VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN ANH TUẤN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN CHỨC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành
: Chính sách công
Mã số
: 60 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VĂN TẤT THU
Hà Nội, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính sách phát triển viên chức từ thực
tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội” của luận văn này là kết quả của
sự nỗ lực cố gắng, tìm tòi và sáng tạo của riêng bản thân tôi cùng với sự
hướng dẫn tận tình của người hướng dẫn khoa học PGS.TS Văn Tất Thu. Tôi
xin cam đoan, kết quả nghiên cứu của công trình hoàn toàn là kết quả của
cuộc điều tra xã hội học mà tôi đã tiến hành nghiên cứu tại quận Hai Bà
Trưng, thành phố Thành phố Hà Nội. Các thông tin có nguồn gốc rõ ràng,
tuân thủ đúng nguyên tắc trích dẫn tài liệu. Nghiên cứu hoàn toàn trung thực
và chưa được công bố ở công trình, đề tài nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.
Hai Bà Trưng, tháng 7 năm 2016
Học Viên
Trần Anh Tuấn
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
7
SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN CHỨC
1.1. Một số khái niệm cơ bản
7
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với phát triển
12
viên chức
1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát triển
18
viên chức
1.4. Nội dung các bước thực hiện chính sách phát triển viên chức
21
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính sách phát triển
27
viên chức
1.6. Những yêu cầu cơ bản đối với tổ chức thực hiện chính sách phát triển
31
viên chức
1.7. Các phương pháp tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức
33
1.8. Chủ thể tham gia thực hiện chính sách phát triển viên chức
35
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN VIÊN CHỨC TẠI QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ
39
HÀ NỘI
2.1. Các yếu tố của quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội ảnh hưởng
39
đến tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức tại
40
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
2.3. Thực trạng các chủ thể tham gia thực hiện chính sách phát triển
46
viên chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
2.4. Kết quả thực hiện chính sách phát triển viên chức tại quận Hai Bà
47
Trưng, thành phố Hà Nội
2.5. Đánh giá chung kết quả thực hiện chính sách phát triển viên chức
50
tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN
54
CHỨC TẠI QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển
54
viên chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển
56
viên chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN
65
TÀI LIỆU THAM KHẢO
67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn có vị trí quan trọng trong sự
nghiệp phát triển của một đất nước, một cơ quan, đơn vị, tổ chức. Đại hội IX
(2001) của Đảng nêu rõ: “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ Công nghiệp hóa, Hiện đại
hóa”. Đại hội XI (2011) của Đảng cũng đã xác định ba khâu đột phá trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011, thành phố 2020, một trong số đó là:
“Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”.
Đối với khu vực công nghiệp thì việc phát triển nguồn nhân lực càng trở nên
thiết yếu. Trong số nhân lực trong khu vực công, đội ngũ viên chức chiếm số
lượng lớn nhất. Tính đến hết năm 2014, tổng số viên chức trong cả nước là
2.312.690 người, trong đó biên chế sự nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giao cho đơn vị sự nghiệp công lập là 2.073.434 người; biên chế sự
nghiệp do các đơn vị sự nghiệp tự chủ quyết định là 239.256 người. Đội ngũ
này chính là lực lượng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch
vụ công, phục vụ các hoạt động thiết yếu của người dân.
Trong những năm qua, nhận thức được vị trí, vai trò của viên chức
trong phát triển kinh tế, xã hội và phục vụ nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
của đội ngũ này, cụ thể là Luật Viên chức Việt Nam năm 2010 và các văn bản
dưới luật nhằm hướng dẫn tổ chức, thực hiện và kết quả đã có những chuyển
biến tích cực. Số lượng viên chức cơ bản đáp ứng nhu cầu, năng lực chuyên
môn dần được cải thiện, phù hợp với vị trí việc làm. Tuy nhiên, chất lượng
hoạt động vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Năng lực chuyên môn của một bộ
phận viên chức chưa đáp ứng yêu cầu công việc, đạo đức, trách nhiệm nghề
nghiệp chưa cao, việc đổi mới phong cách làm việc còn chậm. Do đó, những
1
kết quả đạt được chưa tương xứng với vị trí, vai trò của viên chức trong đời
sống xã hội.
