Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN DỊCH vụ LOGISTICS ở THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.51 KB, 102 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Kinh tế thị trường
Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Quản lý nhà nước
Tổng sản phẩm quốc nội
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
CNH, HĐH
KTTT
KT-XH
Nxb
QLNN
GDP
UBND
XHCN

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang
3


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ
LOGISTICS Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về dịch vụ logistics



11
11

1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát
triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH

21
VỤ

LOGISTICS Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
32
2.1. Thành tựu, hạn chế trong phát triển dịch vụ logistics ở
thành phố Hà Nội
32
2.2. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế trong phát triển dịch
vụ logistics ở thành phố Hà Nội
54
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH
VỤ LOGISTICS Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI
GIAN TỚI
61
3.1. Quan điểm về phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội 61
3.2. Giải pháp phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội
thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


69
85
87
92


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, toàn cầu hóa kinh tế đã làm thay đổi diện
mạo thế giới trên nhiều phương diện, mở mang thêm các lĩnh vực hợp tác
quốc tế từ mậu dịch hàng hóa đến mậu dịch vô hình, tác động mạnh mẽ đến
hệ thống cung - cầu trên thế giới, đặc biệt là các loại hình dịch vụ logistics.
Đây loại dịch vụ tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của hoạt động này
có tầm quan trọng quyết định đến cạnh tranh của ngành công nghiệp và
thương mại mỗi quốc gia. Là sự phát triển cao của dịch vụ giao nhận kho vận,
dịch vụ vận tải đa phương thức... dịch vụ logistics đã chứng minh được những
ưu điểm nổi trội của mình và những lợi ích đó có thể khiến cho khách hàng
hoàn toàn yên tâm và thỏa mãn về sự phong phú và tính hiệu quả của dịch vụ.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng
XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đang chuyển mình để hội nhập kinh
tế quốc tế, dù dịch vụ logistics mới được hình thành nhưng cũng đã đem lại
nhiều giá trị trong nền kinh tế quốc dân, mở ra một cơ hội cho các doanh
nghiệp có thể đầu tư và khai thác. Dịch vụ logistics là một hoạt động dịch vụ
tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng
quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi
quốc gia. Nhận thức được tầm quan trọng của loại hình dịch vụ này, Đảng ta
xác định: “Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị tăng cao như tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, logistics và các dịch vụ hỗ trợ sản
xuất kinh doanh khác” [12, tr.94].
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước

cũng đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, giải quyết
công ăn việc làm, giảm bớt lao động dư thừa, tăng thu nhập và nâng cao mức sống
của cư dân, các loại nhu cầu về dịch vụ như mua sắm, giải trí ngày càng lớn và
3


cũng là một thị trường kinh doanh hấp dẫn đối với các doanh nghiệp logistics.
Trong những năm vừa qua, dịch vụ logistics trên địa bàn Hà Nội có những
bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, dịch vụ
logistics còn đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển và chưa được quan tâm đúng
mức với những rào cản như năng lực quản lý của chính quyền Thành phố còn nhiều
bất cập, hệ thống pháp lý chưa đồng bộ, vừa thiếu lại vừa yếu, cơ sở hạ tầng yếu
kém, các doanh nghiệp logistics nhỏ lẻ, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của
Thủ đô. Thực tiễn đó cho thấy, phát triển dịch vụ logistics là một tất yếu trong nền
KTTT hiện đại của cả nước nói chung và của Hà Nội nói riêng, nó trực tiếp đáp ứng
nhu cầu về tiêu dùng sản phẩm, phân phối hàng hóa, thúc đẩy sản xuất, thương mại.
Chính vì lẽ đó, vấn đề đặt ra là phải giải quyết những vấn đề ấy một cách cân
đối hài hòa các lợi ích, đem lại cho Thủ đô một môi trường kinh doanh dịch
vụ logistics hoàn thiện hơn, ít các khó khăn hơn trong điều kiện hội nhập và
phải làm giảm các tác động đến môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống
cho nhân dân. Do vậy, nghiên cứu một cách cơ bản để đưa ra những giải pháp
tối ưu để phát triển dịch vụ logistics ở Hà Nội là rất cần thiết.
Đây cũng là vấn đề cấp thiết đặt ra cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với ý
nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề: “Phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà
Nội” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển dịch vụ logistics đã và đang thu hút được sự quan
tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học, tuy nhiên ở nhiều khía cạnh và phạm
vi khác nhau, nhiều công trình đã nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề

quản lý Nhà nước về hoạt động dịch vụ logistics, hay quản trị logictics trong
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế… trong đó đáng chú ý có một
số công trình tiêu biểu được công bố:
“Logistics - Những vấn đề cơ bản’” (2003), GS.TS. Đoàn Thị Hồng
Vân (chủ biên), Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. Trong cuốn sách này, các tác
4


giả tập trung vào giới thiệu những vấn đề lý luận cơ bản về logistics như khái
niệm, lịch sử hình thành và phát triển của logistics, phân loại logistics, kinh
nghiệm phát triển logistics của một số quốc gia trên thế giới... Sau đó 3 năm,
tác giả giới thiệu tiếp cuốn thứ hai “Quản trị logistics” (2006), Nxb Thống kê,
Hà Nội. Cuốn sách này tập trung vào những nội dung của quản trị logistics
như khái niệm quản trị logistics, các nội dung của quản trị logistics như dịch
vụ khách hàng, hệ thống thông tin, quản trị dự trữ, quản trị vật tư, vận tải, kho
bãi. Cả 2 cuốn sách chủ yếu tập trung vào các vấn đề lý luận về logistics và
quản trị logistics, các nội dung thực tiễn của logistics ít được các tác giả đề
cập đến, chủ yếu dừng ở mức giới thiệu nội dung thực tiễn tương ứng như:
dịch vụ khách hàng, hệ thống thông tin, kho bãi… của một số doanh nghiệp
cụ thể ở Việt Nam.
“Khái niệm và mô hình logistics cảng biển” (2009) của TS. Nguyễn
Thanh Thủy - Khoa Kinh tế vận tải biển, Trường Đại học Hàng hải, đăng trên
Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 17 tháng 4, cho thấy: Cảng biển là
các đầu mối quan trọng trong chuỗi logistics, do vậy có vai trò quyết định trong
việc nâng cao hiệu quả của cả quy trình logistics, từ đó thuật ngữ “Logistics
cảng” được đưa vào nghiên cứu. Mục tiêu của logistics cảng là tập trung xây
dựng các khu dịch vụ cảng nhằm tối ưu hóa quy trình logistics thông qua việc
nâng cao tính tương thích của cảng trong chuỗi logistics. Bài viết đã đưa ra
định nghĩa thuật ngữ “Logistics cảng” và giới thiệu mô hình logistics cảng
thông qua việc đề cập đến các hệ thống dịch vụ của cảng biển để xem xét tác

