Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Chuyển biến kinh tế, xã hội của làng Vạn Phúc, Hà Đông (1904 – 1945) (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.64 KB, 28 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ HOA

CHUYỂN BIẾN KINH TẾ,
XÃ HỘI CỦA LÀNG VẠN PHÚC, HÀ ĐÔNG
(1904 - 1945)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Xanh

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Văn Khánh
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Chi
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại: Học viện
Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi,
Thanh Xuân, Hà Nội
Vào hồi ........... giờ......... ngày ......... tháng ..........năm 2017



Có thể tìm hiểu luận án tại :
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam là một đất nước nông nghiệp. Cho đến nay vẫn còn
khoảng 70% dân số là nông dân, sinh sống tại nông thôn, làm nghề nông
nghiệp. Trong đó, làng xã cổ truyền, làng nghề truyền thống giữ một vị trí,
ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của các
tầng lớp nhân dân Việt Nam ngày nay. Làng xã là đơn vị cơ sở, có vai trò
rất quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân. Sẽ thật khó mà hiểu được nông thôn Việt Nam với
những chuyển biến kinh tế, xã hội của nó nếu như không nghiên cứu về lịch
sử hình thành và phát triển, về đặc điểm kinh tế, về các quan hệ xã hội chi
phối cư dân trong làng, về văn hóa của làng...
Làng Vạn Phúc, ngày nay thuộc phường Vạn Phúc, quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội, từ xưa không chỉ nổi tiếng là một làng nghề dệt lụa cổ
truyền, mà còn là một làng văn hóa, làng cách mạng.
Vạn Phúc, một làng dệt lụa thủ công truyền thống, một làng cách
mạng tiêu biểu. Việc nghiên cứu chuyển biến kinh tế, xã hội của làng Vạn
Phúc (1904 - 1945) để thấy rõ được vai trò địa lý hành chính của một làng
nghề cổ truyền ven đô đã ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội
của địa phương trong lịch sử và hiện tại. Quá trình phát triển kinh tế, xã hội
trong lịch sử cho thấy Vạn Phúc trở thành một trong những làng nghề thủ
công tiêu biểu, có đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển hơn so với các
làng nghề khác trên đất nước ta lúc bấy giờ. Việc đúc rút được sự thành
công trong phát triển làng nghề thủ công truyền thống sẽ rút ra được những

bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định chính sách kinh tế xã hội phù hợp
với địa phương và hội nhập cùng với cả nước trên con đường công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, Vạn Phúc xứng tầm làm một làng nghề kiểu mẫu cho
làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam.
Trước năm 1904, kinh tế làng Vạn Phúc chủ yếu lấy nông nghiệp
làm chính, nghề dệt chỉ là nghề phụ lúc nông nhàn. Sau 1904, khi nghề dệt
phát triển, nghề thủ công đã hoán đổi trở thành nguồn thu nhập chính của
cư dân làng Vạn Phúc và xuất hiện vai trò của kinh tế thương nghiệp. Làng
Vạn Phúc khi nghề dệt phát triển, cấu trúc kinh tế thay đổi dẫn tới sự thay
1


đổi về chính trị, văn hóa, xã hội.
Nghiên cứu về làng xã Việt Nam qua trường hợp làng Vạn Phúc,
Hà Đông từ năm 1904 đến năm 1945, giúp cho chúng ta nhận thức toàn
diện và sâu sắc về sự chuyển biến kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị của một
làng nghề thủ công tiêu biểu ở Việt Nam thời Pháp thuộc.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên, chúng tôi mạnh dạn lựa
chọn vấn đề "Chuyển biến kinh tế, xã hội của làng Vạn Phúc, Hà Đông
(1904 – 1945)" làm đề tài luận án tiến sĩ sử học.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
2.1. Mục đích.
Làm rõ toàn bộ quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội của làng Vạn
Phúc, Hà Đông ( 1904 – 1945).
Trên cơ sở của kết quả nghiên cứu, luận án sẽ đưa ra những nhận
xét về vai trò kinh tế tiểu thủ công nghiệp đối với đời sống nhân dân làng
Vạn Phúc và một số giải pháp nhằm phát triển làng nghề truyền thống ở
Vạn Phúc.
Luận án rút ra những đặc trưng về sự chuyển biến kinh tế, xã hội
của làng Vạn Phúc từ năm 1904 đến năm 1945.

2.2 Nhiệm vụ.
Luận án sẽ làm rõ sự chuyển biến kinh tế, xã hội của làng Vạn
Phúc, Hà Đông giai đoạn ( 1904 – 1945).
- Rút ra những nhận xét, đánh giá về quá trình chuyển biến kinh tế,
xã hội của làng Vạn Phúc (1904 – 1945).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những chuyển biến về kinh tế, văn
hóa, xã hội của làng Vạn Phúc (1904 – 1945).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Luận án lựa chọn phạm vi không
gian là làng Vạn Phúc, nay thuộc phường Vạn Phúc, quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu những chuyển biến cơ cấu
kinh tế, xã hội, văn hóa làng Vạn Phúc, Hà Đông từ năm 1904 đến năm 1945.
2


4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án.
4.1. Phương pháp luận
Luận án vận dụng phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật lịch sử
để nghiên cứu về sự hình thành, tồn tại và phát triển của làng Vạn Phúc;
điều kiện tự nhiên, lịch sự xã hội, văn hóa; sự chuyển biến kinh tế, xã
hội, văn hóa của làng Vạn Phúc (1904 – 1945).
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ khoa học mà đề tài đặt ra, luận án sử
dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và kết hợp với các phương
pháp so sánh, điều tra khảo sát, điền dã, phỏng vấn.
5. Đóng góp mới của luận án
- Phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về những chuyển biến kinh tế,

xã hội của làng Vạn Phúc suốt một thời gian nông nghiệp - thủ công nghiệp
– thương nghiệp (1094 – 1945)
- Trên cơ sở đó, làm rõ những đặc điểm nổi bật của sự chuyển biến
kinh tế, xã hội làng Vạn Phúc so với các làng xã Việt Nam cùng thời.
- Làm rõ vai trò kinh tế tiểu thủ công nghiệp của làng Vạn Phúc: giới
thiệu về nghề dệt cổ truyền và những đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
qua đó làm sáng tỏ hơn về vấn đề tiểu thủ công nghiệp Việt Nam trong lịch sử.
- Tìm hiểu về kinh tế, văn hóa, chính trị của làng Vạn Phúc cũng
góp phần bổ sung nguồn tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu về lịch
sử địa phương; tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử Việt Nam cận
hiện đại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
6.1. Ý nghĩa lý luận.
- Là một công trình nghiên cứu về lịch sử, luận án góp phần vào
việc làm phong phú hơn nguồn tư liệu về lịch sử làng xã Việt Nam nói
chung, lịch sử làng xã Bắc bộ nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.
- Luận án làm sáng tỏ sự chuyển biến kinh tế, xã hội của làng nghề
Vạn Phúc ( 1904 – 1945), làm rõ vai trò của chính sách tư bản và chính
quyền thuộc địa tác động tới sự chuyển biến đó. Trên cơ sở đó rút ra hệ quả
từ sự chuyển biến đó đối với kinh tế địa phương.
3


7. Kết cấu của luận án.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận án
chia làm 4 chương gồm:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Chuyển biến kinh tế làng Vạn Phúc (1904 – 1945).
Chương 3: Chuyển biến xã hội, văn hóa làng Vạn Phúc (1904

