Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN KINH tế hộ CHĂN NUÔI ở HUYỆN THẠC THẤT, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.86 KB, 97 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Bảo vệ Tổ quốc
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Hội đồng nhân dân
Khoa học - công nghệ
Khoa học - kỹ thuật
Kinh tế - xã hội
Kinh tế hộ
Kinh tế hộ chăn nuôi
Lực lượng sản xuất
Quốc phòng - An ninh
Sản xuất, kinh doanh
Uỷ ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BVTQ
CNH, HĐH
HĐND
KH - CN
KH - KT
KT - XH
KTH
KTHCN
LLSX
QP - AN
SX,KD
UBND
XHCN




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ CHĂN
NUÔI Ở HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1.
1.2.

Kinh tế hộ chăn nuôi và vai trò của nó trong phát triển kinh
tế - xã hội ở nông thôn
Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến
phát triển kinh tế hộ chăn nuôi ở huyện Thạch Thất,
thành phố Hà Nội

12
12

20

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ CHĂN
NUÔI Ở HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.
2.2.


Thành tựu, hạn chế, phát triển kinh tế hộ chăn nuôi ở
huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết từ thực trạng phát triển kinh tế hộ
chăn nuôi ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội

34
34

50

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
HỘ CHĂN NUÔI Ở HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI

3.1.
3.2.

Quan điểm phát triển kinh tế hộ chăn nuôi ở huyện
Thạch Thất, thành phố Hà Nội
Giải pháp phát triển kinh tế hộ chăn nuôi ở huyện Thạch
Thất, thành phố Hà Nội trong thời gian tới

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

60
60

65
82
84
90


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển chăn nuôi là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta,
nhằm góp phần đưa nền nông nghiệp nước ta vốn đã lạc hậu, năng suất, chất
lượng thấp và mang tính nhỏ lẻ lên sản xuất lớn theo kinh tế hàng hóa cao đã trở
thành đòi hỏi tất yếu khách quan với tất cả các địa phương trong cả nước hiện
nay. Ở Hà Nội, một trong những nội dung phát triển của nông nghiệp Thủ đô,
được Đại hội đại biểu lần thứ XVI của Đảng bộ Thành phố xác định: “Phát triển
chăn nuôi, thủy sản mô hình trang trại tập trung, ngoài khu dân cư, bảo đảm an
toàn vệ sinh thực phẩm và môi trường sinh thái,... ” [18, tr. 88]. Điều đó cho
thấy, phát triển chăn nuôi hiện nay đã và đang trở thành ngành sản xuất chính
trong nông nghiệp của toàn Thành phố, đồng thời là yêu cầu của các địa phương
trong vùng, và huyện Thạch Thất cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó.
Thạch Thất là huyện phía Tây ngoại thành Hà Nội, địa phương có khu
vực nông thôn rộng lớn, với diện tích 184,6 km². Trong đó chăn nuôi là ngành
giữ vị trí, vai trò rất quan trọng. Những năm tới, chăn nuôi của Huyện được
phát triển theo hướng: Mô hình chăn nuôi tập trung, cung cấp thực phẩm sạch,
có chất lượng, gắn chăn nuôi với tiêu thụ sản phẩm đã mang lại hiệu quả kinh
tế cao, nhất là mô hình chăn nuôi lợn, gà…[17, tr.7]. Để hiện thực hóa chủ
trương trên, huyện Thạch Thất đã và đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp,
trong đó phát triển KTHCN là một trong những nội dung thiết thực, là một yêu
cầu cần được quan tâm.
Trên cơ sở những chính sách kinh tế của Đảng, Nhà nước và của thành phố
Hà Nội, huyện Thạch Thất đã có những biện pháp tích cực khuyến khích và tạo

điều kiện cho KTH chăn nuôi phát triển: từ sự gia tăng về số lượng hộ chăn nuôi,
gia tăng số lượng đàn gia súc, gia cầm đến sự đa dạng, phong phú về mô hình tổ
chức, cách thức chăn nuôi. KTH chăn nuôi đã trở thành bộ phận quan trọng đóng
góp không nhỏ vào sự phát triển ngành chăn nuôi của huyện. Tuy nhiên thực tế
3


hiện nay cho thấy: Phát triển KTHCN trên địa bàn huyện Thạch Thất còn nhiều
bất cập thiếu tính ổn định và độ bền vững. Nhiều hộ chăn nuôi theo phong trào, tự
phát, thiếu kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn nên hiệu quả hoạt động
thấp, tính rủi ro cao. Các mô hình hộ chăn nuôi áp dụng công nghệ cao còn ít; sự
hợp tác, liên kết chuỗi giá trị còn thấp,... Do vậy, việc phát triển KTHCN ở huyện
Thạch Thất cho thấy còn nhiều vấn đề bất cập cần phải giải quyết. Xuất phát từ lý
do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Phát triển kinh tế hộ chăn nuôi ở huyện Thạch
Thất, thành phố Hà Nội”, làm luận văn tốt nghiệp cao học kinh tế chính trị.
2. Tinh hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Những năm qua, các nhà khoa học trong nước đã dành nhiều công sức
quan tâm nghiên cứu khá toàn diện và đa chiều về sự phát triển kinh tế nông
thôn, song vấn đề nổi trội được đề cập tập trung là “hộ”, "kinh tế hộ",
KTHCN được xem xét, luận giải khá toàn diện từ vị trí, vai trò, đặc điểm, con
đường phát triển đến mô hình tổ chức, quản lý, hướng tiếp cận rất phong phú
và đa dạng, dưới góc độ khác nhau, được công bố dưới dạng chuyên đề, luận
văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, các kỷ yếu hội thảo; đề tài cấp bộ, các bài viết
đăng trên các báo, tạp chí. Tiêu biểu có các công trình sau:
Hoàng Văn Chính (1993), “Những vấn đề chủ yếu về phát triển kinh
tế nông hộ ngoại thành Hà Nội”, Luận án phó tiến sỹ khoa học Kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Tác giả trình bày cơ sở hình thành và
phát triển kinh tế nông hộ trong nền nông nghiệp nửa tự nhiên đến nền nông
nghiệp đô thị ứng dụng công nghệ cao; đánh giá ưu khuyết điểm của kinh tế
nông hộ, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để

thúc đẩy quy mô, tốc độ phát triển của kinh tế nông hộ sản xuất sản phẩm
hàng hóa ở vùng ngoại thành Hà Nội.
Vũ Tuấn Anh, Trần Thị Vân Anh (1997), “Lịch sử và triển vọng phát triển
kinh tế hộ”, Nhà xuất bản KHXH. Trong công trình nghiên cứu, tác giả đã làm rõ
ảnh hưởng của công cuộc đổi mới tới sự phát triển KT - XH của loại hình kinh tế
4