Thành phố Hà Nội, với vị trí vai trò là trung tâm chính trị, văn hóa của
cả nước, đã có nhiều chính sách khác nhau nhằm xây dựng đội ngũ viên chức
có kiến thức chuyên môn sâu, kỹ năng làm việc thành thạo, hiệu quả, gắn với
từng vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của viên chức. Nghiên
cứu, ban hành nhiều cơ chế chính sách ph hợp, đảm bảo tuyển dụng viên
chức trên cơ sở tự do cạnh tranh; có cơ chế phát huy động lực làm việc, tạo
môi trường làm việc, khuyến khích sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ viên
chức.
Quận Hai Bà Trưng là một quận nội thành của thành phố Hà Nội, quận
có địa bàn rộng. Căn cứ các văn bản Hướng dẫn của Chính phủ, Bộ Nội vụ,
UBND thành phố Hà Nội và sự lãnh đạo, chỉ đạo, quan tâm sát sao của cấp
ủy, chính quyền địa phương, nên việc triển khai, thực hiện chính sách phát
triển viên chức đã được tiến hành đúng quy định, chất lượng đội ngũ viên
chức đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên, hiệu quả chưa thực sự nổi
bật và còn tồn tại những hạn chế nhất định.
Do vậy, để việc thực hiện chính sách phát triển viên chức thực sự mang
lại hiệu quả, có tác động tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công việc phục vụ
lợi ích của người dân, thì việc tìm hiểu thực trạng thực hiện chính sách phát
triển viên chức và đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện chính
sách ấy là một đòi hỏi khách quan, cần có sự đi sâu nghiên cứu bài bản và
nghiêm túc. Từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Thực hiện chính
sách phát triển viên chức từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà
Nội” là đề tài cho luận văn tốt nghiệp ngành Chính sách công.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển cán bộ, công chức là đề tài được nhiều học giả quan tâm đi
sâu nghiên cứu, nhưng đối tượng viên chức gần đây mới được chú trọng, do
vậy, công trình nghiên cứu về đề tài này không thực sự phong phú, sau đây là
một số công trình học viên được tìm hiểu:
- PGS. TS Đỗ Phú Hải, Học viện Khoa học xã hội: Báo cáo về thể chế
quản lý viên chức và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập
từ năm 1998 đến nay.
- Nguyễn Văn Tuyên, Chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn học
viên hành chính quốc gia, Luận văn Thạc sĩ ngành Chính sách công, Học viện
Khoa học xã hội, 2015.
- Nguyễn Thị Thanh Huyền, Chính sách phát triển viên chức từ thực
tiễn Bộ tư pháp, thành phố Luận văn Thạc sĩ ngành Chính sách công, Học
viện Khoa học xã hội, 2014.
Các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đã có cách tiếp cận khác
nhau, nghiên cứu lý luận về viên chức, chính sách phát triển viên chức nói
chung và đi sâu vào thực tiễn thực hiện chính sách phát triển viên chức tại
một cơ quan cụ thể. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào
cung cấp đầy đủ và hệ thống về lý luận và thực tiễn việc thực hiện chính sách
phát triển viên chức tại một đơn vị hành chính cấp quận, cụ thể là quận Hai
Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển
viên chức để có cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách
phát triển viên chức trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; và đề
3
xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển viên
chức ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển
viên chức;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển viên
chức từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; chỉ rõ những kết
quả, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế;
- Đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách phát triển viên chức.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống lý luận về thực hiện chính sách
phát triển viên chức và thực tiễn việc thực hiện chính sách phát triển viên
chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách
phát triển viên chức thuộc quản lý của quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện chính
sách phát triển viên chức thuộc quản lý của quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà
Nội từ năm 2012 - 2015.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp
với nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tế với cách tiếp cận lien ngành,
đa ngành về khoa học xã hội với quy phạm chính sách công về chu trình
4
chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách
công.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp thu thập số liệu;
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp định lượng.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi (đối tượng là viên chức và người dân
tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội)
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận:
Các kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn góp phần bổ sung, hoàn
thiện những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách công nói chung và thực
hiện chính sách phát triển viên chức nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn ở chỗ đề xuất được các giải pháp thiết
thực, hữu hiệu, các kinh nghiệm thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách phát triển viên chức ở nước ta nói chung, ở quận Hai Bà
Trưng, thành phố Hà Nội nói riêng. Các kết quả nghiên cứu của đề tài đóng
góp thiết thực vào việc xây dựng đội ngũ viên chức của quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội.
5
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được bố cục gồm 3 chương ngoài phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu và phụ lục.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển
viên chức
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển viên chức tại
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách phát triển viên chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN CHỨC
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Viên chức
Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm,
làm việc tại đơn vị sự nghiệp theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật (Điều 2
Luật Viên chức).
Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của
Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, thành phố xã hội thành lập theo
quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ
quản lý nhà nước.
Do vậy, viên chức đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ
công và thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thiết yếu của
đời sống xã hội.
Điểm khác biệt cơ bản của viên chức so với công chức là viên chức
được tuyển dụng gắn với vị trí việc làm, thông qua chế độ hợp đồng làm việc
và tiền lương được hưởng từ quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập.
Còn Công chức được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị,
thành phố xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập, trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước; trừ công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
7
nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Chính sách, chính sách công
Hiện nay, thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên sách báo,
các phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế-xã hội đều
có những chính sách của mình. Có chính sách của doanh nghiệp, chính sách
của đảng chính trị, chính sách của một quốc gia, tổ chức, chính sách của một
liên minh các nước hoặc tổ chức quốc tế…Cho đến nay, mặc d đã có rất
nhiều nghiên cứu về chính sách và có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chính
sách nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm chính sách. Trên thế giới,
có thể kể đến một số khái niệm về chính sách như: “Chính sách là một quá
trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc
giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm” (James Anderson) hay “Chính sách là
quyết tâm và định hướng. Chính sách định hướng nhưng không bao gồm, các
chương trình và chi tiết hành động” (Glen Milne)…Tại Việt Nam, Từ điển
bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách
là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được
thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó”.
Như vậy, có thể đưa ra cách hiểu Chính sách là chương trình hành động do
các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc
phạm vi thẩm quyền của mình. Các tổ chức, các doanh nghiệp, các đoàn thể
đều có thể đề ra những chính sách riêng biệt để áp dụng trong phạm vi một tổ
chức, doanh nghiệp hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm giải quyết
những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ
chức đó vì vậy chúng mang tính chất riêng biệt và được coi là những “chính
sách tư”. Tuy nhiên, mặc d được sử dụng rộng rãi (chính sách bán hàng,
chính sách đào tạo nhân viên, chính sách cạnh tranh…), nhưng “chính sách
8
tư” hầu như không được đề cập đến và được nghiên cứu với tư cách là một
ngành khoa học.
Chính sách công thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, do
đó khái niệm về chính sách công phụ thuộc nhiều vào bản chất của Nhà nước.
D trong điều hành và quản lý nhà nước cũng như lĩnh vực hoạt động của luật
pháp và cả trong nghiên cứu và học thuật, khái niệm chính sách công thường
xuyên được d ng nhưng không phải lúc nào khái niệm này cũng được hiểu
hoàn toàn giống nhau. Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về khái
niệm chính sách công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí
rộng rãi. Có thể kể đến một số khái niệm chính sách công khá tiêu biểu của
các học giả nước ngoài đó là:“Chính sách công là một tập hợp các quyết định
có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn
liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu
đó” (William Jenkin). Như vậy, William Jenkin cho rằng chính sách công
không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó mà là một tập hợp các quyết định
khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian dài, chủ thể ban
hành chính sách công phải là các cơ quan nhà nước và chính sách công nhằm
vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của nhà nước và bao gồm các
giải pháp để đạt được mục tiêu đã chọn. Thomas R. Dye lại đưa ra một định
nghĩa ngắn gọn hơn về chính sách công, song lại được nhiều học giả tán
thành. Theo ông, “chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay
không làm”. Định nghĩa này của Thomas R. Dye không bàn luận về “mục
tiêu” hay “mục đích” của chính sách, đồng thời định nghĩa của Dye cũng thừa
nhận rằng các chính sách phản ánh sự lựa chọn làm hay không làm. Việc
quyết định không làm cũng có thể quan trọng như việc quyết định làm và
chính sách là cái chính phủ làm hoặc không làm chứ không phải là cái mà họ
muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm. Theo Peter Aucoin “chính sách công
9
bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành”. Aucoin cho rằng,
chính sách có thể vừa là hành động riêng biệt của chính phủ vừa là kết quả
của hàng loạt quyết định đa dạng. B. Guy Peter đưa ra định nghĩa “chính sách
công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián
tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”. Định nghĩa này tiếp cận ở góc độ tác
động của chính sách công đến đời sống của người dân với tư cách là một cộng
đồng.
