Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Tiểu luận môn lý thuyết tài chính chính sách tiền tệ và đường tổng cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH


Lý thuyết tài chính:
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ ĐƯỜNG TỔNG CẦU

GVHD: PGS. TS Nguyễn Thị Ngọc Trang
Nhóm thực hiện
1. Lê Tuấn Anh
2. Nguyễn Linh Kim Huệ
3. Tạ Công Quỳnh Như

TP. Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 03 năm 2017


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu

Chính sách tiền tệ và đường
tổng cầu

GIỚI THIỆU
Không có quốc gia nào trên thế giới có được một sự phát triển kinh tế nhanh và ổn định
mà không cần đến chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Các chính sách này là công cụ
để các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách vận hành chính xác nền kinh tế và tạo
thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Song, điều quan trọng là các nhà
hoạch định chính sách cần nghiên cứu tỉ mỉ ảnh hưởng của các chính sách đó.
Các nhà kinh tế học thường sử dụng nhiều mô hình kinh tế để phân tích các chính sách.
Mô hình IS-LM là một mô hình phổ biến để phân tích các chính sách tiền tệ và tài khóa
trong nhiều thập kỷ qua. Đây là một mô hình cân bằng chung và liên quan đến cung và cầu
trong nền kinh tế. Nhưng với sự phát triển của kinh tế vĩ mô và những thay đổi về cách vận


hành nền kinh tế của các nhà hoạch định chính sách trong nhiều thập kỷ gần đây, nó không
còn được công nhận là một mô hình tốt nhất để nghiên cứu các chính sách này. Nhiều mô
hình điều chỉnh khác cũng đã được nghiên cứu. Mô hình IS-MP (Romer, 2000) là một mô
hình mới giải quyết một số vấn đề mà mô hình IS-LM còn hạn chế.
Mô hình này giống như mô hình IS-LM điều chỉnh và được đưa ra để giải quyết một số
vấn đề trong những điều kiện kinh tế vĩ mô hiện đại. Mô hình điều chỉnh này đã được giới
thiệu thông qua những nhận xét của Taylor vào năm 2000. Sự khác biệt chính là sự cân
bằng thị trường tiền tệ (LM) được thay thế bằng hàm số chính sách tiền tệ (MP). Giả thuyết
chính là Ngân hàng Trung ương tuân thủ các quy định về lãi suất. Lãi suất thực là một hàm
Trang 1


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
của các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát và thu nhập. Giả thuyết này giải thích tốt hơn
hành vi của Ngân hàng Trung ương về quy luật cung tiền. Các ngân hàng trung ương chọn
mức lãi suất mà theo đó đạt được mục đích về lạm phát và thu nhập.
Tại thời điểm cao trào của cuộc khủng hoảng tài chính tháng 12 năm 2008, Ủy Ban Thị
trường Mở của Fed đã công bố một chính sách táo bạo đáng ngạc nhiên đó là thực hiện hạ
lãi suất quỹ liên bang, lãi suất tính trên các khoản vay qua đêm giữa các ngân hàng 75 điểm
cơ bản.
Để xem tác động của chính sách tiền tệ ở trên ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào,
chúng ta cần phải phân tích cách mà chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến tổng cầu. Chúng tôi
bắt đầu chương này bằng cách giải thích tại sao nhà hoạch định chính sách tiền tệ định lãi
suất tăng khi lạm phát gia tăng, dẫn đến một mối tương quan dương giữa lãi suất thực và
lạm phát, được thể hiện thông qua đường cong chính sách tiền tệ (MP). Tiếp theo đó, với
việc sử dụng các đường cong MP cùng với đường cong IS đã được phát triển trong các
chương trước, chúng tôi xây dựng được đường tổng cầu, một yếu tố quan trọng khuôn khổ
mô hình tổng cung, tổng cầu được sử dụng trong phần còn lại của cuốn sách này để thảo
luận về những biến động kinh tế ngắn hạn.
FED VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

Ngân hàng trung ương trên khắp thế giới sử dụng lãi suất ngắn hạn như một công cụ chính
sách đầu tiên của họ. Tại Hoa Kỳ, Fed tiến hành chính sách tiền tệ thông qua thiết lập lãi
suất liên bang của nó.
Như chúng ta đã thấy trong Chương 15, Fed đã kiểm soát lãi suất liên bang bằng cách thay
đổi dự trữ mà nó cung cấp cho hệ thống ngân hàng. Khi nó cung cấp nhiều dự trữ, các ngân
hàng có thêm tiền để cho vay đối với nhau, và thanh khoản dư thừa này làm cho lãi suất
liên bang hạ thấp. Khi Fed hạ quỹ dự trữ từ hệ thống ngân hàng, các ngân hàng có ít tiền
hơn để cho vay và tình trạng thiếu thanh khoản dẫn đến một sự gia tăng trong lãi suất liên
bang.

Trang 2


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
Lãi suất liên bang là lãi suất danh nghĩa, nhưng như chúng ta đã thấy trong chương trước
thì lãi suất thực có ảnh hưởng đến xuất khẩu ròng và chi tiêu trong kinh doanh, từ đó tác
động đến mức sản lượng cân bằng. Làm thế nào để kiểm soát lãi suất liên bang của Fed để
nó có thể kiểm soát lãi suất thực, qua đó tác động đến chính sách tiền tệ của nền kinh tế?
Nhớ lại từ chương 4 là lãi suất thực, r bằng lãi suất danh nghĩa lãi suất, i, trừ đi lạm phát
kỳ vọng, πe
r = i – πe

(1)

Những thay đổi trong lãi suất danh nghĩa có thể thay đổi lãi suất thực khi lạm phát hiện tại
và lạm phát dự kiến sẽ vẫn không thay đổi trong thời gian ngắn. Bởi vì giá cả thường biến
thiên chậm, có nghĩa là những thay đổi trong chính sách tiền tệ sẽ không có hiệu lực ngay
lập tức đối với lạm phát và lạm phát kỳ vọng. Kết quả là, khi Cục Dự trữ Liên bang hạ thấp
lãi suất liên bang, lãi suất thực giảm; và khi Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất liên bang,
lãi suất thực tăng lên.