này. Các tác giả đã trình bày những khái niệm cơ bản và cách tiếp cận nghiên cứu,
phân biệt hộ và gia đình theo 3 tiêu thức: hộ là một đơn vị kinh tế và tế bào xã hội
với tư cách là đơn vị kinh tế, đơn vị tiêu dùng, tế bào xã hội; đồng thời, phân loại
dựa trên các yếu tố tự nhiên, yếu tố kinh tế, yếu tố xã hội. Điểm qua sự phát triển
của KTH trong lịch sử Việt Nam nhằm thấy được di sản lịch sử và những yếu tố KT
- XH truyền thống tác động tới sự phát triển KTH đương đại, đặc biệt chú trọng tới
quan hệ về giới trong mối quan hệ trọng yếu trong gia đình và xã hội. Nêu lên một
số vấn đề mà KTH đang đương đầu trong sự phát triển hiện nay.
Vũ Thị Ngọc Trân (1997), Phát triển kinh tế nông hộ sản xuất hàng
hoá ở vùng đồng bằng sông Hồng, Nhà xuất bản Nông nghiệp. Tác giả đã tập
trung phân tích thực trạng về phát triển KTH nông dân sản xuất hàng hoá ở
vùng đồng bằng sông Hồng: các yếu tố sản xuất kinh doanh, đất đai, lao động,
nguồn vốn, hệ thống nông cụ sản xuất, cơ cấu sản xuất kinh doanh, kỹ thuật
canh tác, quy mô sản xuất và kết cấu, môi trường sản xuất kinh doanh; sự tăng
trưởng, hoạt động của KTH nông thôn và thành thị; đóng góp của KTH cho
sự nghiệp đổi mới theo thời kỳ lịch sử gắn với những chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước trên các vùng sinh thái; những kết quả đã đạt được và
những hạn chế, tồn tại cũng như phương hướng và những giải pháp chủ yếu
để thúc đẩy hơn nữa phát triển sản xuất hàng hoá của KTH nông dân.
Nguyễn Đăng Bá (2000), “Phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân ở
Hải Dương với bảo đảm nguồn nhân lực cho khu vực phòng thủ tỉnh”, luận
văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị. Đề tài trình bày một cách khá cụ thể,

hệ thống những lý luận cơ bản về khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của KTH
nông dân đối với sự phát triển KT - XH ở tỉnh Hải Dương; khảo sát thực
trạng, đánh giá thành tựu hạn chế, chỉ ra nguyên nhân, phát hiện những mâu
thuẫn cần được giải quyết, xác định phương hướng cơ bản đồng thời đưa ra
những giải pháp nhằm tiếp tục phát triển KTH nông dân với bảo đảm nguồn
nhân lực cho khu vực phòng thủ tỉnh Hải Dương.
5


Từ Kim Xuyến (2001), Những giải pháp phát triển KTH nông dân vùng đồi
gò tỉnh Hà Tây, luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân. Tác giả đã hệ
thống hoá vấn đề lý luận cơ bản về KTH nông dân, nghiên cứu và đánh giá thực
trạng những kết quả đạt được và tồn tại của KTH nông dân vùng đồi gò tỉnh Hà
Tây; đồng thời làm rõ những tiềm năng phát triển, đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển KTH nông dân vùng gò đồi Hà Tây. Tuy nhiên, những vấn đề tác
giả nêu ra chỉ trong phạm vị hẹp (vùng gò đồi) trong tỉnh, đối tượng nghiên cứu
thuộc ngành kinh tế nông nghiệp nên chỉ bàn đến một chủ thể là KTH nông dân.
Cho nên, chưa đánh giá hết được lợi thế vị trí, tiềm năng nguồn lực, lợi thế so sánh
trong phát triển đa dạng ngành nghề và tinh nghề của KTH theo hướng sản xuất
hàng hoá, hiệu quả, bền vững và hội nhập WTO, TPP.
Nguyễn Tiến Dĩnh (2003),“Hoàn thiện các chính sách kinh tế phát
triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Thành phố Hà Nội theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
hành chính Quốc gia. Tác giả đã đề cập những lý luận cơ bản về chính sách
kinh tế, thực trạng tác động của các chính sách kinh tế thúc đẩy kinh tế nông
nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội phát triển theo hướng nông nghiệp đô
thị, sinh thái thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Lâm Quang Huyên (2004), Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong
nông nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, tác giả đã luận giải cơ sở lý luận và
thực tiễn về vấn đề KTH nông dân theo tư tưởng của Mác-Ăngghen, Lênin,

Traianôp và Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ những khái niệm chung về hộ,
nông hộ, trang trại; KTH nông dân Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử: trước
Cách mạng tháng Tám, sau Cách mạng tháng Tám, KTH nông dân từ sau đổi
mới; chỉ rõ vai trò của Nhà nước đối với KTH trong nông nghiệp.
Nguyễn Văn Đoàn (2005), “Thực trạng và giải pháp phát triển hộ kinh
doanh cá thể ở nước ta”, Tạp chí con số và sự kiện. Tác giả đã trình bày về một
số nét phát triển của hộ kinh doanh cá thể sau 20 năm đổi mới và chỉ rõ loại hình
6


kinh tế này phát triển khá mạnh mẽ, trở thành LLSX và ngày càng khẳng định
được vị thế của mình trong nền kinh tế thị trường. Quan trọng hơn là sự phát
triển hộ kinh doanh cá thể khơi dậy được tiềm năng kinh tế của đất nước và giải
quyết việc làm cho cả khu vực nông thôn và thành thị. Mặt khác, tác giả cũng chỉ
ra những hạn chế, yếu kém của loại hình kinh tế này: qui mô nhỏ, manh mún,
thiết bị công nghệ lạc hậu, cơ cấu ngành nghề bất hợp lý, tổ chức và năng lực
kinh doanh thấp, chưa bắt kịp với xu thế mở cửa.
Lê Xuân Đình (2008),“Bức tranh kinh tế hộ nông dân hiện nay và một
số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản online. 16:35' 14/4/2008. Tác giả luận
giải: Trong lịch sử phát triển kinh tế quốc dân, thời kỳ nào vai trò của hộ gia
đình cũng rất quan trọng, vì nó không những là “tế bào” của xã hội, là đơn vị
sản xuất và bảo đảm cuộc sống cho tất cả các thành viên trong gia đình, mà
còn là chủ thể tiêu dùng rất đa dạng của nền kinh tế. Nhưng trước xu thế quốc
tế hóa nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng hiện nay, phải nhận rõ những khó
khăn để có thêm những chính sách có tính chất đột phá nhằm tạo động lực
mới, thật sự mạnh mẽ làm cho kinh tế hộ phát triển. Tác giả đề cập 3 vấn đề:
(1) - Đổi mới vị trí, vai trò của KTH; (2) - Những kết quả tích cực bước đầu;
(3) - Khó khăn và thách thức trong thời gian tới.
Trần Trọng Tiến (2010),“Phát triển KTH ở khu vực nông thôn Hà Nội
và tác động của nó đến chuẩn bị kinh tế cho thực hiện nhiệm vụ quân sự,

quốc phòng trên địa bàn hiện nay”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị. Tác giả trình bày những vấn đề lý luận về phát triển KTH trên thế giới và
Việt Nam; khảo sát thực trạng phát triển KTH trên địa bàn thành phố Hà Nội;
đánh giá thành tựu hạn chế, nguyên nhân, những vấn đề cần giải quyết. Trên
cơ sở đó, đề xuất quan điểm, giải pháp có tính khả thi cho phát triển KTH và
tác động của nó đến chuẩn bị kinh tế cho thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng trên địa bàn thành phố Hà Nội.