Ở Việt Nam, mặc dù ngành khoa học chính sách công là một ngành
khoa học khá mới mẻ nhưng đã có một số nhà nghiên cứu khoa học chính
sách công đưa ra khái niệm về chính sách công. PGS.TS Lê Chi Mai (Học
viện Hành chính Quốc gia) đưa ra cách hiểu về thuật ngữ chính sách công “là
thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước
nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế-xã hội
theo mục tiêu xác định”. Theo cách hiểu này, chính sách công có bốn đặc
trưng cơ bản đó là: Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước,
cụ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách. Thứ hai,
các quyết định này là những quyết định hành động, có nghĩa là chúng bao
gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công không chỉ thể hiện dự định
của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó mà còn bao gồm những
hành vi thực hiện các dự định nói trên. Thứ ba, chính sách công tập trung giải
quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế-xã hội theo những mục
tiêu xác định. Thứ tư, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn
nhau. Chính sách là một chuỗi hay một loạt các quyết định c ng hướng vào
việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hay nhiều cấp khác nhau trong
bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian dài. Ở Việt Nam,
chính sách công biểu hiện dưới nhiều loại văn bản chính sách khác nhau, bao
gồm cả Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định, Chiến lược…T y theo điều
10
kiện hoàn cảnh mỗi nước với hệ thống và nền chính trị khác nhau sẽ có những
cách tiếp cận khác nhau về “chính sách”. PGS.TS Đỗ Phú Hải (Học viện
Khoa học xã hội Việt Nam) đưa ra cách định nghĩa về chính sách công trong
điều kiện chính trị cụ thể của Việt Nam “Chính sách công là một tập hợp các
quyết định chính trị có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn mục
tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo
mục tiêu tổng thể đã xác định” (Đỗ Phú Hải, 2012). Như vậy, chính sách
công là những quyết sách mang tính chính trị của nhà nước mà các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chung và riêng để dẫn dắt sự phát triển của xã hội,
đáp ứng nhu cầu xã hội của người dân. Chính sách công có thể chi phối
chung, song có những chính sách chi phối cụ thể riêng biệt đối với từng
ngành, từng lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.1.3. Chính sách phát triển viên chức
Khoản 4, Điều 10 của Luật Viên chức 2010 có nêu “Nhà nước có chính
sách xây dựng, phát triển đội ngũ viên chức có đạo đức nghề nghiệp, có trình
độ và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khu vực cung
ứng dịch vụ công”.
Vậy chính sách phát triển viên chức là tập hợp các quyết định chính trị
có liên quan của Nhà Nước về phát triển viên chức với mục tiêu, giải pháp cụ
thể nhằm xây dựng đội ngũ viên chức có cơ cấu, số chất lượng hợp lý, có dư
trình độ, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu cung
ứng dịch vụ công có chất lượng cao cho người dân và xã hội.
1.1.4. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức
Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức là một khâu hợp
thành chu trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể
chính sách thành hiện thực, với đối tượng chính sách nhằm mục tiêu định
hướng.
11
Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức là một khâu hợp
thành chu trình chính sách, nếu thiếu vắng công đoạn này thì công đoạn chính
sách phát triển không thể tồn tại. So với các khâu khác trong chu trình chính
sách phát triển viên chức, tổ chức thực hiện chính sách có vị trí đặc biệt quan
trọng, là bước hiện thực hoá đưa chính sách phát triển viên chức vào đời sống
xã hội. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức là một hệ thống
thống nhất với hoạch định, xây dựng và đánh giá chính sách phát triển viên
chức.
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc đối với phát
triển viên chức
Viên chức là một bộ phận của hệ thống cán bộ, công chức của nước ta
nói chung. Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước
đối với viên chức nằm trong tổng thể quan điểm của Đảng và chính sách của
Nhà nước đối với cán bộ, công chức ở nước ta nói chung.
1.2.1. Quan điểm của Đảng về cán bộ và đãi ngộ đối với cán bộ, công
chức, viên chức
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng ta, đã nhiều lần
căn dặn: “Cán bộ là cái gốc của mọi việc”, “Muôn việc thành công hay thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Vì đội ngũ cán bộ, công chức là “cầu nối”
giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng. Cũng theo Hồ Chủ tịch, thực hiện tốt
chính sách đối với cán bộ, công chức cũng như các lực lượng khác có tác
dụng và ý nghĩa to lớn nhằm tạo ra động lực vật chất, tinh thần để nâng cao
chất lượng đội ngũ. Người khẳng định “Đảng và Chính phủ rất mong muốn
đời sống của công nhân, công chức và bộ đội càng khá hơn”.
