Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Vận dụng nguyên tắc toàn diện của triết học mác Lênin để phân tích thực trạng của vấn đề sinh viên ra trường thất nghiệp ngày càng tăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.85 KB, 14 trang )


BIÊN BẢN SINH HOẠT NHÓM
-

Ngày 25/11/2016: Nhóm phân công tìm tên đề tài
Ngày 05/12/2016: Lựa chọn tên đề tài, chỉnh sửa, thống nhất tên đề tài
Ngày 06/12/2016: Phân chia công việc:
+ Nguyễn Văn Mạnh: Phần Mở đầu, Kết luận, tổng hợp chỉnh sửa nội dung bài
+ Trần Thị Mỹ Anh: Phần I – Quan điểm toàn diện của triết học Mác – Lênin
+ Lê Thúy Ngọc: Phần II – Thực trạng của vấn đề sinh viên ra trường thất nghiệp
(Mục 1c, 1d, 2c, 2d)
+ Phạm Thị Y Bình: Phần II – Thực trạng của vấn đề sinh viên ra trường thất

-

nghiệp (Mục 1a, 1b, 2a, 2b)
Ngày 20/12/2016: Tổng hợp nội dung làm bài, chỉnh sửa
Ngày 27/12/2016: Gửi nhóm xem lại và chỉnh sửa
Ngày 30/12/2016: Hoàn thành bài tiểu luận


-

Mục lục
-

-


-


-

Lời mở đầu

Những năm trở lại đây, đất nước ta đã có những bước chuyển mình

đáng kể và đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, chính trị và xã hội. Tuy nhiên, một
trong số những vấn đề mà đất nước ta cần khắc phục hiện nay đó là tình trạng sinh
viên ra trường thất nghiệp ngày càng tăng.
Sinh viên là lực lượng lao động trẻ, năng động, dồi dào và cần phải
được đào tạo bài bản, là nguồn nhân lực rất quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội
của đất nước.
-

Tình trạng sinh viên thất nghiệp sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình

phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Vấn đề này xuất phát từ đâu? Phải chăng là do
chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng chưa tốt? Do chính sách của
chính phủ chưa hợp lý? Hay là do bản thân của sinh viên chưa thực sự tốt?
Vấn đề này được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau vì mỗi người có
một quan điểm khác nhau. Điều này xảy ra là vì chúng ta chưa nhìn nhận vấn đề một
cách toàn diện, tổng thể mà chỉ nhìn nhận ở một phía nhất định. Do vậy, bài tiểu luận
này sẽ vận dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác – Lênin để giải thích nguyên
nhân của vấn đề và đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng trên.
-


.

Quan điểm toàn diện của triết học Mác – Lênin

-

Quan điểm toàn diện chính là ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ

nguyên lý mối liên hệ phổ biến.
-

Muốn nhận thức hoặc hoạt động thực tiễn đúng về đối tượng nào đó

phải tính đến những mối liên hệ trong sự tồn tại của đối tượng, đề phòng khắc phục
quan điểm phiến diện.
-

Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là mối liên hệ của bản thân thế

giới vật chất, không do bất cứ ai quy định và tồn tại độc lập với ý thức. Trên thế giới
này có rất nhiều mối liên hệ chẳng hạn như mối liên hệ giữa sự vật và hiện tượng vật
chất, giữa cái vật chất và cái tinh thần. Các mối liên hệ đều là sự phản ánh những tác
động qua lại, phản ánh sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng của thế giới
khách quan.
-

Không chỉ có vậy, các mối liên hệ còn có tính nhiều vẻ (đa dạng)

-

+ Mối liên hệ bên trong và bên ngoài
+ Mối liên hệ cơ bản và không cơ bản
+ Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu
+ Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp

Ở thế giới của các mối liên hệ, mối liên hệ bên ngoài tức là sự tác động

-

lẫn nhau giữa các sự vật, mối liên hệ bên trong tức là sự tác động qua lại lẫn nhau của
các mặt, các yếu tố, các bộ phận bên trong của sự vật. Có mối liên hệ cơ bản thuộc về
bản chất của sự vật, đóng vai trò quyết định, còn mối liên hệ không cơ bản chỉ đóng
vai trò phụ thuộc, không quan trọng. Đôi khi lại có mối liên hệ chủ yếu hoặc thứ yếu.
Ở đó còn có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hoặc nhiều sự vật và hiện tượng, có mối
liên hệ gián tiếp trong đó có các sự vật và hiện tượng tác động lẫn nhau thông qua
nhiều khâu trung gian.
Khi nghiên cứu hiện tượng khách quan, chúng ta có thể phân chia các
mối liên hệ ra thành từng loại như trên tuỳ theo tính chất đơn giản hay phức tạp,
phạm vi rộng hay hẹp, vai trò trực tiếp hay gián tiếp, nghiên cứu sâu hay sơ qua….
5