7


Đỗ Văn Quân (2012),“Phát triển KTH gia đình trong tiến trình xây dựng
nông thôn mới ở đồng bằng sông hồng hiện nay”, Viện Xã hội học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã luận giải chính sách của
Đảng, Nhà nước về vai trò của nông nghiệp, nông thôn và nông dân, về phát triển
KTH và xây dựng nông thôn mới trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước;
Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, tạo
điều kiện cho KTH gia đình phát triển. Trên cơ sở đó, khẳng định: Kinh tế hộ gia
đình là một lực lượng sản xuất quan trọng ở nông thôn Việt Nam. Hộ gia đình
nông thôn thường sản xuất, kinh doanh đa dạng, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi,
tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh ngành nghề phụ.
Trần Thanh Giang (2013), “Quá trình xác lập và phát triển của kinh tế hộ
nông dân ở nước ta trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, sô 1
năm 2013.Trong bài báo, tác giả đã khái quát lịch sử hình thành, phát triển của
KTH nông dân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; chỉ rõ những khó khăn, thách
thức trong quá trình phát triển KTH ở nước ta. Theo tác giả, trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH và mở rộng hội nhập quốc tế, KTH đang đứng trước nhiều
thách thức to lớn, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách hỗ trợ kịp thời, hiệu quả.
Ngô Quang Vịnh (2014), Phát triển kinh tế hộ dịch vụ nông nghiệp ở tỉnh
Hưng Yên hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị. Đề tài

đã luận giải những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về phát triển kinh tế hộ dịch
vụ nông nghiệp, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế hộ
dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn Hưng Yên trong thời gian tới.
Ngoài ra còn nhiều công trình đề cập từng mảng vấn đề cụ thể như: “KTH,
khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng” Nguyễn Hữu Huân, Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế, số 4/1993. “Phát triển KTH nông dân tại Việt Nam” Nguyễn Văn Công, Tạp
chí Dự báo và Kinh tế, số 16/2013. “Xây dựng KTH gia đình thành đơn vị sản
xuất hàng hóa” Vương Cường, Tạp chí Cộng sản, số 12/1992.

8


Những công trình mà tác giả nghiên cứu, thu thập được nêu trên, với nhiều
góc độ nghiên cứu, tiếp cận cả phương diện lý luận và thực tiễn trực tiếp đến vấn
đề về phát triển kinh tế hộ liên quan đến đề tài, có một số điểm chung là:
Các công trình khoa học đã đề cập đến khá nhiều khía cạnh khác nhau của
KTH nói chung. Trong đó tập trung chủ yếu nghiên cứu khái niệm hộ, gia đình,
KTH gia đình; luận giải mục đích, đặc điểm và cấu trúc hiện tại của KTH; chỉ ra
sự cần thiết phải đẩy mạnh tiến hành hoạt động KTH trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế. Những công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu
về KTH gia đình trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn chủ yếu được nghiên
cứu dưới góc độ của kinh tế kỹ thuật ở một số địa phương. Một số công trình
tiếp cận dưới góc độ nghiên cứu của kinh tế chính trị, nhưng cũng mới chỉ bàn
về sự phát triển của KTH gia đình nói chung hoặc trên bình diện của một tỉnh,
mà không đi sâu về KTHCN ở một địa phương cụ thể.
Các công trình chỉ ra: Phát triển KTH, cần được đặt đúng vị trí nghiên
cứu là những hạt nhân cơ bản trong việc phát triển kinh tế ở nông thôn; KTH là
hình thức tổ chức kinh tế cơ sở, xuất hiện và tồn tại lâu dài, thể hiện rõ vai trò
tính tích cực trong quá trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; chứa
đựng các yếu tố, các nguồn lực của quá trình tái sản xuất như lao động, vốn, kỹ

thuật, đất đai; muốn phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trước hết phải
phát triển KTH gia đình. Hiện nay, sự kết hợp những ngành, những công việc
khác nhau, KTH tạo ra động lực sản xuất mới ở nông thôn, tạo ra nhiều việc
làm, phù hợp với phát triển kinh tế thị trường.
Những nghiên cứu của các công trình nêu trên có nhiều khía cạnh hợp
lý, là tài liệu quý cho tác giả nghiên cứu đề tài; đã giúp cho đề tài tác giả
hiểu rõ hơn về vai trò, nội dung, đặc điểm của KTH ở nông thôn, từ đó hình
thành phương pháp luận và hướng tiếp cận để xây dựng cơ sở lý luận và
thực tiễn của vấn đề phát triển KTH chăn nuôi, làm cơ sở xây dựng nội

9


dung, giải pháp phát triển KTHCN ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
hiện nay dưới góc độ nghiên cứu của kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận thực tiễn, đánh giá thực trạng phát triển
KTHCN ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội hiện nay; trên cơ sở đó đề
xuất quan điểm và giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển KTHCN ở huyện
Thạch Thất, thành phố Hà Nội thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển KTHCN.
- Đánh giá thực trạng phát triển KTHCN ở huyện Thạch Thất, thành
phố Hà Nội thời gian qua.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KTHCN ở huyện Thạch
Thất, thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển kinh tế hộ chăn nuôi dưới góc độ kinh tế chính trị.

* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về phát triển KTHCN bao gồm sự phát
triển về số lượng, quy mô, trình độ và cơ cấu KTHCN.
Về không gian Luận văn nghiên cứu phát triển KTHCN ở huyện Thạch
Thất, thành phố Hà Nội.
Về thời gian: Luận văn tập trung phân tích, nghiên cứu khảo sát số liệu, tư
liệu từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận, thực tiễn
Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh
10


tế của Đảng, Nhà nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội,
Đảng bộ huyện Thạch Thất về phát triển ngành chăn nuôi nói chung, KTHCN
nói riêng. Đồng thời, luận văn sử dụng số liệu trên các tài liệu thu thập được và
kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã công bố.
Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa trên kết quả nghiên cứu thực trạng phát
triển KTHCN ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, các báo cáo tổng kết, số
liệu thống kê đánh giá của các cơ quan, ban, ngành ở huyện, các công trình liên
quan đến đề tài đã được công bố, kết quả điều tra khảo sát nghiên cứu thực tế
của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài tuân theo cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử để luận giải phân tích các vấn đề. Trên cơ sở phương
pháp luận chung đó, luận văn được thực hiện sử dụng phương pháp của khoa
học kinh tế chính trị: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp các phương
pháp lôgíc và lịch sử; phân tích, tổng hợp; thống kê so sánh và phương pháp
chuyên gia để làm sáng tỏ những nội dung của đề tài đặt ra.

6. Ý nghĩa của đề tài
Với kết quả đạt được, luận văn được thực hiện thành công góp phần làm
sáng tỏ thêm cơ sở lý luận khoa học cho việc phát triển KTHCN ở huyện Thạch
Thất, Thành phố Hà Nội trong quá trình CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn,
hội nhập phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kết quả nghiên cứu
của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, chính quyền
cơ sở huyện Thạch Thất trong hoàn thiện cơ chế, chính sách, giải pháp phát
triển KTHCN; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên
cứu, giảng dạy những nội dung liên quan ở các trường đại học, cao đẳng trong
và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài

11


Gồm phần mở đầu, nội dung luận văn 3 chương (6 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ CHĂN NUÔI
Ở HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Kinh tế hộ chăn nuôi, vai trò của nó trong phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn
1.1.1. Quan niệm về kinh tế hộ chăn nuôi
* Về chăn nuôi
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, việc chăn nuôi các loài
vật bắt nguồn từ quá trình chuyển đổi lối sống của loài người sang định canh
định cư chứ không còn sinh sống kiểu săn bắt hái lượm. Con người đã biết

thuần hóa động vật và kiểm soát các điều kiện sống của vật nuôi. Dần theo
thời gian, các hành vi tập thể, vòng đời, và sinh lý của vật nuôi đã thay đổi
hoàn toàn. Vì vậy, chăn nuôi thường được nói đến như một ngành kinh tế
truyền thống. Xã hội loài người càng phát triển, nhu cầu con người ngày càng
cao thì vai trò của chăn nuôi càng được khẳng định.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư: “Chăn nuôi là một ngành quan trọng
của nông nghiệp hiện đại, nuôi lớn vật nuôi để sản xuất những sản phẩm như:
thực phẩm, lông, và sức lao động. Sản phẩm từ chăn nuôi nhằm cung cấp lợi
nhuận và phục vụ cho đời sống sinh hoạt của con người” [29].
Tác giả thống nhất với khái niệm trên. Như vậy, chăn nuôi là một trong
hai ngành sản xuất chủ yếu của kinh tế nông nghiệp. Đối tượng sản xuất là các
loại động vật nuôi; phương thức hoạt động của chăn nuôi là nuôi lớn
vật nuôi; nhằm mục đích sản xuất những sản phẩm cung cấp trên thị trường, tạo
ra lợi nhuận và đáp ứng nhu cầu cho đời sống sinh hoạt của xã hội.
Ngành chăn nuôi cung cấp các sản phẩm có giá trị kinh tế cao như thịt,
trứng, sữa,... nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu hàng ngày của
người dân. Một xu hướng tiêu dùng có tính qui luật chung là khi xã hội phát
triển, thì nhu cầu tiêu dùng về các sản phẩm chăn nuôi, ngày càng tăng lên so
13


với các sản phẩm nông nghiệp nói chung. Chăn nuôi là ngành cung cấp nhiều
sản phẩm làm nguyên liệu quí giá cho các ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm và dược liệu. Chăn nuôi còn là ngành ngày càng có vị trí, vai trò quan
trọng trong việc cung cấp các sản phẩm đặc sản tươi sống và sản phẩm chế
biến có giá trị cho xuất khẩu.
Xã hội càng phát triển, mức tiêu dùng của người dân về các sản
phẩm chăn nuôi ngày càng tăng lên cả về số lượng, chất lượng, quy mô và
cơ cấu sản phẩm. Do vậy, mức đầu tư của xã hội cho ngành chăn nuôi ngày
càng có xu hướng tăng nhanh ở hầu hết mọi nền nông nghiệp. Sự chuyển

đổi có tính qui luật trong đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp là chuyển
dần từ sản xuất trồng trọt sang phát triển chăn nuôi, trong ngành trồng trọt,
các hoạt động trồng ngũ cốc cũng chuyển hướng sang phát triển các dạng
hạt và cây trồng làm thức ăn chăn nuôi.
Như vây, chăn nuôi đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng thu nhập
ở các vùng nông thôn Việt Nam, chủ yếu theo quy mô hộ gia đình. Sản phẩm
của các hộ chăn nuôi chiếm tới 70% sản lượng thực phẩm ngành chăn nuôi.
Thực tế này cho thấy tiềm năng phát triển ngành nghề chăn nuôi chuyên
nghiệp, quy mô ở nước ta rất lớn, là cơ hội cho những ai có niềm đam mê
phát triển nghề chăn nuôi.
* Về kinh tế hộ
Về KTH (KTH gia đình), đã có nhiều quan niệm khá phong phú và có
nhiều định nghĩa khác nhau. Trong tính phong phú và đa dạng đó có điểm chung
là dưới góc độ kinh tế thì khái niệm “hộ” được hiểu là “KTH”; đều tiếp cận
KTH là một đơn vị kinh tế tự chủ SX,KD trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn.
Tiếp cận về phương diện thống kê, Liên hợp quốc đưa ra quan niệm:
“Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và
có chung một ngân quỹ” [43, tr.99].