Những năm qua, Đảng ta đã quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng ta đã đưa ra nhiều quan đểm
12
đối với hệ thống đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức,
viên chức nói riêng thông qua các Văn kiện Đại hội, Nghị quyết, Chỉ thị:
Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Hội nghị lần thứ Ba Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã chỉ ra thực trạng đội ngũ cán bộ
và công tác cán bộ; đưa ra phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ và công
tác cán bộ từ đó đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp lớn đối với công tác cán bộ.
Nghị quyết Trung ương Ba khóa VIII đưa ra năm quan điểm về cán bộ, cụ
thể: Thứ nhất, xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ
của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng,
phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc. Thứ ba, gắn việc xây
dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế chính sách. Thứ
tư, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân,
nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán
bộ. Thứ năm, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ theo nguyên tác tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của
các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Kết luận của Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X
ngày 02/02/2009 “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay
đến hết năm 2020”. Kết luận đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, một lần nữa khẳng định các quan điểm đối với
công tác cán bộ và chính sách đối với cán bộ, đồng thời tiếp tục đưa ra các
giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm của công tác cán bộ. Kết luận nêu rõ “cải
13
cách hệ thống chính sách, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, công bằng trong
thực hiện chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành, các địa phương, các
đối tượng cán bộ; gắn chính sách cán bộ trong từng khâu của công tác cán
bộ, gắn trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền lợi; khuyến khích cán bộ công tác ở
đại bàn khó khăn, ở cơ sở”.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng, đặc biệt là Cương lĩnh và Chiến lược
đều nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác cán bộ và chính sách đối với cán
bộ, công chức, đặt công tác này ở vị trí chiến lược với quan điểm coi con
người là chủ thể, là trung tâm của phát triển, là mục tiêu và động lực của đổi
mới. Một trong những vấn đề chủ yếu về công tác cán bộ trong Văn kiện Đại
hội XI của Đảng đó là “đổi mới chính sách và cơ chế về cán bộ, quản lý, sử
dụng, bồi dưỡng, đào tạo và phát triển năng lực cán bộ”. Hàng loạt chính
sách được đặt ra từ giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ để bảo đảm
tiêu chuẩn cán bộ, chính sách sử dụng cán bộ, bố trí, bổ nhiệm, đề bạt, đãi
ngộ, tạo động lực khuyến khích tài năng, thu hút nhân tài, nhất là các chuyên
gia giỏi, tài năng trẻ, kể cả thu hút tài năng trong cộng đồng người Việt ở
nước ngoài.
Không chỉ đưa ra những quan điểm chung về cán bộ và chính sách cán
bộ, Đảng ta còn đưa ra những quan điểm riêng về các bộ phận cấu thành trong
chính sách cán bộ, đó là quan điểm về chính sách tiền lương và phụ cấp, thi
đua khen thưởng. Kết luận Hội nghị Trung ương 9 khóa X của Đảng đưa ra
quan điểm “cải cách cơ bản chế độ tiền lương, tiền tệ hóa tiền lương và các
chế độ theo lương, ban hành chính sách về nhà ở, nhà công vụ đối với cán bộ,
công chức và lực lượng vũ trang. Cải cách công tác thi đua, khen thưởng để
tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước một cách thực chất, khắc
phục bệnh thành tích, hình thức, lãng phí. Tổ chức phong trào thi đua xây
14
dựng môi trường làm việc tốt để phát huy tốt nhất khả năng cống hiến và phát
triển của cán bộ”.
Thông báo số 13-TB/TW ngày 28/3/2011 của Bộ Chính trị đã đưa ra
những quan điểm chỉ đạo Chính phủ, sửa đổi những bất hợp lý về chính sách
tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức tại cơ quan đảng,
chính quyền và đoàn thể chính trị-xã hội, sát với thực tiễn hiện nay.
Thông báo Hội nghị lần thứ Năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI đã đưa ra quan điểm cải cách tiền lương đến năm 2020 “bổ sung, sửa
đổi một số chính sách cần và có thể điều chỉnh ngay nhằm sớm khắc phục
những bất hợp lý nổi cộm hiện nay”. Hội nghị cũng thông qua Kết luận
về“một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có
công và định hướng cải cách đến năm 2020” trong đó nêu ra ba quan điểm:
Thứ nhất, xác định vấn đề tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp người có
công là vấn đề lớn, xác định đúng và làm tốt vấn đề này sẽ tạo động lực cho
phát triển kinh tế-xã hội, làm trong sạch bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt
động công vụ. Thứ hai, Cải cách chính sách tiền lương phải có quyết tâm
chính trị cao trong việc ban hành và thực hiện chính sách, thực hiện trả lương
theo vị trí việc làm, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ. Thứ ba,
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh
xã hội…
Là một bộ phận của hệ thống cán bộ, công chức Việt Nam, quan điểm
về chính sách đối với viên chức quận Hai Bà Trưng nằm trong tổng thể các
quan điểm trên của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng cũng đưa ra những quan điểm
cụ thể đối với thành phần viên chức”.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ tất cả các khâu của phát
triển cán bộ, công chức, viên chức gồm: Xác định tiêu chuẩn công chức viên
chức; đào tạo, bồi dưỡng viên chức; quản lý viên chức và thực hiện chính
15
sách đối với viên chức. Phải đổi mới tư duy, cách làm và khắc phục những
khuyết điểm, yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ.
Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách về phát hiện, tuyển chọn, đào
tạo, bồi dưỡng viên chức; trọng dụng người có đức có tài. Nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; kiên quyết đấu tranh khắc phục tình trạng
chạy theo bằng cấp, học hàm, học vị.
1.2.2. Chính sách của Nhà nước về phát triển viên chức
Triển khai, thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng về phát triển
viên chức, Nhà nước đã ban hành chính sách về phát triển viên chức. Chính
sách phát triển viên chức của Nhà nước được xác định trong thể chế xây dựng
và quản lý viên chức, cụ thể như: trong Luật viên chức số 58/2010/NĐ-CP
ngày 12/04/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức;
trong Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; trong Nghị định số 16/2015/NĐ-CP
ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp
công lập; trong các chương trình, dự án, đề án chính sách phát triển viên chức
được Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định phê duyệt, ví dụ như Quyết
định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề
án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025.
Luật viên chức năm 2010 quy định cụ thể về chính sách xây dựng và phát
triển các đơn vị sự nghiệp công lập và đội ngũ viên chức: “Nhà nước tập
trung xây dựng hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập để cung cấp những
dịch vụ công mà Nhà nước phải chịu trách nhiệm chủ yếu đảm bảo, nhằm
phục vụ nhân dân trong lĩnh vực y tế, giáo dục tại miền núi, biên giới, hải
đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, v ng có điều kiện kinh tế đặc
biệt khó khăn”; “Nhà nước có chính sách xây dựng, phát triển đội ngũ viên
16
chức có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ và năng lực chuyên môn đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của khu vực cung ứng dịch vụ công; phát triển, thu
hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng để
nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân”… Chính sách phát triển viên chức
của Nhà nước bao gồm các chính sách cụ thể như:
- Chính sách tuyển dụng, sử dụng viên chức
- Chính sách đào tạo, bồi dưỡng viên chức
- Chính sách sử dụng, bổ nhiệm, thay đổi chức danh, nghề nghiệp, thay
đổi vị trí việc làm của viên chức
- Chính sách biệt phái, bổ nhiệm, miễn nhiệm
- Chính sách đãi ngộ, tiền lương, phụ cấp, khen thưởng
- Chế độ thôi việc, hưu trí…
Ngoài các chính sách cụ thể nêu trên, chính sách phát triển viên chức
còn được thể hiện qua việc quy định trong luật viên chức các quyền của viên
chức như: quyền hoạt động nghề nghiệp, quyền được nghỉ ngơi, quyền về
hoạt động kinh doanh, làm việc ngoài giờ, và các quyền khác như viên chức
được khen thưởng, tôn vinh, được tham gia hoạt động kinh tế-xã hội, được
hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở; được tạo điều kiện học tập, hoạt động nghề
nghiệp ở trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật. Trong trường
hợp bị thương hoặc chết do thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được giao thì
được xét hưởng chính sách như thương binh, hoặc được xét để công nhận là
liệt sĩ theo quy định của pháp luật. Như vậy Nhà nước có khá nhiều các chính
sách tạo điều kiện cho viên chức phát triển.
17
1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát
triển viên chức
Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức là một khâu hợp
thành chu trình chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể
chính sách thành hiện thực.
Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức có vị trí đặc biệt
quan trọng, là bước hiện thực hoá chính sách vào đời sống xã hội. Để có được
chính sách phát triển viên chức tốt, các nhà hoạch định, xây dựng phải qua
một quá trình nghiên cứu tìm kiếm công phu. Nhưng d tốt đến đâu thì chính
sách cũng trở thành vô nghĩa nếu nó không được đưa vào thực hiện.
Tổ chức thực hiện chính sách không tiến hành tốt dễ dẫn đến thiếu tin
tưởng, thậm chí có sự chống đối của viên chức đối với Nhà nước.
Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức giúp bổ sung hoàn
thiện chính sách. Việc phân tích, đánh giá chính sách phát triển viên chức
(mức độ tốt xấu) chỉ có thể đầy đủ, có sức thuyết phục sau khi thực hiện chính
sách. Qua tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức biết được chính
sách có phù hợp hay không phù hợp, vào cuộc sống hay không vào cuộc sống.
Đưa chính sách phát triển viên chức vào thực tiễn là quá trình phức tạp, đầy
biến động chịu trách động của một hoạt các yếu tố, thúc đẩy hoặc cản trở việc
thực thi.
Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là
toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với
các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức thực thi chính
sách là trung tâm kết nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành
một hệ thống. Hoạch định được chính sách đúng, có chất lượng là rất quan
trọng, nhưng thực hiện đúng chính sách còn quan trọng hơn. Có chính sách
đúng nếu không được thực hiện sẽ trở thành khẩu hiệu suông, không những
18
không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và
ban hành chính sách (uy tín của nhà nước). Nếu chính sách không được thực
hiện đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng của nhân dân đối với
nhà nước. Điều này hoàn toàn bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây những
khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong công tác quản lý. Qua thực hiện mới biết
được chính sách có đúng, ph hợp và đi vào cuộc sống hay không. Quá trình
thực hiện với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và
hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc
sống. Đồng thời, việc phân tích, đánh giá một chính sách (mức độ tốt, xấu)
chỉ có cơ sở đầy đủ, sức thuyết phục sau khi được thực hiện. Thực tiễn là
chân lý, kết quả thực hiện chính sách là thước đo, là cơ sở đánh giá một cách
chính xác, khách quan chất lượng và hiệu quả của chính sách. Việc đưa chính
sách vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình phức tạp đầy biến động, chịu sự
tác động của nhiều yếu tố giúp các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính
sách có kinh nghiệm để đề ra được các giải pháp hữu hiệu trong thực hiện
chính sách.
Thực hiện chính sách phát triển viên chức có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Điều này thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, việc thực hiện chính sách phát triển viên chức có vai trò
chuyển hóa ý chí của chủ thể ban hành chính sách thành hiện thực hay cụ thể
hơn là hiện thực hóa chính sách này vào đời sống xã hội. Xuất phát từ các vấn
đề nảy sinh về mặt thực tiễn, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản
chính sách về đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành viên chức. Tuy nhiên,
các văn bản chính sách này nếu không được đưa vào thực hiện thì chính sách
sẽ trở thành vô nghĩa, không có giá trị thực tiễn, không giải quyết được vấn đề
thực tiễn nảy sinh. Thực hiện chính sách là trung tâm kết nối các bước trong
chu trình chính sách thành một hệ thống.
19
Thứ hai, nếu chính sách phát triển viên chức được thực hiện tốt sẽ tạo
động lực tích cực cho viên chức làm việc hiệu quả, gắn bó với cơ quan, giữ
vững lập trường tư tưởng chính trị và nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ cả ở
trong và ngoài nước, đóng góp tích cực cho nền viên chức nước nhà. Ngược
lại, nếu thực hiện chính sách phát triển viên chức không tốt thì sẽ tác động
tiêu cực đến động lực làm việc của viên chức, tạo nên tâm lý chán nản, không
có động lực phấn đấu, nảy sinh những hành động cũng như thái độ tiêu cực
trong làm việc.
Thứ ba, thông qua việc thực hiện chính sách phát triển viên chức, các
nhà hoạch định chính sách có thể phát hiện ra những vấn đề chính sách nảy
sinh trong quá trình thực hiện, từ đó có những điều chỉnh, bổ sung cho phù
hợp trong quá trình thực hiện chính sách. Trong trường hợp thực hiện điều
chỉnh chính sách mà vẫn không mang lại hiệu quả mong muốn, các nhà hoạch
định chính sách sẽ thay đổi chính sách khác cho phù hợp, hiệu quả hơn.
Thứ tư, thực hiện chính sách phát triển viên chức để thể hiện tính đúng
đắn, tính phù hợp của chính sách. Nếu trong quá trình thực hiện chính sách sẽ
nảy sinh nhiều vấn đề và chính sách không được cán bộ, công chức trong
ngành hưởng ứng thực hiện thì đó là chính sách không ph hợp, không đúng
đắn. Ngược lại, nếu trong quá trình thực hiện chính sách thuận lợi, được mọi
người thực hiện và phổ biến rộng rãi thì đó là chính sách đúng đắn, phù hợp.