Về phương diện lý thuyết, lãi suất danh nghĩa và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều. Khi
lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa tăng để đảm bảo mức lãi suất thực được chấp nhận
bởi các chủ thể trong nền kinh tế. Triển vọng của lãi suất thực có ảnh hưởng đến các kỳ
vọng và hoạt động chi tiêu và đầu tư. Sau khi xác định được các kỳ vọng lạm phát, nếu
người tiêu dùng tin rằng lãi suất tiết kiệm sẽ không thay đổi hoặc tăng rất thấp, nghĩa là lãi
suất thực sẽ âm thì họ sẽ có khuynh hướng rút tiền gửi tiết kiệm và đầu tư vào bất động sản
hoặc chứng khoán để bảo vệ sức mua. Điều này sẽ tạo nên bong bóng trên thị trường bất
động sản và ngay lập tức sẽ làm cho CPI có xu hướng gia tăng, vì thế, lãi suất thực sẽ là
một biến số quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định tiêu dùng, đầu tư của các chủ
thể trong nền kinh tế, đồng thời cũng là biến số tác động đến kỳ vọng lạm phát. Do vậy,
NHTW các nước thường kiểm soát kỳ vọng lạm phát thông qua xu hướng của lãi suất thực.
Thông thường, NHTW sẽ bắt đầu tăng tỷ lệ lãi suất dần dần khi lạm phát tiến gần tới lãi
suất tiền gửi danh nghĩa. Điều này phát đi một tín hiệu là NHTW sẽ có khuynh hướng duy
trì chính sách lãi suất thực dương. Dấu hiệu này cũng sẽ làm suy yếu các kỳ vọng của thị
trường về lãi suất thực âm và tăng giá của tài sản.
Trang 3


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
QUY TẮC TAYLOR VÀ ĐƯỜNG CONG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ (MP)
Quy tắc Taylor
Bây giờ chúng ta đã thấy Fed có thể kiểm soát lãi suất thực trong ngắn hạn như thế nào.
Bước tiếp theo trong phân tích của chúng tôi là để kiểm tra xem chính sách tiền tệ sẽ phản
ứng như thế nào với lạm phát.
Trong lịch sử phát triển kinh tế, có rất nhiều nhà kinh tế học nổi tiếng đã nghiên cứu và
đưa ra những lý thuyết cơ bản về lãi suất, song John Taylor, một tên tuổi lừng danh trong
giới chuyên gia kinh tế, nhất là chuyên gia trong lĩnh vực tiền tệ và kinh tế vĩ mô của Mỹ,
người đã kỳ công trong việc nghiên cứu dựa trên các học thuyết kinh tế kinh điển để đưa
ra cách tính toán lãi suất danh nghĩa phù hợp trong mối quan hệ với tăng trưởng và lạm
phát - mà giới kinh tế thường gọi là quy tắc Taylor.

Quy tắc Taylor sẽ giúp cho một NHTW xác định được các tỷ lệ lãi suất trong ngắn hạn khi
các điều kiện kinh tế thay đổi để đạt được hai mục tiêu là ổn định kinh tế trong ngắn hạn
và kiểm soát lạm phát trong dài hạn. Quy tắc Taylor có thể được mô tả theo phương trình
sau:

Trong đó:
: Lãi suất danh nghĩa ngắn hạn mục tiêu
: Lạm phát thực tế
: Tỷ lệ lạm phát mục tiêu của NHTW
: Lãi suất thực cân bằng giả định của thị trường
: Logarit của tổng sản lượng GDP thực tế
: Logarit của tổng sản lượng GDP tiềm năng
aπ; và ay là các tham số phản ứng chính sách (reaction parameters) hay trọng số đối
Trang 4


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
với tăng trưởng và lạm phát
Theo quy tắc Taylor, lãi suất điều hành cần điều chỉnh phù hợp với thay đổi của chênh lệch
sản lượng (output gap - chênh lệch giữa GDP tiềm năng và GDP thực tế trong một thời kỳ)
và chênh lệch lạm phát (chênh lệch giữa mức lạm phát thực tế và mức lạm phát mục tiêu)
trong nền kinh tế.
Quy tắc Taylor khuyến nghị một mức lãi suất tương đối cao (CSTT thắt chặt) để giảm áp
lực lạm phát trong trường hợp lạm phát cao hơn mức lạm phát mục tiêu hoặc sản lượng
vượt trên mức sản lượng tiềm năng. Trong trường hợp ngược lại, quy tắc Taylor khuyến
nghị một mức lãi suất tương đối thấp (CSTT nới lỏng) để thúc đẩy tăng trưởng. Quy định
tỷ lệ a lớn hơn 0, quy tắc Taylor nói rằng lạm phát tăng 1% đòi hỏi NHTW tăng lãi suất
danh nghĩa lên hơn 1% (cụ thể, bằng 1 + aπ). Một điều đáng ngạc nhiên là quy tắc Taylor
đã thể hiện rất chính xác Fed fund rate trong giai đoạn 1987-2006.
Theo Taylor, kể từ đầu những năm 1980, lãi suất điều hành (federal funds rate) của FED