động của các hệ thống dịch vụ này đến quy trình logistics cảng.
“Phát triển dịch vụ logistics ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc
tế” (2010), Đề tài nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nước; “Một số vấn đề
phát triển dịch vụ logistics ở nước ta” (2010), Đề tài nghiên cứu khoa học độc
lập cấp Nhà nước; “Xây dựng và phát triển hệ thống logistics theo hướng bền
vững - Kinh nghiệm của Đức và bài học đối với Việt Nam” (2010), Nhiệm vụ
5


hợp tác song phương về khoa học công nghệ do GS.TS Đặng Đình Đào, Viện
nghiên cứu kinh tế và phát triển - Trường Đại học Kinh tế quốc dân chủ biên
3 đề tài trên cùng với tập thể tác giả đã đánh giá Việt Nam có rất nhiều lợi thế
về kinh tế, chính trị cũng như địa lý và điều kiện tự nhiên so với các nước
trong khu vực để phát triển logistics. Tuy nhiên, thị trường logistics tại Việt
Nam đang phát triển ngày càng lạc hậu hơn so với ngay cả các nước trong
khu vực, dù tiềm năng ngành này là rất lớn. Cơ sở hạ tầng cho phát triển
logistics còn rất hạn chế. Mặt khác, đa số các doanh nghiệp có quy mô tài
chính vừa và nhỏ, ít hiểu biết về luật pháp quốc tế và chưa tạo được sự liên
kết, hợp tác lẫn nhau mà chỉ dựa vào năng lực sẵn có nên khả năng cạnh tranh
thấp, nảy sinh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp
trong ngành. Vì vậy, các tác giả nhận định hầu hết các doanh nghiệp logistics
của Việt Nam mới chỉ đóng vai trò như những nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh
cho các công ty logistics nước ngoài, chưa có doanh nghiệp nào có đủ khả
năng tổ chức, điều hành toàn bộ quy trình hoạt động của dịch vụ logistics.
Ngoài ra, trong các chính sách và kế hoạch phát triển hầu như ngành logistics
chưa được đề cập ở cấp quốc gia cũng như ngành và địa phương. Trong bối
cảnh đó, các nghiên cứu đã nhận định ngành logistics của Việt Nam cần phải
nhận diện rõ những yếu kém của mình để có kế hoạch, bước đi và giải pháp
phù hợp với điều kiện thực tiễn nhằm thúc đẩy sự phát triển của logistics
trong những năm tới, góp phần nâng cao hiệu quả KT-XH của đất nước.

“Đề xuất xây dựng trung tâm dịch vụ hậu cần cảng biển tại khu vực
cảng biển Hải Phòng” (2011) của TS. Đặng Công Xưởng - Khoa Kinh tế vận
tải biển, Trường Đại Học Hàng Hải, Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải
Số 28, tháng 11. Bài viết cho biết việc xây dựng trung tâm dịch vụ hậu cần
cảng biển có vai trò lớn trong chuỗi vận tải. Nó đóng vai trò thu gom, phân
loại và làm các thủ tục cần thiết cho hàng hoá xuất nhập khẩu. Vì vậy, góp
phần làm giảm thời gian ứ đọng hàng hóa và giảm tối đa các chi phí liên
6


quan. Bài viết cũng nêu ra được vai trò, tác dụng và các chức năng chính của
Trung tâm dịch vụ hậu cần cảng biển, cùng kinh nghiệm của các quốc gia trên
thế giới. Thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động của dịch vụ hậu cần
cảng tại khu vực cảng biển cũ ở Hải Phòng, bài viết đã đưa ra những lý do cần
thiết phải xây dựng Trung tâm dịch vụ hậu cần cảng biển tại khu vực cảng
biển mới của Hải Phòng. Trên cơ sở khu vực địa lý, bài viết đề xuất các
phương án xây dựng Trung tâm dịch vụ hậu cần cảng biển, góp phần nâng cao
năng lực của khu vực cảng biển Hải Phòng.
“Phát triển logistics ở Việt Nam hiện nay” (2012), của Đinh Lê Hải Hà,
Luận án Tiến sĩ kinh tế, Viện Nghiên cứu Thương mại. Đây là công trình với
nội dung nghiên cứu chủ yếu tập trung vào luận giải và hệ thống hóa các vấn
đề lý luận, thực tiễn về logistics và phát triển logistics trong nền kinh tế quốc
dân ở góc độ vĩ mô. Chính vì vậy, bên cạnh việc đề cập các khái niệm, vai trò,
đặc trưng và lợi ích của logistics thì trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển
logistics của Việt Nam trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XX và trên cơ sở
tìm hiểu, nghiên cứu kinh nghiệm phát triển logistics của một số quốc gia
trong khu vực và trên thế giới, tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm phát
triển logistics ở Việt Nam trong thời gian tới.
“Phát triển logistics ở một số nước Đông Nam Á - Bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam” (2014), của Vũ Thị Quế Anh, Luận án tiến sĩ, Viện

Hàn lâm Khoa học - Xã hội Việt Nam. Ngoài việc đề cập những vấn đề lý
luận cơ sở về logistics và phát triển logistics thì tác giả còn tập trung phân tích
nội hàm của một số quan điểm về logistics được đưa ra bởi các chuyên gia, tổ
chức trên thế giới. Đồng thời, thông qua phân tích thực trạng phát triển
logistics ở một số nước Đông Nam Á (Singapore, Thái Lan, Malaysia), chỉ ra
điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân của thành công và những hạn chế trong
sự phát triển logistics ở các quốc gia này, tác giả đã rút ra bài học kinh nghiệm
cho phát triển logistics ở Việt Nam và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù
7