– 1945).
Chương 4: Nhận xét về chuyển biến kinh tế, xã hội làng Vạn Phúc
(1904 – 1945).
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về làng xã cổ truyền.
Các công trình đã tập trung nghiên cứu về vai trò, vị trí của làng xã,
của nông thôn trong lịch sử Việt Nam, tiếp cận về tất cả các mặt như: hạ
tầng và thượng tầng, kinh tế và chính trị, văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần.
Về cơ cấu tổ chức trong bức tranh toàn cảnh về làng Việt cổ truyền;
các loại hình thức tổ chức ngõ, xóm, họ, giáp, phe, hội, phường; vận hành
của cơ cấu tổ chức làng xã những yếu tố tác động đến đời sống xã hội ở các
làng xã Việt Nam trong các thời kỳ.
Một số công trình nghiên cứu về văn hóa, giáo dục, tôn giáo, tín
ngưỡng, nghĩa vụ với nhà nước, các hình phạt của lệ làng..
Các công trình nghiên cứu trên đã giúp cho chúng tôi có được một cái
nhìn tổng thể về làng xã cổ truyền Việt Nam theo dòng lịch sử từ quá khứ đến
hiện tại.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về làng nghề và nghề
tiểu thủ công nghiệp Việt Nam.
Trong nhóm các công trình này các giả đã dược thuật khái niệm
tiểu, thủ công nghiệp, làm rõ vị trí, vai trò và một số đặc điểm của tiểu thủ
1.1.

4



công nghiệp ở đô thị trong nền kinh tế làng xã Việt Nam.
Một số công trình đề xuất được những phương hướng, giải pháp
phát triển làng nghề truyền thống vùng ven thủ đô Hà Nội theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang tính khả thi và sát với thực tế.
1.1.3. Nhóm các công trình liên quan về lịch sử và chế độ khai
thác thuộc địa của Pháp từ nửa sau thế kỷ XIX - 1945
Qua nghiên cứu nguồn tư liệu này tác giả thấy rõ sự chuyển biến
về kinh tế, xã hội Việt Nam thời thuộc Pháp như: Về ngành nghề thủ công
truyền thống đã có sự biến đổi sâu sắc trong thời Pháp thuộc
Có thể nói nhóm tài liệu về chế độ thuộc địa và liên quan đến chế
độ thuộc địa đã cung cấp dữ liệu cho luận án cái nhìn tổng quan về chính
sách khai thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và tác động của nó tới sự
chuyển biến cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hóa Việt Nam trong thời kỳ thực
dân Pháp đô hộ.
1.1.4. Nhóm các công trình nghiên cứu về làng Vạn Phúc
Các công trình đã nghiên cứu về làng Vạn Phúc trên nhiều
phương diện, trong đó nổi bật là những công trình viết về nghề dệt của
làng Vạn Phúc.
Một số tác giả đã bước đầu viết về làng Vạn Phúc trên phương
diện làng nghề, làng văn hóa, làng cách mạng. Về văn hóa xã hội, có tác
giả nêu một số phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của người dân
Vạn Phúc.
Các công trình nghiên cứu về làng Vạn Phúc được viết trên
nhiều phương diện và trải qua cả chiều dài lịch sử của làng Vạn Phúc.
1.1.5. Tư liệu khảo sát thực địa
Những tài liệu thu được từ thực địa gồm: sổ đinh, sổ điền, gia
phả, thần phả, khoán ước, hương ước hoặc tài liệu hiện vật: kiến trúc, nhà
cửa, đình miếu, bi ký... cũng được coi là tài liệu gốc để triển khai phục vụ
luận án.
1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Kế thừa thành tựu của những người đi trước tác giả tiếp tục làm
rõ những nội dụng sau:
- Khái quát chung về đặc điểm điều kiện tự nhiên, xã hội, văn
5


hóa, bộ máy hành chính làng Vạn Phúc, trong đó, tập trung nghiên cứu,
tìm hiểu và làm sáng rõ những tác động của chính sách cải lương hương
chính của thực dân Pháp ở Hà Đông đến đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa,
chính trị làng xã tỉnh Hà Đông nói chung và làng Vạn Phúc nói riêng.
- Nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế làng Vạn Phúc, Hà Đông
(1904- 1945), làm sáng rõ về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp, những tác động của nghề dệt đối với đời sống của
nhân dân Vạn Phúc; mối quan hệ giữa kinh tế nông nghiệp với tiểu thủ
công nghiệp, thương nghiệp và các nghề khác; sự biến đổi của các thành
phần kinh tế, nhất là nghề dệt lụa nổi tiếng của Vạn Phúc. Đồng thời,
nghiên cứu về mối quan hệ tương hỗ, phát triển kinh tế giữa làng Vạn
Phúc với các địa phương khác.
- Nghiên cứu làm sáng rõ sự chuyển biến về xã hội theo sự biến
đổi nghề nghiệp, văn hóa, chính trị của làng Vạn Phúc (1904 – 1945).
Chương 2
CHUYỂN BIẾN KINH TẾ LÀNG VẠN PHÚC,
HÀ ĐÔNG (1904 – 1945)
2.1. Khái quát lịch sử làng Vạn Phúc.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của làng Vạn Phúc.
Ngày 26-12-1896, Phó Toàn quyền Đông Dương Foures thay
mặt Toàn quyền Đông dương ký ký nghị định chuyển tỉnh lỵ Hà Nội về
làng Cầu Đơ. Ngày 6-12-1904, nghị định số 3308 của Toàn quyền Đông
Dương về việc đổi tên tỉnh Cầu Đơ thành tỉnh Hà Đông.
Làng Vạn Phúc ngày nay là phường Vạn Phúc nằm trên địa bàn

quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Đến đầu thế kỷ XX do kiêng húy tên vua
Thành Thái (1889-1906) là Bảo Lân nên mới đổi thành Vạn Phúc. Cách
mạng Tháng Tám 1945 thành công làng Vạn Phúc là đơn vị hành chính
thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế làng Vạn Phúc trước 1904
Sản xuất nông nghiệp
Theo địa bạ xã Vạn Phúc, Tổng đại Mỗ, huyện Từ Liêm, phủ
6


Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (Bản địa bạ kí hiệu A6.a1/32 hiện đang được lưu
trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm (VASS). Bản địa bạ này ghi rõ về tình
hình sở hữu ruộng đất của Vạn Phúc.
So với các vùng phụ cận xung quanh thì ruộng đất nông nghiệp
của làng Vạn Phúc ít hơn song ruộng đất và canh tác nông nghiệp chiếm
phần chính trong việc đáp ứng tồn tại cuộc sống cơ bản cho đại bộ phận
người dân làng Vạn Phúc thời kỳ trước 1904. Nông nghiệp thời kỳ này
vẫn chiếm vị trí quan trọng đối với đại bộ phận cư dân làng Vạn Phúc để
giải quyết đời sống cho dân làng. Tuy nhiên ở Vạn Phúc do đất đai chật
hẹp, không có tích tụ ruộng đất nên không có địa chủ.
Về thủ công nghiệp làng Vạn Phúc trước 1904 .
Trước 1904 nghề dệt ở Vạn Phúc tuy đã phát triển song quy mô và
thị trường tiêu thụ còn hẹp. Tuy có một bộ phận quan lại, vua chúa dùng
gấm lụa của Vạn Phúc song thị trường tiêu thụ chính vẫn là chợ làng ( chợ
Đình), chợ khu vực ( chợ Đơ). Như vậy có thể nói nghề dệt làng Vạn Phúc
thời kỳ này kỹ thuật dệt còn thô sơ, quy mô nhỏ, thị trường tiêu thụ là địa
phương và những vùng phụ cận là chủ yếu, yếu tố thương nghiệp còn mờ
nhạt khi chưa mở rộng quy mô sản xuất và thị trường còn nhỏ hẹp.
2.2. Chuyển biến kinh tế làng Vạn Phúc (1904 - 1945 ).
2.2.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến kinh tế làng Vạn