biến động cùng xu hướng và bám sát với lãi suất khuyến nghị của lãi suất Taylor. Quy tắc
Taylor được cả giới nghiên cứu và các NHTW quan tâm và dần trở thành một chỉ báo được
quan tâm đối với việc phân tích và điều hành CSTT. Tại Fed, các thành viên Ủy ban nghiệp
vụ thị trường mở liên bang trong đó có cựu Chủ tịch Greenspan và một số chủ tịch Fed địa
phương cũng thường đề cập đến quy tắc này trong các đề xuất lãi suất. Theo Mishkin
(2004), lãi suất Taylor phản ánh tương đối tốt thực tiễn điều hành CSTT của Fed trong
khoảng 4 thập kỷ qua. Dưới thời Chủ tịch Arthur Burns (1970-1979), lãi suất của Fed liên
tục thấp hơn lãi suất Taylor khiến lạm phát trong thời kỳ này tăng cao. Dưới thời chủ tịch
Paul Volcker (1979-1987), Fed đặt trọng tâm là kiềm chế lạm phát, vì vậy, lãi suất của Fed,
nhìn chung, luôn cao hơn lãi suất Taylor. Đến thời Chủ tịch Greenspan (1987- 2003), lãi
suất điều hành bám sát lãi suất Taylor hơn, độ biến động của lạm phát và tăng trưởng kinh
tế của Mỹ cũng thấp hơn các thời kỳ trước.

Trang 5


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu

Ưu điểm chính của quy tắc Taylor là tính đơn giản, dễ hiểu, dễ tính toán, do đó, giúp tăng
cường tính minh bạch và khả năng giải trình cho NHTW. Quy tắc Taylor cho phép điều
chỉnh linh hoạt trọng số của sản lượng và lạm phát phù hợp với mục tiêu trọng tâm của
NHTW trong việc quyết định lãi suất điều hành. Điều này có ý nghĩa với các NHTW sử
dụng cơ chế điều hành CSTT theo mục tiêu lạm phát vì vẫn có thể dễ dàng điều chỉnh trọng
số của mục tiêu lạm phát so với mục tiêu tăng trưởng trong từng thời kỳ .
Hạn chế của quy tắc Taylor là không tính tới và đưa vào mô hình các diễn biến bất thường
và các điều kiện kinh tế vĩ mô khác ngoài tăng trưởng, lạm phát có thể tác động đến lãi
suất; do đó, tính chỉ báo trong ngắn hạn hạn chế. Tuy nhiên, đây chính là dư địa để các nhà
điều hành chính sách phát huy kinh nghiệm, hiểu biết về tình hình thực tế để đưa ra quyết
định chính sách dựa trên cơ sở khoa học của quy tắc này và thực trạng kinh tế vĩ mô, mục
tiêu chính sách trong từng thời kỳ.

Đường cong chính sách tiền tệ (MP)
Bây giờ chúng ta đã thấy FED có thể kiểm soát lãi suất thực trong ngắn hạn như thế nào.
Bước tiếp theo trong phân tích của chúng tôi là để kiểm tra xem chính sách tiền tệ sẽ phản

Trang 6


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
ứng như thế nào với lạm phát. Đường chính sách tiền tệ (MP) chỉ ra mối tương quan giữa
lãi suất thực và tỷ lệ lạm phát. Chúng tôi có thể viết công thức đường cong này như sau:
r=𝒓+λπ
trong đó r là thành phần độc lập của lãi suất thực được thiết lập bởi các nhà điều hành chính
sách tiền tệ, mà không liên quan đến tỷ lệ lạm phát hiện nay, trong khi λ là khả năng phản
ứng của lãi suất thực với tỷ lệ lạm phát. Để làm cho cuộc thảo luận của chúng ta về các
đường cong chính sách tiền tệ được cụ thể hơn, Hình 1 cho thấy một ví dụ về một đường
chính sách tiền tệ MP trong đó 𝑟 = 1,0 và λ = 0,5:
r = 1,0 + 0,5 λ

(2)

Tại điểm A, khi lạm phát là 1%, Cục Dự trữ Liên bang thiết lập lãi suất thực ở mức 1,5%,
trong khi tại điểm B, khi lạm phát là 2%, FED đặt ra lãi suất thực ở mức 2%, và tại điểm
C, lạm phát là 3%, lãi suất thực là 2,5%. Đường đi qua các điểm A, B, và C là đường
cong chính sách tiền tệ MP, và nó là đường có độ dốc hướng lên, chỉ ra rằng các nhà điều
hành chính sách tiền tệ sẽ tăng lãi suất thực khi tỷ lệ lạm phát tăng.

Trang 7


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu


Hình 1: Đường cong chính sách tiền tệ - MP dốc lên cho thấy rằng các ngân hàng
trung ương tăng lãi suất thực khi lạm phát tăng do chính sách tiền tệ theo nguyên tắc
Taylor.
Chúng ta có thể vận dụng quy tắc Taylor ở trên để giải thích xem tại sao các đường cong
MP có độ dốc hướng lên. Trước hết, chúng ta cần phải nhận định rằng các ngân hàng trung
ương luôn tìm cách để giữ lạm phát ổn định, theo đó họ sẽ tăng lãi suất danh nghĩa cao hơn
bất kỳ sự gia tăng của lạm phát dự kiến để lãi suất thực tăng lên khi lạm phát tăng, như
đường cong MP đã cho thấy điều đó.
Để xem tại sao hoạch định chính sách tiền tệ dựa theo các nguyên tắc Taylor, theo đó lạm
phát cao hơn sẽ dẫn đến lãi suất thực cao hơn, hãy xem xét những gì sẽ xảy ra ngược lại
thay vì cho phép lãi suất thực giảm khi lạm phát tăng. Trong trường hợp này, sự gia tăng
lạm phát sẽ dẫn đến một sự sụt giảm trong lãi suất thực, điều này sẽ làm tăng tổng sản
lượng, đến lượt nó sẽ gây ra tình trạng lạm phát tăng cao hơn, sau đó sẽ làm cho lãi suất
thực sẽ giảm nhiều hơn, làm tăng sản lượng gộp. Chúng ta có thể viết sơ đồ như sau:
π ↑ => r ↓ => Y ↑ => π ↑ => r ↓ => Y ↑ => π ↑
Trang 8