Hay nói cách khác, đó là sự kiểm định thực tiễn của chính sách.
Thứ năm, thực hiện chính sách phát triển viên chức có ý nghĩa quan
trọng đối với việc phân tích và đánh giá chính sách. Việc phân tích và đánh
giá chính sách chỉ đầy đủ và có tính thuyết phục sau khi thực hiện chính sách
này trên thực tế.
20
1.4. Nội dung các bƣớc thực hiện chính sách phát triển viên chức
1.4.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển
viên chức
Để thực hiện chính sách phát triển viên chức, các cơ quan từ Trung
ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách và xác
định được chính xác, cụ thể các nội dung, nhiệm vụ trong kế hoạch tổ chức
điều hành; trong kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực (bao gồm cả nguồn lực
tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật) cho việc thực hiện chính sách phát triển
viên chức; trong kế hoạch kiểm tra đôn đốc thực thi chính sách và trong việc
xác định hợp lý thời gian thực hiện chính sách. Cùng với xây dựng kế hoạch
thực hiện chính sách, phải xây dựng nội quy, quy chế tổ chức điều hành thực
hiện chính sách. Nếu các kế hoạch trên được xây dựng một cách chính xác và
đảm bảo tính khả thi thì quá trình thực thi chính sách sẽ thuận lợi và đạt hiệu
quả cao đồng thời trong quá trình thực hiện sẽ không phải điều chỉnh, bổ sung
kế hoạch. Để xây dựng được kế hoạch thực hiện chính sách chính xác, có tính
khả thi cao đòi hỏi cán bộ, công chức, viên chức có nhiệm vụ tham mưu, xây
dựng kế hoạch thực hiện chính sách phải hiểu và nắm chắc mục tiêu, nội
dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô, tầm quan trọng của chính sách
phát triển viên chức. Trên cơ sở đó, xác định mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ,
các nguồn lực (nhân lực và vật lực), thời gian và các giải pháp tổ chức thực
hiện.
1.4.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách phát triển viên
chức
Việc phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách phát triển viên chức
giúp cho viên chức (là đối tượng thụ hưởng trực tiếp của chính sách) hiểu rõ
về mục đích, yêu cầu và tính đúng đắn của chính sách để họ tự giác thực hiện.
Đồng thời, việc tuyên truyền, phổ biến chính sách này giúp cho cán bộ, công
21
chức, viên chức có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức đầy đủ tính chất,
quy mô, tầm quan trọng của chính sách để họ tích cực tìm kiếm các giải pháp
thực hiện. Để phổ biến, tuyên truyền chính sách đạt hiệu quả cao đòi hỏi cán
bộ, công chức phải am hiểu chính sách, phải nắm chính xác, đầy đủ mục tiêu,
nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu, phạm vi, đối tượng của chính sách. Đồng thời,
phải nhận thức được đầy đủ mục đích, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ của việc
tuyên truyền, phổ biến chính sách phát triển viên chức. Trên cơ sở đó, xác
định lựa chọn các kỹ năng, các giải pháp phổ biến, tuyên truyền chính sách
phù hợp cho từng đối tượng viên chức tại địa bàn. Tùy từng loại đối tượng và
tùy từng đặc điểm của mỗi cơ quan làm công tác viên chức mà có các hình
thức phổ biến, tuyên truyền và quán triệt thực hiện chính sách cho phù hợp
như: mở các lớp tập huấn tập trung để quán triệt nghiên cứu các nội dung
chính sách, bàn các giải pháp và phân công thực hiện chính sách; tổ chức các
lớp tuyên truyền chính sách cho các cơ quan thông tấn, báo chí để họ tuyên
truyền; xây dựng văn bản hướng dẫn phổ biến cụ thể việc thực hiện chính
sách gửi cho các cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức để họ thực hiện chính
sách. Trong xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể thực hiện chính sách phát
triển viên chức trên địa bàn cũng như các văn bản phổ biến, hướng dẫn chính
sách này phải đảm bảo chính xác, đúng với các quy định trong chính sách,
làm sao đơn giản, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện. Tuyệt đối không được bổ sung
các quy định mang tính chất thủ tục dườm rà, khó thực hiện và làm sai lệch
chính sách. Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách không phải là công việc
đơn giản, đòi hỏi cán bộ, công chức làm công tác phổ biến tuyên truyền chính
sách phải am hiểu sâu sắc chính sách phát triển viên chức, có trình độ năng
lực chuyên môn và có kỹ năng phổ biến, tuyên truyền chính sách.
22