một sự vật, sự việc” [41, tr 144].
Nhìn từ mục tiêu giáo dục thì chất lượng giáo dục được quy về chất

lượng hoạt động của người học. Chất lượng phải đáp ứng được yêu cầu về
mục tiêu cá nhân và xã hội đặt ra trong giáo dục.
Theo Nguyễn Văn Đản, “chất lượng giáo dục là những lợi ích, giá trị
mà kết quả học tập đem lại cho cá nhân và xã hội, trước mắt và lâu dài”. Như
vậy, dưới góc độ quản lý chất lượng thì chất lượng giáo dục là người học cần
phải nắm các kiến thức, kỹ năng, phương pháp chuẩn mực sau một quá trình
học tập, rèn luyện đáp ứng yêu cầu cho cả quá trình học tập và hoạt động thực
tiễn. [26, tr 1].
Tác giả Tô Bá Tượng cho rằng, chất lượng giáo dục là chất lượng con
người được đào tạo từ các hoạt động giáo dục và nó được hiểu theo hai mặt
của một vấn đề; phẩm chất của con người gắm liền với người đó, còn giá trị
của con người thì phải gắn liền với đòi hỏi của xã hội [26, tr 2]. Theo quan


16
niệm hiện đại, chất lượng giáo dục phải đảm bảo hai thuộc tính: toàn diện và
phát triển.
Từ những quan niệm trên, có thể hiểu khái niệm chất lượng và chất
lượng giáo dục như sau: Chất lượng là sự phù hợp một cách tốt nhất với các
yêu cầu, mục đích của người sử dụng. Chất lượng giáo dục là một quá trình
có thể bảo đảm cho đối tượng giáo dục đạt được mục tiêu của chương trình,
đáp ứng được yêu cầu và góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Chất lượng công tác giáo dục LLCT là một tổng thể các tiêu chí nói lên
mức độ truyền đạt trang bị của chủ thể giáo dục, mức độ khả năng lĩnh hội
vận dụng của khách thể, được thể hiện thông qua các kết quả giảng dạy, học
tập ở trong nhà trường, qua nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp
giáo dục. Nội dung, chương trình giáo dục phải trang bị đầy đủ những tri thức
cần thiết, đáp ứng được những yêu cầu của hoạt động thực tiễn để học viên có
thể vận dụng một cách hiệu quả vào công tác thực tiễn. Hình thức, phương
pháp giáo dục phải phù hợp để học viên có thể nắm vững những lý luận cơ

bản, hiểu biết những tri thức đó một cách sâu sắc. Cuối cùng, tất cả điều đó
phải được thể hiện bằng thành tích, kết quả học tập cụ thể của học viên phản
ánh một cách chính xác, trung thực mức độ giảng dạy và học tập.
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục LLCT thực chất là tăng cường và
mở rộng hệ thống và phương thức giáo dục LLCT của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước cho sinh viên.
1.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị
các trường cao đẳng ở Kiên Giang
- Thứ nhất, chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị
Cán bộ giảng dạy có thể coi là yếu tố quan trọng hàng đầu trong công tác
giáo dục, vì đội ngũ này như cỗ máy cái đào tạo ra sản phẩm và điều quan


17
trọng là những sản phẩm này, đến lượt nó lại tiếp tục tạo ra những sản phẩm
khác cho xã hội. Vì vậy, nếu cỗ máy cái hoạt động tốt, đạt chất lượng, hiệu
quả cao, sẽ cho ra những sản phẩm tốt, làm lợi cho xã hội sau này. Do đó, cần
phải có đội ngũ cán bộ giảng dạy chất lượng tốt.
Trong công tác giáo dục, nếu có được một đội ngũ giáo viên có trình độ
chuyên môn cao, có kinh nghiệm chắc chắn sẽ đạt được chất lượng, hiệu quả
cao trong giảng dạy. Ngược lại, nếu đội ngũ giáo viên yếu, hạn chế về chuyên
môn sẽ tạo ra những sản phẩm không giúp ích được nhiều cho xã hội sau này.
Đối với công tác giáo dục LLCT điều này càng hết sức quan trọng. Đối tượng
của công tác giáo dục LLCT ở các trường đại học, cao đẳng là những trí thức
trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước. Nếu cán bộ giảng dạy yếu, chất
lượng đào tạo không đảm bảo sẽ tạo ra một lực lượng trí thức trong xã hội có
năng lực yếu, trên thực tế không giúp ích cho xã hội mà còn làm ảnh hưởng
chung tới sự phát triển của xã hội. Vì vậy, về yêu cầu đối với đội ngũ giáo
viên chính trị, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội