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
Kết quả là, lạm phát liên tục sẽ tiếp tục tăng và vượt khỏi tầm kiểm soát. Thật vậy, điều
này là chính xác với những gì đã xảy ra trong những năm 1970, khi Cục Dự trữ Liên bang
đã không tăng lãi suất danh nghĩa nhiều như mức tăng của lạm phát, do đó lãi suất thực
giảm. Khi đó, lạm phát tăng đến hơn 10%.
Đôi lúc, các mục tiêu của CSTT có thể mâu thuẫn với nhau, ví dụ lạm phát vượt lạm phát
mục tiêu trong khi sản lượng lại dưới mức sản lượng tiềm năng. Trong trường hợp đó, quy
tắc Taylor cung cấp chỉ dẫn cho các nhà hoạch định chính sách cách cân bằng các mục tiêu
này qua việc thiết lập một mức lãi suất phù hợp. Mức lãi suất phù hợp này thường được
xem là “mức lãi suất trung hòa”. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng việc xác
định và tính toán mức lãi suất trung hòa này gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là sự không

chắc chắn về mặt số liệu và mô hình. Bên cạnh đó, có nhiều cách khác nhau trong việc xác
định mức lãi suất trung hòa do các phương pháp tính và mức lãi suất trung hòa còn phụ
thuộc vào các điều kiện kinh tế. Mặt khác, một mức lãi suất trung hòa có thể còn khiến tình
trạng mâu thuẫn giữa các mục tiêu này kéo dài hơn mức cần thiết.
Một vấn đề được quan tâm trong lý thuyết kinh tế khi phân tích các tác động chính sách,
đó là độ trễ thời gian tác động của thay đổi chính sách gắn với các yếu tố tiền tệ (lãi suất,
cung tiền, tỷ giá...) tới các yếu tố vĩ mô như đầu tư, lạm phát. Bởi các quyết sách chỉ có
hiệu quả cao nếu xác định được độ trễ này. Tuy nhiên, đây là một vấn đề không đơn giản,
vì cùng một chính sách nhưng độ trễ tác động là rất khác nhau trong từng thời kỳ phát triển
của nền kinh tế. Có rất nhiều sự thay đổi và không chắc chắn xung quanh độ trễ thời gian
trên. Cụ thể, tác động chính sách sẽ phụ thuộc nhiều nhân tố khác nhau, như chu kỳ kinh
doanh, lòng tin của người tiêu dùng và phản ứng của họ như thế nào đối với sự thay đổi
chính sách, giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, các sự kiện trong nền kinh tế thế giới và kỳ
vọng về lạm phát trong tương lai. Chẳng hạn, về nguyên lý chung thì lãi suất tăng sẽ hạn
chế đầu tư, giảm lạm phát, nhưng lãi suất cũng làm tăng giá thành sản phẩm qua đó tác
động làm tăng giá. Vì sự tác động mang tính hai mặt như vậy, đòi hỏi phải xác định độ trễ
tác động này để có những quyết định sử dụng công cụ lãi suất theo hướng tăng hay giảm
cho mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Trang 9


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
Sự dịch chuyển của đường MP
Thông thường, Cục Dự trữ Liên bang thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt khi Fed tăng lãi
suất thực, và thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng khi giảm lãi suất thực. Tuy nhiên, điều
quan trọng là phân biệt giữa những thay đổi trong chính sách tiền tệ, tức là sự dịch chuyển
của đường chính sách tiền tệ và những thay đổi theo nguyên tắc Taylor được phản ánh bằng
sự di chuyển dọc theo đường chính sách tiền tệ, được gọi là sự điều chỉnh tự động đối với
lãi suất.
Các ngân hàng trung ương có thể thực hiện những thay đổi tự định (autonomous changes)

chính sách tiền tệ bởi nhiều lý do khác nhau. Họ có thể muốn thay đổi tỷ lệ lạm phát. Ví
dụ, để làm giảm lạm phát, họ có thể tăng 𝑟̅ một điểm phần trăm, và do đó sẽ gia tăng lãi
suất thực tại bất kỳ tỷ lệ lạm phát nào, điều này được hiểu như một sự thắt chặt chính sách
tiền tệ. Sự thắt chặt chính sách tiền tệ này sẽ làm dịch chuyển đường chính sách tiền tệ lên
trên từ MP1 lên MP2 như trong Hình 2, do đó làm thu nhỏ nền kinh tế và lạm phát giảm.
Hoặc các ngân hàng này có thể có các thông tin về viễn cảnh lạm phát, mà các thông tin
này đề nghị một sự điều chỉnh lãi suất để đạt được các kết quả kinh tế khả quan. Ví dụ, nếu
nền kinh tế lâm vào suy thoái, những nhà hoạch định chính sách tiền tệ sẽ muồn làm giảm
lãi suất thực tại bất kỳ tỷ lệ lạm phát nào cho trước, một sự nới lỏng chính sách tiền tệ, để
kích thích kinh tế và ngăn chặn sự suy giảm lạm phát. Sự nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ làm
cho đường chính sách tiền tệ dịch chuyển xuống dưới một điểm phần trăm từ MP 1 xuống
MP3 như Hình 2.