Phúc.
Có nhiều yếu tố tác động đến sự chuyển biến kinh tế làng Vạn Phúc
như yếu tố vị trí địa lý, yếu tố nội tại của làng nghề, truyền thống văn hóa
lịch sử, tác động của thời cuộc, ... Trong phần này của luận án, tôi bàn đến
tác động cơ bản của chính quyền thuộc địa và vai trò của Tổng đốc Hoàng
Trọng Phu đối với sự phát triển vượt bậc, nổi trội của kinh tế làng Vạn
Phúc.
Thái độ của chính quyền cai trị đối với nghề dệt lụa.
Trong thời gian người Pháp đô hộ Việt Nam, nghề dệt tơ lụa được
khuyến khích phát triển. Năm 1894 đến năm 1909, người Pháp miễn thuế
trồng dâu, rồi đặt các sở chăn tằm kiểu mẫu, đặt trại sản xuất giống tằm tốt để
cung cấp cho những nhà sản xuất tơ. Thực dân Pháp ở Đông Dương đã tổ
chức hội chợ, triển lãm, chấm thi… và cấp bằng khen, mề đay… đồng thời
7


tuyên truyền rầm rộ cho việc “chấn hưng công nghệ”. Chính nhờ có sự giúp
đỡ này mà nghề lụa Vạn Phúc đã mở rộng được thị trường tiêu thụ, nâng cao
chất lượng sản phẩm, có sức cạnh tranh và ảnh hưởng lớn với thị trường
trong và ngoài nước.
Vai trò của Tổng đốc Hoàng Trọng Phu đối với sự phát triển
nghề dệt của cư dân làng Vạn Phúc.
Hoàng Trọng Phu được học hành và đào tạo bài bản, từng du học
6 năm bên Pháp (1888-1894). Về nước, Hoàng Trọng Phu có một khoảng
thời gian ngắn làm thông ngôn cho vua Thành Thái. Năm 1897, Hoàng
Trọng Phu làm Án sát Bắc Ninh, sau đó làm Tổng đốc Ninh-Thái (Bắc
Ninh-Thái Nguyên). Năm (1907 -1938) ông làm Tổng đốc Hà Đông được
phong hàm Thái tử Thiếu bảo, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ.
Trong cuốn Nhận xét về tỉnh Hà Đông của Tòa công sứ Hà
Đông đã nhận định về vai trò của Tổng đốc Hoàng Trọng Phu đối với

việc “ chấn hưng công nghệ ở Hà Đông” , đặc biệt là nghề dệt Vạn Phúc
được ông quan tâm đặc biệt, đầu tư nhiều cồng sức để chấn hưng công
nghệ và phát triển nghề dệt để xây dựng thành “ làng kiểu mẫu”.
2.2.2. Chuyển biến về kinh tế nông nghiệp Vạn Phúc.
Theo sự phát triển của nghề dệt, tình hình sở hữu ruộng đất của
Vạn Phúc từ giai đoạn 1904 đến năm 1945 đã có sự thay đổi khi nghề dệt
phát triển, dân cư làng Vạn Phúc chủ yếu tham gia làm nghề tiểu thủ
công.
Ngoài 16 hộ tiểu chủ có nhiều ruộng đất, thì đa số các hộ còn lại
của làng Vạn Phúc đều có rất ít ruộng đất để trồng trọt và chăn nuôi, trung
bình mỗi hộ khoảng 0,28 mẫu, tương đương với 2,8 sào. Chính vì vậy,
phần lớn các gia đình ở làng Vạn Phúc chủ yếu sống hoàn toàn bằng nghề
dệt và nghề dệt chiếm ưu thế trong tổng thu nhập và kinh tế làng Vạn
Phúc cũng vì thế mà chủ yếu dựa vào nghề dệt là chính.
Như vậy, nghề sản xuất nông nghiệp ở làng Vạn Phúc dù không
phát triển mạnh mẽ; không phải nghề chủ yếu để nuôi sống xã hội như
nhiều làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ. Song, nghề nông vẫn giữ một vị trí,
vai trò rất quan trọng đối với đời sống của cư dân làng Vạn Phúc.

8


2.2.3. Chuyển biến kinh tế tiểu thủ công nghiệp ở Vạn Phúc .
Làng Vạn Phúc giai đoạn 1904 đến 1945 nghề dệt được quan tâm
chú trọng phát triển , cư dân làng Vạn Phúc thời kỳ này chủ yếu sống
bằng nghề dệt.
Để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của thị trường, nghề dệt từ
những năm 30 đến trước chiến tranh thế giới thứ II (1939), số lượng
khung dệt của làng tăng lên nhanh chóng. Làng Vạn Phúc đã mở thêm
nhiều khung dệt, cải tiến từ khung thô sơ, dậm chân, năng suất thấp lên

thành khung cửi, giật dây; từ dệt lụa vuông khổ 40 - 60cm đến dệt lụa tấm
khổ 80cm. Từ chiếc khung cửi dùng người kéo hoa được thay thế bằng
khung cửi dùng đầu máy Zatka Hồng Kông. Nhờ đó mà năng suất và chất
lượng hàng dệt được nâng lên. Năng suất tăng từ 3 thước khổ nhỡ lên 8
thước khổ rộng trong một ngày của một khung dệt.
Trong đó cứ mỗi một khung dệt cần khoảng hai thợ, như vậy con
số thợ dệt ở làng Vạn Phúc ở những thời điểm hưng thịnh giai đoạn 1936
– 1940 lên tới khoảng 3000 thợ dệt, số thợ dệt này đã tăng lên hơn 4 lần so
với con số khoảng 700 thợ dệt trước 1904. Trong 4 năm, từ năm 1930 đến
1935, số lượng khung tăng từ 320 khung lên 500 khung, tăng thêm 180
khung, gấp 1,56 lần so với trước năm 1930. Trong 5 năm tiếp theo, từ năm
1936 đến 1940 tăng thêm 1000 khung, nâng tổng số khung dệt của làng lên
1500 khung, tăng gấp 3 lần so với giai đoạn (1930 – 1935). Làng Vạn Phúc
không chỉ nhập nguyên liệu từ nhiều địa phương trong nước, mà còn mở
rộng quan hệ mua tơ tằm với các nước như: Anh, Pháp, Nhật, Trung
Quốc,… trung bình mỗi năm tiêu thụ hàng chục tấn tơ.
Làng Vạn Phúc lúc đầu chuyên dệt the, về sau dệt cả vân, satanh
và dệt lụa hoa, the Vạn Phúc còn dùng để may quần áo ngủ xuất sang
Pari.
Quy trình sản xuất của nghề dệt ở làng Vạn Phúc
- Khi làm được một tấm lụa, người thợ dệt phải trải qua một
quy trình kỹ thuật phức tạp, tốn nhiều công sức với rất nhiều công
đoạn. Có thể chia thành các khâu chính như : Khâu tơ, khâu hồ, khâu
dệt, khâu chuội và nhuộm. Hiện đại hóa công nghệ truyền thống nhưng
những người thợ thủ công làng Vạn Phúc vẫn đảm bảo nguyên tắc sản
9


phẩm sản xuất ra không bị mất đi tính truyền thống , đó là nét độc đáo
của sản phẩm và cũng là yếu tố đặc trưng của sản phẩm nghề dệt ở

