Tải bản đầy đủ (.doc) (207 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong quân đội nhân dân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.9 KB, 207 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Văn Phương


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ BAN TỔ CHỨC Ở
CÁC SƯ ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM
1.1.
Ban tổ chức và đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn
trong Quân đội nhân dân Việt Nam
1.2.
Những vấn đề cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ ban tổ
chức ở các sư đoàn trong Quân đội Nhân dân Việt Nam
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM


XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ BAN TỔ CHỨC
Ở CÁC SƯ ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM
2.1.
Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư
đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam
2.2.
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm xây dựng đội ngũ
cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong Quân đội nhân
dân Việt Nam
Chương 3. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
BAN TỔ CHỨC Ở CÁC SƯ ĐOÀN TRONG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN
NAY
3.1.
Tình hình nhiệm vụ và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ
ban tổ chức ở các sư đoàn trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay
3.2.
Những giải pháp tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ
ban tổ chức ở các sư đoàn trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

5
11


30
30
52

75
75
99

116
116
127
172
174


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

175
188

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
01
02
03
04
05
06
07

08
09
10
11
12

Chữ viết đầy đủ
Ban Chấp hành Trung ương
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công tác đảng, công tác chính trị
Chính trị quốc gia
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đội ngũ cán bộ
Học viện Chính trị quân sự
Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân Việt Nam
Trong sạch vững mạnh
Xã hội chủ nghĩa
Vững mạnh toàn diện

Chữ viết tắt
BCHTW
CNH, HĐH
CTĐ, CTCT
CTQG
ĐCSVN
ĐNCB
HVCTQS
Nxb
QĐNDVN

TSVM
XHCN
VMTD


5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài luận án: “Xây dựng đội ngũ cán ban tổ chức ở các sư đoàn trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, được nghiên cứu sinh tâm huyết, ấp ủ
và đầu tư trí tuệ, công sức nghiên cứu suốt quá trình học tập và trải nghiệm
thực tiễn công tác trong lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng gần 20 năm. Trong
thời gian đó, nghiên cứu sinh luôn nỗ lực tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm và
chủ động nghiên cứu, viết các bài báo đăng trên các tạp chí có uy tín trong
quân đội về nội dung có liên quan.
Đề tài được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng ĐNCB; tham khảo, kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài;
cùng với các báo cáo sơ kết, tổng kết của các đơn vị và số liệu điều tra, khảo
sát; sự định hướng, trao đổi của tập thể cán bộ hướng dẫn khoa học để nghiên
cứu sinh giải quyết những nhiệm vụ mà công trình nghiên cứu đặt ra.
Đề tài luận án hướng vào làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN. Trên cơ sở
đó, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm, nguyên
nhân và rút ra một số kinh nghiệm xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư
đoàn trong QĐNDVN những năm vừa qua. Từ những phân tích làm rõ sự tác
động của tình hình nhiệm vụ, đề tài luận án xác định yêu cầu và đề xuất
những giải pháp tăng cường xây dựng đội ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn
trong QĐNDVN hiện nay.

2. Lý do lựa chọn luận án
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta luôn coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong đó,
xây dựng ĐNCB là khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt, nhân tố quyết


6
định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với sứ mệnh của Đảng, vận
mệnh của đất nước và chế độ. Nhờ đó, mọi đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều được lãnh đạo, triển khai tổ chức
thực hiện thống nhất từ trung ương tới cơ sở, góp phần quan trọng cùng toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong hệ thống tổ chức đảng thuộc Đảng bộ QĐNDVN, đảng bộ sư
đoàn là đảng bộ cấp trên cơ sở, lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở sư
đoàn, bảo đảm cho sư đoàn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
ĐNCB ban tổ chức thuộc phòng chính trị ở các sư đoàn có vai trò rất quan
trọng trong công tác xây dựng đảng ở đảng bộ các sư đoàn, họ là những người
trực tiếp tham mưu, đề xuất với ban chủ nhiệm phòng chính trị những chủ
trương, biện pháp xây dựng đảng bộ sư đoàn về mặt tổ chức; hướng dẫn,
bồi dưỡng các cấp ủy, cán bộ chính trị, đội ngũ cấp ủy viên các cấp về
nghiệp vụ công tác tổ chức xây dựng Đảng; theo sự phân công của thủ
trưởng cơ quan chính trị và đảng ủy sư đoàn chuẩn bị các văn kiện, nghị
quyết, soạn thảo các quy chế, chỉ thị, hướng dẫn, các báo cáo nghiệp vụ
công tác tổ chức xây dựng Đảng của đảng ủy sư đoàn. Vì vậy, ĐNCB ban
tổ chức có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động lãnh đạo và công tác xây
dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong đảng bộ sư đoàn. Chất lượng ĐNCB
ban tổ chức ở các sư đoàn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lãnh đạo, năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng thuộc đảng bộ các sư
đoàn trong QĐNDVN.

Trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp ủy, tổ chức đảng
trong đảng bộ sư đoàn nên số lượng ĐNCB ban tổ chức thường xuyên được
kiện toàn, chất lượng ngày càng được nâng lên; đại bộ phận được đào tạo cơ
bản trong các nhà trường quân đội, được rèn luyện qua các cương vị cán bộ


7
chủ trì về chính trị ở các đơn vị cấp phân đội, có năng lực công tác xây Đảng,
CTĐ, CTCT tốt, có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, hoàn thành tốt
chức trách, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ công tác
xây dựng đảng bộ các sư đoàn TSVM, thì chất lượng ĐNCB ban tổ chức có
mặt chưa đáp ứng. Số lượng còn thiếu so với nhu cầu nhiệm vụ, cơ cấu đội
ngũ chưa thật hợp lý, năng lực công tác xây dựng Đảng, nhất là năng lực tham
mưu đề xuất; năng lực chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra; năng lực tổng hợp, dự
báo; năng lực phối hợp hiệp đồng; năng lực xử lý các tình huống…cũng còn
bộc lộ những hạn chế nhất định so với yêu cầu chức trách, nhiệm vụ. Những
hạn chế, khuyết điểm đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến công tác tổ chức xây
dựng Đảng ở đảng bộ các sư đoàn trong QĐNDVN hiện nay.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nâng cao chất lượng công tác xây dựng
dựng Đảng ở đảng bộ các sư đoàn trong tình hình hiện nay, phải xây dựng và
phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của ĐNCB ban tổ chức - lực lượng trực tiếp
tham mưu giúp đảng ủy, chính ủy sư đoàn về công tác xây dựng Đảng. Điều
đó, đòi hỏi phải tập trung xây dựng ĐNCB ban tổ chức ngang tầm với yêu cầu
nhiệm vụ. Với những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Xây dựng ĐNCB
ban tổ ở các sư đoàn trong QĐNDVN hiện nay” làm đề tài luận án, mong
muốn góp phần xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất

những giải pháp tăng cường xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong
QĐNDVN hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án