hợp với tình hình và điều kiện thực tiễn để phát triển logistics ở Việt Nam
theo kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới.
“Quản lý nhà nước đối với dịch vụ logistics ở cảng Hải Phòng”
(2015), Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Quốc Tuấn, Viện Nghiên cứu quản
lý kinh tế Trung ương. Thông qua việc hệ thống hóa, sâu sắc hóa cơ sở lý luận
và tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong QLNN đối với dịch vụ logistics cảng
biển, phân tích thực trạng và đánh giá kết quả QLNN đối với dịch vụ logistics
ở cảng Hải phòng, làm nổi bật các kết quả đạt được, các hạn chế cần khắc
phục trong quá trình QLNN đối với dịch vụ logistics ở cảng Hải phòng, luận
án đề xuất các giải pháp và đưa ra các kiến nghị với Chính phủ, UBND thành
phố Hải Phòng, Cảng vụ Hàng hải Hải Phòng nhằm đổi mới QLNN đối với
dịch vụ logistics ở cảng Hải phòng.
Tóm lại, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về dịch vụ logistics,
quản trị dịch vụ logistics hay QLNN về logistics, tuy đã làm rõ được khái
niệm dịch vụ logistics và quản trị dịch vụ logistics, đồng thời đưa ra các
phương pháp nhằm quản trị lĩnh vực dịch vụ này một cách có hiệu quả;
Nghiên cứu và khẳng định giá trị của dịch vụ logistics đối với sự phát triển
KT-XH ở Việt Nam, lý thuyết hóa về phương pháp, cách thức quản lý dịch vụ
logistics, đánh giá tổng thể về hoạt động dịch vụ logistics ở Việt Nam và đưa

ra mục tiêu, chiến lược cho dịch vụ logistics ở Việt Nam trong thời gian tới;
nghiên cứu những vấn đề chung nhất có tính lý luận về vai trò của QLNN, về
QLNN đối với dịch vụ logistics trong nền KTTT định hướng XHCN. Hoặc
chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu QLNN đối với dịch vụ logistics chung nhất.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến dịch vụ logistics cảng biển ở Việt
Nam chủ yếu là ở giác độ vi mô, mang tính chất khái quát. Tuy nhiên, vấn đề
phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội dưới góc độ của khoa học kinh
tế chính trị thì chưa có một công trình nào đề cập đến một cách có hệ thống.
Vì vậy, trong luận văn này tác giả mong muốn được tiếp tục khảo sát, nghiên
cứu phân tích đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà
8


Nội từ góc nhìn kinh tế chính trị, từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp
chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển dịch vụ logistics ở thành
phố Hà Nội trong thời gian qua để đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển
dịch vụ logistics trong thời gian tiếp theo.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận về dịch vụ logistics dưới góc độ kinh tế chính trị.
Đánh giá, phân tích thực trạng hoạt động của dịch vụ logistics trên địa
bàn thành phố Hà Nội trời gian qua.
Đề xuất một số quan điểm và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là phát triển dịch vụ logistics.

* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: nghiên cứu một số dịch vụ logistics cơ bản trong chuỗi
cung ứng logistics gồm logistics trong vận tải hàng hóa, logistics trong giao
nhận hàng hóa, logistics trong phân phối hàng hóa và logistics trong kinh
doanh kho bãi ở thành phố Hà Nội dưới góc nhìn của khoa học kinh tế chính trị
Về không gian nghiên cứu: địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
Về thời gian khảo sát đánh giá thực trạng: từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Cơ sở sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Tác giả sử dụng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tập trung
đẩy mạnh phát triển ngành dịch vụ nói chung trong đó có dịch vụ logistics.
9


* Cơ sở thực tiễn
Tác giả nghiên cứu, khảo sát thực trạng phát triển dịch vụ logistics ở
thành phố Hà Nội và yêu cầu phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại và
có giá trị tăng cao trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH cả nước nói chung và
thành phố Hà Nội nói riêng. Nghiên cứu phân tích các tư liệu từ các nguồn
khác nhau của các cơ quan như Sở Công thương và Cục Thống kê của thành
phố Hà Nội. Bên cạnh đó tác giả cũng tham khảo các công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học có liên quan đến vấn đề này.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của môn kinh tế chính
trị là trừu tượng hóa khoa học, kết hợp với một số phương pháp điều tra,
thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài sẽ góp phần bổ sung, phát triển cơ sở lý luận và thực tiễn phát
triển dịch vụ logistics trong quá trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế

của cả nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Kết quả của luận văn
cũng là nguồn tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập môn kinh tế
chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về dịch vụ logistics
1.1.1. Các khái niệm
* Dịch vụ
Khái niệm dịch vụ xuất hiện lần đầu tiên vào thập niên 30 của thế kỷ
XX, khi hai nhà kinh tế học người Anh là Allan Fisher và Colin Clark đề xuất
việc chia nền kinh tế thành ba ngành tương đương với ba lĩnh vực: nông, lâm
nghiệp và thủy sản; công nghiệp; dịch vụ. Theo Colin Clark, ngành kinh tế
thứ ba là các dạng hoạt động kinh tế không được liệt kê vào ngành thứ nhất và
thứ hai, là phần dôi ra của nền kinh tế, hỗ trợ cho hai ngành sản xuất cơ bản.
Khái niệm này tuy chưa đầy đủ song nó cho thấy con người đã nhận thức
được sự có mặt và tầm quan trọng của ngành dịch vụ.
Năm 1977, một nhà kinh tế học người Anh là T.P.Hill đưa ra định
nghĩa: Dịch vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của người hay hàng
hóa thuộc sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thể
kinh tế khác với sự đồng ý trước của người hay chủ thể kinh tế ban đầu. Định
nghĩa này tập trung vào nội dung kinh tế của hoạt động dịch vụ chứ không
căn cứ vào hình thái vật chất hay đặc tính thời gian và không gian của dịch

vụ. Ngoài ra, định nghĩa này giúp phân biệt giữa sản xuất dịch vụ và sản
phẩm dịch vụ. Sản phẩm của một dịch vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng
thái của người hoặc hàng hóa bị tác động, trong khi quá trình sản xuất dịch vụ
là hoạt động tác động tới người hoặc hàng hóa thuộc sở hữu của một chủ thể
kinh tế nào đó. Tuy nhiên, định nghĩa này cũng bộc lộ những thiếu sót nhất
định như có những dịch vụ được cung cấp nhằm giữ nguyên điều kiện hay
trạng thái của một người hay hàng hóa như dịch vụ bảo vệ, vệ sỹ…
11


