Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP SẠCH ở THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.49 KB, 105 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hợp tác xã
Khoa học công nghệ

Chữ viết tắt
CNH, HĐH
HTX
KH - CN

Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Nông nghiệp, nông thôn
Nông nghiệp sạch
Quy trình sản xuất tốt

KT - XH
Nxb
NN,NT
NNS
GAP

Rau an toàn
Ủy ban nhân dân

RAT
UBND

Vệ sinh an toàn thực phẩm


VSATTP


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP SẠCH Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Những vấn đề chung về nông nghiệp sạch
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến

3
11
11

phát triển nông nghiệp sạch ở Thành phố Hà Nội
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

19

SẠCH Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thành tựu, hạn chế trong phát triển nông nghiệp sạch

33

ở Thành phố Hà Nội

2.2. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề

33

Chương 2:

đặt ra từ thực trạng phát triển nông nghiệp sạch ở
Chương 3:

Thành phố Hà Nội
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

45

NÔNG NGHIỆP SẠCH Ở THÀNH PHỐ HÀ
NỘI THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm phát triển nông nghiệp sạch ở Thành

57

phố Hà Nội
3.2. Giải pháp phát triển nông nghiệp sạch ở Thành phố Hà

57

Nội thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


63
88
90
96


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển, trên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng với việc đẩy
mạnh phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, thì nông nghiệp vẫn được
xác định là ngành có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Những năm qua, nông nghiệp đang có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt
được những thành tựu về năng suất, sản lượng và tỷ trọng nông phẩm hàng
hóa ngày càng tăng. Sản xuất nông nghiệp không chỉ đáp ứng được nhu cầu
trong nước mà còn hướng mạnh đến xuất khẩu mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam bên cạnh đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa về
năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của nông sản; hiện nay, nông
nghiệp nước ta đang đứng trước những thách thức không nhỏ, đó là: vấn đề ô
nhiễm môi trường, đất đai bạc màu, suy giảm đa dạng sinh học, ngộ độc thuốc
bảo vệ thực vật, bùng phát sâu bệnh do phá hủy hệ sinh thái xuất phát từ việc
sử dụng quá nhiều hóa chất... Khắc phục tình trạng này, nông nghiệp nước ta
đang đẩy mạnh tái cơ cấu; đề cao và từng bước chuyển sang sản xuất nông
nghiệp sạch (NNS), nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái.
Thành phố Hà Nội là địa phương nằm ở trung tâm khu vực Đồng bằng
Sông Hồng có một nền nông nghiệp phát triển lâu đời, người dân có nhiều
kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp; nhiều điều kiện thuận lợi về vị trí
địa lý, địa hình, khí hậu, đất đai, thủy văn cho phép Thành phố Hà Nội phát
triển nông nghiệp một cách đa dạng với nhiều mô hình và nhiều loại cây trồng

vật nuôi khác nhau. Bên cạnh đó, với vai trò là Thủ đô của cả nước có nhiều
điều kiện thuận lợi về kinh tế - xã hội cho phép Thành phố Hà Nội khai thác
một cách tối ưu để phát triển nông nghiệp với quy mô lớn, hiện đại. Nhận
thức được điều này, Thành phố Hà Nội đã triển khai nhiều phương thức để
phát triển các loại cây trồng, vật nuôi một cách hiệu quả nhất. Các mô hình
NNS được triển khai trên địa bàn nhiều huyện của Thành phố Hà Nội và đã
đạt được một số kết quả tích cực nhất định tạo ra được nhiều sản phẩm phong

3


phú, đa dạng, chất lượng, bảo đảm VSATTP được người tiêu dùng quan tâm,
không chỉ đáp ứng nhu cầu của Hà Nội và các địa phương khác, mà còn có
các sản phẩm đóng góp chung vào xuất khẩu nông sản của cả nước. Tuy
nhiên, đến nay phát triển NNS ở Thành phố Hà Nội còn nhiều hạn chế, bất
cập chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của các cấp ủy Đảng, chính
quyền và nhân dân. Dưới tác động của gia tăng dân số, tiến trình đô thị hóa,
diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm. Sự gia tăng nhanh mức độ ô nhiễm
môi trường do việc sử dụng vẫn còn nhiều các loại hóa chất như: phân hoá
học, thuốc bảo vệ thực vật, chất kháng sinh… Tổ chức quản lý nhiều khâu
chưa phù hợp; công tác kiểm tra, giám sát còn nhiều yếu kém; làm ảnh hưởng
đến giá trị sản xuất nông nghiệp, môi trường và sức khỏe người dân. Trước
tình hình này, đặc biệt nhu cầu về thực phẩm sạch, an toàn ngày càng cao;
việc phát triển NNS sẽ là hướng đi đúng đắn để nông nghiệp Thành phố Hà
Nội phát triển trong thời gian tới.
Phát triển NNS ở Thành phố Hà Nội đang đặt ra nhiều vấn đề về lý
luận và thực tiễn cần được quan tâm giải quyết. Vì vậy, tôi chọn đề tài
“Phát triển nông nghiệp sạch ở Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn
cao học chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

* Trên bình diện quốc gia có các công trình nghiên cứu liên quan đến
phát triển NNS
Hoàng Thị Ngọc Loan (2005), Thị trường tiêu thụ hàng nông sản
của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã khái quát lý luận chung về
thị trường, đặc điểm và các yếu tố tác động lên thị trường nông sản, làm rõ
thời cơ và thách thức đối với thị trường tiêu thụ hàng nông sản của Việt
Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; phân tích thực trạng , tác
giả đề cập đến chất lượng nông sản, nhất là nông sản sạch là yếu tố quan
trọng quyết định đến việc tiêu thụ nông sản của Việt Nam từ khi gia nhập
AFTA từ đó đề ra một số quan điểm và giải pháp phát triển thị trường tiêu