8
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về cán bộ ban tổ chức và xây dựng ĐNCB
ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những kinh
nghiệm xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN.
- Làm rõ sự tác động tình hình nhiệm vụ, xác định yêu cầu và đề xuất
những giải pháp tăng cường xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong
QĐNDVN hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN là đối
tượng nghiên cứu của luận án.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động xây dựng ĐNCB ban tổ chức
thuộc phòng chính trị ở các sư đoàn đủ quân trong quân đội, bao gồm các sư
đoàn bộ binh, bộ binh cơ giới thuộc các quân khu, quân đoàn, các sư đoàn
phòng không, sư đoàn không quân thuộc Quân chủng Phòng không - Không
quân. Các số liệu, tư liệu phục vụ cho luận án được giới hạn chủ yếu từ năm
2005 đến nay, những giải pháp có giá trị định hướng đến năm 2030.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về công tác xây dựng
Đảng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay; các văn kiện, nghị quyết của Đảng,

của Quân ủy Trung ương về cán bộ và công tác cán bộ.
* Cơ sở thực tiễn
Là thực tiễn xây dựng ĐNCB ban tổ chức và công tác tổ chức xây dựng
Đảng ở các sư đoàn trong QĐNDVN; tham khảo các báo cáo sơ kết, tổng kết


9
của các quân khu, quân đoàn, Quân chủng Phòng không - Không quân và
các sư đoàn về những vấn đề có liên quan. Kết hợp với kết quả điều tra,
khảo sát thực tế về thực trạng xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn của
nghiên cứu sinh.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và
liên ngành, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng
hợp, so sánh, hệ thống-cấu trúc, lịch sử-logic, khái quát hoá, hệ thống hóa,
khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Luận giải làm rõ quan niệm và những vấn đề cơ bản vể xây dựng
ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN.
- Tổng kết một số kinh nghiệm xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư
đoàn trong QĐNDVN. Đó là, luôn xuất phát từ nhiệm vụ của sư đoàn, yêu
cầu nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng và chức trách, nhiệm vụ của cán bộ
ban tổ chức; xây dựng ĐNCB ban tổ chức phải tiến hành đồng bộ các khâu,
các bước trong quy trình xây dựng ĐNCB; chú trọng giải quyết hài hòa
mối quan hệ giữa yêu cầu “chuyên môn hóa” và luân chuyển cán bộ ban tổ
chức ở các sư đoàn trong quân đội
- Đề xuất một số nội dung, biện pháp tăng cường xây dựng ĐNCB ban
tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN hiện nay. Đó là, nâng cao nhận thức
của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp về vị trí, vai trò, nhiệm vụ

công tác xây dựng Đảng; làm tốt công tác tạo nguồn, tuyển chọn cán bộ ban
tổ chức; phối hợp chặt chẽ giữa các nhà trường và đơn vị trong đào tạo ĐNCB
ban tổ chức ở các sư đoàn; tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan
chức năng cấp trên trong xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn.


10
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp thêm những luận cứ
khoa học giúp cho đảng ủy các sư đoàn, cấp ủy, thủ trưởng phòng chính trị sư
đoàn xác định các chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ĐNCB
ban tổ chức ở các sư đoàn trong quân đội vững mạnh, hoàn thành tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn CTĐ, CTCT ở các nhà trường quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu; tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài luận án; 3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục các công trình của tác giả đã
công bố có liên quan đến luận án; danh mục tài liệu tham khảo; phụ lục.


11
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài
1.1. Các công trình nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ
Tác giả Tăng Ngọc Thành, Chu La Canh (1997),“Đẩy mạnh cải cách mở
cửa, tiến lên phía trước” [118], đã tổng kết những kinh nghiệm và thành tựu
trong công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc, những thách thức mà
Trung Quốc đang phải đối mặt. Một trong những vấn đề nghiên cứu được tác

giả cuốn sách nêu lên là: để vượt qua thách thức đưa công cuộc cải cách mở
cửa tiếp tục tiến lên cần phải quan tâm xây dựng ĐNCB cách mạng, năng
động, sáng tạo. Kinh nghiệm cốt tử là công tác cán bộ phải phục tùng Đảng.
Đảng phải xây dựng ĐNCB cho cả hệ thống chính trị bao gồm cả người
trong Đảng và người ngoài Đảng. Trung Quốc kiên trì phương châm “bốn
hóa” trong xây dựng ĐNCB. Bốn hóa bao gồm: Cách mạng hóa, trẻ hóa, tri
thức hóa, chuyên môn hóa. Trung Quốc coi đó là một khái niệm hoàn
chỉnh, trong đó cách mạng hóa là tiền đề quyết định tính chất của phương
châm này. Thực hiện phương châm “bốn hóa” là yêu cầu tất yếu của sự
nghiệp cải cách mở cửa hiện nay. Về tiêu chuẩn cán bộ, Trung Quốc kiên
trì nguyên tắc “tài đức song toàn” gắn chặt với nguyên tắc “thực tiễn là số
một” và nguyên tắc “được nhân dân công nhận”. Về đánh giá cán bộ, Trung
Quốc thực hiện xem xét một cách toàn diện cả “đức, năng, cần, tích” để
quyết định lấy hay không lấy, dùng hay không dùng. Một kinh nghiệm quý
giá mà Trung Quốc đúc kết là: phải coi trọng bồi dưỡng cán bộ mới và cốt
cán cách mạng. Đảng Cộng sản Trung Quốc coi việc bồi dưỡng người kế
tục sự nghiệp cách mạng là việc quan trọng trong công tác cách mạng của
Đảng, hình thành nên một hệ thống lý luận và phương châm, nguyên tắc
hoàn chỉnh. Theo đó, Trung Quốc đã xây dựng và hoàn thiện “Chiến lược
nhân tài”, trọng tâm của chiến lược hướng vào việc đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ hiền tài kế tục sự nghiệp cách mạng. Trung Quốc coi trọng cải cách