Vạn Phúc mà người dùng ưa chuộng.
Tổ chức sản xuất
Trước cách mạng tháng Tám 1945, dân cư Vạn Phúc chủ yếu
sống bằng nghề dệt lụa. Hoạt động sản xuất diễn ra trong phạm vi gia
đình. Phần lớn các gia đình ở đây chỉ làm nghề dệt, một số khác kiêm
thêm nghề nông, các gia đình chỉ làm thuần nông hầu như không có. Đối
với những gia đình làm nghề dệt, lực lượng sản xuất chính trong gia đình
là bố, mẹ, các con và thuê thêm thợ dệt.
Một số sản phẩm tiêu biểu của dệt Vạn Phúc
Mặt hàng dệt Vạn Phúc đa dạng, phong phú với nhiều chủng loại
như: lụa, gấm, vân, the, lĩnh, băng quế, đoạn sa, kỳ cầu, tít so, đũi…
nhưng lụa và gấm là hai mặt hàng nổi tiếng nhất.
Như vậy có thể nói thời kỳ này các mặt hàng của nghề dệt ở Vạn
Phúc đã có bước phát triển vượt bậc, có chỗ đứng trên thị trường quốc tế là
một điểm nhấn cho nghành tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở Việt Nam.
2.2.4. Sự xuất hiện kinh tế thương nghiệp làng Vạn Phúc .
Trong cấu trúc kinh tế của làng Vạn Phúc lúc này đã xuất hiện một
tầng lớp thợ thủ công kiêm thương nhân, họ trở thành những người buôn
bán giỏi khi thành lập những tổ chức phường hội mang hàng hóa đi buôn
bán trong và ngoài nước.
Chợ khu vực và chợ kinh thành lúc này đã thúc đẩy sự phát triển của
sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế tiểu thủ công nghiệp Vạn Phúc và xuất
hiện một kết cấu kinh tế mới của làng Vạn Phúc là nông – tiểu thủ công –
thương nghiệp ..
Khi nghiên cứu về sự xuất hiện của kinh tế thương nghiệp ở làng Vạn
Phúc ta thấy một sự chuyển biến rất lớn dưới tác động của kinh tế hàng hóa
khi xuất hiện một bộ phận tầng lớp thương nhân buôn bán và hình thành phát
triển kinh tế phường hội, mở nhiều địa điểm bán hàng trên cả nước và quảng
bá sản phẩm nghề dệt Vạn Phúc ra thị trường thế giới. Điều này có thể nói là
một bước chuyển đột phá của kinh tế làng nghề Vạn Phúc nói riêng và so với

các làng nghề truyền thống nói chung.
10


Quá trình xuất hiện hàng hóa của nghề dệt Vạn Phúc ở hệ thống chợ
quê, chợ khu vực, chợ kinh thành, các cửa hiệu lớn trên phạm vi toàn quốc và
triển lãm sản phẩm ở những Hội chợ lớn trên thế giới của tầng lớp thợ thủ
công ( kiêm thương nhân) bước đầu thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp - thương nghiệp truyền thống của làng Vạn Phúc đi vào quỹ
đạo vận hành của kinh tế hàng hoá.
Tóm lại kết cấu kinh tế làng Vạn Phúc là kết cấu đa nguyên và
chặt, gồm nhiều ngành kinh tế, với đơn vị kinh tế cơ sở là lối sản xuất nhỏ
của hộ gia đình. Về cơ bản làng Vạn Phúc có kết cấu kinh tế nông nghiệp thủ công nghiệp - thương nghiệp. Trong đó thủ công nghiệp là yếu tố kinh
tế chi phối chủ đạo. Kết cấu kinh tế làng Vạn Phúc thể hiện tính dằng dai
móc nối giữa các yếu tố kinh tế với nhau mà không có sự đứt đoạn nào giữa
các yếu tố kinh tế ấy. Nông nghiệp là nghề gốc, thủ công nghiệp và thương
nghiệp vốn không thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp. Khi kinh tế ngành
dệt phát triển đã tạo được những bước thăng hoa vượt trội trong nền sản
xuất. Từ kết kết cấu kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp đã xuất hiện yếu
tố thương nghiệp. Qua đây chúng ta thấy mọi biến đổi trong kinh tế làng
Vạn Phúc đã tạo được những bước nhảy vọt về chất ở thời kỳ này về quy
mô, tốc độ tăng trưởng và tính chất của nó.
2.3. Các nghề khác ở làng Vạn Phúc .
Nhân dân Vạn Phúc chủ yếu sống bằng nghề dệt. Nghề dệt ở làng
Vạn Phúc đã phát triển rất mạnh, sớm trở thành nghề chủ đạo nuôi sống
nhân dân, nên số lượng các hộ tham gia sản xuất bằng các nghề khác rất ít
ỏi. Trong làng có tổng số 678 hộ, thì chỉ có 40 hộ gia đình làm nghề khác,
chỉ chiếm tỷ lệ 5,9%.
Ngoài nghề dệt thì các ngành nghề phụ khác ở Vạn phúc lúc bấy
giờ chỉ là một vài hộ cá thể sản xuất và buôn bán nhỏ lẻ phục vụ cho nhu

cầu đời sống thiết yếu của cư dân làng Vạn Phúc.
2.4. Mối quan hệ kinh tế giữa làng Vạn Phúc với các vùng
phụ cận.
Trong quá trình sản xuất của một làng dệt là nhập nguyên liệu,
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và thuê nhân công phục vụ đòi hỏi phải có
mối quan hệ giao lưu kinh tế với nhiều địa phương khác trong nước, nhất
11


là những làng phụ cận làng Vạn Phúc. Nhân dân làng Vạn Phúc sản xuất,
kinh doanh và phát triển nghề dệt nổi tiếng ở trong nước và nước ngoài.
Nhưng nguyên liệu tơ tằm phục vụ cho sản xuất phải nhập hoàn toàn từ
các địa phương khác, hay từ các nước như Anh, Pháp, Trung Quốc; các
sản phẩm nghề dệt cũng được đưa đi nhiều nơi trong nước và triển lãm ở
nước ngoài đã tạo nên sự giao lưu, hợp tác về kinh tế giữa làng Vạn Phúc
với nhiều địa phương.
Tiểu kết chương 2
Trong cơ cấu kinh tế làng Vạn Phúc có kinh tế nông nghiệp, kinh tế thủ
công nghiệp , thương nghiệp và một số ngành nghề khác. Tuy nhiên, kinh tế
chủ đạo, giữ vai trò, vị trí nuôi sống xã hội vẫn là nghề dệt , còn lại kinh tế
nông nghiệp và các nghề khác chỉ mang tính phụ trợ cho nghề dệtc. Nghề nông
từ vị trí độc tôn dần dần trở thành thứ yếu và thay vào đó là sự chi phối chủ yếu
của nghề dệt. Mặc dù vậy, giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp vẫn có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động và hỗ trợ lẫn nhau.
Mặc dù nghề dệt truyền thống ở Vạn Phúc rất phát triển và
đóng vai trò chủ đạo trong đời sống của nhân dân, nhưng nhìn chung
sản xuất vẫn dừng lại trong khuôn khổ của nền sản xuất tiểu công
nghiệp, công cụ sản xuất đơn giản thô sơ, năng suất lao động còn thấp
và chưa xuất hiện những xưởng dệt quy mô lớn.
Thời thực dân Pháp cai trị, người dân Vạn Phúc nói riêng và Hà

Đông nói chung đã chịu nhiều tác động, ảnh hưởng chính sách của nhà
cầm quyền, nhất là chính sách cải lương hương chính. Ngoài những tác
động tích cực đến phát triển kinh tế, xã hội thì chính sách cải lương
hương chính cũng đã kìm hãm sự phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội,
văn hóa của Vạn Phúc.