4


thụ nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA dưới góc độ kinh
tế học chính trị. Do phạm vi nghiên cứu nên tác giả chưa bàn đến nhiều các
sản phẩm tiêu thụ liên quan tới NNS.
Bùi Chí Bửu, Công nghệ sinh học và vấn đề phát triển nông nghiệp
của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 791,9/2008. Tác giả cho thấy công nghệ
sinh học là một tập hợp các ngành khoa học và công nghệ nhằm tạo ra các
quy trình công nghệ khai thác ở quy mô công nghiệp, để sản xuất các sản
phẩm có giá trị phục vụ đời sống, phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi
trường. Sự cần thiết và chiến lược áp dụng công nghệ sinh học trong sản xuất
nông nghiệp mở ra con đường phát triển NNS ở Việt Nam.
Vũ Văn Nâm (2009), Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân. Luận văn phân tích
những chuyển biến trong phát triển nông nghiệp theo xu hướng bền vững,
đó là đảm bảo giữ vững nhịp độ tăng trưởng ổn định và có hiệu quả trong
thời gian dài, giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong khu vực nông

nghiệp nông thôn, từng bước xây dựng một nền nông nghiệp theo hướng
phát triển sạch, môi trường tự nhiên được bảo vệ, hình thành các vùng nông
nghiệp sinh thái. Đưa ra những định hướng và giải pháp làm cơ sở cho phát
triển NNS của Việt Nam sau này.
Vũ Thị Minh (2013), “Phát triển nông nghiệp sạch và bền vững trên
thế giới và ở Việt Nam: Thực trạng và một số giải pháp”, Tạp chí Kinh tế
&Phát triển, số 196, 10/ 2013. Phát triển nông nghiệp theo hướng sạch và bền
vững là một trong những mục tiêu phấn đấu của ngành nông nghiệp Việt
Nam. Nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp theo tiêu chuẩn GAP là các phương
thức phát triển nông nghiệp sạch, đang được khuyến khích trên thế giới nhằm
đảm bảo cung cấp nông sản thực phẩm có chất lượng cao, an toàn cho người
tiêu dùng và không gây tổn hại đến môi trường. Tuy nhiên, bài báo viết về
NNS trên các mặt, các nội dung chưa thực sự thỏa đáng.

5


Huy Tuấn (2014), “Phát triển nông nghiệp sạch - Hướng đi mới trong
xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Cộng sản, số 94, 10/2014. Tác giả khái
quát tình hình phát triển nông nghiệp nay, tính cấp thiết phải sản xuất NNS
nhằm chuyển biến nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, hội nhập, góp phần
xây dựng nông thôn mới. Trong bài viết tác giả đưa ra các giải pháp phát triển
NNS, đặc biệt chú trọng việc đẩy mạnh ứng dụng KH - CN vào phát triển
NNS, chuyển biến nền nông nghiệp sang hướng hiện đại.
Trần Xuân Hòa (2016), “Vấn đề phát triển nông nghiệp công nghệ cao
vùng Đồng bằng Sông Hồng”, Tạp chí Tài chính kỳ II, số 15 tháng 7/2016. Bài
viết khẳng định: Phát triển nông nghiệp công nghệ cao là chìa khoá giúp Đồng
bằng sông Hồng tiếp tục thực hiện thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, khẳng định vai trò là động lực, cho sự phát triển chung của cả nước.
Tác giả chỉ ra thực trạng và đề xuất kiến nghị để phát triển nông nghiệp công

nghệ cao là một trong các giải pháp phát triển NNS ở Đồng bằng Sông Hồng.
Ngô Hoàng Linh (2016), “Ứng dụng công nghệ sinh học vì một nền
nông nghiệp sạch, an toàn”, Tạp chí khoa học - công nghệ, Nghệ An, số
5/2016. Tác giả bàn nhiều đến thực trạng nền nông nghiệp cả nước nói chung
và nông nghiệp Nghệ An nói riêng; việc sử dụng tràn lan các hóa chất thiếu an
toàn trong quá trình sản xuất nông nghiệp, NNS. Tác giả chỉ ra vai trò của
công nghệ sinh học, coi đó là động lực quan trọng để sản xuất NNS, an toàn.
Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp nghiên cứu, ứng dụng và sử dụng công
nghệ sinh học trong quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng một nền NNS,
an toàn.
Việc tổng quan như trên cho thấy, các công trình trên đã đề cập một số
vấn đề lý luận, giải pháp làm cơ sở để phát triển NNS ở nước ta; nhưng chưa
đề cập một cách toàn diên, hệ thống. Là một vấn đề mới, hiện chưa có nhiều
công trình đi sâu nghiên cứu, phân tích những đặc điểm trực tiếp tác động đến
quá trình phát triển NNS trên phạm vi cả nước, cũng như ở các địa phương.

6


* Các công trình nghiên cứu có liên quan đến phát triển NNS ở các địa
phương và Thành phố Hà Nội
Đào Duy Tâm (2010), Nghiên cứu giải pháp phát triển bền vững rau
an toàn ở Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Luận án đã đánh giá thực trạng phát triển bền vững RAT trên địa bàn Hà
Nội, phân tích những yếu tố tác động chính và nguyên nhân ảnh hưởng
đến phát triển bền vững RAT ở Hà Nội. Từ đó đề xuất, định hướng và một số
giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm phát triển bền vững RAT trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
Tác giả Hà Anh Đức (2011), Nghiên cứu giải pháp phát triển nông
nghiệp bền vững ở các xã nghèo của huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Luận văn thạc sĩ

kinh tế, Đại học nông nghiệp 1 Hà Nội. Đề tài đã hệ thống hóa những cơ sở lý
luận và thực tiễn đưa ra khái niệm về nông nghiệp, nông nghiệp và phát triển
nông nghiệp bền vững, nội dung của phát triển nông nghiệp bền vững, điều
kiện và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp bền vững. Đề tài
nghiên cứu thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững của các xã nghèo của
huyện Sóc Sơn. Tuy nhiên, đề tài chưa đề cập nhiều tới các vấn đề về phát
triển NNS trên địa bàn.
Đinh Đức Hiệp (2013), Nghiên cứu việc áp dụng VietGAP trong sản
xuất rau của Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Luận
văn đưa ra các quan niệm khác nhau trong sử dụng các phương pháp tiến bộ
trong sản xuất NNS nói chung và sản xuất rau ở Hà Nội nói riêng. Tác giả đề
cập đến vai trò quy trình sản xuất tốt (VietGAP) trong sản xuất nông nghiệp,
sản xuất rau của Hà Nội. Khẳng định các quy trình, tiêu chí của VietGAP là
cơ sở cho sản xuất rau sạch, an toàn; đồng thời, các gải pháp áp dụng
VietGAP trong sản xuất rau góp phần phát triển nền NNS ở Hà Nội.
Trần Ngọc Mạnh (2013), Phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội,
Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng. Luận văn đưa ra
những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp, nông nghiệp bền