-

Phân chia các mối liên hệ phải phụ thuộc vào việc nghiên cứu cụ thể

trong sự biến đổi và phát triển của chúng. Hay nói khác đi, khi xem xét sự vật thì phải
có quan điểm toàn diện tức là nhìn nhận sự việc, vấn đề ở mọi góc cạnh, mọi phương
diện. Theo Lênin “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mối quan hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”. Chúng ta không thể
làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự vật cần thiết phải xét đến tất
cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và cứng nhắc” (Lênin
Toàn Tập – NXB Tiến Bộ)
Khi xem xét sự vật hiện tượng thì luôn phải chú ý đến quan điểm toàn
diện tức là khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu mọi mối liên hệ và sự tác

động qua lại giữa chúng, sự tác động qua lại của các yếu tố, kể cả khâu trung gian,
gián tiếp cấu thành sự vật đó, phải đặt nó trong một không gian, thời gian cụ thể,
nghiên cứu quá trình phát triển từ quá khứ, hiện tại và dự đoán cho tương lai. Thế
nhưng, xem xét toàn diện không có nghĩa là xem xét tràn lan mà phải xem xét từng
yếu tố cụ thể nhưng có tính chọn lọc. Có như thế chúng ta mới thực sự nắm được bản
chất của sự vật.
Và cả khi nghiên cứu xã hội thì cũng rất cần đến quan điểm toàn diện vì
các mối quan hệ trong xã hội không cô lập nhau, tách rời nhau mà trái lại chúng đan
xen tác động qua lại với nhau. Quan điểm toàn diện có ý nghĩa hết sức to lớn trong
cuộc sống của chúng ta, cả trong lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Vì vây, tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp cũng là một vấn đề xã
hội mà nguyên nhân gây ra là tập hợp của nhiều yếu tố tác động ảnh hưởng đến nhau.
Chính vì vậy, trong bài tiểu luận này nhóm sẽ dùng quan điểm toàn diện của triết học
Mác – Lênin để phân tích tình trạng này.

6


I.

Thực trạng của vấn đề sinh viên ra trường thất nghiệp
1. Nguyên nhân
a. Từ nền kinh tế, xã hội
-

Trong những năm trước ta còn thực hiện chính sách bao cấp thì không

có hiện tượng sinh viên ra trường thất nghiệp. Phần lớn là vì ngày đó sinh viên còn ít,
số lượng các trường đại học không nhiều, và chủ yếu là sinh viên sau khi tốt nghiệp
thường được nhà nước phân công công tác. Nhìn bề ngoài thì có thể là đủ việc làm,

nhưng đôi khi những vị trí được sắp xếp vào chỉ cho đủ vị trí, cho có hình thức, nhiều
lúc “chơi dài ngày” hết tháng thì nhận lương nhà nước.
-

Nhưng từ khi nhà nước có chính sách mở cửa kinh tế, nhà nước chuyển

sang kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự lo cho mình, tự tính toán “lời ăn, lỗ
chịu”, không có sự bao cấp của nhà nước thì vấn đề việc làm trở nên bức bách. Cũng
từ đây, cơ cấu bộ máy trong cơ quan nhà nước cũng gọn nhẹ hơn nhiều do số lao
động tuyển vào được cân nhắc kỹ lưỡng theo khối lượng và mức độ đòi hỏi của công
việc.
-

Hiện nay, sau khi tốt nghiệp thì đa số sinh viên phải tự đi tìm việc cho

mình, ngoại trừ một số trường thuộc ngành công an hay quân đội thì ngành chủ quản
sẽ phân công công tác.
-

Ngày nay, chúng ta có thể thấy một hiện tượng là sinh viên tốt nghiệp

ra trường chỉ muốn trụ lại thành phố để làm việc, kể cả những sinh viên xuất thân và
lớn lên từ những miền quê. Họ chấp nhận ở lại thành phố để làm việc dù là việc
không đúng với ngành được đào tạo hoặc là sẽ có thêm thu nhập. Như vậy, một số
nơi như hải đảo, vùng sâu vùng xa thì vẫn thiếu trầm trọng nguồn nhân lực trong khi
ở một số thành phố lớn thì sinh viên sau khi tốt nghiệp vẫn phải đương đầu với sức ép
của tình trạng thất nghiệp.