12


Chương 3
CHUYỂN BIẾN XÃ HỘI, VĂN HÓA LÀNG VẠN PHÚC
(1904 - 1945)
3.1 Đặc điểm xã hội ,văn hóa Vạn Phúc trước 1904.
Làng Vạn Phúc nằm ở vị thế thuận lợi có điều kiện tiếp nhận nhanh
nhạy, sâu sắc mọi diễn biến về chính trị, văn hóa xã hội của đất nước thông
qua tác động trực tiếp từ thành phố Hà Nội.
Về tình hình xã hội
Do đặc điểm kinh tế của làng Vạn Phúc là một làng nông nghiệp kết
hợp với kinh tế tiểu thủ công nghiệp nên bên cạnh giai cấp nông dân còn có
nhiều lực lượng xã hội mới ra đời, hoặc tăng lên rất nhanh, như công nhân, thợ
thủ công, tiểu trí thức, tiểu chủ, thợ thủ công kiêm thương nhân…Nền kinh tế
biến đổi, những thành phần xã hội mới ra đời đem đến cho Vạn Phúc những
yếu tố mới mẻ trong sinh hoạt, nếp làm ăn, trình độ hiểu biết được nâng lên, có
cái sôi nổi và nhanh nhạy nhưng đồng thời còn tồn tại nhiều mặt tiêu cực của
một xã hội thực dân phong kiến cũng rất sâu đậm ở làng Vạn Phúc trước 1904.
3.2. Những yếu tố tác động đến chuyển biến xã hội, văn hóa.
3.2.1. Chính sách cải lương hương chính .
Thực dân Pháp chọn Hà Đông thực hiện cuộc cải lương hương chính
Tỉnh Hà Đông có những thuận lợi so với các tỉnh khác ở Bắc Kỳ, chính
quyền Pháp chọn để thực hiện việc thử nghiệm cải lương hương chính.

Một số nội dung cơ bản về chính sách cải lương hương chính
của chính quyền Pháp ở tỉnh Hà Đông.
Thông qua cuộc cải lương hương chính đã tác động trực tiếp tới
việc thay đổi tổ chức xã hội ở làng xã trên địa bàn tỉnh Hà Đông và Vạn
Phúc.
3.2.2.Tác động của nghề dệt đến đời sống nhân dân làng Vạn
Phúc
Nghề dệt phát triển đã mang lại cuộc sống no đủ cho cư dân làng
Vạn Phúc, sự phát triển của nghề dệt cũng kéo theo sự chuyển biến về
kinh tế và xã hội của làng Vạn Phúc.
.
13


3.3.Chuyển biến về xã hội ở làng Vạn Phúc .
3.3.1 Tổ chức bộ máy hành chính và các thiết chế xã hội
làng Vạn Phúc.
Tổ chức bộ máy hành chính.
Ở làng Vạn Phúc tuân theo sắc lệnh của chính quyền thuộc địa tại
điều 139 nghị định về cải lương hương chính cũng giống như các làng xã
khác ở Bắc bộ lúc bấy giờ. Các làng xã là đơn vị cơ sở, mọi chủ trương
chính sách của chính quyền thuộc địa đều nhằm biến bộ máy chính quyền
cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh thành công cụ đắc lực phục vụ cho bộ máy cai
trị thuộc địa và mang lại lợi ích cho chúng.
Trong hương ước, tục lệ của Vạn Phúc khi các bậc kỳ, lý không có
lợi lộc gì nhiều, khi làm chức vụ dễ gặp va chạm, mất tình làng, nghĩa xóm
nên việc bầu cử các thứ bậc ở Vạn Phúc không diễn ra cạnh tranh mà hầu
như là việc phải làm, hết nhiệm kỳ là thôi, họ không mặn mà hoặc đấu tranh
quyết liệt để giành thứ bậc trong làng như những nơi khác.
Trong làng Vạn Phúc là một làng nghề đặc trung nên những người

có địa vị và được sự kính trọng trong làng là những nghệ nhân tài hoa,
những Bá hộ buôn bán giỏi và những người tham gia vào các tổ chức
phường hội của làng; các tổ chức phường hội, giới, tổ chức giáp thể hiện rõ
vai trò và vị trí kinh tế - chính trị của mình trong suốt một thời kỳ dài ở Vạn
Phúc.
Về cơ cấu quyền lực ở Vạn Phúc, với tư cách là một làng nghề, bộ
máy quan lại của tầng lớp kỳ mục không thể hiện rõ vai vế và địa vị, điều
dân làng quan tâm là các tổ chức phường hội.
Các thiết chế xã hội của làng Vạn Phúc.
Tổ chức phường cửi
Tầng lớp thợ dệt chiếm phần lớn trong dân cư làng Vạn Phúc
và chi phối hầu hết các mối quan hệ xã hội trong làng. Tầng lớp này
tập hợp nhau lại thành một tổ chức gọi là Phường cửi, mà thành viên
của nó là những gia đình làm nghề dệt.
Phường dệt có tác dụng tích cực đối với người thợ dệt, sản xuất
đòi hỏi một số vốn tối thiểu nào đó. Người thợ dệt thường không có nhiều
vốn để có thể mua sắm đủ tư liệu và nguyên liệu sản xuất. Đã vậy, không
14


phải bao giờ quy trình sản xuất cũng trôi chảy. Chỉ một khâu mắc mớ,
chẳng hạn như lúc “hàng ế tơ cao”, không tiêu thụ được hàng hóa cũng có
thể làm cho quy trình sản xuất bị gián đoạn. Về mặt này, phường dệt đã
phát huy tác dụng của nó. Phường dệt huy động những vốn lẻ tẻ của nhiều
người để sử dụng tập trung hoặc tùy từng lúc mà điều hòa theo nhu cầu
của từng người. Nhờ đó những lúc cần thiết người sản xuất có thể sử dụng
được một số vốn lớn hơn số vốn mình có, để tăng cường khả năng sản
xuất, nâng cao chất lượng và khối lượng sản phẩm.
Tổ chức Giáp
Giáp là một hình thức tổ chức dành riêng cho nam giới không chỉ