14


Ở Việt Nam, vấn đề KTH vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết.
Hộ, KTH, kinh tế gia đình là những khái niệm còn chưa được thống nhất. Cho
đến nay chưa có một cuộc hội thảo nào bàn về học thuật xung quanh KTH và
các phương pháp nghiên cứu về KTH. Dường như có sự mặc nhiên thừa nhận
“hộ” là “gia đình”, “KTH” chính là “kinh tế gia đình”. Thực tế cho thấy, hộ là
gia đình, không có hộ nào lại không phải là gia đình; KTH là kinh tế gia đình.
Nghiên cứu KTH dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, Tiến sỹ Trần

Trọng Tiến cho rằng: “KTH là loại hình kinh tế cơ sở, độc lập tự chủ lấy gia
đình làm đơn vị tổ chức SX,KD hoạt động kinh tế phổ biến ở nông thôn trong
sản xuất nông nghiệp, các làng nghề, các hoạt động dịch vụ, dựa trên TLSX
và sức lao động của gia đình là chủ yếu để tạo ra các sản phẩm hàng hoá
đáp ứng nhu cầu của thị trường và xã hội [43, tr.29].
Tác giả thống nhất cao với khái niệm trên, quá trình phân tích ở luận
văn này theo hướng hiểu KTH chính là kinh tế gia đình, là bộ phận kinh tế cá
thể, tiểu chủ nằm trong thành phần kinh tế tư nhân.
Với quan niệm trên: KTH là một đơn vị kinh tế cơ sở, độc lập tự chủ,
phản ánh trình độ phát triển trong quá trình thống nhất giữa việc sở hữu, quản lí,
sử dụng các yếu tố sản xuất (vốn, lao động, công nghệ, TLSX khác); thống nhất
giữa sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng trong một đơn vị kinh tế.
* Quan niệm về kinh tế hộ chăn nuôi
Trên cơ sở nghiên cứu về chăn nuôi, cùng với cách tiếp cận về KTH,
dưới góc độ nghiên cứu của khoa học kinh tế chính trị, tác giả cho rằng: KTHCN
là một loại hình KTH chuyên về lĩnh vực chăn nuôi ở nông thôn, lấy gia đình
làm đơn vị SX,KD, tự đầu tư vốn, TLSX và trực tiếp tiến hành chăn nuôi để
tạo ra các sản phẩm hàng hóa, trước hết đáp ứng nhu cầu của thị trường, gia
đình và xã hội.
Với quan niệm KTHCN nêu trên phản ánh:
Cũng như KTH nói chung, KTHCN là một loại hình kinh tế độc lập tự chủ lấy
gia đình làm đơn vị tổ chức SX,KD đối tượng sản xuất là các loại động vật nuôi, các

15


yếu tố sản xuất đòi hỏi trình độ kỹ thuật, tổ chức và quản lý, trong chăn nuôi có hạch
toán kinh tế, nhằm tạo ra lợi nhuận và đáp ứng nhu cầu của thị trường và xã hội.
Đó là tổng thể các mối quan hệ KTHCN trong hoạt động kinh doanh
nông nghiệp, xét ở phạm vi chăn nuôi, cho thấy phát triển KTHCN là sự lớn

mạnh về mọi mặt trong một khoảng thời gian cụ thể, đặc biệt không chỉ đơn
thuần về chăn nuôi được thể hiện qua lợi nhuận, doanh thu, qui mô, sản
lượng,… mà còn hoàn chỉnh về cơ cấu.
Kinh tế hộ chăn nuôi là nền tảng, một bộ phận của nền sản xuất trong
nông nghiệp, khác với các ngành sản xuất khác: Lâm nghiệp phụ thuộc nhiều
vào điều kiện đất đai, khí tượng và thời tiết; nhưng đối với chăn nuôi đó chỉ là
những ảnh hưởng tác động đến vật nuôi, nó phụ thuộc chính vào điều kiện
chăm sóc, nuôi dưỡng của các chủ hộ. Sản phẩm của chăn nuôi phục vụ trực
tiếp nhu cầu, tiêu dùng của đại đa số người dân.
Kinh tế hộ chăn nuôi là sự phát triển tất yếu của qui luật sản xuất hàng
hoá, trong điều kiện kinh tế thị trường, xuất phát từ nhu cầu thị trường, do vậy
các yếu tố đầu vào như vốn, giống, lao động, KH - CN, cũng như các sản
phẩm đầu ra của chăn nuôi như thịt, trứng, sữa, da, lông... đều là hàng hoá.
1.1.2. Vai trò của kinh tế hộ chăn nuôi trong phát
triển kinh tế - xã hội nông thôn
Kinh tế hộ nói chung và KTHCN nói riêng là hình thức tổ chức sản xuất quan
trọng trong nền nông nghiệp. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, KTHCN đã
đóng góp vai trò không nhỏ trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
cũng như những lợi ích về mặt xã hội và môi trường ở mỗi địa phương. Thể hiện:
Một là, KTHCN đem lại nhiều tiện ích cho phép huy động
khai thác và phát huy các nguồn lực lao động, đất đai và nguồn
lực khác hợp lý và có hiệu quả.

16


Với tính cách là một thực thể kinh tế, đơn vị kinh tế tự chủ, KTHCN
được xem xét tự chịu trách nhiệm về hoạt động SX,KD nhằm tạo ra lợi nhuận
và các sản phẩm hàng hoá, đáp ứng nhu cầu trên thị trường và xã hội. Do đó,
KTHCN cho phép khai thác, sử dụng phát huy có hiệu quả nguồn lực đất đai, mặt

nước, nguồn lực lao động gia đình và tổ chức lao động phát huy lợi thế so sánh
của các hộ, địa phương.
Phát triển KTHCN là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên
sang sản xuất sản phẩm chăn nuôi hàng hoá. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh,
phát triển sản xuất hàng hoá trải qua giai đoạn đầu tiên từ kinh tế tự nhiên
sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình. KTHCN được coi là khâu
trung gian có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn chuyển biến từ chăn
nuôi tự nhiên sang chăn nuôi hàng hóa nhỏ, theo đó tạo đà cho bước chuyển
từ chăn nuôi nhỏ sang chăn nuôi hàng hoá quy mô lớn.
Phát triển KTHCN nhằm khai thác, phát huy hiệu quả sử dụng nguồn
lao động, giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Lao động là nguồn
lực dồi dào nhất ở nước ta, là yếu tố năng động và là động lực quyết định của
nền kinh tế quốc dân. Bởi lao động là một trong những yếu tố cơ bản của
LLSX, lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm
tăng của cải vật chất cho mọi quốc gia. Đặc biệt ở Việt Nam có trên 70% dân
số sống ở nông thôn, có mức thu nhập thấp. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 12
triệu lao động chưa được sử dụng và quỹ thời gian của người lao động ở nông
thôn cũng chưa được sử dụng hết [30]. Các yếu tố tự nhiên chỉ mang lại hiệu
quả thấp do có sự mất cân đối giữa lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn
chúng ta cần phải phát triển KTH nói chung, KTHCN nói riêng. Trên thực tế
đã cho thấy vai trò quan trọng của KTHCN, với sự quan tâm đúng mức của
Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp.
Tính đến đầu năm 2017 cả nước có 17.721 trang trại hộ gia đình chăn
nuôi. Trong đó có 7.475 trang trại nuôi lợn; 2837 trang trại nuôi gia cầm;
17


6405 trang trại nuôi bò; 247 trang trại nuôi trâu; 757 trang trại nuôi dê; ngoài
ra còn có các hộ chăn nuôi nhím, thỏ, lợn rừng, gia cầm nhỏ lẻ đáp ứng 60%
tiêu dùng trong cả nước đồng thời là nguồn thu nhập đáng kể trong hộ gia