7



-

Đến đây ta có thể thấy tính hai mặt của nền kinh tế thị trường. Một mặt,

nó tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế có khả năng phát triển mạnh hơn, nó
cũng tạo ra sự cạnh tranh cũng là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, đi lên. Hơn
nữa, kinh tế thị trường sẽ phải làm cho mọi người phải cố gắng nỗ lực để trang bị cho
mình vốn kiến thức đầy đủ thì mới có thể tìm được việc làm.
-

Nhưng mặt khác, nền kinh tế thị trường cũng có những tác động không

lớn đến vấn đề xã hội là việc gây ra sự thiếu thừa “giả” về lực lượng lao động, mất
cân đối về nguồn lao động và cũng làm nảy sinh một số vấn đề tiêu cực trong việc
làm.
b. Từ môi trường đào tạo
-

Tình trạng sinh viên ra trường không có việc làm một phần cũng có

nguyên nhân ở phía đào tạo. Nhiều chương trình đào tạo quá cũ kỹ, lạc hậu từ nội
dung đến phương pháp giảng dạy. Đôi khi được học là học chạy, còn khi vào thực
tiễn như mới hoàn toàn vì học không có thực hành. Trang thiết bị phục vụ cho công
tác đào tạo, giảng dạy, học tập thì không có. Chính vì thế, không phát huy được khả
năng sáng tạo của sinh viên.
-

Tại một số nước có nền giáo dục hiện đại thì sinh viên sau khi học hết


năm thứ ba thì có thể làm việc được tại một số cơ quan, công ty theo một ngành nghề
đã được đào tạo. Phần đông ngoài các chương trình đào tạo ở trường đại học, họ còn
phải học thêm các khóa học ở ngoài như ngoại ngữ, tin học để có thể đáp ứng được
yêu cầu của công việc. Chúng ta xét thêm về hai khía cạnh là cơ cấu đào tạo và chất
lượng đào tạo.
-

Cơ cấu đào tạo: Có thể nói cơ cấu đào tạo của nước ta còn quá lạc hậu

và chưa bám sát thực tế. Trong khi một đất nước đang trên đà phát triển như Việt
Nam đang rất cần đến đội ngũ kỹ sư giỏi về kỹ thuật, công nghệ, xây dựng cơ bản thì
nguồn cung cấp nhân lực từ phía đào tạo lại chưa đáp ứng được hết nhu cầu. Trong
khi đó, sinh viên trong khoa kinh tế thì đang quá dư thừa “90% sinh viên khối kinh tế
8


ra trường không có việc làm” là một phần do bên đào tạo nắm được nhu cầu thực tế
về nguồn nhân lực, chưa thông tin đầy đủ cho sinh viên về việc chọn nhóm ngành
học. Nhiều sinh viên chọn trường chỉ theo cảm tính chứ không tính đến mục đích
phục vụ tương lai và khả năng xin việc làm sau này.
-

Chất lượng đào tạo: Hiện nay, chất lượng đào tạo và thực tế còn có

khoảng cách quá xa. Những gì sinh viên được học phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu
của công việc. Nguyên nhân một phần là do học không đi đôi với hành, thiếu cơ sở
vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy và học tập hoặc nếu có thì quá xa
so với thực tế công việc. Phần khác, là do xã hội ngày càng phát triển với tốc độ cao
và vì vậy, sản xuất cũng thay đổi theo. Phương thức sản xuất thay đổi trong khi đó
đào tạo không bắt kịp được những thay đổi này vì vậy nó thường tụt hậu. Khi không

có sự công bằng, đồng bộ giữa đào tạo và thực tế công việc đã làm cho sinh viên sau
khi ra trường không đủ khả năng phục vụ cho công việc. Họ cảm thấy rất lúng túng
trước những yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động.
-

Chính vì sự phát triển của khoa học – kỹ thuật ngày càng cao nên công

việc cũng đòi hỏi đội ngũ người lao động phải có trình độ, năng lực. Điều này đòi hỏi
ngành giáo dục – đào tạo phải có phương pháp đào tạo mới, cải thiện chất lượng đào
tạo để có thể bắt kịp sự phát triển của thời đại.
c. Từ chính sách của nhà nước
-

Bên cạnh những nguyên nhân về kinh tế, xã hội, đào tạo thì nguyên

nhân về chính sách của nhà nước cũng là yếu tố đáng kể tác động đến vấn đề này.
Trong những năm gần đây, nhà nước cũng có rất nhiều quan tâm đến sự nghiệp đào
tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng cùng với những khuyến khích để sử dụng
sinh viên sau khi tốt nghiệp; ví dụ như sinh viên thuộc khối sư phạm được miễn học
phí. Nhưng về cơ bản thì nhà nước vẫn chưa có chính sách hợp lý để khuyến khích
cũng như tạo điều kiện cho sinh viên sau khi ra trường yên tâm công tác và phát huy
hết khả năng; chẳng hạn như chính sách đối với những người về công tác tại những
9


vùng sâu, vùng xa, hải đảo chưa hợp lý cho lắm nên không thu hút được sinh viên sau
khi ra trường tự nguyện về đây công tác.
-