Mặc dù tiếp cận ở các góc độ khác nhau, nhưng các nhà kinh tế cũng
thống nhất với nhau về bốn tính chất của dịch vụ: tính vô hình; tính không thể
lưu trữ được; sản xuất và tiêu dùng tách rời nhau; tính không ổn định về chất
lượng. Khi ngành dịch vụ chưa phát triển, nó được coi là hoạt động bổ trợ cho
thương mại. Thương mại càng phát triển thì dịch vụ càng có vai trò quan
trọng. Ngành dịch vụ ngày nay không còn tồn tại với tư cách bổ trợ cho
thương mại nữa mà nó đã trở thành đối tượng của thương mại, từ đó hình
thành khái niệm về thương mại dịch vụ. Hiệp định chung về Thương mại dịch
vụ (General Agreement on Trade in Services - gọi tắt là GATS) của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) không đưa ra khái niệm về dịch vụ cũng như
thương mại dịch vụ. Nhưng dựa vào khái niệm thương mại hàng hóa có thể
hiểu Thương mại dịch vụ là sự trao đổi về dịch vụ giữa các cá nhân, tổ chức
với nhau vì mục đích thương mại.
Tuy nhiên, tiếp cận ở góc độ kinh tế chính trị thì dịch vụ được hiểu là
những thứ tương tự như hàng hóa nhưng là hàng hóa phi vật chất. Mọi người
chi tiền mua những dịch vụ không khác gì chi tiền mua bất cứ loại hàng hóa
nào khác. Theo C.Mác, “Dịch vụ chỉ giá trị sử dụng đặc thù do lao động đem
lại giống như mọi hàng hóa khác, nhưng ở đây, cái giá trị sử dụng đặc thù
của lao động này được gọi là một danh hiệu đặc biệt là dịch vụ, bởi vì lao
động đó cung cấp những sự phục vụ không phải với tư cách là một đồ vật mà

với tư cách là một sự hoạt động” [23, tr.577].
Từ những quan niệm trên, có thể khái niệm dịch vụ một cách chung nhất
là: Dịch vụ là những hoạt động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng
hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, nhằm thỏa mãn kịp thời, thuận lợi,
hiệu quả hơn các nhu cầu trong sản xuất và đời sống của con người.
* Logistics và dịch vụ logistics
Phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa trong sản xuất diễn ra
ngày càng sâu sắc trên phạm vi toàn cầu đã dẫn đến hoạt động trao đổi hàng
12


hóa và thương mại ngày càng phát triển. Sự tách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa dẫn đến sự ra đời của logistics với mục tiêu là tối thiểu hóa chi phí và
thời gian nhưng vẫn phải đạt được các mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Trong
thời gian đầu, logistics chỉ đơn thuần được coi là một phương thức kinh doanh
mới, mang lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp. Cho đến nay, logistics được
ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại
thành công cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cả trong lĩnh
vực sản xuất lẫn trong lĩnh vực dịch vụ. Logistics đã trở thành một phần không
thể thiếu của các ngành thương mại và công nghiệp cũng như cuộc sống hằng
ngày của người dân và là hiện tượng có mặt ở khắp nơi trên toàn cầu.
Tuy nhiên, cho đến nay, thuật ngữ logistics khá xa lạ và mới với nhiều
người. Chỉ mới gần đây thôi, từ logistics mới được thu nhập vào Việt Nam
như: khu logistics, cảng logistics, kho logistics. Nhưng thực chất logistics là
gì? Nó được bắt nguồn từ đâu? Và hiện nay, nó đã được áp dụng rất nhiều ở
các nước phát triển trên thế giới để phát triển và phục vụ các hoạt động dịch
vụ hàng hoá cũng như sản xuất.
Về mặt lịch sử, thuật ngữ logistics bắt nguồn từ các cuộc chiến tranh cổ
đại của đế chế Hy Lạp và La Mã. Khi đó, những chiến binh có chức danh
“Logistikas” được giao nhiệm vụ chu cấp, phân phối vũ khí và nhu yếu phẩm,

đảm bảo điều kiện cho quân sỹ hành quân an toàn từ bản doanh đến một vị trí
khác. Công việc “hậu cần” này có ý nghĩa sống còn tới cục diện của chiến
tranh, khi các bên tìm mọi cách bảo vệ nguồn cung ứng của mình và tìm cách
triệt phá nguồn cung ứng của đối phương. Quá trình tác nghiệp đó dần hình
thành một hệ thống mà sau này gọi là quản lý logistics.
Trong thế chiến thứ hai, vai trò của logistics càng được khẳng định. Đội
quân hậu cần của quân đội Mỹ và đồng minh tỏ ra có hiệu quả hơn của quân
đội Đức. Quân Mỹ đã đảm bảo cung cấp vũ khí, đạn dược, và quân nhu đúng
địa điểm, đúng thời gian, bằng những phương thức tối ưu. Nhờ phát huy ưu
13


thế về công tác hậu cần mà Mỹ và đồng minh đã nhiều lần chiếm ưu thế trong
cuộc chiến tranh. Cũng trong thời gian này, nhiều ứng dụng về logistics đã
được phát triển và vẫn còn được sử dụng đến ngày nay, mặc dù đã có ít nhiều
thay đổi để phù hợp với môi trường sản xuất kinh doanh.
Hiện nay trên thế giới người ta cho rằng logistics có nguồn gốc từ
tiếng Pháp và từ này lại xuất phát từ từ “Loger” nghĩa là nơi đóng quân. Cho
đến nay vẫn chưa tìm được thuật ngữ thống nhất, phù hợp để dịch từ logistics
sang tiếng Việt. Có người dịch là hậu cần, có người dịch là tiếp vận hoặc tổ
chức dịch vụ cung ứng… Cách tốt nhất là giữ nguyên thuật ngữ logistics
không dịch sang tiếng Việt. Trong thực tế vẫn tồn tại nhiều khái niệm khác về
logistics như sau:
Tài liệu của Liên hợp quốc (UNESCAP) định nghĩa: Logistics là hoạt
động quản lý dòng chu chuyển và lưu kho nguyên vật liệu, quá trình sản xuất
thành phẩm xử lý các thông tin liên quan… từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ
cuối cùng theo yêu cầu của khách hàng.
Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ - 1988 định nghĩa: Logistics là quá
trình lên kế hoạch thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng
lưu chuyển và giữ nguyên vật liệu, hàng tồn thành phẩm và các thông tin liên

quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thỏa mãn những yêu
cầu của khách hàng.
Theo Ngân hàng thế giới (WB): Logistics liên quan đến việc quản lý
dây chuyền cung cấp hoàn chỉnh một sản phẩm đặc thù, bao gồm vận tải
nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra, lưu kho, phân phối, liên kết các
phương thức vận tải và các dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại.
Trong lịch sử Việt Nam có hai người đã ứng dụng thành công logistics
trong hoạt động quân sự là vua Quang Trung trong cuộc hành quân thần tốc ra
miền Bắc đại phá quân Thanh (1789) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong
chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) và trong cuộc khánh chiến chống Mỹ cứu
14


nước, trên con đường Trường Sơn có tên gọi khác là Đường dây 559 đã làm
nên những kỳ tích lịch sử về vận chuyển lương thực, thuốc men, quần áo và
vũ khí hậu cần giúp toàn quân, toàn dân đánh thắng giặc Mỹ thống nhất đất
nước. Như vậy, tuy là rời rạc và chưa được khái quát thành lý luận nhưng
logistics ở nước ta đã có từ khá lâu. Và hiện nay, ở Việt Nam thuật ngữ
logistics được công chúng quan tâm nhiều là khoảng tháng 7/2006. Trước khi
có thuật ngữ logistics được sử dụng ở Việt Nam, Luật Thương mại năm 1997
đã có quy định tại Mục 10 Điều 163 về “Dịch vụ giao nhận hàng hóa”: “Dịch
vụ giao nhận hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó người làm dịch vụ
giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức việc vận chuyển, lưu
kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao
hàng cho người nhận hàng theo sự ủy thác của chủ hàng, của người vận tải
hoặc của người làm dịch vụ giao nhận khác” [26, tr.29]. Trước đây, khi nhắc
đến dịch vụ logistics, người ta thường nghĩ ngay đến các dịch vụ cơ bản (vận
tải, lưu kho). Giờ đây, các dịch vụ logistics đã phong phú hơn rất nhiều: vận
tải, giao nhận, phân phối, lưu kho, gom hàng, đóng gói, dán nhãn, lắp ghép,
quản lý nhà cung cấp, logistics thu hồi, hỗ trợ tài chính, thủ tục hải quan... Có

thể chia thành bốn nhóm chính đó là: logistics đầu vào; logistics trong kho
hàng; logistics đầu ra; logistics thu hồi.
Do thuật ngữ “Dịch vụ giao nhận hàng hóa” ở Luật Thương mại năm 1997
không đủ để bao hàm những nội dung mà dịch vụ logistics cung cấp nên Luật
Thương mại năm 2005 đã thay thế khái niệm “Dịch vụ giao nhận hàng hóa” bởi
khái niệm “Dịch vụ logistics”. Tại Mục 4 Điều 233 Luật Thương mại năm 2005
định nghĩa: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ
chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu
kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng,
đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan
đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao”[27, tr.49].
15


Qua các định nghĩa trên cho thấy, logistics không phải là một dịch vụ
đơn lẻ. Logistics luôn là một chuỗi các dịch vụ như: làm các thủ tục giấy tờ,
tổ chức vận tải, giao nhận, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho, lưu bãi,
phân phối hàng hóa (nguyên liệu hay thành phẩm) tới các địa chỉ khác nhau.
Chính vì vậy, nói tới logistics người ta bao giờ cũng nói tới một chuỗi hệ
thống dịch vụ (Logistics system chain). Logistics chính là quá trình tối ưu hóa
mọi công việc, hoặc thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối và tiêu
dùng. Giữa các loại dịch vụ này có mối quan hệ qua lại với nhau và chúng đòi
hỏi phải đặt trong một chuỗi dịch vụ logistics thống nhất để hình thành nên
giá trị trong nền KTTT. Trong luận văn, tác giả đồng tình với khái niệm dịch
vụ logistics của Mục 4 Điều 233 Luật Thương mại năm 2005 định nghĩa.
1.1.2. Phân loại và vai trò của dịch vụ logistics
* Phân loại dịch vụ logistics
Dịch vụ logistics rất đa dạng, bao gồm nhiều quy trình và công đoạn
khác nhau và thường được chia thành 4 phương thức khai thác hoạt động
logistics như sau:

Logistics tự cung cấp: Các doanh nghiệp tự thực hiện các hoạt động
logistics của mình. Doanh nghiệp sở hữu các phương tiện vận tải, nhà xưởng,
thiết bị xếp dỡ và các nguồn lực khác bao gồm cả nguồn nhân lực để thực
hiện các hoạt động logistics.
Logistics vận tải kho vận (2PL - Second Party Logistics): Để cắt giảm
chi phí, vốn đầu tư, các doanh nghiệp không sở hữu hoặc không có đủ phương
tiện và cơ sở hạ tầng thì có thể thuê ngoài các dịch vụ cung cấp logistics nhằm
cung cấp phương tiện thiết bị hay các dịch vụ cơ bản.
Logistics theo hợp đồng (3PL - Third Party Logistics): Phương thức này
có nghĩa là sử dụng các công ty bên ngoài để thực hiện các hoạt động logistics,
có thể là toàn bộ quá trình quản lý logistics hoặc một số hoạt động có chọn lọc.
Đây được coi là một liên minh chặt chẽ giữa một công ty và nhà cung cấp dịch
16


vụ logistics, nó không chỉ nhằm thực hiện các hoạt động logistics mà còn chia
sẻ thông tin, rủi ro và các lợi ích theo một hợp đồng dài hạn.
Logistics chuỗi phân phối (4PL - Fourth Party Logistics): Đây là một
khái niệm phát triển trên nền tảng của 3PL nhằm tạo ra sự đáp ứng dịch vụ
hướng về khách hàng một cách linh hoạt hơn. 4PL quản lý và thực hiện các
hoạt động logistics phức hợp như quản lý nguồn lực; trung tâm điều phối kiểm
soát và các chức năng kiến trúc cũng như tích hợp các hoạt động khác của
logistics; dịch vụ công nghệ thông tin; quản lý tiến trình kinh doanh. 4PL được
xem là một điểm liên lạc duy nhất, nơi thực hiện việc quản lý, tổng hợp các
nguồn lực và giám sát các chức năng 3PL trong suốt chuỗi phân phối nhằm
vươn tới thị trường toàn cầu, lợi thế chiến lược và các mối quan hệ lâu bền.
5PL - Fifth Party Logistics: Đây là dịch vụ logistics phổ biến và phát
triển nhất hiện nay dành cho thương mại điện tử. 5PL quản lý và điều phối
hoạt động của các 3PL, 4PL thông qua các giải pháp thông tin liên quan đến
cung và cầu trên thị trường dịch vụ giao hàng thương mại điện tử. Điểm đặc