đình, thực sự là phương thức xoá đói giảm nghèo [30]. Riêng huyện Thạch
Thất, tính đến hết năm 2015 có 179 KTHCN tập trung. Trong đó có 57 hộ
chăn nuôi trang trại lợn; 34 hộ trang trại nuôi gia cầm; 13 hộ trang trại nuôi
trâu, bò; 40 hộ trang trại nuôi dê; 40 hộ trang trại nuôi lợn rừng [59, tr.3].
Theo đó, là nguồn thu nhập đáng kể trong hộ gia đình, thực sự là phương thức
xoá đói, giảm nghèo. Điều này khẳng định KTHCN là một hình thức tổ chức
kinh tế phù hợp góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho
lực lượng lao động trong cả nước nói chung và ở huyện Thạch Thất nói riêng.
Các chủ hộ chăn nuôi nắm quyền quản lý, điều hành các khâu, các bước trong
quy trình chăn nuôi; chủ động bố trí kế hoạch sản xuất sản phẩm vật nuôi; chủ động
chăm lo nguồn vốn, giống, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, thị trường đầu vào, đầu ra,
liên kết hợp tác với ai, ở khâu nào; là nơi trực tiếp ứng dụng những thành tựu mới của
KH - CN về chăn nuôi, nâng cao năng xuất lao động, hiệu quả kinh tế theo từng hộ;
đồng thời, đó là quá trình sàng lọc và cải tiến kỹ thuật truyền thống, làm cho nó thích
ứng với sản xuất chăn nuôi và phát huy sáng tạo, năng lực nội sinh; tự chịu trách
nhiệm về lỗ - lãi và được pháp luật thừa nhận cho tồn tại và phát triển.
Hai là, KTHCN góp phần cung cấp thực phẩm dinh dưỡng cho đời sống
con người, cung cấp phân bón cho trồng trọt, cung cấp nguyên liệu cho ngành
công nghiệp, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của đời sống xã hội.
Trong đời sống con người khi KT - XH phát triển mức sống con người
càng được nâng cao, trong điều kiện cường độ lao động và lao động trí óc ngày
càng cao, tính chất lao động có sự thay đổi, thì nhu cầu thực phẩm từ sản phẩm
chăn nuôi, sẽ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong bữa ăn hàng ngày của người dân.
Các sản phẩm từ chăn nuôi như: thịt, trứng, sữa đều là thực phẩm có giá trị
18


dinh dưỡng, hàm lượng protin cao. Vì vậy, chăn nuôi chất lượng, hiệu quả là
nguồn cung cấp thực phẩm dinh dưỡng sẽ đáp ứng được nhu cầu đó.
Phát triển KTHCN chất lượng, hiệu quả góp phần cung cấp phân bón cho

trồng trọt, thức ăn cho nuôi trồng thuỷ sản. Trong sản xuất nông nghiệp hướng tới
canh tác bền vững, không thể không nói đến vai trò của phân bón hữu cơ nhận
được từ chăn nuôi. Phân chồng với tỷ lệ NPK cao và cân đối, biết chế biến và sử
dụng hợp lý có ý nghĩa lớn trong cải tạo đất trồng trọt, nâng cao năng xuất cây
trồng vật nuôi. Mỗi năm 1 con bò cho 8 - 10 tấn phân hữu cơ, từ 1 con trâu cho từ
10 - 12 tấn kể cả độn chuồng, trong đó 2 - 4 tấn phân nguyên chất [30].
Phát triển KTHCN chất lượng, hiệu quả góp phần liên kết các nguồn lực
cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp: Các ngành công nghiệp chế biến,
công nghiệp tiêu dùng đều sử dụng nguyên liệu từ chăn nuôi: thịt, sữa,... là sản
phẩm đầu vào của các quá trình công nghiệp chế biến thịt, sữa, da, lông là
nguyên liệu cho quá trình chế biến sản xuất da giày, chăn đệm, sản phẩm thời
trang. Các loại mỹ phẩm thuốc chữa bệnh, vacine phòng nhiều loại bệnh đều có
nguồn gốc từ sữa và trứng, nhung hươu; cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy
chế biến thức ăn gia súc. Phát triển KTHCN sẽ tạo điều kiện, tiền đề phát triển
ngành công nghiệp chế biến sản phẩm chăn nuôi, gắn với phát triển vùng
nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi, KTHCN phát triển đặt ra yêu cầu ngày
càng hoàn thiện, hiện đại hơn nữa việc ứng dụng KH - CN vào sản xuất chăn
nuôi, cụ thể là việc tiếp nhận, lai tạo các giống vật nuôi cho năng suất chất
lượng cao, ứng dụng sinh học trong chăn nuôi và xử lý môi trường sinh thái.
Ba là, KTHCN góp phần tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn
Quá trình phát triển KTHCN là quá trình phân công lại lao động, phát triển
ngành nghề, KTHCN góp phần tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Trong
đó trực tiếp là ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp dệt len, giày da.
Bởi phát triển KTHCN sẽ không ngừng gia tăng lượng đàn vật nuôi, theo đó, các sản
19


phẩm: thịt, trứng, sữa cung cấp cho các nhà máy chế biến thực phẩm ngày một nhiều.
Mặt khác, các chế phẩm từ sừng, nhung, da, lông là nguồn nguyên liệu cơ bản cho