thì người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội. Người huấn luyện của
đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt; tư tưởng, đạo đức, lối làm việc” [34,
tr56], “Người giáo viên phải có kinh nghiệm” [34, tr 56]. Như vậy, theo Hồ
Chí Minh, đối với cán bộ giảng dạy cái cần trước hết là phải giỏi về chuyên
môn. Vì không giỏi chuyên môn sẽ đem lại cho người học những điều vô ích,
có hại, sau đó là đạo đức của người làm thầy. Đối với cán bộ giảng dạy LLCT
“người huấn luyện của đoàn thể” Người yêu cầu họ phải là người kiểu mẫu
về đạo đức, tư tưởng, tác phong. Bởi vì theo Người, người giáo viên dạy cho
người học không chỉ là truyền thụ cho họ những kiến thức về chuyên môn, mà
phải giúp họ trau dồi, rèn luyện cả về đạo đức, tư tưởng. Vì vậy, để người học
tin, nghe theo mình thì người thầy phải là tấm gương sáng về nhiều mặt có
như vậy mới đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục LLCT hiện nay.


18
Đổi mới tổ chức xây dựng đội ngũ quản lý giáo dục, đội ngũ cán bộ
giảng viên nhất là đội ngũ cán bộ giảng dạy LLCT là nguyên nhân trực tiếp
góp phần nâng cao LLCT cho sinh viên.Vì vậy, cần đảm bảo tính liên tục
trong đội ngũ cán bộ giảng dạy. Chỉ có như vậy mới giữ vững tính kế tục, ổn
định về chuyên môn. Bên cạnh đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm, những nhà
khoa học đầu đàn, phải có cả những lớp giảng viên trẻ. Đây chính là hàng ngũ
kế cận, đảm bảo tính liên tục trong đội ngũ giáo viên.
Sau mỗi năm học, Bộ Giáo dục và Đào tạo kết hợp với Ban Tuyên giáo
Trung ương tổ chức bồi dưỡng cho toàn thể cán bộ giảng viên giảng dạy
LLCT ở các trường đại học và cao đẳng trong cả nước để đội ngũ này tiếp cận
những kiến thức mới, nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước trong sự phát triển kinh tế - xã hội và giáo dục đào tạo. Điều này chứng
tỏ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với công tác giáo dục nói chung và
công tác giáo dục LLCT cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng nói
riêng. Nó có tác dụng động viên, khích lệ những người làm công tác giáo dục

LLCT - những người trực tiếp làm công tác giáo dục LLCT trên mặt trận tư
tưởng văn hóa của Đảng trong lĩnh vực giáo dục.
- Thứ hai, nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy các môn lý
luận chính trị
Ngày 25/3/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo có Công văn số 2488/BGDDT
- ĐH&SĐH về việc Thông báo kế hoạch tổ chức giảng dạy các môn LLCT
cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng. Công văn này tiếp tục khẳng
định giảng dạy LLCT “là hết sức cần thiết, quan trọng, để cung cấp cho sinh
viên những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối cách mạng của Đảng, xây dựng cho sinh viên thế giới quan,
nhân sinh quan khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, niềm tin vào lý tưởng cộng sản”. Tuy nhiên cần xây dựng


19
chương trình, biên soạn giáo trình theo hướng “tinh gọn, gắn với thực tiễn
cuộc sống, dễ tiếp thu, bổ ích...” và “...nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường
đại học, cao đẳng”.
Theo Quyết định số 52/2008/QĐ-BGDĐT ngày 18/9/2008 QĐ-BGDĐT
ngày 18/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành
chương trình các môn LLCT trình độ đại học, cao đẳng cho sinh viên khối
không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 3 môn. Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (5 tín chỉ), Tư tưởng Hồ Chí
Minh (2 tín chỉ), Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (3 tín
chỉ). Theo chương trình này tổng số tiết của môn LLCT là 225 tiết (10 tín chỉ
tương đương với 15 đơn vị học trình, chiếm khoảng 7% chương trình đào tạo
của trường đại học, cao đẳng). Quyết định này cũng xác định thời gian bắt
đầu triển khai giảng dạy từ khóa tuyển sinh năm học 2008-2009.
Chương trình 3 môn LLCT bắt buộc này nhằm giảm tải thay thế 5 môn