trưng của 5PL chính là các hệ thống: Hệ thống quản lý đơn hàng; Hệ thống
quản lý kho hàng; Hệ thống quản lý vận tải. Cả ba hệ thống này có liên quan
chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất với công nghệ thông tin.
Ở nước ta, theo điều 4 Nghị định 140/2007/NĐ-CP (Chi tiết hóa luật
Thương mại 2005) thì dịch vụ logistics được phân loại như sau:
Các dịch vụ logistics chủ yếu bao gồm: Dịch vụ bốc xếp hàng hóa
(gồm cả hoạt động bốc xếp container); Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa;
Dịch vụ đại lý vận tải (bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và
lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa); Dịch vụ hỗ trợ khác bao gồm hoạt động tiếp
nhận, lưu kho và quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng
hóa trong suốt cả chuỗi logistics, hoạt động xử lý hàng hóa bị khách hàng trả
lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn và tái phân phối các hàng hóa đó.
Các dịch vụ liên quan đến vận tải, bao gồm: Dịch vụ vận tải hàng hải;
17


Dịch vụ vận tải thủy nội địa; Dịch vụ vận tải hàng không; Dịch vụ vận tải
đường sắt; Dịch vụ vận tải đường bộ; Dịch vụ vận tải đường ống.
Các dịch vụ logistics liên qua khác, bao gồm: Dịch vụ kiểm tra và phân
tích kỹ thuật; Dịch vụ bưu chính; Dịch vụ thương mại bán buôn; Dịch vụ
thương mại bán lẻ…
Cách phân loại này phù hợp với Biểu cam kết về dịch vụ vận tải của Việt
Nam với WTO, tuy nhiên chưa thể hiện được những loại hình dịch vụ logistics
mới và hiện đại hơn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
* Vai trò của dịch vụ logistics
Vai trò của dịch vụ logistics đối với nền kinh tế quốc dân:
Logistics là một chuỗi các hoạt động liên tục, có liên hệ mật thiết với
nhau và có tác động qua lại lẫn nhau. Nền kinh tế chỉ có thể phát triển nhịp
nhàng, đồng bộ một khi dây chuyền logistics hoạt động liên tục, nhịp nhàng.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu

hóa, khu vực hóa, logistics ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân thể hiện cụ thể ở những điểm sau:
Một là, logistics giúp các quốc gia có điều kiện thuận lợi để lựa chọn
phương án tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Những quốc gia giàu có, các
tập đoàn xuyên quốc gia luôn dễ dàng trong việc giữ lại những khâu, những
mắt xích trong chuỗi có giá trị tăng cao như thiết kế, tiếp thị, phân phối…,
còn các khâu có giá trị tăng thấp thì đẩy ra bên ngoài cho các quốc gia đang
phát triển và các quốc gia chậm phát triển, nơi có nguồn tài nguyên sẵn có,
sức lao động rẻ. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để các quốc gia chậm phát
triển, đang phát triển tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Hai là, logistics là công cụ hữu hiệu để liên kết các hoạt động của các
mắt xích khác nhau trong chuỗi giá trị toàn cầu (GVC – Global Value Chain)
như cung cấp, sản xuất, phân phối, mở rộng thị trường cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh và mang tính chất phân công lao động toàn cầu mà trong đó
18


các nền kinh tế của các quốc gia chỉ đóng vai trò là những bộ phận của nền
kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, khi dịch vụ logistics phát triển sẽ là nơi hấp dẫn
trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, giải quyết được nhiều
vấn đề còn bất cập như giải quyết việc làm, cơ sở hạ tầng giao thông, môi
trường, an sinh xã hội…
Ba là, quá trình hoạt động của logistics gợi ý cho các nhà hoạch định
chính sách, đặc biệt là chính sách vĩ mô nền kinh tế, có quan điểm tiếp cận
thực sự khoa học trong việc quy hoạch tổng thể phát triển nền kinh tế quốc
dân, bảo đảm cân đối hợp lý giữa nguyên tắc quản lý theo vùng và theo lãnh
thổ, từ đó có phương án khai thác tối ưu các lợi thế của từng vùng, địa
phương và cả nước, bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế, sử dụng các
nguồn lực một cách hiệu quả và tiết kiệm nhất.
Bốn là, logistics là công cụ để các quốc gia tăng cường “quyền lực

mềm” hay gọi là biên giới mềm thông qua các hoạt động sản xuất, kinh doanh
xuyên biên giới. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế làm cho các quốc gia có sự liên kết
chặt chẽ, trong đó các doanh nghiệp mở rộng biên giới quốc gia và khái niệm
quốc gia về thương mại chỉ đứng hàng thứ hai so với hoạt động của các doanh
nghiệp. Ví dụ như hãng Boing sản xuất máy bay nổi tiếng trên thế giới, nhưng
họ có chân rết sản xuất và cung ứng các linh kiện ở rất nhiều các đầu mối trên
thế giới, trong đó các hãng cung ứng linh kiện, chi tiết đáng kể nhất của Boing
có địa điểm đặt tại 20 quốc gia khác nhau. Ví dụ như thị trường tam giác bao
gồm ba khu vực địa lý: Nhật, Mỹ - Canada và EU. Trong thị trường tam giác
này, các công ty trở nên quan trọng hơn quốc gia vì quyền lực kinh tế của họ đã
vượt quá biên giới quốc gia, quốc tịch của công ty đã trở nên mờ nhạt. Hoạt
động của Toyota hiện nay cũng là ví dụ điển hình, mặc dù phần lớn cổ đông
của Toyota là người Nhật và thị trường quan trọng nhất của Toyota là Mỹ
nhưng phần lớn xe Toyota bán tại Mỹ được sản xuất tại nhà máy của Mỹ thuộc
sở hữu của Toyota. Như vậy, quốc tịch của Toyota đã bị mờ đi.
19