Trang 10


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu

Hình 2 Sự dịch
chuyển
đường
chính sách tiền tệ
Những thay đổi tự
sinh trong chính sách
tiền tệ, như vậy khi
ngân hàng trung
ương thay đổi lãi suất
thực tại bất kỳ tỷ lệ
lạm phát cho trước,
đường MP dịch

chuyển. Thắt chặt
chính sách tiền tệ làm
tăng lãi suất thực,
MP1 → MP2. Ngược
lại, nới lỏng chính
sách tiền tệ làm giảm
lãi suất thực, MP1 →
MP3

Lãi
suất
thực,
r

Chính sách tiền tệ thắt chặt
làm đường MP dịch chuyển
lên

Chính sách tiền tệ nới
lỏng làm đường MP
dịch chuyển xuống

Tỷ lệ lạm phát, π (%)

Trái ngược với những thay đổi tự định (autonomous changes) là những thay đổi tự động
(automatic), những thay đổi theo nguyên tắc Taylor, phản ứng thông thường của một ngân
hàng trung ương (được biết đến như một phản ứng nội sinh) làm gia tăng lãi suất thực khi
lạm phát tăng. Những thay đổi này trong lãi suất không làm dịch chuyển đường chính sách
tiền tệ, và như vậy cũng không được xem như một sự thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền
tệ. Thay vào đó, nó phản ánh nó phản ánh một sự di chuyển dọc theo đường chính sách

tiền tệ.
Sự khác biệt giữa những thay đổi chính sách tiền tệ tự định và những sự di chuyển dọc theo
đường chính sách tiền tệ được minh họa bằng những hành động chính sách của Fed từ khi
bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính 2007 – 2009 vào mùa thu năm 2007.

Trang 11


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu

ỨNG DỤNG

Nới lỏng tiền tệ tự sinh vào thời điểm bắt đầu cuộc khủng hoảng tài
chính 2007 – 2009
Khi khủng hoảng tài chính bắt đầu vào tháng 8 năm 2007, lạm phát gia
tăng và tăng trưởng kinh tế quá nóng. Lúc bấy giờ, FED bắt đầu nới lỏng
mạnh mẽ, hạ thấp lãi suất liên bang như trong Hình 3. Vấn đề này nói cho
chúng ta điều gì về những ảnh hưởng lên đường chính sách tiền tệ?

FED bắt đầu nới
lỏng mạnh mẽ
chính sách tiền tệ
vào tháng 9/2007,
làm giảm lãi suất
chính sách, lãi suất
liên bang, mặc dù tỷ
lệ lạm phát tiếp tục
ở mức cao.

Lãi suất liên bang

Lãi suất liên bang và tỷ lệ lạm phát (% năm)

Hình 3: Tỷ lệ lạm
phát và lãi suất
liên bang, 2007 –
2009

Lạm

phát

Năm

Một sự di chuyển dọc theo đường MP chỉ ra rằng FED muốn tiếp tục duy trì lãi suất cao
bởi vì lạm phát đang gia tăng, thay vì làm ngược lại. Như vậy, Fed muốn dịch chuyển
đường chính sách tiền tệ từ MP1 xuống MP3 như trong Hình 2. Việc Fed theo đuổi chính
sách tiền tệ nới lỏng bởi vì có một cú sốc âm đối với nền kinh tế đến từ sự sụp đổ của thị
trường tài chính chỉ ra rằng, mặc dù tỷ lệ lạm phát hiện tại đang cao, nền kinh tế có thể yếu
đi trong tương lai gần và tỷ lệ lạm phát sẽ giảm. Thật vậy, điều này đã xảy ra, nền kinh tế
lâm vào suy thoái vào thán 12 năm 2007 và lạm phát giảm mạnh sau tháng 7 năm 2008.
Trang 12


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
ĐƯỜNG TỔNG CẦU
Bây giờ chúng ta bắt đầu tìm hiểu mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và thu nhập/sản lượng
thể hiện qua đường tổng cầu. Đường MP mà chúng ta đã thảo luận chứng minh cách mà
các ngân hàng trung ương ứng phó với những thay đổi lạm phát bằng những thay đổi trong
lãi suất, trong mối quan hệ với quy tắc Taylor. Đường IS mà chúng ta đã thảo luận trong
chương 20 chỉ ra rằng những thay đổi trong lãi suất thực sẽ ảnh hưởng đến sản lượng cân

bằng. Với hai đường này, chúng ta có thể liên kết sản lượng/thu nhập với tỷ lệ lạm phát,
nếu đã xác định kỳ vọng lạm phát của thị trường và lập trường của chính sách tiền tệ.
Đường tổng cầu là trung tâm của các phân tích tổng cung – tổng cầu mà chúng ta sẽ thảo
luận thêm trong chương sau, nó cho phép chúng ta giải thích những giao động ngắn hạn
trong cả tổng sản lượng và lạm phát.
Tìm hiểu đường tổng cầu qua đồ thị
Sử dụng giả thuyết đường MP từ phương trình 2, chúng ta biết rằng khi tỷ lệ lạm phát tăng
từ 1% lên 2% lên 3%, lãi suất thực sẽ tăng từ 1,5% lên 2% lên 2,5%. Chúng ta vẽ các điểm
này vào đồ thị (a) của Hình 4 để tạo ra đường MP. Trong đồ thị (b), chúng ta vẽ đường IS
mô tả phương trình 13 của Chương 20 (Y = 12 – r). Vì lãi suất thực sẽ tăng từ 1,5% lên 2%
lên 2,5%, cân bằng di chuyển từ điểm 1 đến điểm 2 đến điểm 3 và tổng sản lượng sẽ giảm
từ 10,5 xuống 10 xuống 9,5 nghìn tỷ USD. Mặt khác, vì lãi suất thực tăng, đầu tư và xuất
khẩu ròng giảm, dẫn đến một sự suy giảm trong tổng cầu. Đồ thị (4a) và (4b) chứng minh
rằng khi lạm phát tăng từ 1% lên 2% và 3%, cân bằng sẽ di chuyển từ điểm 1 đến điểm 2
đến điểm 3 của đồ thị (4c), và tổng sản lượng giảm từ 10,5 xuống 10 và xuống 9,5 nghìn
tỷ USD.
Nối ba điểm trong đồ thị (4c), chúng ta được đường tổng cầu, AD, nó chỉ ra mức tổng sản
lượng ứng với mỗi bộ ba lãi suất thực làm cho thị trường hàng hóa cân bằng đối với bất kỳ
tỷ lệ lạm phát cho trước. Đường tổng cầu có hình dạng dốc xuống, bởi vì lạm phát cao hơn
dẫn đến các ngân hàng trung ương gia tăng lãi suất thực, do đó làm giảm tiêu dùng dự định,
và như vậy làm giảm mức tổng sản lượng cân bằng.