12
việc dạy và học ở các trường Đảng, Học viện Hành chính, coi trọng đưa
người ra nước ngoài đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tăng cường
tính thực tiễn trong đào tạo cán bộ.
Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (2008), (đồng chủ biên) “Tôn trọng tri
thức, tôn trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước” [62]. Đã phân
tích rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của việc xây dựng ĐNCB Trung quốc trong

thời kỳ mới, trong đó tri thức được đề cao, đi đôi với đòi hỏi “tài đức song
toàn”. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Trung Quốc,
tác giả chỉ ra tính cấp thiết để xây dựng CNXH, Đảng phải tìm cho ra và đào
tạo được ĐNCB có tài, đức, hết lòng với sự nghiệp cách mạng. Đảng Cộng sản
Trung Quốc kiên trì tư tưởng Mao Trạch Đông và lý luận Đặng Tiểu Bình trong
tiến hành đường lối công tác tổ chức cán bộ. Theo quan niệm của Mao Trạch
Đông và Đặng Tiểu Bình, sự nghiệp xây dựng CNXH cần những con người
Macxit-Lêninnit chân chính, toàn tâm toàn ý phục vụ cho sự nghiệp vĩ đại của
tuyệt đại đa số nhân dân Trung Quốc. Mao Trạch Đông nhấn mạnh rằng: cán
bộ lãnh đạo phải cố gắng để trở thành chuyên gia tinh thông công tác kinh tế
“Những người không chú trọng nghiên cứu sản xuất thì không thể nói là người
lãnh đạo tốt được” [62, tr.67]. Mao Trạch Đông cũng yêu cầu: cán bộ phải hăng
hái nỗ lực để nâng cao trình độ chủ nghĩa Mác-Lênin, làm cho mình trở
thành chuyên gia tinh thông công tác chính trị nữa. Tuy nhiên, do những hạn
chế của thời đại và đặc biệt là cá nhân Mao Trạch Đông đã có những sai lầm
nghiêm trọng, làm ảnh hưởng sự phát triển của Trung Quốc, nhất là tư tưởng
tả khuynh trong “Đại cách mạng văn hoá” đã gây tổn hại cho cách mạng, nhất
là tổn thất ĐNCB của Đảng. Song, những tư tưởng của Mao Trạch Đông về
xây dựng ĐNCB vẫn có giá trị, nhất là trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã
hội mang màu sắc Trung Quốc hiện nay.
Tác giả A.A.Grê-Scô (1978), “Các lực lượng vũ trang của Nhà nước Xô
Viết” [53]. Cuốn sách với dung lượng 582 trang, đây là một công trình khoa học
có giá trị lý luận và thực tiễn cao về xây dựng quân đội. Chương VII của công


13
trình đã luận giải về cán bộ, sĩ quan của các lực lượng vũ trang đó là: “Không thể
xây dựng và phát triển quân đội mà không có một số lượng đầy đủ cán bộ chỉ
huy, cán bộ chính trị, cán bộ kỹ thuật - kỹ sư được đào tạo một cách thích đáng.
Đó là chân lý hoàn toàn rõ ràng. Sĩ quan là cơ sở, là sườn của quân đội và hạm

đội” [53, tr.289]. Tác giả đã đưa ra những yêu cầu rất cụ thể với cán bộ, sĩ quan
và việc đào tạo họ như: phải có tính kiên định cộng sản chủ nghĩa, lòng trung
thành vô hạn với Đảng và nhân dân; có kỷ luật và ý thức chấp hành cao, đó là
việc thực hiện một cách chính xác và kịp thời mệnh lệnh của cấp trên, tính trung
thực và chân thành; phải thường xuyên sáng kiến và tính chủ động trong mọi
hoạt động; luôn có ý chí chỉ huy và năng lực tổ chức trong việc đạt tới mục đích;
phải có trình độ nghiệp vụ, trình độ văn hóa và trình độ kỹ thuật - quân sự cao;
biết huấn luyện và giáo dục những người dưới quyền của mình.
1.2. Các công trình nghiên cứu về cơ quan chính trị, cán bộ chính trị
và cán bộ tổ chức trong quân đội
Viện Lịch sử quân sự Bộ Quốc phòng Liên Xô (1976), “Công tác đảng,
công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô 1918 - 1973” [150], đã
tổng kết khá sâu sắc về lịch sử quá trình hình thành, phát triển CTĐ, CTCT
trong các lực lượng vũ trang Liên Xô; sự hình thành, phát triển, bổ sung về
biên chế tổ chức, thay đổi chức năng, nhiệm vụ và vai trò của hệ thống cơ quan
chính trị trong Quân đội và Hải quân Xô viết đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN từ năm 1918 đến năm 1973. Bàn về cơ quan chính trị,
cuốn sách đề cập ở chương V, chương VI và chương VII. Điểm 3, phần 1,
Chương V: “Việc củng cố các cơ quan chính trị và các tổ chức đảng trong thời
kỳ chiến tranh thế giới thứ hai từ năm 1941 đến năm 1945”, trong đó có nhấn
mạnh việc củng cố các cơ quan chính trị là vấn đề có ý nghĩa rất lớn. Đồng
thời, đánh giá cao những thành công trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ của
cán bộ ở cơ quan chính trị. Tác giả cuốn sách xác định: “Trong quá trình chiến
tranh, các cán bộ chính trị đã hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt đẹp”
[150, tr.340]. Điểm 2 phần 1 của chương VI đề cập đến việc cải tổ lại cơ cấu và