LLCT trước đây. Sự thay đổi này cũng vừa là thách thức với đội ngũ cán bộ
giảng viên LLCT, vì 3 môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học nay được gộp thành môn Những nguyên
lý cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin nên việc trình bày trọn vẹn cả chương trình
là điều vô cùng khó khăn. Việc triển khai lý thuyết trên lớp sẽ phải giảm bớt
trong khi nội dung vẫn không cắt xén nhiều so với giáo trình trước đây, việc
áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực, tăng cường thảo luận của sinh viên
trên lớp ngày càng phải tăng lên. Tuy nhiên, nếu sinh viên thụ động không có
thói quen chuẩn bị bài trước, đọc tài liệu trước khi đến lớp thì quá trình lên
lớp của giảng viên gặp nhiều khó khăn vì thời gian ít mà nội dung nhiều giảng
viên không lý giải hết những vấn đề cơ bản đến sinh viên gây ra tình trạng
sinh viên sẽ nắm kiến thức một cách hời hợt thậm chí không hiểu vấn đề,


20
không có cái nhìn tổng quan những kiến thức để vận dụng vào thực tiễn.
Việc tích hợp 5 môn như trước thành 3 môn như hiện nay đòi hỏi người
giảng viên giảng dạy LLCT phải luôn học tập, nâng cao trình độ, người giảng
viên phải luôn luôn chủ động tìm tòi đầu tư thời gian nghiên cứu sâu rộng
nhiều lĩnh vực, nhiều nội dung qua đó làm cho đội ngũ cán bộ giảng dạy
LLCT nâng cao hơn trình độ chuyên môn làm cho hiệu quả chất lượng công
tác giáo dục LLCT trong sinh viên được nâng cao hơn. Theo đó, chương trình
giáo dục LLCT ở các trường đại học, cao đẳng được phân bổ như sau:
+ Môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin: Theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngoài chương mở đầu nhằm giới thiệu khái
lược về chủ nghĩa Mác - Lênin và một số vấn đề chung của môn học, nội
dung chương trình môn học được cấu trúc thành 3 phần, 9 chương:
Phần thứ nhất có 3 chương bao quát những nội dung cơ bản về thế giới
quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phần thứ hai có 3 chương trình bày ba nội dung trọng tâm thuộc học thuyết
kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Phần thứ ba có 3 chương, trong đó có 2 chương khái quát những nội
dung cơ bản thuộc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và
1 chương khái quát chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng.
+ Môn tư tưởng Hồ Chí Minh: Ngoài chương mở đầu, nội dung môn học
gồm 7 chương: Chương 1: Cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh; Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc; Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và
con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam; Chương 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng Cộng sản Việt Nam; Chương 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Chương 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Chương 7:Tư tưởng Hồ Chí


21
Minh về văn hoá, đạo đức và xây dựng con người mới.
+ Môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam: Ngoài
chương mở đầu, nội dung gồm 8 chương: Chương 1: Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng; Chương 2:
Đường lối đấu tranh giành chính quyền (1930-1945); Chương 3: Đường lối
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975);
Chương 4: Đường lối công nghiệp hoá; Chương 5: Đường lối xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN; Chương 6: Đường lối xây dựng hệ
thống chính trị; Chương 7: Đường lối xây dựng, phát triển nền văn hoá và giải
quyết các vấn đề xã hội; Chương 8: Đường lối đối ngoại.
Nội dung chủ yếu của môn học là cung cấp cho sinh viên những hiểu
biết cơ bản có hệ thống về đường lối của Đảng, đặc biệt là đường lối trong
thời kỳ đổi mới.
Dạy học vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật, kết quả chất lượng
của mỗi bài giảng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều phương pháp khác nhau.
Phương pháp giảng dạy là một mặt hết sức quan trọng trong công tác giáo

dục đào tạo. Bởi vậy, có nội dung, chương trình giáo dục phù hợp nhưng
không có phương pháp giáo dục đúng cũng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến kết
quả học tập.
Theo nghĩa chung nhất, phương pháp là cách thức đạt tới mục tiêu, là
hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Hay dưới góc độ triết học
với tính cách là phương tiện nhận thức, “phương pháp là cách thức tái hiện lại
đối tượng nghiên cứu trong tư duy” [54, tr 458]. Theo nghĩa đó, phương pháp
trong giáo dục là cách thức truyền tải những nội dung, những thông tin đối
với người học theo một hệ thống, một trật tự đã xác định nhằm hình thành
nên những tri thức mới cho người học. Như vậy, phương pháp giáo dục về
thực chất chính là phương tiện giúp cho giáo viên truyền thụ những kiến thức