7


vững. Làm rõ tính tất yếu, các nội dung phát triển nông nghiệp bền vững, chỉ
ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của nó, từ đó đưa ra các quan
điểm, giải pháp cần hướng tới sản xuất sản phẩm sạch, an toàn gắn với bảo vệ
môi trường ở Hà Nội.
Nguyễn Thị Hoài (2015), Phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Nam
Định hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng. Tác giả
nêu lên những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp. Đề cập
thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Nam Định, từ đó đưa ra các

quan điểm và giải pháp cơ bản để phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh
Nam Định. Tác giả đặc biệt chú ý đến vấn đề phát triển nông nghiệp phải gắn
với bảo vệ tài nguyên môi trường, hướng tới phát triển nông nghiệp theo
hướng sản xuất sạch, an toàn.
Trần Văn Sáng (2015), Phát triển nông nghiệp sạch ở huyện Lục Ngạn,
tỉnh Bắc Giang Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng. Luận
văn đã đề cập và phân tích làm rõ cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp sạch
dưới góc độ kinh tế học chính trị. Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng phát triển
nông nghiệp sạch ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang thời gian qua. Bước đầu
đề xuất quan điểm có tính định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
NNS, trên địa bàn huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
Các công trình trên đã tổng quan nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp
liên quan đến phát triển NNS ở các địa phương và Thành phố Hà Nội dưới
những góc độ khác nhau, đưa ra những số liệu, nhận định, đánh giá, phân tích
và đề xuất tương đối sâu sắc. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề đặt ra đối với mỗi
địa phương về phát triển NNS chưa được làm sáng tỏ. Đặc biệt là những tác
động đa chiều đến KT - XH của các địa phương, vấn đề tái cấu trúc nền kinh
tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi các địa phương phải nhận thức đầy đủ và
sâu sắc về phát triển nông nghiệp. Đảm bảo phát triển nông nghiệp vừa tăng
trưởng, vừa bảo vệ môi trường sinh thái cho các địa phương.

8


Tóm lại, các đề tài trên đã nghiên cứu làm rõ lý luận và thực tiễn về
phát triển nền nông nghiệp bền vững, nông nghiệp công nghệ cao trên phạm
vi cả nước hay trên địa bàn địa bàn một số địa phương và Thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, chưa có tác giả nào nghiên cứu về phát triển
NNS trên địa bàn Thành phố Hà Nội một cách toàn diện, hệ thống, từ cơ sở lý
luận, thực trạng, những vấn đề đang đặt ra; trên cơ sở đó, đề ra những chủ

trương, biện pháp phát huy những thế mạnh của Thành phố, tạo bước đột phá
không chỉ đối với NNS, mà còn thúc đẩy ngành nông nghiệp của Thành phố
phát triển. Chính vì vậy, việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu của tác giả là cần
thiết ở Thành phố Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển NNS trên địa
bàn Thành phố Hà Nội; trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm và giải pháp phát
triển NNS ở Thành phố trong những năm tiếp theo.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận về phát triển NNS nói chung và phát triển
NNS ở Hà Nội nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế phát triển NNS ở Thành phố
Hà Nội thời gian qua, chỉ ra nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những
vẫn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển NNS ở Thành phố Hà Nội
trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển nông nghiệp sạch.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu NNS dưới góc độ của chuyên ngành kinh tế
chính trị, trong nội dung luận văn chỉ tập trung nghiên cứu 2 lĩnh vực cơ bản
là chăn nuôi và trồng trọt. Hướng tiếp cận của luận văn trong nghiên cứu 2
lĩnh vực này là sự phát triển về số lượng, quy mô; về chất lượng và về cơ cấu.

9


Về không gian: Địa bàn Thành phố Hà Nội.

Về thời gian: Thời gian khảo sát từ 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của cấp ủy đảng và chính quyền
Thành phố Hà Nội để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển NNS, từ
đó xây dựng phương hướng và giải pháp phù hợp đẩy mạnh phát triển NNS ở
Thành phố Hà Nội.
* Cơ sở thực tiễn
Qua quá trình làm luận văn, người học điều tra, nghiên cứu, lấy số liệu
tại địa phương làm tư liệu cho luận văn. Chủ động làm việc với UBND các
cấp, Sở nông nghiệp Thành phố lấy tư liệu cho luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, bao gồm:
phương pháp nghiên cứu đặc thù của Kinh tế chính trị Mác - Lênin (phương
pháp trừu tượng hóa khoa học), cùng các phương pháp phân tích, tổng hợp
thống kê, so sánh, hệ thống hoá, khái quát hoá và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý hoạch định chủ
trương, chính sách phát triển NNS trên địa bàn Thành phố Hà Nội và có thể vận
dụng đối với các địa phương khác.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy môn Kinh tế chính trị liên quan đến vấn đề phát triển NNS.
7. Kết cấu đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu; phần nội dung: 3 chương (6 tiết);
phần kết luận; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

10



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP SẠCH
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Những vấn đề chung về nông nghiệp sạch
1.1.1. Quan niệm về nông nghiệp và nông nghiệp sạch
* Quan niệm về nông nghiệp
Nông nghiệp là sản xuất vật chất xuất hiện từ rất sớm, gắn liền với sự hình
thành và phát triển của loài người. Nông nghiệp là khái niệm được sử dụng để
chỉ ngành nghề hay sản nghiệp, vừa để phân biệt các ngành nghề sản xuất vật
chất khác như công nghiệp, dịch vụ. Theo bách khoa toàn thư Việt Nam: Nông
nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai để trồng
trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm nguyên liệu và tư liệu lao
động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công
nghiệp. Tuy nhiên, với những điều kiện khác nhau của các quốc gia hay các địa
phương người ta cũng có các quan niệm khác nhau về nông nghiệp, ở nước ta
quan niệm về nông nghiệp được khái quát trên hai khía cạnh sau:
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp gồm trồng trọt và chăn nuôi. Trong trồng
trọt được phân ra: trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây
ăn quả, cây thức ăn cho chăn nuôi, cây dược liệu,... chăn nuôi bao gồm: chăn
nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản, nuôi ong, nuôi tằm,... Sản phẩm nông nghiệp
thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng hằng ngày của con người, nguyên liệu cho công
nghiệp và một phần quan trọng khác đáp ứng nhu cầu mặc, dược liệu để làm
thuốc chữa bệnh, sức kéo cho sản xuất và vận tải. Trồng trọt và chăn nuôi có
mối liên hệ mật thiết với nhau: Trồng trọt cung cấp thức ăn cho chăn nuôi,
làm cho chăn nuôi phát triển và chăn nuôi cung cấp phân bón, sức kéo để tăng
sức sản xuất, kết hợp với trồng trọt tạo ra nền nông nghiệp bền vững.
Nông nghiệp theo nghĩa rộng, là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá
trình sinh học bao gồm cả nông nghiệp theo nghĩa hẹp (trồng trọt, chăn nuôi);
lâm nghiệp (trồng và khai thác, bảo vệ tài nguyên rừng), ngư nghiệp (đánh bắt