Trang 13


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
Bằng đại số (xem hộp FYI, “Tìm hiểu đường tổng cầu qua đồ thị”), đường tổng cầu AD
trong Hình 4 được viết lại thành:
Y = 11 – 0,5π
CÁC YẾU TỐ LÀM DỊCH CHUYỂN ĐƯỜNG TỔNG CẦU

Sự di chuyển dọc theo đường tổng cầu mô tả những thay đổi trong tổng mức sản lượng cân
bằng khi tỷ lệ lạm phát thay đổi. Tuy nhiên, khi các yếu tố khác tỷ lệ lạm phát thay đổi,
đường tổng cầu có thể dịch chuyển. Đầu tiên, chúng ta sẽ xem xét các yếu tố làm dịch
chuyển đường IS, và sau đó sẽ xem xét các yếu tố làm dịch chuyển đường AD.

Chứng minh đường tổng cầu bằng đại số
Để chứng minh đường tổng cầu AD bằng số
học, chúng ta bắt đầu từ phương trình đường IS
trong chương trước,

Y = 12 – r
Sau đó thay r bằng phương trình đường MP
(phương trình 2), r = 1.0 + 0.5π, ta được
Y = 12 – (1.0 + 0.5π) = 11 – 0.5π
Tương tự, ta có thể chứng minh phương trình
đường AD, bằng việc sử dụng phương trình
đường IS trong chương 20:

Y = [𝐶̅ + 𝐼 ̅ + d𝑓 ̅ + 𝐺̅ + 𝑁𝑋 – 𝑚𝑝𝑐 x 𝑇] x
-

𝑑+𝑥
1−𝑚𝑝𝑐

1
1−𝑚𝑝𝑐

xr

Và thay r bằng phương trình đại số đường MP

(phương trình 1), r = 𝑟̅ + λπ, ta được phương
trình đường AD
Y = [𝐶̅ + 𝐼 ̅ + d𝑓 ̅ + 𝐺̅ + 𝑁𝑋 – 𝑚𝑝𝑐 x 𝑇] x
𝑑+𝑥

- 1−𝑚𝑝𝑐 x (𝑟̅ + λπ)

1
1−𝑚𝑝𝑐

(4)

Trang 14


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu

Hình 4: Giải thích
đường AD
Đường MP trong
hình (a) chỉ ra rằng
khi lãi suất tăng từ
1% lên 2% lên 3%,
lãi suất thực sẽ tăng
từ 1,5% lên 2% lên
2,5%. Sau đó,
đường IS trong hình
(b) chỉ ra rằng lãi
suất cao hơn sẽ làm
giảm chi đầu tư, do

đó làm giảm tổng
sản lượng từ 10,5
xuống 10 và xuống
9,5 nghìn tỷ $. Cuối
cùng, hình (c) vẽ ra
mức sản lượng cân
bằng tương ứng với
tỷ lệ lạm phát:
Đường
AD
là
đường dốc xuống.

Lãi
suất
thực,
r (%)

Đường
ĐườngMP
MP (a)
Đường MP liên kết lạm phát với
lãi suất thực do NHTW thiết lập

Lạm phát, π (%)
Lãi
suất
thực,
r (%)


Đường IS (b)

Đường IS liên kết lãi suất thực từ
đường MP với sản lượng cân bằng

Sản lượng, Y (nghìn tỷ $)
Lạm
phát,
π
(%)

Đường tổng cầu AD (c)

Đường AD liên kết
lãi suất thực từ
đường MP với sản
lượng cân bằng

Sản lượng, Y (nghìn tỷ $)

Trang 15


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
Sự dịch chuyển đường IS
Có 6 nhân tố làm cho đường IS dịch chuyển và các nhân tố này cũng làm cho đường AD
dịch chuyển, đó là:
 Tiêu dùng tự định
 Đầu tư tự định
 Chi tiêu của chính phủ

 Thuế
 Xuất khẩu ròng tự định
 Các va chạm tài chính
Chúng ta sẽ xem xét các yếu tố này tác động như thế nào đến tổng cầu (AD):
Giả định lạm phát là 2% và đường MP thể hiện lãi suất thực là 2% trong hình 5a.
Lãi
suất
thực,
R (%)

Tỷ lệ lạm phát, 𝜋 (%)

Hình 5a: Đường MP thể hiện mối liên hệ giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất thực được
thiết lập bởi ngân hàng trung ương
Trong hình 5b, đường IS thể hiện sản lượng cân bằng tại mức lãi suất thực 2% là 10 nghìn
tỷ USD tại điểm A1, tương ứng với mức sản lượng 10 nghìn tỷ USD tại điểm A1 trên đường
AD (hình 5c). Bây giờ, giả định rằng có một sự gia tăng, ví dụ chính phủ tăng chi tiêu là 1
nghìn tỷ USD, làm cho đường IS dịch chuyển sang phải (Hình 5b).