ở làng Vạn Phúc mà còn có ở các làng Việt cổ truyền khác.
Thông thường mỗi làng có khoảng 4 giáp nhưng ở làng Vạn
Phúc lại có tới 14 giáp. Dân cư của làng tự phân thành 14 giáp theo từng
họ, họ lớn thì có 2 đến 3 giáp, họ bé thì thành một giáp. Họ Nguyễn lớn
nhất có 3 giáp, họ Đỗ có 2 giáp.
Tên các giáp đặt theo chữ của đôi câu đối đặt ở hai dãy tảo mạc
tại đình Vạn Phúc, thể hiện tài văn chương, mong cầu an khang – thịnh
vượng cho dân làng. Đôi câu đối như sau:
Phúc hữu lộc tài lợi thái hợp (tả)
An khang thọ khánh mỹ thiệu hòa (hữu)
Theo đó, mỗi giáp lấy một chữ gắn với chữ “Vạn” (tên của làng)
mà đặt tên cho giáp: Vạn Phúc, Vạn Hữu, Vạn Lộc, Vạn Tài, Vạn Lợi,
Vạn Thái, Vạn Hợp, Vạn An, Vạn Khang, Vạn Thọ, Vạn Khánh, Vạn
Mỹ, Vạn Thiện, Vạn Hòa. Những ngôn ngữ toát lên ý tưởng tâm hồn của
con người hướng về cội nguồn mà hun đúc lên sự an lạc, hòa hợp, sum
vầy của người dân quê lụa Vạn Phúc.
Vai trò của giới trong làng Vạn Phúc
Sự phát triển của nghề dệt truyền thống ở làng Vạn Phúc đã tác
động mạnh mẽ đến vị trí, vai trò của các giới trong đời sống của nhân
dân. Trong dân gian Việt Nam có câu:
“Trai thì lo việc nông tang
Gái thì chăm lo canh cửi”
Đối với làng Vạn Phúc với 90% dân số làm nghề dệt, thì đàn ông
15


không lo việc “nông tang”, trồng trọt nữa mà dành thời gian, sức lực tham
gia sản xuất dệt. Vì thế, vị trí, vai trò của giới nam ở làng dệt Vạn Phúc có
khác so với giới nam các làng cổ truyền chủ yếu sản xuất nông nghiệp.
3.3.2.Sự chuyển biến và xuất hiện giai tầng mới trong xã hội làng

Vạn Phúc.
Do đặc điểm kinh tế của làng Vạn Phúc là một làng nông nghiệp kết
hợp với kinh tế tiểu thủ công nghiệp nên bên cạnh giai cấp nông dân còn
có nhiều lực lượng xã hội mới ra đời, hoặc tăng lên rất nhanh, như công
nhân, thợ thủ công, tiểu trí thức, quan lại, công chức, tiểu chủ, thợ thủ
công kiêm thương nhân…Nền kinh tế biến đổi, những thành phần xã hội
mới ra đời đem đến cho Vạn Phúc những yếu tố mới mẻ trong sinh hoạt,
nếp làm ăn, trình độ hiểu biết được nâng lên, có cái sôi nổi và nhanh nhạy
nhưng đồng thời còn tồn tại nhiều mặt tiêu cực của một xã hội thực dân
phong kiến cũng rất sâu đậm ở làng Vạn Phúc trước 1904.
Đối với một làng làm nghề thủ công nghiệp như Vạn Phúc thì
ruộng đất không phải là vấn đề hàng đầu trong đời sống kinh tế, nó chỉ có
tác dụng hỗ trợ cho cuộc sống của người thợ. Do đó, sợi dây ràng buộc giữa
giai cấp thống trị và người dân mờ nhạt. Vấn đề chính ở đây lại là vấn đề kỹ
thuật nghề nghiệp, bởi vì kỹ thuật nghề nghiệp đem lại những nguồn thu
nhập cao cho người thợ dệt. Những thợ dệt giỏi được phong Bá Hộ và có vị
trí uy tín trong dân làng được dân làng kính nể, trọng vọng..
Mặt khác ở Vạn Phúc ruộng đất ít nên tầng lớp nông dân chiếm
một tỷ lệ nhỏ trong dân số, khoảng 7% số hộ. Do số lượng ít ỏi và nguồn
thu nhập do ruộng đất đem lại không đáng kể nên tầng lớp nông dân có xu
hướng chuyển sang làm nghề dệt. Mặc dù đã có sự phân hóa giữa những hộ
tiểu chủ - tiểu thương với người thợ dệt nhưng sự phân hóa chưa cao. Giữa
hai tầng lớp này có mối quan hệ tác động qua lại với nhau như những bạn
hàng, phường bạn. Tiểu thương, thợ thủ công là hai tầng lớp chính và có uy
tín, vị trí trong làng.
3.3.3 . Thái độ ứng xử của cư dân làng Vạn Phúc với thực dân
Pháp.
Nhân dân Vạn Phúc có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo
trong lao động, kiên cường trong đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước.
16



Khi thực dân Pháp vũ trang xâm lược Việt Nam, nhân dân Vạn Phúc cùng
với nhân dân cả nước chiến đấu chống giặc, lập lên chiến công.
Sự phồn vinh của Vạn Phúc chỉ là bề ngoài, phần nào bị che đậy
bằng âm mưu cai trị và bóc lột của nhà cầm quyền. Khẩu hiệu “Chấn hưng
công nghệ” như là chiệc thòng lọng xiết chặt vào cổ nhân dân lao động.
Người dân Vạn Phúc làm suốt ngày đêm với bao sức lực, tài trí, nhưng
chính quyền cai trị, tư bản Pháp được hưởng lợi nhiều nhất. Chính vì vậy,
làn sóng đấu tranh của nhân dân Vạn Phúc đòi các quyền dân sinh, dân chủ,
chống độc quyền của người Pháp đã nổ ra mạnh mẽ, với nhiều hình thức.
Phong trào cách mạng của Vạn Phúc trước khi thành lập chi bộ
Đảng.
Phong trào yêu nước ở Vạn Phúc sau khi thành lập chi bộ
Đảng.
Phong trào cách mạng Vạn Phúc dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương
Thành lập Mặt trận Việt Minh, tích cực chuẩn bị giành chính
quyền
Xóa bỏ chính quyền địch, thành lập chính quyền nhân dân, Vạn
Phúc đã làm tròn nhiệm vụ là một trong những xã mở đầu khởi nghĩa ở cơ
sở trong tỉnh Hà Đông. Từ đây nhân dân Vạn Phúc thoát khỏi ách áp bức,
bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, tiến lên xây dựng cuộc sống mới. Vạn Phúc
đã có công lớn che chở, nuôi dưỡng và bảo vệ cán bộ cách mạng, nhiệt tình
tham gia đấu tranh, có quy mô, tổ chức rõ ràng và giành được nhiều thắng
lợi góp phần vào phong trào giải phóng dân tộc.
3.4 . Chuyển biến về văn hóa ở Vạn Phúc.
3.4.1. Phong tục tập quán và lễ hội.
Phong tục, tập quán của làng Vạn Phúc
Sự phát đạt của nghề dệt đã có những ảnh hưởng đến phong tục

tập quán và tình cảm của người dân Vạn Phúc.
Việc ma chay, cưới xin của cả làng cũng giống như lệ của
phường cửi. Phường có nghĩa vụ phúng viếng nếu bản thân thành viên,
cha mẹ đẻ hay cha mẹ vợ hoặc chồng của họ chết. Ngược lại ai có con gái
lấy chồng thì phải nộp cho phường một khoản tiền nhất định. Nếu lấy
17