14
công tác của các cơ quan chính trị, các tổ chức đảng và đoàn thời kỳ những
năm sau chiến tranh năm 1946 đến năm 1953. Lý do cải tổ cơ quan chính trị là

nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chuyển từ thời chiến sang thời bình; để
đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Điều lệ về cơ quan chính trị của các lực lượng
vũ trang Xô viết được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô
thông qua và ban hành đã quy định rõ về cơ cấu, nhiệm vụ của cơ quan chính
trị, đồng thời xác định: cơ quan chính trị phải tập trung sự chú ý của mình vào
việc giáo dục chính trị cho các quân nhân, củng cố chế độ một thủ trưởng, lãnh
đạo các tổ chức đảng và đoàn, tổng kết và áp dụng vào kinh nghiệm CTĐ,
CTCT đã tích lũy được trong những năm chiến tranh.
P.l.Các-pen-cô (1981), “Công tác đảng - chính trị trong các lực lượng vũ
trang Xô viết” [16]. Đây là một cuốn sách giáo khoa dùng để giảng dạy về công
tác đảng - chính trị, theo chương trình đào tạo sỹ quan dự bị tại các trường đại học
và cao đẳng. Cuốn sách đã nghiên cứu về nhiều vấn đề, song ở Điểm 1, Chương
III đề cập “Các cơ quan chính trị, nhiệm vụ, cơ cấu, tính chất hoạt động”. Về
nhiệm vụ của cơ quan chính trị được xác định là: giáo dục chính trị, tư tưởng cho
cán bộ, chiến sĩ; giáo dục đạo đức quân nhân; tăng cường ảnh hưởng của Đảng
đến mọi mặt của đời sống và hoạt động của bộ đội; tăng cường vai trò của tổ chức
đảng; lãnh đạo các tổ chức đoàn thanh niên; nghiên cứu, lựa chọn, giáo dục
ĐNCB chính trị. Về cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan chính trị: lãnh đạo công
tác đảng trong các lực lượng vũ trang thông qua Tổng cục Chính trị Quân đội và
Hải quân Xô viết (với quyền hạn là một ban của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Liên Xô); dưới từng quân chủng, tập đoàn, binh đoàn, thành lập
Cục chính trị; dưới các cụm bộ đội, hạm đội, nhà trường, cơ quan nghiên cứu
thành lập phòng chính trị. Về tính chất của cơ quan chính trị được xác định: tính
lãnh đạo; tính chính trị, tư tưởng; tính chiến đấu và tính quần chúng.
Trương Tư Nghị (1986, 1987), (chủ biên) “Giáo trình công tác đảng,
công tác chính trị của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc” (dùng trong các
học viện, nhà trường trong thời kỳ mới) [93], ở Phần 3, Chương XI, viết về cơ


15

quan chính trị, xác định các đơn vị Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc: từ
cấp trung đoàn và tương đương thành lập phòng chính trị, từ sư đoàn và tương
trở lên thành lập Bộ chính trị, cơ quan chính trị toàn quân gọi Tổng bộ Chính
trị. Trong đó: Bài một, đã đề cập đến tính chất, vị trí, vai trò của cơ quan chính
trị. Bài hai, đề cập đến công tác chủ yếu và yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan
chính trị. Đây là cơ quan có nhiệm vụ rất quan trọng trong tham mưu và tổ
chức thực hiện mọi đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản, Hiến pháp, pháp
luật của Nhà nước và điều lệnh, điều lệ của Quân giải phóng nhân dân Trung
Quốc. Cuốn sách xác định rõ, công tác chủ yếu của cơ quan chính trị là:
Quán triệt thực hiện đường lối, phương châm, chính sách và Hiến
pháp, pháp luật quốc gia, của Đảng Cộng sản Trung Quốc, bảo đảm
sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với quân đội, kiên trì “bốn
nguyên tắc” cơ bản, quét sạch ảnh hưởng của cánh tả, phòng ngừa
và khắc phục thiên hướng cánh hữu, duy trì sự thống nhất với Trung
ương Đảng về mặt chính trị, tư tưởng [93, tr.254].
Bài ba, đề cập đến chức trách công tác của các ban ngành trong cơ quan
chính trị như: ngành tổ chức, ngành cán bộ, ngành tuyên truyền, ngành bảo
vệ, ngành văn hoá, ngành công tác quần chúng, ngành liên lạc và ngành thư
ký. Đối với công tác tổ chức, tác giả đã đưa ra nhiều quan điểm, luận cứ
cứu có giá trị như:
Ngành tổ chức các cấp là ngành nghiệp vụ quản lý công tác tổ chức
và công tác thanh niên. Nhiệm vụ cơ bản của nó là lấy học thuyết
xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Mao Trạch
Đông làm kim chỉ nam, lấy Điều lệ Đảng Cộng sản Trung Quốc,
những chuẩn mực cơ bản của đời sống chính trị trong Đảng và
những chỉ thị, nghị quyết của đảng ủy làm căn cứ để chỉ đạo công
tác xây dựng Đảng đoàn của các đơn vị [93, tr.259].
Trong bài này, còn chỉ rõ chín chức trách của công tác tổ chức, đây là
những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao, làm cơ sở cho việc triển



16
khai tổ chức thực hiện công tác tổ chức ở các đơn vị quân đội Trung Quốc. Về
chức trách công tác tổ chức được tác giả chỉ ra, gồm:
Một là, tìm hiểu và nghiên cứu tình hình xây dựng đảng ủy của các
đơn vị trực thuộc
Hai là, nắm vững và nghiên cứu tình hình tổ chức cơ sở đảng, chỉ
đạo và giúp đỡ các chi bộ đảng tăng cường tự thân vận động
Ba là, tìm hiểu và nghiên cứu tình hình kỷ luật của Đảng, phối hợp
giúp đỡ với ủy ban kiểm tra kỷ luật của Đảng để làm tốt công tác
kiểm tra kỷ luật
Bốn là, chỉ đạo bộ đội trực thuộc làm tốt công tác tổ chức Đoàn
thanh niên Cộng sản và công tác thanh niên
Năm là, đồng thời phối hợp với những ngành có liên quan nghiên
cứu và chỉ đạo bộ đội làm tốt công tác chính trị trong quá trình huấn
luyện quân sự và công tác chính trị thời chiến
Sáu là, chỉ đạo bộ đội triển khai các hoạt động xây dựng văn minh
tinh thần, những vấn đề mũi nhọn mang tính quần chúng nhân dân,
v.v...Tổng kết phát triển kinh nghiệm tiên tiến, phụ trách công tác tổ
chức và công tác xét tuyển của hội nghị đại biểu đơn vị tiên tiến, cá
nhân tiên tiến
Bẩy là, tìm hiểu và chỉ đạo công tác ủy ban hội đồng quân nhân
cách mạng quân đội về phát huy Ba dân chủ trong quân sự, kinh tế,
chính trị
Tám là, phụ trách công tác quản lý việc chăm sóc, động viên an ủi và
quản lý việc hôn nhân của chiến sĩ, đảm nhận công tác có liên quan
đến tổ chức như là tham gia các tổ chức đại hội đại biểu nhân dân,
đại hội hiệp thương chính trị và đại hội công nhân viên chức quốc
phòng, thanh niên, phụ nữ, v.v...
Chín là, quản lý biên chế cơ quan chính trị đơn vị trực thuộc, kiểm