11


và nuôi trồng thủy sản); diêm nghiệp (làm muối). Nông nghiệp theo nghĩa rộng
thường được sử dụng trong phân tích mối quan hệ với công nghiệp và dịch vụ.
Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các ngành sản xuất có đối
tượng tác động là cây trồng, vật nuôi dưới tác động của điều kiện tự nhiên.
Quan niệm của nông nghiệp theo cách hiểu này làm cho sản xuất nông nghiệp
không bị hạn hẹp, phiến diện, theo đó nhiều tiềm năng, lợi thế của nền nông
nghiệp nhiệt đới nước ta mới được đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu quả.
Tuy nhiên, dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, thì nông nghiệp vẫn là
ngành sản xuất vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của
cây trồng và vật nuôi để sản xuất lương thực, thực phẩm...nhằm thỏa mãn nhu
cầu của con người và phát triển xã hội.
Đứng trước những nguy cơ tiềm ẩn nảy sinh từ những bất cập trong các
cách thức tiến hành sản xuất nông nghiệp trong thời gian vừa qua, nhiều nhà
khoa học đã đưa ra nhiều hướng sản xuất nông nghiệp khác nhau nhằm khắc
phục và loại trừ các nguy cơ có khả năng xuất hiện, đảm bảo cho nông nghiệp
phát triển tiến lên không ngừng. Nói một cách ngắn gọn và cô đọng các
hướng phát triển của sản xuất nông nghiệp xuất hiện trong thời gian gần đây
như: nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp sinh học, nông nghiệp hữu cơ, nông
nghiệp tự nhiên, nông nghiệp bền vững.
Đối với nước ta hiện nay, nông nghiệp và phát triển nông nghiệp là vấn
đề quan tâm lớn nhất của Đảng và Nhà nước. Để đảm cả về số lượng, chất
lượng, cơ cấu mà không ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe con
người, chúng ta đang quan tâm hướng tới phát triển NNS (nông nghiệp hữu
cơ) một cách phổ biến, rộng rãi.
* Quan niệm về nông nghiệp sạch
Ở Việt Nam vào những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước, sản xuất

nông nghiệp được xem là NNS. Lúc đó nguồn bổ sung để đảm bảo độ màu
mỡ của đất đai đều là chất hữu cơ (phân gia súc, cây xanh, bèo hoa dâu, chất
mùn từ rơm rạ,...). Người sản xuất không biết đến phân hóa học, thuốc trừ

12


sâu, thuốc diệt cỏ. Tuy nhiên, từ những năm 1970, do sức ép về dân số, về
nhu cầu lương thực, thực phẩm tăng lên nhanh chóng và cùng với đó là những
tiến bộ về khoa học kỹ thuật nên phân bón và thuốc bảo vệ vật nuôi cây trồng
được sản xuất từ các chất vô cơ (hóa chất) ngày càng trở nên phổ biến, gây ra
hậu quả tiêu cực cho môi trường sinh thái, tác động trực tiếp đến sức khỏe của
người sản xuất và người tiêu dùng. Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, khi Việt
Nam đã vượt ra khỏi khu vực các nước đói nghèo, đã đảm bảo đủ nhu cầu về
lương thực, thực phẩm cho xã hội và trở thành nước xuất khẩu lương thực với
khối lượng lớn, thì nhu cầu bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm được xã hội
đặc biệt quan tâm. Điều đó cũng làm xuất hiện các thuật ngữ: nông nghiệp
hữu cơ, NNS, nông nghiệp không chất độc hại,...
Thuật ngữ nông nghiệp sạch mới xuất hiện trong những năm gần đây,
cho nên đến nay chưa có định nghĩa đầy đủ về nó. Một số tác giả đưa ra
những định nghĩa khác nhau tùy theo đối tượng, mục đích nghiên cứu và cách
tiếp cận vấn đề.
Viện Nghiên cứu rau quả thuộc Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam
đưa ra khái niệm về rau sạch: là rau đảm bảo phẩm cấp, chất lượng, không bị
hư hại, giập nát, héo úa. Dư lượng thuốc trừ sâu bảo vệ thực vật, hàm lượng
nitrat và kim loại nặng trên địa bàn dưới mức cho phép. Không bị sâu bệnh,
không có vi sinh vật gây hại cho người và gia súc.
Theo GS,TS Đường Hồng Dật, trong khái niệm NNS người ta không
chú ý nhiều cũng như không giới hạn về cách thức sản xuất nông nghiệp mà
đặt trọng tâm chú ý vào sản phẩm của nông nghiệp, vào những hậu quả do

nông nghiệp gây ra đối với con người và môi trường.
Thực ra, sản phẩm của nông nghiệp trừ một phần rất ít làm nguyên liệu
cho công nghiệp như cao su, sợi thực vật v.v,… còn phần lớn là các loại lương
thực, thực phẩm và các sản phẩm phục vụ đời sống hàng ngày của con người.
Vì vậy, nếu hiểu theo nghĩa sạch là không có các chất, các loài sinh vật gây
hại cho người thì sản phẩm nông nghiệp bao giờ cũng phải sạch.

13


Theo Codex Alimentarius, cơ quan Liên hợp quốc giám sát các tiêu
chuẩn về lương thực trên toàn thế giới đã định nghĩa: NNS (hay còn gọi là
nông nghiệp hữu cơ) là một hệ thống quản lý sản xuất nông nghiệp tránh sử
dụng phân bón và thuốc trừ sâu tổng hợp, giảm tối đa ô nhiễm không khí, đất
và nước, tối ưu về sức khỏe và hiệu quả của các cộng đồng sống phụ thuộc
lẫn nhau giữa cây trồng, vật nuôi và con người.
Hiểu theo nghĩa chung nhất, NNS (còn được sử dụng với tên gọi nông
nghiệp hữu cơ) là khái niệm chỉ hiện trạng sản xuất nông phẩm theo một hệ
thống đồng bộ, hướng tới thực hiện các quá trình sản xuất gắn với kết quả
đảm bảo nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, vừa không gây tác hại cho
người sử dụng và không làm suy thoái, ô nhiễm môi trường sinh thái.
Các quan niệm trên dù còn có sự khác nhau, song cơ bản các nhà khoa
học đã có sự thống nhất trong quan niệm về NNS, đó là:
Về vị trí: NNS là một trong những phương thức sản xuất mới của ngành
nông nghiệp; với hệ thống tổ chức, quản lý riêng, bao gồm nhiều cách thức
sản xuất khác nhau trong hệ thống, mỗi cách thức sản xuất thực hiện sản xuất
để tạo ra những mặt hàng nông sản nhất định đáp ứng cho tiêu dùng.
Về vai trò: NNS có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sản xuất ra
các nông phẩm an toàn cho người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nâng cao hiệu quả
sản xuất nông nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái và sức khỏe người dân.