chồng làng khác thì phải nộp cho làng 300 gạch để lát đường làng. Đặc
biệt trong việc mừng thọ của dân làng Vạn Phúc có những nét rất riêng
còn duy trì đến nay. Như: làng tổ chức mừng thọ cho các cụ 70 tuổi trở
lên tại đình làng vào dịp lễ hội hàng năm. Các cụ 80 tuổi được tặng
2,5m lụa màu mỡ gà, các cụ 90 tuổi được tặng 3,5m lụa đỏ và các cụ
100 tuổi được tặng 5,5m lụa đỏ để may quần áo, khăn, giầy,… Vạn
Phúc là một làng dệt lụa lại có lệ tặng lụa các cụ cao tuổi thể hiện sự
đề cao tôn vinh nghề nghiệp cha ông. Đây cũng là dịp các thế hệ con
cháu tỏ lòng kính trọng đối với người già, thể hiện đạo lý “trọng xỉ”
truyền thống của dân tộc.
Người Vạn Phúc đi ra ngoài và tiếp nhận văn hóa của nhiều
vùng miền nên cách cư xử của họ rất mềm dẻo, được lòng mọi người, họ
cũng rất đàng hoàng, thật thà, ít lèo lá, được người thiên hạ quý mến. Họ
sống tự trọng không quỵ lụy, hạ thấp mình bằng cách xưng hô “con” hay
“cháu” với người mua hàng. Người Vạn Phúc sống rộng rãi và tin tưởng
vào sự tự trọng của người khác, nhiều người thích vùng đất này đã đến
sinh sống và lập nghiệp ở Vạn Phúc.
Lễ hội làng Vạn Phúc.
Lễ hội Đền phường Cửi
Hội làng Vạn Phúc
Các lễ hội khác
Ngoài hai lễ hội ở đền phưởng cửi và hội làng là hội chính, ở

Vạn Phúc trước cách mạng tháng Tám 1945 còn có một số lễ hội khác
liên quan đến hoạt động nông nghiệp.
3.4.2 Chuyển biến về giáo dục.
Nghề dệt ở làng Vạn Phúc được coi là cao quý mang lại nhiều
vinh dự, may mắn cho dân làng, nhờ đó mà làng được “dân khang vật
thịnh”, “đa phú tiểu bần”. Những người thợ dệt, người buôn bán sản
phẩm tơ lụa giỏi được đề cao, được tôn vinh ở làng Vạn Phúc. Mặc dù
vậy, sự nghiệp giáo dục đào tạo ở Vạn Phúc lại không được coi trọng và
chú ý phát triển.
Vấn đề giáo dục nghề nghiệp, truyền nghề của làng Vạn Phúc
cũng giống như một số làng thủ công mỹ nghệ khác. Trong gia đình và
18


dòng họ ở những làng nghề truyền thống việc truyền nghề và tiếp thu
nghề theo kiểu “cha truyền con nối” diễn ra có vẻ rất tự nhiên, phổ biến
và có tính chất gia đình.
Tiểu kết chương 3
Nghề dệt đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa,
xã hội làng Vạn Phúc. Nghề dệt là nguồn sống chính và có ảnh hưởng tác
động đến các mặt văn hóa, xã hội cổ truyền như: lễ hội và quan hệ xã hội.
Sự phân cấp thứ bậc trong xã hội có sự khác biệt so với các làng nông
nghiệp, tầng lớp sĩ, nông không được coi trọng mà có uy tín, địa vị trong
dân làng là tầng lớp thợ thủ công và thương nhân buôn bán.
Nghề dệt phát triển kéo theo sự xuất hiện của phường cửi mà ở
đó người thợ dệt có vị trí cao trong làng xã. Bên cạnh tổ chức phường dệt
rất rõ ràng thì tổ chức phe giáp ở Vạn Phúc dường như lắng sâu hơn trong
cuộc sống làng mạc, mà diện mạo, ranh giới tổ chức giữa các phe giáp,
cách vận hành không dễ gì hiện lên được
Ở Vạn Phúc, do sự phát triển của kinh tế, nghề thủ công dần trở

thành ngành kinh tế chủ đạo, một số hộ chuyên tâm vào nghề dệt, không còn
làm nông nghiệp nhưng họ vẫn gắn chặt với làng quê. Dù đi xa buôn bán ở
thành thị nhưng họ vẫn trở về làng. Nhiều thợ thủ công thủ công đã tách hẳn
khỏi nông nghiệp và sống bằng nghề dệt. Số lượng người làm nghề ở Vạn
Phúc tăng lên cùng với thợ học việc đến Vạn Phúc làm thuê chiếm tỷ lệ phần
lớn lao động ở làng, đây cũng là một số đặc điểm nổi bật ở Vạn Phúc giai
đoạn (1904-1945).

19


Chương 4
NHẬN XÉT VỀ CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI
LÀNG VẠN PHÚC (1904 - 1945)
4.1. Những nhân tố tác động đến sự phát triển làng nghề Vạn Phúc
Yếu tố truyền thống.
Làng nghề Vạn Phúc là một làng cổ truyền có từ lâu đời, được truyền
từ đời này qua đời khác, kỹ thuật truyền nghề mang tính cha truyền, con nối
để bảo vệ tính bí mật của nghề nghiệp và cũng như khỏi bị thất truyền. Việc
giữ gìn và phát triển nghề nghiệp truyền thống của cha ông để lại là một đặc
trưng trong suốt chiều dài lịch sử của làng Vạn Phúc. Chính nhờ yếu tố
truyền thống này nó trở thành cơ sở nền tảng cho sự tiếp nối và phát triển
nghề dệt cổ truyền của làng Vạn Phúc trong chặng đường sau này khi gặp
nghững điều kiện thuận lợi khác.
Nhu cầu của thị trường.
Có thể nói cơ chế vận hành tồn tại và phát triển của làng nghề Vạn Phúc
cũng giống như các làng nghề khác phụ thuộc vào sự biến động và nhu cầu thị
trường .
Để cho các làng nghề tồn tại và phát triển thì yêu cầu sản phẩm của
làng nghề phải có khả năng thích ứng với nhu cầu của thị trường ngày một

đa dạng và phong phú. Cư dân làng Vạn Phúc đã nhanh chóng nắm bắt
được nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước bấy giờ, chịu khó cải tiến
mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thị trường
trong và ngoài nước.
Tác động của chính sách.
Chính sách của Nhà nước có ảnh hưỏng tới sự phát triển hay suy
vong của làng nghề. Trong thời kỳ thuộc địa, do chính quyền thuộc địa có
những quan tâm nhất định cho nghề tiểu thủ công nghiệp ở các nước thuộc
địa tuy nhằm mục đích tiêu thụ nguyên liệu cho chúng và mang lại nguồn
lợi lớn từ tơ tằm nhưng chính quyền thuộc địa cũng đã tạo điều kiện nhất
định thúc đẩy cho nghề dệt phát triển và giúp cư dân làng Vạn Phúc tham
dự những cuộc triển lãm tơ lụa lớn trên thế giới.
Vị trí địa lý.
20