Vai trò của logistics đối với các doanh nghiệp:
Đối với các doanh nghiệp thì logistics có vai trò rất to lớn. Logistics
nâng cao hiệu quả quản lý, ra quyết định chính xác trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, giúp giải quyết các đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách
hiệu quả. Nhờ có thể thay đổi các nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hoá
quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ… Logistics giúp
giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Có nhiều doanh
nghiệp thành công lớn nhờ có được chiến lược và hoạt động logistics đúng
đắn, ngược lại có không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí thất bại, phá
sản do có những quyết định sai lầm trong hoạt động logistics. Ngày nay, để
tìm được vị trí tốt hơn, kinh doanh hiệu quả hơn, các tập đoàn đa quốc gia,
các công ty đủ mạnh đã và đang nỗ lực tìm kiếm trên toàn cầu nhằm tìm được

nguồn nguyên liệu, nhân công, vốn, bí quyết công nghệ, thị trường tiêu thụ,
môi trường kinh doanh… tốt nhất. Bên cạnh đó, phát triển logistics góp phần
gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp thông qua việc thực hiện các
dịch vụ lưu thông bổ sung.
Ngoài ra, logistics còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing, chính
logistics đóng vai trò then chốt trong lĩnh vực đưa sản phẩm đến tay người tiêu
dùng đúng thời gian và địa điểm thích hợp. Sản phẩm, dịch vụ chỉ có thể làm
thoả mãn khách hàng và có giá trị khi nó đến được với khách hàng đúng thời hạn
và địa điểm quy định. Mục tiêu của logistics là cung cấp hàng hoá dịch vụ cho
khách hàng với tổng chi phí thấp nhất. Chi phí sản xuất kinh doanh, trong đó có
chi phí vận chuyển luôn được các doanh nghiệp quan tâm. Trong quá trình phát
triển, có những giai đoạn lãi suất ngân hàng cao khiến các doanh nghiệp có nhận
thức sâu sắc hơn về vốn, vì vốn bị đọng lại do việc duy trì quá nhiều hàng tồn
kho. Chính trong giai đoạn này, cách thức tối ưu hóa quá trình sản xuất, lưu kho,
vận chuyển hàng hóa được đặt lên hàng đầu. Và với sự giúp đỡ của công nghệ
thông tin, logistics chính là một công cụ đắc lực để thực hiện việc này.
20


1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát triển
dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội
* Quan niệm
Từ những nghiên cứu trên, dưới góc nhìn của khoa học kinh tế chính
trị, tác giả luận văn quan niệm “Phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà
Nội là hoạt động có mục đích của Đảng, Chính quyền, các thành phần kinh tế
và các lực lượng trên địa bàn thành phố Hà Nội tạo ra sự biến đổi theo chiều
hướng tăng lên một cách đồng bộ, toàn diện cả về số lượng, chất lượng và
xây dựng cơ cấu các loại hình dịch vụ logistics hợp lý đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội một cách bền vững trên địa bàn thành phố Hà Nội”.

* Nội hàm quan niệm
Quan niệm này chỉ rõ chủ thể, phương thức, mục tiêu và nội dung phát
triển dịch vụ logistics. Theo đó:
Chủ thể phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội: là hệ thống
chính trị, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế ở thành phố Hà Nội.
Mục tiêu phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội: nhằm làm
tăng quy mô, số lượng, nâng cao chất lượng và xây dựng hợp lý về cơ cấu dịch
vụ logistics đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH ở thành phố Hà Nội.
Nội dung phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội: là quá trình
làm tăng lên về số lượng và quy mô, nâng cao về chất lượng và cơ cấu hợp lý
của một số hoạt động cơ bản gồm logistics trong vận tải hàng hóa; logistics
trong giao nhận hàng hóa; logistics trong phân phối hàng hóa; dịch vụ
logistics kinh doanh kho bãi của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế trên địa bàn thành phố Hà Nội, bảo đảm thành phố Hà Nội có thể hoàn
thành mục tiêu CNH, HĐH “Phấn đấu để Hà Nội thực sự là địa phương đi
đầu, về đích sớm 1 đến 2 năm sự nghiệp CNH, HĐH” so với cả nước như yêu
21


cầu của Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về “Phương hướng, nhiệm vụ phát
triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011 - 2020” [11, tr.3].
Cách thức phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội: chủ thể phát
triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội thực hiện tổng thể các biện pháp về
cơ chế, chính sách, tập trung vào chính sách đầu tư.
1.2.2. Nội dung phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội
Một là, gia tăng về số lượng và quy mô dịch vụ logistics ở thành phố Hà
Nội đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường
Việc gia tăng về số lượng, mở rộng quy mô các dịch vụ logisics trên địa
bàn thành phố Hà Nội bao gồm: đầu tư, nâng cấp, mở rộng năng lực dịch vụ

logistics của các cơ sở, doanh nghiệp hiện có trên địa bàn Thành phố và đầu
tư phát triển thêm các cơ sở, doanh nghiệp logistics mới. Hay nói cách khác là
làm tăng số lượng tuyệt đối các doanh nghiệp logistics; nhân rộng số lượng
các doanh nghiệp logistics hiện có. Trong điều kiện các hoạt động dịch vụ
logistics của thành phố Hà Nội đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển,
phương thức phát triển về số lượng, mở rộng về quy mô cần được quan tâm,
ưu tiên và tạo điều kiện thuận lợi nhằm sớm đáp ứng được yêu cầu trong hội
nhập và mở cửa thị trường logistics hiện nay.
Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của dịch vụ logisics
ở thành phố Hà Nội cả chiều rộng và chiều sâu
Nâng cao chất lượng, hiệu quả dịch vụ logistics là một nội dung rất
quan trọng trong quá trình phát triển dịch vụ logisics trên địa bàn thành phố
Hà Nội hiện nay. Bởi vì, chất lượng dịch vụ luôn là nhân tố quan trọng hàng
đầu tạo nên uy tín, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều
kiện KTTT, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ logisics là biện pháp để
nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ logistics, kết hợp
lợi ích của cơ sở, doanh nghiệp đối với đối tượng phục vụ.
22