Về chức năng, nhiệm vụ: Các nhà khoa học đều thống nhất rằng, NNS
đảm nhiệm thực hiện các hoạt động sản xuất, bảo quản, cải biến, nâng cao giá
trị sản phẩm từ ngành nông nghiệp bằng phương pháp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, canh tác tiên tiến, giống cây trồng, vật nuôi mới, ít hoặc không sử
dụng các chất hóa học, chủ yếu sử dụng các chế phẩm sinh học,…bảo vệ môi
trường sinh thái và sức khỏe con người.
Về mục đích: NNS nhằm tạo ra những sản phẩm phong phú, đa dạng về
chủng loại, có chất lượng và giá trị gia tăng cao; dù trong các khâu canh tác,
chế biến, phân phối hay tiêu dùng đều nhằm duy trì sức khỏe của con người,
sự cân bằng của hệ sinh thái.

14


Như vậy, NNS là tiến hành sản xuất nông nghiệp với nhiều phương
thức khác nhau với mục đích không gây ra ô nhiễm môi trường và để tạo ra
những sản phẩm không mang các chất, các sinh vật có hại cho người sử dụng
trước mắt cũng như lâu dài. NNS là một hệ thống quản lý sản xuất nông
nghiệp tránh sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật tổng hợp, giảm tối đa
ô nhiễm không khí, đất và nước, tối ưu về sức khoẻ con người và vật nuôi.
Hiện tại có nhiều quan niệm khác nhau về nền NNS. Các quan niệm đó có thể
khác nhau về cách diễn đạt nhưng lại có điểm chung: đó là một nền nông
nghiệp bền vững về môi trường sinh thái, an toàn về sức khỏe cho người sản
xuất nông nghiệp và người tiêu dùng nông phẩm.
Từ sự phân tích nêu trên, theo tác giả: NNS là một phương thức sản xuất
mới của ngành nông nghiệp, đó là nền nông nghiệp dựa vào việc sử dụng các
phương pháp tổ chức sản xuất tiến bộ, phù hợp; nhằm tạo ra những nông phẩm
sạch đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm,bảo vệ sức khỏe con người và không gây
tác hại đến môi trường.
Từ những phân tích của các tổ chức, các nhà khoa học, tác giả thấy

rằng NNS là một phương thức phát triển của nông nghiệp phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh hiện nay. Nhất là trong điều kiện sự phát triển của KH - CN
cho phép ta sử dụng các giống cây trồng, vật nuôi ít sử dụng các loại phân
bón vô cơ, hóa chất, thuốc trừ sâu; các phương pháp canh tác mới tiên tiến ít
tác động đến môi trường tự nhiên. Bên cạnh đó, trong bối cảnh môi trường tự
nhiên đang bị ô nhiễm, xâm hại nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến sức khỏe
con người, thì NNS là hướng phát triển cần thiết và ưu tiên hiện nay.
1.1.2. Đặc trưng, tiêu chí nông nghiệp sạch
* Đặc trưng nông nghiệp sạch
NNS là một xu hướng mới của sản xuất NN, có vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ và mục đích riêng của nó. Cho nên NNS có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, NNS loại bỏ phần lớn việc sử dụng các loại hóa chất, phân
bón vô cơ, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, các chất điều tiết tăng trưởng của cây

15


trồng và các chất phụ gia, hooc môn trong thức ăn gia súc; nhưng vẫn đảm bảo
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế trong sản xuất
nông nghiệp. Đặc trưng này khác hẳn với nông nghệp thông thường, khi nông
nghiệp trong những năm qua vì mục năng suất và lợi nhuận đã sử dụng quá
nhiều các loại hóa chất nhằm hỗ trợ cho cây trồng vật nuôi sinh trưởng. Thực tế
NNS vẫn được phép sử dụng một lượng hóa chất tối thiểu, không vượt ngưỡng
quy định trong quá trình sản xuất, vì sản xuất NNS là hoạt động phức tạp, thực
hiện nhiều khâu, nhiều công đoạn, đảm bảo các hóa chất đó không ảnh hưởng
tới năng suất, chất lượng, môi trường và sức khỏe con người.
Thứ hai, nông dân canh tác dựa tối đa vào việc quay vòng mùa vụ và
tận dụng lại các phần thừa sau thu hoạch như rơm rạ, thân cây lạc, đỗ. Việc
canh tác chủ yếu dựa vào phương pháp sinh học (thay cho phương pháp hóa
học) để duy trì năng suất và cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng;

kiểm soát cỏ, côn trùng có hại và các loại sâu bệnh khác bằng các biện pháp
sinh học hoặc phương pháp truyền thống. Hiện nay với sự phát triển của KH
-CN, đã chế tạo ra nhiều loại chế phẩm sinh học như: phân vi sinh, thuốc vi
sinh, thảo dược,... áp dụng vào quá trình sản xuất thay thế cho các loại hóa
chất vô cơ một cách hiệu quả.
Thứ ba, NNS hướng tới mục tiêu vì sức khỏe của cộng đồng, trước hết
là người sản xuất và người tiêu dùng trực tiếp. Con người bao gồm cả người
sản xuất là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp khi sản xuất và tiêu thụ các sản
phẩm nông nghiệp. Do đó, sản xuất NNS bằng hình thức nào đều phải hướng
tới sức khỏe con người. Mục đích hàng đầu của NNS là tối đa hóa sức khỏe
cộng đồng, đồng thời bảo vệ các tài nguyên: đất đai, nguồn nước, không khí
cây trồng và vật nuôi. Quá trình sản xuất nông nghiệp, nếu lạm dụng các chất
vô cơ, các hóa chất độc hại, sẽ làm ô nhiễm môi trường sống (nước, không
khí) ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả mọi người. Ngoài ra nông sản không
an toàn sẽ gây nhiều hậu quả xấu cho người tiêu dùng.

16


* Tiêu chí nông nghiệp sạch
Nông nghiệp sạch là xu hướng mới trong sản xuất của ngành nông
nghiệp; cho nên, trên bình diện quốc gia, cũng như ở các địa phương chưa có
tiêu chí NNS được đưa ra áp dụng. Hiện nay, xu hướng phát triển NNS ở các
địa phương vẫn chủ yếu vận dụng theo tiêu chí của VietGAP hay tiêu chuẩn
sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Qua quá trình nghiên cứu những lý luận và thực
tiễn, tác giả xây dựng các tiêu chí NNS như sau:
- Nguồn nước được sử dụng trong sản xuất NNS phải là nguồn nước
sạch, không bị ô nhiễm (theo quy định trong tiêu chuẩn sản xuất rau an toàn
của TCVN 5942-1995). Tiêu chuẩn về nguồn nước còn được áp dụng cả trong
chăn nuôi, làm nước uống cho các loại gia súc, gia cầm; phun rửa chuồng trại.