tra tình hình chấp hành Điều lệ Đảng của các quân nhân trong các


17
đơn vị trực thuộc. Phụ trách công tác thống kê thực lực công tác
chính trị; công tác quản lý đảng viên; công tác khen thưởng và kỷ
luật đảng; công tác quản lý và tiếp nhận đảng viên, đoàn viên; công
tác chuyển đảng và công tác tổ chức đảng, quản lý đảng phí, đoàn
phí, sử dụng, quản lý công tác đảng vụ, công tác đoàn và các cộng
tác viên làm công tác chính trị sở tại thực hiện Điều lệ Công tác
chính trị. Phụ trách việc lấy thực lực chính trị, quản lý đảng viên,
công tác thưởng phạt, quan hệ tổ chức đoàn, sử dụng đảng phí, đoàn
phí, giải quyết xử lý công tác, nhiệm vụ khác của Đảng và công tác,
nhiệm vụ của đoàn, v.v... [93, tr.260-261].
1.3. Các công trình nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
chính trị trong quân đội
A.Ph.Sram-tren-cô (1983), “Những vấn đề Tâm lý học trong chỉ huy bộ
đội” [112]. Ở chương IV, tác giả đã đưa ra vấn đề lựa chọn và phân phối cán
bộ, hình thành các tập thể quân nhân. Trong đó, chú ý nhiều đến việc lựa chọn
cán bộ, tìm tòi và phát hiện những người thực sự có tài, có năng lực, từ đó mà
biết giao việc cho từng người cán bộ để họ trưởng thành, và thường xuyên
giúp đỡ họ. Đồng thời, đưa ra những nội dung, biện pháp trong bồi dưỡng,
giáo dục, quản lý cán bộ trẻ, ít kinh nghiệm thực tế, tâm lý, tư tưởng luôn bị
tác động chi phối, dao động trong thực tiễn công tác. Tác giả xác định:
Trong kế hoạch công tác đảng - công tác chính trị của tổ chức các
cấp cần phải dự kiến trước những biện pháp giúp đỡ các sĩ quan
trẻ như: tổ chức gặp gỡ những người chỉ huy có kinh nghiệm và
chuyên gia giỏi về phương pháp giảng dạy, những nhà cách mạng
lão thành và cựu chiến binh, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ họ
trong công tác, trong tổ chức đời sống và các hoạt động văn hóa

quần chúng khác nhau [112, tr.227].
A.A.Ê-pi-sép (1976), “Tóm tắt lịch sử công tác đảng, công tác chính trị
trong các lực lượng vũ trang Liên Xô 1918 – 1973” [51], chương III, phần 2 của


18
cuốn sách đã tổng kết lịch sử CTĐ, CTCT trong lực lượng vũ trang Xô viết giai
đoạn 1921 đến 1928. Tác giả cho rằng: Đảng Cộng sản Liên xô rất coi trọng đến
việc lựa chọn, đào tạo cán bộ chính trị cho quân đội và đã đưa ra những quan
điểm chỉ đạo như: phải lựa chọn, bồi dưỡng cán bộ chính trị đáp ứng yêu cầu sự
phát triển của quân đội, trở thành một việc hết sức cấp thiết để cán bộ chính trị
có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ; việc đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ
cho ĐNCB chính trị được tiến hành bằng các phương hướng cơ bản: bằng học
tập ở các nhà trường quân sự, trực tiếp ở các đơn vị và tự học của cán bộ chính
trị. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh lịch sử để quân đội tiến hành đào tạo bổ túc,
đào tạo dài hạn cán bộ chính trị. Nhưng việc bồi dưỡng tại chức cho cán bộ
chính trị, là hình thức quan trọng để nâng cao trình độ năng lực của cán bộ chính
trị, bảo đảm cho họ đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, tác giả
cho rằng hình thức tự học vẫn là hình thức chủ yếu để mở rộng kiến thức lý luận,
thực tiễn của các cán bộ chính trị. Nội dung đào tạo cán bộ chính trị được tiến
hành toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự.
Bun Lon Sa Luôi Sắc (2014) "Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội nhân
dân Lào ngày càng vững mạnh và có chất lượng cao" [15]. Tác giả khẳng định:
ĐNCB giữ các cương vị, trọng trách lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cơ quan,
đơn vị trong toàn quân là lực lượng nòng cốt trong tổ chức thực hiện đường lối
quân sự, quốc phòng của Đảng; có vai trò quyết định trong tổ chức thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn
luyện kỷ luật và trong thực hiện các nhiệm vụ khác của quân đội. Vì vậy, Đảng
nhân dân cách mạng Lào luôn coi trọng lãnh đạo công tác cán bộ, bảo đảm cho
ĐNCB thực sự là lực lượng nòng cốt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng

quân đội, làm cho quân đội thực sự là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành,
tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào.
Khi bàn về: nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ huy, quản lý
đơn vị của ĐNCB, tác giả chỉ rõ: thực hiện các nội dung trong công tác cán
bộ, nâng cao trình độ mọi mặt của ĐNCB phải gắn với trách nhiệm lãnh đạo,