Làng Vạn Phúc nằm ngay cạnh thủ đô Hà Nội có một vị trí thuận lợi
cho việc đi lại buôn bán, làm ăn.
4.2 Vai trò của kinh tế làng nghề Vạn Phúc
Làng nghề Vạn Phúc đã tồn tại và phát triển trong suốt chiều dài lịch
sử dân tộc đã tạo điều kiện công ăn việc làm cho cư dân làng Vạn Phúc và
các nhân công đến làm thuê. Điều đó có một ý nghĩa thiết thực trong việc
tạo ra đời sống ổn định cho cư dân làng Vạn Phúc và thợ thuyền nơi đây khi
cuộc sống của cư dân nông nghiệp trên cả nước lúc bấy giờ còn gặp nhiều
khó khăn dưới chính quyền thuộc địa. Sự dịch chuyển kinh tế từ một làng
nông nghiệp –thủ công nghiệp sang làng nông nghiệp -thủ công nghiệp thương nghiệp trong đó nền kinh tế tiểu thủ công nghiệp là chủ đạo đã giúp
cho kinh tế làngVạn Phúc phát triển, tạo đời sống kinh tế ổn định, có điều
kiện tham gia giúp đỡ, che chở và nuôi nấng cán bộ cách mạng trong một
thời gian dài và trở thành cái nôi của phong trào cách mạng góp phần to lớn
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

4.3.Những tác động của chính sách cải lương hương chính
đến xã hội, văn hóa làng Vạn Phúc.
Làng Vạn Phúc nằm trên địa bàn tỉnh Hà Đông và được Hoàng
Trọng Phu lựa chọn để xây dựng mô hình “ làng kiểu mẫu” cho nên về tổ
chức xã hội làng Vạn Phúc cũng thay đổi theo quy định của chính quyền
thuộc địa.
Về cơ bản bộ máy chính quyền ở Vạn Phúc thay đổi theo chính
sách cải lương hương chính như đã trình bày. Điểm khác biệt của làng
Vạn Phúc là tầng lớp quan lại địa phương không phải là mục đích hướng
tới trong việc tranh giành quyền lực và ngôi thứ tại làng Vạn Phúc. Họ
làm các chức dịch như là bổn phận và trách nhiệm đối với làng và nhanh
chóng chuyển giao quyền lực khi hết nhiệm kỳ. Họ ngại làm quan, ngại va
chạm và lực lượng quan lại, chức sắc cũng không có uy tín và địa vị đối
với cư dân làng Vạn Phúc. Người có địa vị trong làng là những Bá hộ,
những thợ thủ công giỏi, những thương nhân buôn bán giỏi mới có vai vế
và uy tín đối với dân làng. Điều này cho thấy rõ tư duy tiến bộ của người
dân Vạn Phúc đã vượt qua cách nghĩ dĩ nông vi bản hoặc thứ bậc sĩ, nông,
công, thương của đại bộ phận dân chúng Việt Nam.
21


4.4. Một số giải pháp nhằm phát triển làng nghề truyền thống
Vạn Phúc
Làng nghề truyền thống có vai trò quan trọng trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong đó có công nghiệp hoá nông thôn.
Do đó phát triển làng nghề truyền thống có ý nghĩa quan trọng trong
việc phát triển kinh tế - xã hội. Để làng nghề truyền thống ở vạn phúc
được phát triển, cần chú ý một số vấn đề sau đây :
Hỗ trợ làng nghề truyền thống Vạn Phúc ổn định và mở rộng thị
trường.

- Giúp làng nghề truyền thống Vạn Phúc cải thiện sản
phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Làng nghề truyền thống còn cần có sự liên kết với các
địa phương khác, nhất là vùng nguyên liệu để có nguyên liệu cho
sản xuất, có cơ sở cung cấp nguyên liệu.
Về thị trường vốn.
Nâng cao trình độ tay nghề và quản lý cho lao động ở làng nghề truyền
thống.
Hoàn thiện bộ máy quản lý đối vối làng nghề truyền thống
Tạo điều kiện cho các hội nghề nghiệp được thành lập và hoạt
động. Đổi mới công nghệ, kỹ thuật và đa dạng hoá sản phẩm của làng
nghề Vạn Phúc.
Tiểu kết chương 4
Từ việc nghiên cứu về sự chuyển biến cơ cấu kinh tế, xã hội của
làng nghề Vạn Phúc trên địa bàn tỉnh Hà Đông (1904-1945) ta nhận thấy
làng nghề truyền thống sẽ góp phần tạo công ăn việc làm, phân công lao
động thu hút lao động dư thừa ở nông thôn. Việc phát triển làng nghề
truyền thống sẽ góp phần lớn vào việc hạn chế di dân tự do, nâng cao đời
sống văn hóa và tinh thần cho nhân dân. Việc người thợ có nghề nghiệp ổn
định, đảm bảo đời sống tối, họ sẽ không thích rời xa xóm làng, người thân,
làng nghề phát triển sẽ tạo điều kiện cho công ăn việc làm ổn định, thu nhập
đảm bảo đời sống sẽ tác động tốt đến tâm lý, tình cảm, phong tục tập quán,
lề lối làm việc và tạo ra một đặc trưng văn hóa của làng nghề.
22


Ở làng nghề Vạn Phúc, khi nghề dệt phát triển đã tạo điều kiện tăng
thu nhập từ phi nông nghiệp, tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiêp và thu hẹp khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị.

Việc phát triển kinh tế nghề dệt truyền thống ở làng Vạn Phúc đã
tạo điều kiện và thu hút được một số nguồn vốn nhàn rỗi trong cư dân để
huy động vào sản xuất. Đồng thời khi nghề dệt phát triển đã đào tạo được
một đội ngũ thợ thủ công nghiệp, nghệ nhân có tay nghề cao đóng góp vào
công cuộc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa làng nghề.
KẾT LUẬN
1. Làng nghề truyền thống Vạn Phúc nổi tiếng với nghề dệt lụa
không chỉ ở Hà Đông mà còn trong nước và nước ngoài. Nghề dệt đóng vai
trò quan trọng trong đời sống kinh tế văn hóa xã hội làng Vạn Phúc. Trong
cơ cấu kinh tế, xã hội làng Vạn Phúc, nét biểu hiện rõ nhất là tầng lớp thợ
thủ công chiếm 85% dân số, các nguồn thu nhập chính đều do nghề dệt đem
lại. Quan niệm về sự phân cấp thứ bậc trong làng cũng có sự khác biệt so
với các làng nông nghiệp khác ở Việt Nam. Tầng lớp sĩ, nông không có vai
trò quan trọng trong xã hội mà tầng lớp thợ thủ công và buôn bán là tầng
lớp có uy tín, địa vị trong dân làng. Những thợ thủ công giỏi được phong
chức Bá hộ, được cấp bằng cửu phẩm và thưởng “mề đay”. Hướng phấn
đấu của các gia đình ở Vạn Phúc trước 1945 là có nhiều khung cửi, có
nhiều thợ làm thuê vài ba mẫu ruộng.
2. Làng Vạn Phúc là một làng thủ công có trình độ kỹ thuật rất cao,
song nghề dệt cũng không tách khỏi kinh tế nông nghiệp để trở thành một
ngành sản xuất độc lập mà có mối liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp. Những
gia đình làm nghề dệt khá giỏi ở Vạn Phúc đều là những gia đình có nhiều
ruộng.
Phong trào cách mạng ở Vạn Phúc đã nhanh chóng được sự quan
tâm, lãnh đạo của Đảng Cộng sản từng bước mở rộng phong trào, xây dựng
lực lượng và các cơ sở cách mạng và cùng với nhân dân cả nước làm nên
thắng lợi cách mạng tháng Tám, năm 1945, giải phóng quê hương, đất nước.
Nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế , xã hội làng Vạn Phúc (1904 23



×