- Không được dùng nước, lắng cặn ở hầm biogas để tưới cho cây.
- Khu vực sản xuất NNS phải được cách ly tốt khỏi các nguồn ô nhiễm
như các nhà máy, khu sản xuất công nghiệp, khu vực đang xây dựng, các trục
đường giao thông chính... Nếu ruộng gần kề có sử dụng các chất bị cấm trong
canh tác NNS thì ruộng phải có một vùng đệm để ngăn cản sự xâm nhiễm của
các chất hóa học từ ruộng bên cạnh. Cây trồng trong khu vực sản xuất NNS
phải trồng cách vùng đệm ít nhất là một mét (01 m). Nếu sự xâm nhiễm xảy
ra qua đường không khí thì cần phải có một loại cây trồng được trồng trong
vùng đệm để ngăn chặn bụi phun xâm nhiễm. Loại cây trồng trong vùng đệm
phải là loại cây khác với loại cây trồng trong khu vực sản xuất NNS. Nếu việc
xâm nhiễm qua đường nước thì cần phải có một bờ đất hoặc rãnh thoát nước
để tránh xâm nhiễm do nước bẩn tràn qua.
- Cấm sử dụng tất cả các loại phân bón hóa học trong sản xuất NNS.
Chỉ sử dụng phân vi sinh, chế phẩm sinh học, phân được ủ từ các loại thân
cây sau thu hoạch.
- Cấm sử dụng phân người. Phân động vật đưa vào từ bên ngoài trang
trại phải được ủ nóng trước khi dùng trong canh tác. Phân ủ phải được để xa
nơi đóng gói, sơ chế.

17


- Cấm sử dụng phân ủ từ rác thải đô thị, vì rác thải đô thị có nhiều tạp
chất, hóa chất, nhiễm kim loại nặng.
- Cấm sử dụng hoặc sử dụng một cách tối thiểu các loại thuốc bảo vệ
thực vật hóa học trong quá trình sản xuất.
- Cấm sử dụng các chất tổng hợp, hooc môn, chất kích thích tăng
trưởng trưởng.
- Cấm sử dụng kỹ thuật cấy phôi và nhân bản.
- Các thiết bị phun thuốc đã được sử dụng trong canh tác thông thường

không được sử dụng trong sản xuất NNS.
- Các dụng cụ đã dùng trong sản xuất nông nghiệp thông thường phải
được làm sạch trước khi đưa vào sử dụng trong sản xuất NNS, nhất là trong
trồng trọt.
- Nông dân phải duy trì việc ghi chép vào sổ tất cả vật tư đầu vào dùng
trong sản xuất NNS.
- Không được phép sản xuất song song, vừa sản xuất NNS, vừa sản
xuất nông nghiệp thông thường trong một khu vực.
- Các loại cây trồng, vật nuôi được sản xuất theo tiêu chuẩn NNS trọn vẹn
ở tất cả các khâu, sau khi thu hoạch có thể được bán như sản phẩm NNS.
- Các sản phẩm được sản xuất theo quy trình GAP, VietGAP, VietGAHP,
Lifshap.
- Cấm sử dụng tất cả các vật tư đầu vào có chứa sản phẩm biến đổi gen
GMOs, giống nhân tạo.
- Nên sử dụng các loại giống cây trồng vật nuôi được giữ gìn, nuôi
dưỡng bằng phương pháp tự nhiên. Cấm không sử dụng giống cây trồng vật
nuôi được xử lý bằng thuốc bảo vệ thực vật hóa học, giống nhân tạo.
- Nông dân phải có các biện pháp phòng ngừa xói mòn và tình trạng
nhiễm mặn đất.
- Túi và các vật đựng để vận chuyển và cất giữ sản phẩm hữu cơ đều
phải mới hoặc được làm sạch. Không được sử dụng các túi và vật đựng các
chất bị cấm trong sản xuất NNS.

18


- Thuốc bảo vệ thực vật bị cấm trong canh tác hữu cơ không được phép
sử dụng trong kho cất giữ sản phẩm hữu cơ.
- Khu vực sản xuất NNS trong chăn nuôi phải tách biệt với khu vực dân
cư (trên 2km).

- Đối với khu vực chuồng nuôi, mật độ tối thiểu cho động vật phải tuân
theo như sau:
Lợn
Lợn > 40 kg 1.1 m2 /con
Lợn nái
3.0 m2 /con
Lợn giống
0.6 m2 /con

Gà + vịt (ngan)
Gà một ngày tuổi
2.0 m2 /100con
3- 4 tuần tuổi
0.05 m2 /con
> 28 ngày tuổi
0.1 m2 /con

- Sản phẩm NNS sau khi thu hoạch, giết mổ phải được sơ chế, bảo
quản, quá trình này không được dùng các hóa chất, thuốc sơ chế, bảo quản.
- Toàn bộ bước vận hành và chế biến phải được thanh tra và cấp chứng
nhận đạt tiêu chuẩn.
- Cá sản phẩm NNS được đóng gói, dán nhãn mác, tem truy xuất nguồn
gốc, phân biệt với các sản phẩm nông nghiệp thông thường.
Trên đây là những tiêu chí NNS tác giả đã khái quát, làm căn cứ để các
địa phương, cũng như nông nghiệp Thành phố Hà Nội trong quá trình sản
xuất có thể áp dụng, thực hành tốt, có hiệu quả. Đây là tiêu chí bước đầu tác
giả nghiên cứu, tổng hợp, quá trình phát triển nông nghiệp trên phạm vi cả
nước và các địa phương, cần có sự tham gia của các các tổ chức, cá nhân, nhà
khoa học,… để hoàn thiện tiêu chí NNS.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển

nông nghiệp sạch ở Thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm phát triển nông nghiệp sạch ở Thành phố Hà Nội
Để phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn một cách bền vững, tạo
việc làm và tăng thu nhập cho nông dân. Trong bối cảnh tình hình sản xuất
nông nghiệp có nhiều biến động, nhất là biến động của thời tiết động và vấn đề
an toàn thực phẩm ngày càng được đề cao, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề

19


ra: “Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng
công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu” [23, tr.92].
Rõ ràng, sản xuất nông nghiệp luôn được coi là ngành sản xuất quan
trọng, có tiềm năng lớn của nước ta. Trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với
rất nhiều khó khăn, sản xuất nông nghiệp càng tỏ rõ vai trò rất quan trọng, góp
phần bảo đảm an sinh xã hội và an ninh lương thực, tăng kim ngạch xuất khẩu.
Vì vậy Ðảng và Nhà nước đã quan tâm nhiều tới nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, tăng mức đầu tư để khuyến khích nông nghiệp phát triển. Đặc biệt, chú
trọng đến phát triển nông nghiệp theo hướng sạch, an toàn cho sức khỏe người
dân. Do đó, tác giả quan niệm phát triển NNS ở Thành phố Hà Nội như sau:
Phát triển nông nghiệp sạch ở Thành phố Hà Nội là hoạt
động của các chủ thể nhằm làm gia tăng về quy mô, số lượng,
chất lượng và thay đổi cơ cấu NNS theo kế hoạch, quy hoạch
phát triển KT-XH của Thành phố, áp dụng các phương thức sản
xuất kinh doanh tiến bộ, phù hợp để tạo ra những nông sản
sạch có giá trị gia tăng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, góp
phần bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sức khỏe cho người sản
xuất và người tiêu dùng.
Nội hàm khái niệm phát triển NNS ở Thành phố Hà Nội được hiểu

trên một số khía cạnh cơ bản sau đây:
Chủ thể phát triển NNS ở Thành phố Hà Nội: là tổ chức Đảng, chính
quyền, các cấp trong Thành phố, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị xã
hội và người dân. Mỗi chủ thể trên có vị trí, vai trò khác nhau trong phát triển
NNS ở Thành phố Hà Nội.
Đối với Đảng bộ, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành chức năng trong
tỉnh cần sử dụng các công cụ và chính sách tác động vào quá trình sản xuất và

20


chế biến nông sản nhằm đảm bảo cho ngành nông nghiệp hoạt động hiệu quả,
giải quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia.
Đối với người sản xuất nông nghiệp cần nắm vững chủ trương, chính
sách của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp; thông tin thị trường, tổ chức
sản xuất đúng quy hoạch, đúng quy trình kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng và tính cạnh tranh của nông sản đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Đối với các cơ sở sản xuất, hộ gia đình, doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế cần nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở
các cấp, có kế hoạch tổ chức sản xuất ổn định, không ngừng nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế.
Mục đích của phát triển NNS ở Thành phố Hà Nội: thúc đẩy ngành
nông nghiệp phát triển cả về quy mô, chất lượng và hoàn thiện cơ cấu, nhằm
khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của Thành phố, tạo ra những mặt
hàng nông sản đa dạng phong phú về chủng loại, có chất lượng và giá trị gia
tăng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường; nâng cao thu nhập cho người sản xuất,
giải quyết các vấn đề xã hội gắn với bảo vệ môi trường và sức khỏe của người
sản xuất, người tiêu dùng.
Phương thức phát triển: vận dụng các quy luật kinh tế cơ bản trong nền
kinh tế thị trường, kết hợp sử dụng, khai thác các thế mạnh và các chính sách

tác động của hệ thống chính quyền các cấp để phát triển NNS; kết hợp tăng
cường đầu tư, xây dựng phát triển các mô hình NNS (VietGAP, GlobalGAP,
EuroGAP,…) với chuyển đổi, cải tạo, chuyển đổi, mở rộng, nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất các mô hình đã có. Quá trình canh tác không sử dụng hoặc
sử dụng ít các chất vô cơ ( thuốc trừ sâu, phân hóa học), an toàn cho người
sản xuất, người tiêu dùng và bảo vệ môi trường.
Thực chất cần được hiểu, phát triển NNS vẫn phải là nông nghiệp hữu
cơ, con đường sản xuất mà ông cha ta trước đây đã tiến hành; nhưng không phải
là nông nghiệp hữu cơ truyền thống như những năm 1960, 1970 mà là nông

21


nghiêp hữu cơ hiện đại. Từ đó đặt ra vấn đề đầu tư, vấn đề sử dụng các nguồn
lực, vấn đề nhận thức, vấn đề tổ chức, quản lý.
1.2.2. Nội dung phát triển nông nghiệp sạch ở Thành phố Hà Nội
Thứ nhất, mở rộng về quy mô, gia tăng số lượng các cơ sở sản xuất nông
nghiệp sạch
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và khai thác có
hiệu quả các thế mạnh từ nền nông nghiệp của Thành phố, trong thời gian tới
Thành phố Hà Nội đẩy mạnh phát triển NNS về quy mô, số lượng, cụ thể là:
Sắp xếp lại các cơ sở, mô hình NNS cho hợp lý. Phát triển các cơ sở sản
xuất của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trên cơ sở khai thác hiệu quả các thế
mạnh của từng vùng, từng địa phương trên địa bàn Thành phố. Do yêu cầu đầu
tư lớn các cơ sở sản xuất NNS phải đặt ở địa điểm được quy hoạch, thuận lợi về
điều kiện đất đai, thủy lợi, điện, giao thông, gần thị trường tiêu thụ và đặc biệt
phải ở gần vùng sản xuất tập trung có chính sách hỗ trợ, ưu tiên của nhà nước.
Nâng cấp, mở rộng các mô hình, cơ sở, doanh nghiệp sản xuất NNS hiện
có trong Thành phố, bao gồm đầu tư nâng cấp, mở rộng quy mô các dự án, cơ
sở, doanh nghiệp kinh doanh NNS, các kho tạm trữ, bảo quản, chế biến nông

sản; đầu tư, khuyến khích các cơ sở, mô hình đang hoạt động hiệu quả, mua
sắm máy móc, trang thiết bị phục vụ quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận
chuyển và tiêu thụ nông sản.
Đầu tư, thành lập các vùng, khu vực, cơ sở sản xuất NNS có quy mô
lớn một cách phổ biến ở các địa phương trong Thành phố. Đa dạng loại hình,
quy mô; hình thành các doanh nghiệp, cơ sở “đầu tàu” sản xuất các sản phẩm
NNS có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và sức cạnh tranh cao
trên thị trường.
Việc đầu tư xây dựng mới, cải tạo nâng cấp cơ sở sản xuất NNS phải
đảm bảo yêu cầu đúng quy hoạch, áp dụng công nghệ hiện đại, thiết bị tiên
tiến, quy mô phù hợp với từng vùng và sản phẩm nông nghiệp, khắc phục tình