19
quản lý chỉ huy đơn vị; lấy kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao
của cán bộ mà đánh giá chất lượng công tác xây dựng ĐNCB.
Neang Phat (2016) “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội Hoàng gia Cam
puchia hiện nay” [91]. Tác giả cho rằng: trong Quân đội Hoàng gia
Campuchia, ĐNCB có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần
xây dựng quân đội, cơ quan, đơn vị VMTD, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
mà Nhà vua, Chính phủ Hoàng gia và nhân dân giao cho. Từ khi ra đời cho
đến nay, Hoàng gia và Chính phủ Campuchia đặc biệt quan tâm, chăm lo xây
dựng ĐNCB quân đội, bảo đảm cho quân đội được quản lý và chỉ huy thông
suốt. Trên cơ sở phân tích các đặc điển của ĐNCB, chỉ ra những yếu tố tác
động đến xây dựng ĐNCB Quân đội Hoàng gia Campuchia, tác giả đã đề
xuất 06 giải pháp tăng cường xây dựng ĐNCB Quân đội Hoàng gia
Campuchia hiện nay, Ở giải pháp thứ 03, bàn về đổi mới, nâng cao chất lượng
tạo nguồn, tuyển chọn, quy hoạch ĐNCB Quân đội Hoàng gia Campuchia,
tác giả cho rằng: thực hiện đúng phương châm “động”, “mở” và “mềm” trong
quy hoạch ĐNCB các cấp, đảm bảo cho công tác quy hoạch không hạn chế số
người định sẵn, có nhiều nguồn để lựa chọn, không khép kín trong từng cơ
quan, đơn vị; cần nhớ đến chính sách tiến cử, bầu cử, thăng chức vượt cấp
của các triều đại Campuchia trong lịch sử dựng nước và giữ nước nhằm trọng
dụng, không bỏ sót người tài. Chính sách này đã được thực tiễn lịch sử chứng
minh là đúng đắn và có hiệu quả.
2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài

2.1. Các công trình nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ
Nguyễn Minh Tuấn (2012),“Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [140], tác giả đã chỉ ra vấn
đề cán bộ là then chốt của khâu then chốt, là nhân tố quyết định thành bại của
cách mạng, đồng thời đưa ra cơ sở lý luận, thực tiễn của việc đổi mới đồng bộ
công tác cán bộ hiện nay là xuất phát từ đòi hỏi của thời kỳ CNH, HĐH đất
nước, từ yêu cầu của chiến lược cán bộ của Đảng thời kỳ mới. Từ đó, tác giả


20
đề xuất những giải pháp đồng bộ bao gồm: xây dựng tiêu chuẩn, tạo nguồn,
đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, quản lý, bố trí, sử dụng, thực hiện chế độ
chính sách đối với ĐNCB. Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết về công tác cán
bộ, tác giả đã đưa ra những vấn đề mới trong xây dựng ĐNCB hiện nay
như: đổi mới quy trình đào tạo, bồi dưỡng theo hướng thiết thực, hiệu
quả; nâng cao chất lượng nguồn quy hoạch đáp ứng yêu cầu trẻ hoá cán
bộ; đưa ra được nhiều hình thức, phương pháp cụ thể phát huy vai trò của
nhân dân trong giám sát, đánh giá, kiểm tra cán bộ…
Dương Quang Hiền (2013), “Xây dựng đạo đức cách mạng của người
cán bộ, viên chức xứng đáng là “công bộc” của dân” [61, tr.50-52]. Tác giả
đã khái quát, đánh giá thực trạng tình hình yếu kém về đạo đức, tác phong
cũng như trình độ năng lực của ĐNCB hiện nay đó là: vẫn còn một bộ phận
không nhỏ cán bộ, viên chức tự coi mình là “quan cách mạng”, vẫn còn hiện
tượng “quan tham”, làm việc trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu
ngạo, những hiện tượng đó đều đối lập với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về “công bộc” của dân [61, tr.51]. Để khắc phục tình trạng yếu kém
trên, đồng thời bảo đảm cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất
lượng cán bộ của Đảng nói chung theo tác giả cần thực hiện tốt các giải pháp
cơ bản sau đây: Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý để điều
chỉnh đối tượng là cán bộ, công chức. Thứ hai, cán bộ, viên chức phải luôn

hành động theo phương châm “việc gì lợi cho dân, phải hết sức làm; việc gì
hại cho dân, phải hết sức tránh”. Thứ ba, mỗi cán bộ, viên chức phải yêu
dân, tin dân, trọng dân, gần dân, học dân. Thứ tư, mỗi cán bộ, đảng viên luôn
thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Thứ năm, mỗi cán bộ, công
chức phải ra sức học tập, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực để có
cống hiến cao nhất cho nhân dân. Thứ sáu, Nhà nước chăm lo đến chế độ,
chính sách đối với ĐNCB, công chức để họ thực sự là “công bộc” của dân.
Thứ bảy, mỗi cán bộ công chức nghiêm túc và thường xuyên thực hành phê
bình và tự phê bình [61, tr.51-52].


21
Nguyễn Quang Phát (2001), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị phân
đội của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh” [94], tác giả khái quát tư tưởng của Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn
cán bộ chính trị, đó là: phải là người thật sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng,
có năng lực toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của
quân đội; thực sự mẫu mực về phong cách, phương pháp công tác, nói đi đôi
với làm. Tác giả đánh giá thực trạng xây dựng ĐNCB chính trị cấp phân đội
theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đề xuất những nội dung cơ bản về tạo nguồn,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, thực hiện chính sách đối với ĐNCB chính trị cấp
phân đội, bảo đảm đội ngũ này có cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, số lượng phù
hợp theo yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Tuyển chọn chặt chẽ qua thực tiễn,
đào tạo, bồi dưỡng toàn diện, chú trọng về bồi dưỡng đạo đức cách mạng,
đánh giá đúng đắn, khéo bố trí, sử dụng và quan tâm đến đời sống vật chất,
tinh thần của cán bộ chính trị.
2.2. Các công trình nghiên cứu về phòng chính trị, đội ngũ cán bộ
chính trị trong quân đội
Tổng Cục chính trị (1990), “Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” [124]. Cuốn sách đã bàn về vấn

đề xây dựng ĐNCB chính trị trong quân đội. Khẳng định ĐNCB chính trị trong
quân đội đã được phát triển nhanh, được bồi dưỡng về phẩm chất, năng lực;
phát huy được trách nhiệm trong xây dựng và chiến đấu. Trang bị cho ĐNCB
cơ quan chính trị cả nội dung quân sự và nội dung chính trị; hệ thống cơ quan
chính trị được kiện toàn theo kịp sự phát triển lực lượng và quy mô tác chiến
trong chiến tranh; hoạt động có chất lượng, có tính chiến đấu và sinh động
được nhân dân yêu mến; đánh dấu bước tiến bộ của ĐNCB chính trị, nhưng
cũng chỉ ra những hạn chế của cán bộ chính trị, do chưa đi sâu sát được vào
mọi hoạt động của bộ đội, hoặc chưa bám sát thực tế chiến trường, có một số
cán bộ chính trị trình độ lý luận và kiến thức quân sự còn thấp; ít liên hệ công
tác nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm để phát triển bổ sung lý luận