Trang 16


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu

Lãi
suất
thực,
r (%)

Tổng sản lượng, Y (nghìn tỷ USD)


Hình 5b Sự dịch chuyển của đường IS khi tăng chi tiêu của chính phủ
Hình 5b cho thấy, tại mức lạm phát và lãi suất thực là 2% thì sản lượng cân bằng dịch
chuyển từ điểm A1 đến điểm A2 (từ 10 nghìn tỷ USD tăng lên 12,5 nghìn tỷ USD), vì vậy
đường IS dịch chuyển sang phải (từ IS1 sang IS2). Như vậy, với tỷ lệ lạm phát và lãi suất
thực không đổi, sản lượng gia tăng lên mức 12,5 nghìn tỷ USD, làm cho điểm cân bằng
dịch chuyển từ A1 đến A2 và đường tổng cầu (AD) dịch chuyển sang phải (từ AD1 sang
AD2). Xem hình 5c.
Tỷ lệ
lạm
phát,
𝜋 (%)

Tổng sản lượng, Y (nghìn tỷ USD)

Hình 5c: Sự dịch chuyển của đường tổng cầu
Hình 5b và 5c cho thấy, bất kỳ yếu tố nào làm đường IS dịch chuyển thì làm đường tổng
cầu (AD) dịch chuyển cùng hướng với đường IS. Do đó, bất kỳ sự gia tăng trong tiêu dùng

Trang 17


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
tự định, đầu tư tự định, tiêu của chính phủ, xuất khẩu ròng tự định, giảm thuế hoặc giảm
các va chạm tài chính đều làm cho đường IS dịch chuyển sang phải và làm cho đường AD
cũng dịch chuyển sang phải. Tương tự đối với trường hợp ngược lại.
Dịch chuyển đường MP
Chúng ta sẽ kiểm tra xem điều gì sẽ xảy ra đối với đường tổng cầu khi đường MP dịch
chuyển. Giả định rằng, Fed quyết định thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt tự động bằng
cách tăng lãi suất thực lên 1 điểm phần trăm tại bất kỳ mức độ lạm phát nào bởi vì lo ngại

sự phát triển quá mức của nền kinh tế. Tại mức tỷ lệ 2%, lãi suất thực tăng từ 2% lên 3%
(Hình 6a), đường MP dịch chuyển lên trên (từ MP1 lên MP2) trong hình 6a, điểm cân bằng
dịch chuyển từ A1 sang A2.
Lãi
suất
thực, r

(%)

Tỷ lệ lạm phát, 𝜋 (%)

Hình 6a: Đường MP dịch chuyển khi lãi suất thực tăng
Hình 6b thể hiện khi lãi suất thực tăng từ 2% lên 3% thì điểm cân bằng di chuyển từ điểm
A1 đến điểm A2 trên đường IS đồng thời sản lượng (Y) giảm xuống (từ 10 nghìn tỷ USD
xuống 9 nghìn tỷ USD).

Trang 18


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu

Lãi
suất
thực,
r (%)

Tổng sản lượng, Y (nghìn tỷ USD)

Hình 6b: Sự di chuyển dọc đường IS khi lãi suất thực tăng
Khi lãi suất thực tăng làm cho đầu tư và xuất khẩu ròng giảm, từ đó làm cho tổng cầu giảm,

đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 sang AD2 và điểm cân bằng dịch chuyển từ A1 sang
A2 (hình 6c).
Tỷ lệ
lạm
phát,
𝜋 (%)

Tổng sản lượng, Y (nghìn tỷ USD)

Hình 6c: Sự dịch chuyển đường tổng cầu khi lãi suất thực tăng
Như vậy, chính sách tiền tệ thắt chặt tự động, tức là tăng lãi suất thực tại bất kỳ tỷ lệ lạm
phát nào sẽ làm cho đường tổng cầu (AD) dịch chuyển sang trái. Tương tự, đối với chính
sách tiền tệ tự động nới lỏng sẽ làm cho đường tổng cầu (AD) dịch chuyển sang phải.
Trang 19


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
ỨNG DỤNG PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
Giả sử chính phủ tăng thuế và thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng thì tác động đến đường
IS, MP và AD như thế nào?
Khi chính phủ tăng thuế thì đường IS dịch chuyển sang trái, đường MP không dịch chuyển
và đường AD dịch chuyển sang trái. Khi thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng thì đường IS
không dịch chuyển, đường MP dịch chuyển xuống dưới, do đó đường AD dịch chuyển
sang phải. Như vậy, chính sách tiền tệ mở rộng làm đường AD dịch chuyển sang phải trong
khi chính phủ tăng thuế làm đường AD dịch chuyển sang trái. Chúng ta không thể đưa ra
kết luận cuối cùng rằng đường AD sẽ dịch chuyển như thế nào khi không biết được sự thay
đổi sản lượng/thu nhập do chính sách tiền tệ mở rộng gây ra và việc chính phủ tăng thuế.
Một sự gia tăng trong tỷ lệ lạm phát sẽ tác động đến đường IS, MP và AD như thế nào?
Khi tỷ lệ lạm phát tăng dẫn đến tỷ lệ lãi suất thực tăng, và có sự di chuyển dọc trên đường
MP, sự di chuyển dọc đường IS và sự di chuyển dọc đường AD mà không làm dịch chuyển

các đường này.
Điều gì xảy ra đối với đường tổng cầu khi tăng xuất khẩu ròng. Và tăng xuất khẩu ròng có
ảnh hưởng đến đường MP hay không?
Khi gia tăng xuất khẩu ròng thì thu nhập/sản lượng tăng, đường IS dịch chuyển sang phải,
đường MP không dịch chuyển, do đó đường AD dịch chuyển sang phải.
Đối với trường hợp chính phủ tăng chi tiêu và đồng thời tăng thuế để giữ cân bằng ngân
sách thì điều gì xảy ra đối với đường tổng cầu?
Tăng chi tiêu chính phủ sẽ làm cho đường IS dịch chuyển sang phải nhiều hơn so với việc
tăng thuế làm đường IS dịch chuyển sang trái. Do vậy, cuối cùng thì đường AD dịch chuyển
sang phải.