22


trạng ô nhiễm môi trường, bảo vệ tài nguyên, đẩm bảo sản lượng năm sau cao
hơn năm trước.
Thứ hai, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh nông
nghiệp sạch
Sản phẩm của nông nghiệp hiểu theo nghĩa sạch là không có các chất, các
loài sinh vật gây hại cho người. Để đảm bảo chất lượng nông nghiệp sạch; trước
hết, không sử dụng hoặc sử dụng một cách tối thiểu và an toàn các chất vô cơ
(phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ, trừ sâu, chất kích thích tăng trưởng, giống vật
nuôi, cây trồng biến đổi gien) trong quá trình sản xuất. Sản xuất NNS phải bảo
đảm tối ưu hóa sức khỏe cho con người cũng như bảo đảm đời sống cộng
đồng, duy trì cân bằng sinh thái, mối quan hệ giữa cây trồng, vật nuôi và con
người. Do đó, cần xây dựng, phát triển nhiều dự án, mô hình VietGAP,
VietGAHP,... Quá trình chế biến, bảo quản cũng tuyệt đối không được dùng
các loại hóa chất, phụ phẩm gây ảnh tới sức khỏe người tiêu dùng. Xây dựng
các dự án hỗ trợ xây dựng hệ thống nuôi trồng, kho bãi, vận tải, chuỗi cung

ứng nông sản sạch trên thị trường. Quá trình lưu thông, tiêu dùng sản phẩm
phải được sự kiểm tra, kiểm duyệt chặt chẽ của các cơ quan chức năng đối với
các sản phẩm với mục đích bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng.
Không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh
cho sản phẩm NNS. Đầu tư quy mô, chiều sâu, hiệu quả trên cơ sở khai thác
tốt các nguồn lực, nhất là đất đai (vì đất đai là nguồn lực có hạn). Hiệu quả
được biểu hiện ở năng suất, chất lượng nông sản không ngừng được tăng lên;
lợi nhuận, lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng; thực hiện tốt việc
quay vòng trong sản xuất kinh doanh. Tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị, có sức
cạnh tranh cao trên thị trường, được người tiêu dùng tin tưởng, dễ dàng tiêu
thụ và đem lại lợi nhuận cao cho người sản xuất.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất NNS bằng việc tăng cường đầu
tư, ứng dụng KH - CN, nhất là công nghệ sinh học vào quá trình sản xuất.
Quá trình sản xuất tăng cường sử dụng các loại máy móc, phương tiện tiên

23


tiến để canh tác; sử dụng các loại chế phẩm sinh học, phân hữu cơ vi sinh thay
thế cho các loại hóa chất, phân bón vô cơ. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng
công nghệ sinh học để tạo ra các loại giống cây trồng, vật nuôi chất lượng,
đảm bảo trong quá trình sản xuất các cây trồng, vật nuôi phát triển tự nhiên, ít
phải sử dụng các loại hóa chất, thuốc kích thích để tăng trưởng.
Thứ ba, xây dựng cơ cấu sản xuất nông nghiệp sạch hợp lý
Cơ cấu sản phẩm của NNS: Tiến hành chuyển dịch nông nghiệp theo
hướng CNH, HĐH, chuyển dịch giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành một
cách hợp lý, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của
thị trường. Phát triển NNS của Thành phố phải đảm bảo cơ cấu sản phẩm
phong phú, đa dạng và bảm bảo chất lượng. Sự chuyển dịch cơ cấu sản phẩm
NNS phù hợp với xu hướng chung, theo hướng CNH, HĐH. Khi đẩy mạnh

phát triển NNS cần có sự chuyển dịch theo hướng tăng số lượng và tỷ trọng
các sản phẩm sản xuất theo hướng sạch, qua chế biến, tập trung vào các mặt
hàng chủ lực của Thành phố như: trồng trọt (rau, củ, quả, sản xuất chè, trồng
hoa, lúa gạo); chăn nuôi và chế biến thịt gia súc, gia cầm.
Cơ cấu vùng sản xuất NNS: việc xây dựng, đầu tư phát triển các
vùng khu, nơi sản xuất NNS cần có sự sắp xếp lại một cách hợp lý. Tăng
cường đầu tư, nâng cấp các vùng, khu, cở sở sản xuất NNS sẵn có trong
Thành phố. Di chuyển một số dự án, mô hình, cơ sở ra khỏi trung tâm
Thành phố, khu đông dân cư, nhất là trong chăn nuôi; tập trung vào các khu
vực nông thôn, trung du, miền núi để tận dụng tốt thế mạnh về điều kiện tự
nhiên. Tiếp tục xây dựng mới các vùng, các khu, cở sở có quy mô lớn gắn
với vùng sản xuất nông nghiệp tập trung (nhất là ở các vùng nông thôn).
Cân đối việc đặt các nơi sản xuất NNS một cách hợp lý giữa địa phương
trong Thành phố; đặc biệt các huyện, thị xã ngoại thành nhằm khai thác tốt
tiềm năng thế mạnh của Thành phố.
Cơ cấu thành phần kinh tế: trong thời gian tới ngành nông nghiệp và sản
xuất NNS của Thành phố cần đa dạng hóa các hình thức sở hữu và sự tham gia

24


của nhiều thành phần kinh tế, trong đó cần tập trung nâng cao năng lực, hiệu quả
của doanh nghiệp nhà nước; mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp tư nhân. Khuyến khích các hộ sản xuất cá thể, các hợp tác
xã, tổ hợp sản xuất với quy mô nhỏ trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ các sản
phẩm NNS. Thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thông thoáng
để các các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có điều kiện mở rộng sản
xuất kinh doanh. Có chính sách khuyến khích và gắn kết các chủ thể trong quá
trình phát triển NNS. Giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, doanh
nghiệp và người dân trong quá trình phát triển NNS gắn với bảo vệ môi trường

và phát triển kinh tế bền vững.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp sạch ở Thành
phố Hà Nội
* Điều kiện tự nhiên:
Vị trí địa lý: Hà Nội có diện tích khoảng 335.901ha [14, tr.13], nằm trong
vùng Đồng bằng sông Hồng; phía bắc tiếp giáp với các tỉnh: Thái Nguyên,
Vĩnh Phúc; phía nam giáp Hà Nam và Hoà Bình; phía đông giáp các tỉnh: Bắc
Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên; phía tây giáp Hoà Bình và Phú Thọ. Nằm trên
hành lang kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và trong khu vực tam giác
kinh tế trọng điểm phía Bắc. Với vị trí trên, thuận lợi cho NNS ở Thành phố Hà
Nội có điều kiện tiếp thu KH - CN, lao động,thuận lợi về giao thông, thị trường
tiêu thụ nông sản rộng lớn và có lợi thế cho xuất khẩu nông sản sang Trung
Quốc và các nước trong khu vực.
Tuy nhiên, do vị trí địa lý của Hà Nội gần các tỉnh có ngành nông nghiệp
phát triển như Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc,… đây là những địa phương rất
chú trọng phát triển NNS, lại có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi ngành
nông nghiệp phát triển. Do đó, sản phẩm NNS ở Thành phố Hà Nội phải cạnh tranh
khốc liệt về cả chủng loại, số lượng, chất lượng, mẫu mã, cũng như giá thành với
các địa phương trên.

25


×