22
CTĐ, CTCT, nên nhận thức về vị trí, vai trò, tính chất và chức năng CTĐ,
CTCT chưa được thống nhất.
Phạm Văn Thắng (2003), “Nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác
chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng với yêu cầu thời kỳ mới”
[119]. Trong Chương III của đề tài, các tác giả đã đưa ra biện pháp có hiệu
quả nhất để nâng cao năng lực của cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các
cấp trong quân đội là: phải tích cực bồi dưỡng để cơ quan chính trị, cán bộ
chính trị thể hiện tốt vai trò là lực lượng nòng cốt, chuyên trách tiến hành
CTĐ, CTCT. Xác định một số nội dung, biện pháp cụ thể để bồi dưỡng cơ
quan chính trị, cán bộ chính trị trong quân đội, gồm: bồi dưỡng nâng cao
phẩm chất, năng lực của chủ nhiệm chính trị, bảo đảm điều hành cơ quan
chính trị, làm và triển khai thực hiện tốt kế hoạch CTĐ, CTCT của đơn vị
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của phó chỉ huy về chính trị; Bồi dưỡng ĐNCB
chính trị làm việc ở các cơ quan chuyên môn, đội ngũ trợ lý chính trị ở các
đơn vị không có cơ quan chính trị, nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp
công tác chuyên môn theo cương vị được giao. Trong đó, cần chú ý năng lực

nắm tình hình, nghiên cứu, đề xuất; năng lực hướng dẫn, kiểm tra việc thực
hiện kế hoạch của ngành, kế hoạch CTĐ, CTCT; năng lực tổng hợp, báo cáo,
sơ kết, tổng kết. Cùng với bồi dưỡng năng lực cần bồi dưỡng nâng cao tính
nguyên tắc, sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt trong các hoạt động thể hiện đúng tác
phong của cán bộ chính trị; bồi dưỡng nâng cao trí tuệ, trình độ nghiên cứu
khoa học xã hội nhân văn cho ĐNCB chính trị, bảo đảm nắm, phân tích, đánh
giá đúng đắn mọi diễn biến của tình hình làm cơ sở xử lý kịp thời, chính xác
những vấn đề nảy sinh. Nâng cao năng lực đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư
tưởng hiện nay cũng như đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, thoái hoá
trong hệ thống chính trị nói chung và quân đội nói riêng. Bản thân ĐNCB
chính trị phải tự mình phấn đấu để có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao hiệu lực CTĐ, CTCT. Ở từng cấp, ngành, đơn vị
cần có kế hoạch cụ thể và tổ chức chu đáo việc bồi dưỡng cơ quan chính trị,


23
cán bộ chính trị; phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ chủ trì
trong vấn đề này; kết hợp tốt giữa cấp trên với cấp dưới, giữa tổ chức với từng
cá nhân trong quá trình bồi dưỡng. Coi trọng việc lựa chọn cán bộ đi đào tạo
tập trung, đồng thời tích cực bồi dưỡng trong thực tiễn công tác.
Tổng Cục chính trị (2008), “Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị
trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 1975 - 2005” [131]. Cuốn sách
đã đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm chính về hoạt động CTĐ, CTCT và
rút ra những bài học kinh nghiệm CTĐ, CTCT trong quá trình xây dựng quân
đội. Bài học kinh nghiệm thứ bảy, đã xác định: xây dựng hệ thống cơ quan
chính trị và cán bộ chính trị các cấp có chất lượng cao, thực sự làm nòng cốt
trong tiến hành CTĐ, CTCT, xây dựng quân đội về chính trị. Đưa ra những
biện pháp cụ thể trong xây dựng cơ quan chính trị và ĐNCB chính trị các cấp
trong quân đội, gồm: xây dựng hệ thống cơ quan chính trị và cán bộ chính trị
làm nòng cốt trong tiến hành CTĐ, CTCT và xây dựng quân đội vững mạnh

về chính trị trong thời kỳ mới; phải xây dựng, củng cố, kiện toàn, nâng cao
chất lượng cơ quan chính trị để bảo đảm sự thống nhất giữa chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm trong tính chỉnh thể của cơ chế Đảng lãnh đạo
quân đội và cơ cấu bộ máy tổ chức của quân đội; phải thường xuyên chăm lo,
đào tạo, bồi dưỡng và đổi mới ĐNCB chính trị, cấp ủy, chính trị viên, bảo
đảm cho họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, và phẩm chất đạo đức cách
mạng, có năng lực, trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn các hoạt động CTĐ,
CTCT; thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn
quân, trước hết là ĐNCB, đảng viên trong quân đội về vị trí, vai trò của CTĐ,
CTCT và vai trò của ĐNCB chính trị trong sự nghiệp xây dựng Quân đội
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đã đánh giá
công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNCB chính trị trong những năm qua, từng bước
được nâng lên, có tác dụng thiết thực tăng cường khả năng xây dựng quân đội
về chính trị. Tuy nhiên, trong đào tạo cán bộ chính trị có tình trạng chưa phân
biệt vai trò của cán bộ chính trị, chưa thực sự coi trọng tư duy lý luận và tư


24
duy chính trị, chưa phân biệt rõ ĐNCB chính trị ở tầm chiến lược, chiến dịch,
chiến thuật. Đồng thời, cuốn sách còn xác định tiêu chuẩn và yêu cầu người
cán bộ chính trị trong quân đội trong tình hình hiện nay.
Bộ Quốc phòng (2010), “Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan
chính trị cấp trung, sư đoàn bộ binh trong điều kiện mới” [11]. Đề tài đã đưa
ra quan niệm cơ quan chính trị trung, sư đoàn bộ binh, đặc điểm, biên chế, tổ
chức và hoạt động của cơ quan chính trị trung, sư đoàn bộ binh. Theo đề tài,
biên chế của phòng chính trị sư đoàn đủ quân là 33 người. Ban tổ chức phòng
chính trị sư đoàn có 4 người. Đối với sư đoàn khung thường trực, chỉ biên chế
một cán bộ tổ chức. Ở sư đoàn rút gọn, số lượng cán bộ, nhân viên ở ban tổ
chức ít hơn. Đề tài đã luận giải quan niệm chất lượng và nâng cao chất lượng
hoạt động của cơ quan chính trị trung, sư đoàn. Về chất lượng hoạt động của