Nâng cao chất lượng dịch vụ logistics theo chiều sâu ở thành phố Hà
Nội hiện nay được biểu hiện: Hiện đại hóa hệ thống hạ tầng cơ sở, nâng cao
khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến vào quá
trình cung cấp dịch vụ logistics nhằm giảm chi phí đầu vào, đầu ra và nâng
cao chất lượng dịch vụ logistics có giá trị gia tăng cao đáp ứng nhu cầu của
các đối tượng phục vụ; Nâng cao năng lực cạnh tranh về dịch vụ logistics của
các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội; Hợp lý hóa các hoạt động
nhằm tiết kiệm chi phí về lao động, vốn đầu tư trong hoạt động logistics, đồng
thời có sự liên kết giữa các cơ sở, doanh nghiệp trong ngành nhằm đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của các đối tượng phục vụ. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính

sách phát triển dịch vụ logistics cho phù hơp với điều kiện tự nhiên, KT-XH
của Thủ đô, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, đẩy mạnh đào đạo
nguồn nhân lực ngành logistics có chất lượng cao.
Ba là, xây dựng cơ cấu dịch vụ logistics hợp lý ở thành phố Hà Nội
Xây dựng cơ cấu dịch vụ logistics trên địa bàn thành phố Hà Nội hợp lý
là nội dung quan trọng trong phát triển dịch vụ logistics ở thành phố Hà Nội
hiện nay. Cơ cấu dịch vụ logistics hợp lý là sự cân đối về cơ cấu lĩnh vực, cơ
cấu thành phần kinh tế phù hợp với tiềm năng, thế mạnh và phát huy tốt tiềm
năng, thế mạnh, tạo ra sự tác động mạnh mẽ thúc đẩy giữa các lĩnh vực và
thành phần kinh tế trong quá trình phát triển dịch vụ logistics của thành phố
Hà Nội. Xây dựng cơ cấu dịch vụ logistics trên các nội dung cơ bản như:
Cơ cấu hợp lý về lĩnh vực chuyên môn: Logistics trong vận tải, giao
nhận hàng hóa; dịch vụ kinh doanh kho bãi; logistics trong phân phối hàng
hóa. Các ngành này có quan hệ chặt chẽ với nhau và phải được phát triển
đồng bộ, cân đối nhằm phát huy tiềm năng thế mạnh của từng ngành và toàn
Thành phố nhằm đem lại hiệu quả KT-XH cao.
Phát triển dịch vụ logistics trên địa bàn thành phố Hà Nội hợp lý về cơ
cấu thành phần kinh tế biểu hiện ở việc huy động các thành phần kinh tế tham
23


gia vào lĩnh vực này một cách có hiệu quả, bao gồm: Doanh nghiệp có vốn đầu
tư nhà nước, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ logistics ở
thành phố Hà Nội
Bối cảnh của thị trường dịch vụ và xu hướng cung cấp dịch vụ logistics
toàn cầu đã tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ
logistics. Trong quá trình hoạt động và phát triển, hệ thống dịch vụ logistics
chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố. Việc xác định nhân tố cơ bản, tạo
tiền đề cho phát triển dịch vụ logistics thành phố Hà Nội sẽ giúp các nhà quản

lý nhà nước về logistics cũng như các doanh nghiệp logistics định hướng, xác
lập thứ tự ưu tiên trong đầu tư phát triển.
* Các nhân tố khách quan
Một là, xu hướng phát triển dịch vụ logistics trên thế giới:
Xu thế tất yếu của thời đại ngày nay là toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới. Toàn cầu hoá làm cho giao thương giữa các quốc gia, các khu vực trên
thế giới phát triển mạnh mẽ và đương nhiên sẽ kéo theo những nhu cầu mới
về vận tải, giao nhận hàng hóa, phân phối hàng hóa, kho bãi, các dịch vụ phụ
trợ… Xu thế mới của thời đại sẽ dẫn đến bước phát triển tất yếu của logistics
toàn cầu người ta gọi là Global Logistics. Chính xu hướng này đã mở ra các
điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics của ta
tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu này. Thể hiện ở một số nhân tố sau:
Thứ nhất, xu hướng ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử
ngày càng phổ biến và sâu rộng hơn trong các lĩnh vực của logistics:
Mạng thông tin toàn cầu đã, đang và sẽ tác động rất lớn đến nền kinh tế
thế giới. Quản trị hậu cần là một lĩnh vực phức tạp với chi phí lớn nhưng lại là
yếu tố chủ đạo, quyết định lợi nhuận của doanh nghiệp trong thương mại điện
tử. Xử lý đơn đặt hàng, thực hiện đơn hàng, giao hàng, thanh toán và thu hồi
hàng hóa mà khách hàng không ưng ý... là những nội dung của lĩnh vực hậu
24


cần trong môi trường thương mại điện tử. Một hệ thống hậu cần hoàn chỉnh,
tương thích với các quy trình của thương mại điện tử, đáp ứng được những
đòi hỏi của khách hàng trong thời đại công nghệ thông tin là yếu tố quyết định
thành công trong kinh doanh. Vì vậy, ứng dụng công nghệ thông tin, thương
mại điện tử như: hệ thống thông tin quản trị dây truyền cung ứng toàn cầu,
công nghệ nhận dạng bằng tần số vô tuyến… đang ngày càng được áp dụng
rộng rãi trong kinh doanh bởi vì thông tin được truyền càng nhanh và chính
xác thì các quyết định trong hệ thống logistics càng hiệu quả.

Thứ hai, xu hướng thuê dịch vụ logistics từ các công ty logistics chuyên
nghiệp ngày càng phổ biến:
Toàn cầu hoá nền kinh tế càng sâu rộng thì tính cạnh tranh lại càng gay
gắt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Dịch vụ logistics cũng vậy, để đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, thì ngày càng có nhiều nhà cung cấp
dịch vụ logistics ra đời và cạnh tranh quyết liệt với nhau. Bên cạnh những
hãng sản xuất có uy tín đã gặt hái được những thành công to lớn trong hoạt
động kinh doanh nhờ khai thác tốt hệ thống logistics như: Hawlett - Packerd
(Tập đoàn công nghệ thông tin HP), Sun Microsystems (Công ty sản xuất
phền mềm công nghệ thông tin), SKF (Công ty cung cấp công nghệ thiết bị),
Procter & Gamble (Tập đoàn hàng tiêu dùng đa quốc gia)… thì tất cả các
công ty vận tải, giao nhận cũng nhanh chóng chớp thời cơ phát triển và trở
thành những nhà cung cấp dịch vụ logistics hàng đầu thế giới với hệ thống
logistics toàn cầu như: TNT (Cty Giao hàng Logictics), DHL (Cty Chuyển
phát nhanh quốc tế), Maersk Logistics (Dịch vụ cung cấp tiếp liệu ngoài
khơi), APL Logistics (Tập đoàn vận tải toàn cầu), MOL Logistics (Cty Giao
nhạn vận tải quốc tế), Kuehne & Nagel (Cty Vận tải đường biển quốc tế),
Schenker (Giao thông vận tải và hậu cần),… Để tối ưu hoá, tăng sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp, nếu như trước đây, các chủ sở hữu hàng hóa lớn
thường tự mình đứng ra tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để đáp
25


×