các nhà máy sản xuất dược, len, vải sợi, các nhà máy sản xuất: áo, giày, túi, ví...các
loại. Do vậy, nếu các đàn gia súc, gia cầm từ các hộ chăn nuôi tăng lên, nguồn cung
cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến sản phẩm chăn nuôi cũng không ngừng
được bổ sung, các nhà máy, xí nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô, nâng cao trình
độ sản xuất. Đây là điều kiện cơ bản để góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tích cực. Kết quả sự gia tăng số lượng hộ chăn nuôi sẽ làm cho lao động trực
tiếp trong trồng trọt cũng có xu hướng ngày một giảm, lao động trong chăn nuôi ngày
một tăng lên. Mặt khác, phát triển KTHCN sẽ là điều kiện để chuyển dịch cơ cấu
trong nội bộ ngành nông nghiệp theo hướng giảm dần tỷ trọng phân ngành trồng trọt,
tăng dần tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản, tạo điều kiện phát triển toàn diện, hình thành
các vùng chăn nuôi tập trung, với sản phẩm bảo đảm về số lượng, chất lượng đáp
ứng nhu cầu thị trường trong vùng và có xuất khẩu.
Bốn là, KTHCN là một mắt xích quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp bền vững tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Quá trình phát triển KTHCN chuyên môn hoá sản xuất, tạo ra cơ cấu
kinh tế mới đa dạng ở nông thôn; là quá trình áp dụng tiến bộ công nghệ, đổi
mới phương thức quản lý, tích tụ vốn,... Tình hình đó đã đặt ra nhu cầu mới,
mà khả năng của từng hộ độc lập không thể biệt lập, mà phải có sự liên kết.
Phát triển KTHCN có vai trò quan trọng đóng góp vào tăng trưởng
ngành nông nghiệp và phát triển KT- XH ở địa phương: với lợi thế về thời
gian cho sản phẩm nhanh, lợn thịt 6 tháng/lứa, gà thịt 8 tuần/lứa, vịt thịt 6
tuần/lứa; khả năng sinh sản cao: lợn nái 10 - 12 con/lứa, 2 lứa/năm; gà trứng
cho 280 - 300 quả/năm [29]. Sử dụng các phụ phẩm từ trồng trọt, chế biến giá
trị dinh dưỡng thấp để tạo ra những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như
thịt, trứng, sữa. Vì vậy, các đối tượng vật nuôi được xem là đối tượng quan
tâm phát triển đáp ứng yêu cầu vòng quay vốn, xoá đói giảm nghèo. Chăn
nuôi tận dụng phụ phẩm của trồng trọt, thuỷ sản tạo nên hệ sinh thái nông
nghiệp theo các mô hình VAC (vườn ao chuồng), VACR (vườn ao chuồng
20



rừng) có hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường sống. Tận dụng nguồn lao
động ở nông thôn tham gia vào quá trình chăn nuôi tạo thêm sản phẩm. Thực
tế cho thấy, trong những năm gần đây với sự hỗ trợ của các chương trình, dự
án phát triển chăn nuôi, nên số lượng KTHCN đã tăng lên cả số lượng và chất
lượng. Phát triển KTHCN góp phần tạo việc làm, gia tăng thu nhập, xóa đói
giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện môi trường cho phép
khắc phục tình trạng lao động nhàn rỗi của người dân, thông qua đó tăng thêm
cơ hội giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống người dân.
Xây dựng và phát triển kinh tế luôn gắn với phát triển xã hội ở nước
ta hiện nay, cùng với chủ trương khuyến khích các hộ vươn lên làm giàu
chính đáng, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp thiết thực
phù hợp tích cực xoá đói, giảm nghèo trên cơ sở sự giúp đỡ của cộng đồng,
sự vươn lên của chính các hộ dân. Là đơn vị kinh tế tự chủ trong nông
nghiệp, nông thôn, KTHCN có vai trò nhất định trong tham gia xoá đói,
giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; không chỉ ở mặt kinh tế mà còn ở
mặt xã hội làm cho diện mạo nông thôn ngày càng giàu đẹp và sung túc
hơn. Thu nhập từ chăn nuôi không những góp phần cải thiện đời sống mà
còn làm tăng thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu dùng xã hội,
là cơ sở cho việc phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá và các sự
nghiệp phúc lợi khác ở nông thôn.
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát triển
kinh tế hộ chăn nuôi ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về phát triển kinh tế hộ chăn nuôi ở huyện Thạch
Thất, thành phố Hà Nội
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, “Phát triển” là một quá
trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện
đến ngày càng hoàn thiện của sự vật và hiện tượng. Phát triển là xu hướng tất
yếu của thế giới vật chất nói chung, xã hội loài người nói riêng.


21


Tiếp cận dưới góc độ kinh tế, “Phát triển” là sự tăng trưởng kinh tế gắn
liền với hoàn thiện cơ cấu, thể chế kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Từ những quan niệm chung về phát triển kinh tế, cho thấy phát triển KTHCN
là quá trình biến đổi lớn mạnh của chăn nuôi trong phát triển KT - XH. Thực
chất của sự phát triển KTHCN là khả năng thích ứng của hộ chăn nuôi trong
mỗi hình thức tổ chức sản xuất xã hội ở nông thôn. Do đó, phát triển KTHCN
không chỉ tăng lên về mặt số lượng hộ chăn nuôi, số lượng chuồng trại, số
lượng đầu vật nuôi, mà điều quan trọng là sự nâng lên cả về mặt chất lượng
hoạt động chăn nuôi, có cơ cấu hộ chăn nuôi ngày càng hợp lý trong quá trình
phát triển của nó.
Phát triển KTHCN ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội chính là sự
phát triển KTHCN trong một địa phương cụ thể. Tuy nhiên, Thạch Thất là địa
bàn rộng, điều kiện KT - XH có nhiều nét đặc thù riêng, do đó sự phát triển
KTHCN ở đây cũng mang những đặc điểm, tính chất riêng.
Vì vậy, phát triển KTHCN ở huyện Thạch Thất là quá trình gia tăng
cả về mặt lượng và chất các hoạt động chăn nuôi ở hộ gia đình trên địa bàn,
biểu hiện ra ở việc mở rộng về các loại hình, tăng lên về số lượng, nâng cao
chất lượng, có cơ cấu hợp lý, hiệu quả từ các hoạt động chăn nuôi, mang lại
thu nhập ngày càng cao cho các hộ; góp phần thực hiện thắng lợi các mục
tiêu KT-XH của địa phương.
Với việc phân tích các dấu hiệu nội hàm về mục đích, chủ thể, phương
thức quan niệm phát triển KTHCN ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
nêu trên phản ảnh một số vấn đề sau:
Mục đích, phát triển KTHCN ở huyện Thạch Thất là nhằm, góp phần
thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển KT - XH ở huyện Thạch Thất, thành
phố Hà Nội. Nâng cao hiệu quả sản xuất chăn nuôi ở mức độ tập trung hoá và
chuyên môn hoá cao hơn. Đó là quá trình không ngừng nâng cao năng lực sản

xuất, khai thác, sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất, những tiềm năng, thế mạnh
vốn có của các hộ chăn nuôi, tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp hàng hoá cho
22