Trang 20


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
PHỤ LỤC 1:
KINH TẾ HỌC VĨ MÔ CỦA KEYNES MÀ KHÔNG CÓ ĐƯỜNG LM
Mô hình IS –LM là một công cụ chủ yếu được dùng để giảng dạy kinh tế vĩ mô và thực
hành trong thực tế trong hơn nửa thế kỷ qua. Cho đến bây giờ thì mô hình này bộc lộ một
số điểm yếu như: Giả định giá cả là cứng nhắc, thiếu cơ sở kinh tế vi mô… Những phát
triển gần đây đã tạo ra sự khác biệt cho mô hình IS-LM, mặc dù các phát hiện mới này ít
sâu sắc hơn so với trước đây. Giống như tất cả các mô hình khác, mô hình IS-LM không
phải hoàn thiện nhất nhưng những giả định và sự đơn giản của nó phù hợp để phân tích
một số vấn đề hơn những mô hình khác. Có một sự tranh luận giữa Keynes và các nhà tiền
tệ về hiệu quả của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong những năm 1960 - 1970
hiện chỉ có vai trò khiêm tốn trong việc phân tích ngắn hạn. Mô hình IS-LM phù hợp với
cuộc tranh luận giữa Keynes và các nhà tiền tệ với giả định rằng ngân hàng trung ương chỉ
tập trung vào cung tiền.
Romer (2000) đã tìm ra đường thay thế đường LM với giả định là ngân hàng trưng ương
đặt mục tiêu vào cung tiền băng giả định là ngân hàng trung ương hướng tới mục tiêu là lãi

suất thực.
Mô hình IS-LM
Phiên bản đơn giản nhất của mô hình IS-LM mô tả nền kinh tế vĩ mô trên thị trường hàng
hóa và thị trường tiền tệ để xác định lãi suất và sản lượng. Trên thị trường hàng hóa, khi
lãi suất tăng làm nhu cầu đầu tư giảm. Trong nền kinh tế mở, vốn luân chuyển tự do,với tỷ
giá thả nổi thì ta có sơ đồ như sau:

Mối quan hệ giữa lãi suất với sản lượng được hiểu là đường IS. Đường IS là tập hợp các
phối hợp khác nhau giữa lãi suất và sản lượng mà tại đó thị trường hàng hóa cân bằng.

Trang 21


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
Trên thị trường tiền tệ, hàm cầu tiền phụ thuộc vào lãi suất và thu nhập. Nếu cung tiền
không đổi, tổng thu nhập tăng lên, yêu cầu tiền dùng để thanh toán cao lên thì lãi suất phải
tăng lên để xác lập cân bằng khi mà cung tiền không đổi.

Hình A: Mô hình đường IS-LM
Sự kết hợp của hai đường này sẽ giúp xác định được sản lượng và lãi suất mà tại đó thị
trường hàng hóa và thị trường tiền tệ cân bằng. Ví dụ: Khi tăng chi tiêu chính phủ hoặc
giảm thuế thì đường IS dịch chuyển sang phải làm sản lượng tăng và lãi suất tăng và điểm
cân bằng mới di chuyển dọc trên đường LM. Sự ảnh hưởng đối với sản lượng phụ thuộc
vào độ dốc của hai đường và sự dịch chuyển của đường IS. Tương tự như vậy, một chính
sách tiền tệ mở rộng làm đường LM dịch chuyển xuống dưới làm cho lãi suất và sản lượng
tăng. Việc này ảnh hưởng đến sản lượng cân bằng tùy thuộc vào độ dốc và sự dịch chuyển
của đường LM.
Chúng ta thể hiện đường IS và LM qua các phương trình sau (giả định nền kinh tế đang xét
là nền kinh tế đóng).
Y = C (Y-T) + I(r) + G

M/P = L (Y,r)

[IS]
[LM]

Đường tổng cầu là tập hợp các phối hợp khác nhau giữa mức giá chung và sản lượng hàng
hóa tiêu thụ mà tại đó thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ cân bằng. Vì vậy, để xây
Trang 22


Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
dựng đường tổng cầu (AD) theo P, chúng ta cho P thay đổi, các yếu tố khác còn lại như:
Cung tiền danh nghĩa, tổng cầu tự định không đổi.
Từ IS –LM đến AD khi P thay đổi

Hình B: Sự hình thành đường tổng cầu AD
Tại mức giá P0 thì cung tiền thực là M0/P0 tương ứng với đường LM0. Khi đó, đường ISLM cân bằng tại điểm E0, với mức thu nhập là Y0 (trên đường IS) và trên đường AD thì ta
xác định được điểm A (Y0, P0).
Khi P giảm từ P0 xuống P1 thì cung tiền thực tăng lên, đường LM dịch chuyển xuống dưới
tương ứng với đường LM1. Khi đó đường IS-LM cân bằng tại điểm E1, với mức thu nhập
là Y1 (trên đường IS) và trên đường AD thì ta xác định được điểm B (Y1,B1).
Nối điểm A và B thì ta có đường tổng cầu AD mà tại đó có sự cân bằng trên thị trường
hàng hóa và thị trường tiền tệ.
Sự dịch chuyển đường AD
Đường tổng cầu AD dịch chuyển khi các yếu tố tác động lên AD là các yếu tố ngoài giá
(P), ví dụ như:

Trang 23



Chương 21: Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
Thực hiện chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ mở rộng với điều kiện P không đổi
thì thu nhập tăng, đường AD dịch chuyển sang phải.
Thực hiện chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt với điều kiện P không đổi
thì thu nhập tăng, đường AD dịch chuyển sang trái.

Hình C: Đường tổng cầu dịch chuyển khi thực hiện chính sách tài khóa mở rộng
Việc thực hiện chính sách tài khóa mở rộng (tăng chi tiêu chính phủ, giảm thuế...) làm
đường IS dịch chuyển sang phải với mức sản lượng/thu nhập cao hơn tại cùng một mức
giá.

Trang 24


×