cơ quan chính trị cấp trung, sư đoàn, đề tài quan niệm: “….tổng hoà chất
lượng các yếu tố hợp thành hoạt động của cơ quan chính trị theo yêu cầu,
chức năng, nhiệm vụ, phản ánh giá trị của các nội dung, hình thức, biện pháp
tiến hành….” [11, tr.42].
2.3. Các công trình nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ chính trị trong quân đội
Trần Xuân Trường (2002), (chủ biên), “Nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ
mới” [139], đã trình bày có tính hệ thống toàn bộ nội dung nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng ĐNCB chính trị quân đội trong các thời kỳ. Các tác
giả đã phân tích làm rõ vị trí, vai trò cán bộ chính trị quân đội; xác định
những yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng ĐNCB chính trị quân đội; đánh giá thực
trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị của Quân đội nhân dân Việt
Nam trong tiến trình lịch sử và hiện nay. Trong đó, khẳng định những thành
công trong bồi dưỡng cán bộ chính trị tại chức ở một số đơn vị, đó là: các cấp
ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp đã có nhận thức đúng về vị trí, vai trò
của cán bộ chính trị và công tác bồi dưỡng cán bộ chính trị; đã lựa chọn


25
những nội dung bồi dưỡng phù hợp; vận dụng các hình thức, phương pháp
thích hợp để bồi dưỡng cho cán bộ chính trị các cấp ở các đơn vị trong toàn
quân; tổ chức và duy trì chặt chẽ nền nếp, chế độ bồi dưỡng. Vì vậy, đã khắc
phục được một phần những hạn chế về năng lực của ĐNCB chính trị trong
thực tiễn công tác ở đơn vị. Đồng thời, đưa ra yêu cầu đối với người cán bộ
chính trị và một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
ĐNCB chính trị quân đội thời kỳ mới. Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích
nghiên cứu, cũng như do thời điểm lịch sử chưa có Nghị quyết 51 của Bộ
Chính trị khóa IX “Về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng thực hiện
chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên

trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, các tác giả chưa có điều kiện làm rõ vị
thế, đặc điểm riêng của cán bộ chính trị và yêu cầu bồi dưỡng ĐNCB chính trị
trong quân đội đáp ứng yêu cầu cao của tình hình nhiệm vụ CTĐ, CTCT của
quân đội hiện nay.
Nguyễn Đức Độ (2009),“Đẩy mạnh tự học, tự rèn của đội ngũ cán bộ
cơ quan chính trị ở các đơn vị hiện nay” [50], cho rằng: tự học tập, tu dưỡng
rèn luyện trong thực tiễn là phương thức chủ yếu và trực tiếp để mỗi cán bộ
cơ quan chính trị ở các đơn vị bổ sung thiếu hụt về phẩm chất chính trị, đạo
đức kiến thức, năng lực, kinh nghiệm công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao. Đồng thời, tác giả đưa ra một số yêu cầu, nội dung chủ yếu để đẩy
mạnh tự học tập, tự rèn của cán bộ, gồm: tăng cường giáo dục, xây dựng động
cơ tự giác tự học, tự rèn luyện nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu đòi hỏi của
chức trách; tổ chức cho cán bộ xây dựng kế hoạch học tập, rèn luyện; thường
xuyên vận dụng linh hoạt và kết hợp chặt chẽ các hình thức, phương pháp để
nâng cao hiệu quả tự học, tự rèn của cán bộ và thường xuyên tạo ra môi
trường thuận lợi cho việc tự học, tự rèn của cán bộ cơ quan chính trị trong
quân đội.
Ngô Xuân Lịch, (2010), “Tăng cường công tác cán bộ trong quân đội
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc” [73], cho rằng: những năm


26
qua công tác cán bộ, công tác cán bộ trong quân đội đã đạt được nhiều kết quả
quan trọng, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong thời kỳ mới. Tuy nhiên,
vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm: công tác quy hoạch, bồi dưỡng tài năng;
công tác đào tạo còn chậm đổi mới nội dung, chương trình và chưa gắn chặt
với mục tiêu sử dụng; chưa kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo theo chức vụ với đào
tạo theo trình độ học vấn, giữa bồi dưỡng chuyên môn với phát triển nhân
cách....Đồng thời, tác giả đưa ra biện pháp nâng cao chất lượng công tác đào
tạo, bồi dưỡng góp phần xây dựng ĐNCB vững mạnh. ĐNCB phải được đào

tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng toàn diện. Đối với cán bộ chỉ huy, quản lý
phải chú ý kiến thức, năng lực toàn diện; cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ phải
chú ý trình độ chuyên môn sâu; đào tạo càng cao càng phải nhuần nhuyễn giữa
kiến thức khoa học xã hội nhân văn với kiến thức chuyên ngành và tạo được
tiềm năng phát triển lâu dài. Trong quá trình đào tạo, cùng với việc nâng cao
trình độ lý luận, cần hết sức chú ý bồi dưỡng năng lực thực tiễn, truyền thụ
kinh nghiệm chiến đấu; kết hợp giữa đào tạo tại nhà trường với bồi dưỡng tại
chức, gắn đào tạo với tự đào tạo.
Cấn Xuân Hùng (2015), “Nâng cao năng lực công tác xây dựng Đảng
của đội ngũ bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không hiện nay” [65], cho
rằng năng lực công tác xây dựng Đảng của bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn
phòng không là một dạng năng lực chuyên biệt của người đứng đầu đảng ủy
trung, lữ đoàn phòng không, được cấu thành bởi kiến thức, kinh nghiệm, kỹ
năng tiến hành các hoạt động xây dựng Đảng, biểu hiện ra ở khả năng, trình
độ tổ chức thực tiễn công tác xây dựng Đảng theo phạm vi chức trách, nhiệm
vụ, phản ánh mức độ, kết quả công tác xây dựng đảng bộ TSVM, đủ sức lãnh
đạo trung, lữ đoàn hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Năng lực đó
không hình thành tự phát mà phải được trang bị cơ bản ở các nhà trường, bồi
dưỡng và tự học tập, bồi dưỡng công phu, thường xuyên trong thực tiễn.
Việc nâng cao năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng
ủy trung, lữ đoàn phòng không là tổng hợp những chủ trương, biện pháp, cách


×