thị trường và xã hội; cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động và
đời sống xã hội nông thôn theo hướng tiến bộ, bền vững.
Chủ thể phát triển, tham gia vào quá trình phát triển KTHCN ở huyện
Thạch Thất, thành phố Hà Nội (Có hai nhóm chủ thể):
Nhóm thứ nhất: Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp và các cơ quan hữu
quan của huyện và các xã, các hợp tác xã nông nghiệp, các hiệp hội,... Là chủ thể
trong xây dựng chủ trương, biện pháp, quy định cho phát triển KTHCN trên địa
bàn; hỗ trợ hộ về vốn, KH - CN, tạo hành lang pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi về
không gian, môi trường, thị trường,... cho các hộ SX,KD trên lĩnh vực chăn nuôi.
Nhóm thứ hai: Các hộ gia đình – chủ thể tổ chức hoạt động chăn nuôi gia
súc, gia cầm, thủy sản; trực tiếp đầu tư vốn, mua con giống, xây dựng cơ sở vật
chất hạ tầng kỹ thuật, như: chuồng trại, ao, đầm,... trực tiếp tổ chức hoạt động
chăn nuôi. Lực lượng lao động chính trong tổ chức SX,KD là các thành viên
trong gia đình. Một số hộ tổ chức chăn nuôi trên quy mô lớn, thì ngoài lực lượng
lao động chính của gia đình, có thể thuê mướn thêm một số nhân công cần thiết,
nhất là lao động kỹ thuật và lao động nghiệp vụ lành nghề.
Phương thức phát triển KTHCN: Căn cứ vào đối tượng mà chủ thể
KTHCN có phương thức chăn nuôi khác nhau, đầu tư khác nhau . Trong
đầu tư phát triển, các chủ thể KTHCN ở huyện Thạch Thất diễn ra theo hai
phương thức: Kết hợp đầu tư phát triển theo chiều rộng và đầu tư phát triển
theo chiều sâu, tức là vừa tăng cường đầu tư vốn theo hướng phát triển
thêm những hộ chăn nuôi mới, vừa đầu tư mở rộng nâng cấp qui mô, đổi
mới ứng dụng công nghệ mới vào các KTHCN đã có. Trên cơ sở phương
thức chăn nuôi rất đa dạng, chăn nuôi theo phương thức tự nhiên; chăn nuôi
theo phương thức chăn nuôi công nghiệp; chăn nuôi theo phương thức chăn

nuôi sinh thái. Căn cứ vào đối tượng là sản phẩm chính hay sản phẩm phụ
khác nhau mà chủ thể hộ chăn nuôi có phương thức khác nhau, nhưng nhìn
tổng thể đó là phương thức do các chủ hộ bỏ vốn và sức lao động, hoạt

23


động trực tiếp theo sự điều hành của chủ hộ trên cơ sở có sự thống nhất về
cách thức hoạt động, kỹ thuật, phương thức thanh toán.
1.2.2. Nội dung phát triển kinh tế hộ chăn nuôi ở huyện Thạch Thất,
thành phố Hà Nội hiện nay
Căn cứ vào quan niệm phát triển KTHCN ở huyện Thạch Thất, thành
phố Hà Nội, xác định nội dung phát triển KTHCN ở huyện Thạch Thất, thành
phố Hà Nôi hiện nay bao gồm nội dung chủ yếu sau: Phát triển quy mô, số
lượng, chất lượng, cơ cấu.
Một là, mở rộng quy mô, số lượng, đa dạng hóa các loại hình
chăn nuôi
Mở rộng quy mô KTHCN ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội hiện
nay thực chất là phát triển KTHCN theo chiều rộng. Biểu hiện ở mức tăng số
lượng hộ chăn nuôi mới; phát triển thêm nhiều hộ chăn nuôi trên quy mô
trang trại; xây dựng thêm hệ thống chuồng, trại, ao hồ, đầm; tăng thêm đàn
gia súc, gia cầm bảo đảm hộ chăn nuôi có tốc độ tăng trưởng ổn định.
Việc mở rộng quy mô KTHCN ở huyện Thạch Thất, đó là đầu tư nâng
cấp, mở rộng năng lực SX,KD của các hộ chăn nuôi hiện có trên địa bàn
nhằm nâng cao sản lượng, tốc độ tăng trưởng của các hộ chăn nuôi. Đồng
thời, việc mở rộng qui mô hộ chăn nuôi ở huyện Thạch Thất hiện nay còn bao
hàm cả đa dạng hóa các sản phẩm chăn nuôi, mở rộng thị trường cung cấp sản
phẩm và tiêu thụ sản phẩm.
Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả và và gia tăng giá trị trong chăn
nuôi ở từng hộ gia đình

Nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa KTHCN là nội dung rất
quan trọng trong quá trình phát triển KTHCN ở huyện Thạch Thất, thành
phố Hà Nội hiện nay. Bởi vì, chất lượng sản phẩm hàng hóa của chăn nuôi
là nhân tố quan trọng bậc nhất, tạo nên uy tín, thượng hiệu và nâng cao
tính cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời, nâng cao chất lượng sản phẩm
24


hàng hóa trong chăn nuôi ở huyện Thạch Thất là biện pháp hữu hiệu để
nâng cao hiệu quả trong SX,KD.
Nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa của KTHCN ở huyện Thạch
Thất, thành phố Hà Nôi được hiểu là thông qua việc đầu tư vốn, lao động,
công nghệ, kỹ thuật của các chủ hộ hoạt động nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm, hàng hóa chăn nuôi lên mức cao hơn trước, nhằm thỏa mãn nhu cầu
của thị trường, đem lại hiệu quả kinh tế cho chủ hộ chăn nuôi và mục tiêu KTXH của địa phương. Thực chất là nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa
KTHCN ở huyện Thạch Thất hiện nay là phát triển chăn nuôi theo chiều sâu;
việc đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực; nâng cao chất lượng đầu vào và đầu
ra phục vụ sản xuất và đời sống xã hội nông thôn; gia tăng giá trị và phát triển
chăn nuôi với quy trình kỹ thuật, cũng như các công đoạn khác của sản xuất
chăn nuôi bảo đảm, hiệu quả cùng với đó việc xử lý ô nhiễm môi trường trong
chăn nuôi và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; nâng cao chất lượng của sản
phẩm chăn nuôi ở khả năng đáp ứng kịp thời yêu cầu đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, chú trọng phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng trong
chăn nuôi, các hộ chăn nuôi trên địa bàn phải được đào tạo, làm việc có “kỷ
luật” và ứng dụng KH - CN cao một cách chuyên nghiệp mới có thể tạo ra
những sản phẩm có đủ sức cạnh tranh. Phát triển KTHCN phải được tổ chức
liên kết chuỗi hộ chăn nuôi thành tổ hợp tác, hợp tác xã chăn nuôi. Qua đó,
nắm quyền quản lý, điều hành các khâu, các bước trong quy trình chăn nuôi;
chủ động bố trí kế hoạch sản xuất sản phẩm vật nuôi; chủ động chăm lo
nguồn vốn, giống, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, thị trường đầu vào; đầu ra,

ứng dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật về chăn nuôi, sàng lọc
và cải tiến kỹ thuật truyền thống phát huy sáng tạo, năng lực nội sinh nâng
cao năng suất lao động, hiệu quả chăn nuôi, giảm giá thành sản phẩm, tăng
tính cạnh tranh trên thị trường.
Ba là, xây dựng cơ cấu KTHCN theo hướng hợp lý, bền vững
25


×