22
khoa học đến người học. Do đó, người dạy có phương pháp giảng dạy tốt, tức
là có phương tiện tốt thực hiện một cách hiệu quả công việc của mình. Trên ý
nghĩa đó, phương pháp giáo dục là yếu tố hết sức quan trọng, quyết định chất
lượng, hiệu quả giáo dục. Có phương pháp đúng, phù hợp sẽ giúp cho người
học tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng, nhận thức đúng vấn đề, đạt kết quả
học tập tốt.
Phương pháp dạy học càng hiện đại, càng phù hợp với đối tượng và môn
học bao nhiêu thì kết quả, chất lượng của quá trình dạy học càng cao bấy
nhiêu. Khi xác định được mục tiêu, xây dựng nội dung chương trình thì
phương pháp dạy học sẽ quyết định chất lượng của quá trình đào tạo. Vì vậy,
việc thường xuyên cải tiến đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng hiện
đại, thiết thực phù hợp thì chất lượng của quá trình giáo dục ngày càng được
nâng lên.
Phương pháp phải phù hợp với trình độ, khả năng tiếp thu của người học,
giúp người học tiếp thu một cách dễ dàng, hiểu biết sâu sắc những nội dung
cơ bản của bài giảng. Đây là vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt đối với công

tác giáo dục LLCT. Do đó, để sinh viên có thể tiếp thu được dễ dàng cần có
những phương pháp phù hợp, như Hồ Chí Minh nói: “Việc cốt yếu là phải
làm cho người học hiểu thấu vấn đề” [34, tr47]. Người thường phê phán
những người nói dài, nói nhiều nhưng người học không hiểu, kể cả vay mượn
tiếng nước ngoài mà không chú ý trau dồi tiếng Việt. Trong thực tế giảng dạy,
có những giảng viên trình độ hiểu biết rất sâu, rộng song khi giảng dạy lại
không đạt hiệu quả do bị hạn chế trong phương pháp giảng dạy. Do đó, có
phương pháp giảng dạy tốt, phù hợp với đối tượng học sẽ quyết định rất nhiều
đến chất lượng giáo dục đào tạo.
Dạy học là một quá trình hoạt động tâm lý, người dạy phải chủ động,
sáng tạo, biến quá trình tiếp thu một cách thụ động của người học thành quá
trình chủ động, phải luôn đặt người học trước tình huống có vấn đề, buộc
người học phải động não, năng động trong tư duy, phải tham gia thực sự trong


23
quá trình học tập. Trong giảng dạy, phương pháp giảng dạy tốt là phải kích
thích, phát huy được tính năng động, sáng tạo của người học, phương pháp
giảng dạy hiện nay còn là sự tham gia của người học dưới sự định hướng và
tạo điều kiện của thầy vào quá trình sáng tạo ra tri thức mới, kỹ năng mới,
tình cảm mới. Để đạt được điều đó, không thể chỉ áp dụng theo phương pháp
giảng dạy cổ truyền là “độc thoại” mà phải kết hợp nhiều phương pháp giảng
dạy mới phong phú hơn, sinh động hơn. Ví dụ như, đối thoại giữa giảng viên
và sinh viên, mô hình hóa nội dung giảng dạy, mô tả bằng hình ảnh v.v... Trên
thực tế, đây chính là quá trình làm thay đổi các trạng thái hoạt động của tâm
lý, làm cho người học thoải mái, tiếp thu dễ dàng hơn. Bên cạnh những yêu
cầu trên, một yêu cầu khác hết sức quan trọng đặt ra trong phương pháp giảng
dạy hiện nay là phải giúp người học không những nắm được những tri thức
mới, cơ bản, mà còn hình thành được phương pháp làm việc, cách tư duy độc
lập trong nghiên cứu cũng như trong công tác sau này. Đây mới là vấn đề cơ

bản cần đạt được trong công tác giáo dục nói chung, giáo dục LLCT nói riêng
như Hồ Chí Minh nói: Nắm vững lý luận Mác - Lênin không phải để trang
sức, “để nói mép”, để lòe thiên hạ, mà là nắm các tinh thần xử lý mọi việc, là
nắm chân lý phổ biến. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, khi nhu cầu giáo
dục - đào tạo ngày càng được nâng cao, các phương thức giáo dục mở ra hết
sức phong phú đa dạng, yêu cầu trên đặt ra hết sức cấp thiết. Muốn đáp ứng
được yêu cầu này đòi hỏi phải có một đội ngũ giáo viên có khả năng chuyên
môn đa dạng.
- Thứ ba, cơ sở vật chất phục vụ học tập, giảng dạy các môn lý luận
chính trị (sách LLCT trong thư viện, phòng đọc; phương tiện giảng dạy, hội
trường…)
Cơ sở vật chất phục vụ cho học tập, giảng dạy bao gồm trường, lớp và
các phương tiện vật chất khác được trực tiếp sử dụng trong quá trình đào tạo.
Nó tác động, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục.


24
Cơ sở vật chất phục vụ cho học tập về thực chất, chính là những phương
tiện giúp cho giáo viên và sinh viên thực hiện tốt công việc của mình trong
quá trình giảng dạy và học tập. Do đó, có phương tiện tốt sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho giảng dạy và học tập đạt hiệu quả, chất lượng cao. Ngược lại,
nếu không quan tâm đúng mức đến vấn đề này chất lượng giáo dục sẽ hạn
chế, giảm đi rất nhiều cho dù có đội ngũ giáo viên giỏi, có sự cố gắng vượt
bậc của sinh viên.
Ngày nay, đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, để
nâng cao chất lượng đào tạo, việc hiện đại hóa những điều kiện vật chất,
những phương tiện phục vụ cho giảng dạy, học tập trở thành hết sức quan
trọng, cần thiết. Chỉ có như vậy sinh viên mới có điều kiện nắm vững các kiến
thức mới, hiện đại. Mặt khác, đứng trước những yêu cầu mới trong giáo dục,
đòi hỏi người học phải hình thành tư duy độc lập trong học tập, nghiên cứu thì

càng cần phải đầu tư cho phương tiện học tập nhiều hơn, giúp người học tiếp
cận hơn với thực tiễn, phát huy được tính độc lập, sáng tạo của mình. Vì vậy,
việc trang bị những phương tiện ngày càng hoàn chỉnh, hiện đại phục vụ cho
giảng dạy học tập, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục là điều
hết sức quan trọng hiện nay.
Ngoài ra, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giáo dục còn là những điều
kiện về ăn, ở, sinh hoạt, về vật chất cũng như tinh thần. Đó là những điều kiện
không thể thiếu đối với sinh viên học tập trung tại trường.., tất cả những điều
kiện đó sẽ tạo nên môi trường thuận lợi giúp học viên phấn khởi, tự tin, yên
tâm học tập, thực tế đã khẳng định rất rõ điều này. Vì vậy, bên cạnh nội dung,
chương trình học tập hoàn chỉnh thì khâu chuẩn bị đầy đủ điều kiện cơ sở vật
chất phục vụ cho học tập cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng trong
việc quyết định chất lượng, hiệu quả học tập.


25
- Thứ tư, vai trò của Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên, Phòng công tác
sinh viên trong công tác giáo dục
Đây là các tổ chức với tư cách là các thành viên trong hệ thống chính trị
ở các trường, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ các trường. Hoạt động
của các tổ chức này tác động mạnh mẽ tới chất lượng việc giáo dục LLCT cho
sinh viên, vừa với tư cách là yếu tố khách quan vừa với tư cách tham gia trực
tiếp bên trong của hoạt động giáo dục.
Sự tác động của mỗi tổ chức diễn ra ở những mức độ khác nhau tùy
thuộc vào từng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức. Ban Giám hiệu là tổ
chức lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trong các trường, mọi hoạt động
công tác của Đảng ủy, Ban Giám hiệu tác động tới toàn bộ đội ngũ giáo viên
trong nhà trường nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Như vậy,
Đảng ủy, Ban Giám hiệu tác động đồng bộ đến chất lượng, hiệu quả giáo dục
LLCT. Bên cạnh đó, Đảng ủy, Ban Giám hiệu còn là nhân tố tác động trực

tiếp đến việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng viên LLCT về
chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị đạo đức tư tưởng.
Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, Phòng công tác sinh viên có vai trò to
lớn trong công tác giáo dục LLCT. Những hoạt động của Đoàn thanh niên có
tác động to lớn đến việc nâng cao chất lượng giáo dục LLCT. Các hoạt động
của Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên như: chiến dịch Mùa hè xanh, thi tìm hiểu
Olympic các môn khoa học Mác-Lênin, hiến máu nhân đạo... Những hoạt
động này vừa phù hợp với nhu cầu tuổi trẻ vừa có tính giáo dục về chính trị tư
tưởng đạo đức lối sống đến sinh viên. Tác động quan trọng của nó góp phần
làm cho những tri thức trẻ gắn bó với cuộc sống, tự tin với sự nghiệp đi lên
của đất nước qua đó hình thành tính tích cực xã hội, rèn luyện kỹ năng tổ
chức và hoạt động thực tiễn cho sinh viên. Nó còn có ý nghĩa thiết thực trong
việc giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan xã hội chủ nghĩa cho sinh viên tự


×