Vậy nên chăng nhà nước cần có chính sách hợp lý cũng như thỏa đáng


hơn nữa cả về mặt vật chất cũng như tinh thần để sinh viên sau khi ra trường sẵn sàng
có công tác ở bất cứ nơi đâu để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và đổi mới
đất nước.
d. Từ phía bản thân sinh viên và gia đình
-

Bên cạnh những nguyên nhân được nêu ở trên thì nguyên nhân từ phía

bản thân sinh viên cũng là một yếu tố gây ra tình trạng sinh viên thất nghiệp sau khi
ra trường.
-

Chúng ta có thể nhận thấy một thực tế rằng hiện nay sinh viên ra trường

đều muốn bám trụ lại thành phố để làm việc dù công việc đó không đúng ngành được
đào tạo hoặc thậm chí là công việc phổ thông miễn sao có thu nhập. Nhóm sinh viên
xuất thân từ các tỉnh lẻ ra thành phố học cũng không muốn trở về quê hương để phục
vụ, điều này đang làm cho các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh đang quá tải
về dân số cũng như sức ép về nhu cầu việc làm. Tình hình này đã và đang gây ra
những ảnh hưởng xấu đến chủ trương phát triển kinh tế – xã hội ở miền núi, nông
thôn của Đảng và nhà nước.
2. Giải pháp khắc phục
a. Từ nền kinh tế, xã hội
-

Phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng các ngành nghề sản xuất –

kinh doanh. Với dân số gần 90 triệu người và chắc chắn sẽ còn tăng trong những năm
tới, lượng sinh viên ra trường ngày càng nhiều vì vậy việc làm là một vấn đề cấp

bách của xã hội. Để tạo thêm được công ăn việc làm thì không còn cách nào khác là
mở rộng các ngành nghề sản xuất – kinh doanh. Muốn làm được điều này thì nhà
nước cần có những chính sách nhằm đẩy mạnh, khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia vào đầu tư, phát triển mở rộng sản xuất cũng như tạo ra các điều kiện thuận
10


lợi về môi trường, chính sách hành chính, luật..v..v để họ có thể hoạt động thuận tiện
hơn, hiệu quả hơn.
-

Bên cạnh đó, nhà nước cũng phải là người đi đầu, chủ trương trong việc

thực hiện các chương trình quốc gia về khoa học – kỹ thuật cũng như đưa nó vào thực
tiễn sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, nâng cao
điều kiện sống cho người lao động.
-

Nếu các chính sách này được đưa vào thực tiễn thì người lao động sẽ

phải cố gắng hơn để nâng cao trình độ chuyên môn cho công việc và đơn vị sử dụng
cũng sẽ có điều kiện để thu hút nhiều hơn lực lượng lao động được đào tạo với chất
lượng cao.
b. Từ môi trường đào tạo
-

Đào tạo chính là nền tảng, là cơ sở để cho “ra lò” những lao động có kỹ

năng, có tay nghề, vì vậy, đào tạo cần phải đổi mới, nâng cao chất lượng để làm sao
khi tốt nghiệp sinh viên có khả năng đáp ứng những nhu cầu ngày một càng cao của

công việc.
-

Bên cạnh đó, nhà nước và bộ giáo dục cũng cần có sự phối hợp để tính

toán, để cân đối tỷ lệ hợp lý giữa các ngành nghề đào tạo, đáp ứng được nhu cầu của
thực tế, tránh hiện tượng thừa thì vẫn cứ thừa mà thiếu thì vẫn cứ thiếu.
-

Ngành đào tạo cũng có mối liên hệ với thị trường lao động để luôn cập

nhật được xu hướng của nhu cầu thị trường để đào tạo cho phù hợp cả về chất lượng
cũng như số lượng sinh viên sau khi tốt nghiệp.
c. Từ chính sách của nhà nước
-

Nhà nước là người quản lý ở tầm vĩ mô do vậy nhà nước cần đưa ra các

chính sách hợp lý để thu hút và tạo điều kiện cho sinh viên vào học các ngành nghề
kỹ thuật ngành mà hiện nay một đất nước đang trên con đường công nghiệp hoá hiện
đại hoá rất cần đến. Cùng với việc vào học nhà nước cũng nên có chính sách quan
tâm đến những người làm việc, công tác tại những vùng xa, vùng khó khăn để động
11


viên họ cả về mặt vật chất cũng như tinh thần để họ có thể yên tâm đem hết tâm huyết
và năng lực ra để phục vụ đất nước.
-

Nhà nước cũng cần tạo cơ hội để các trường đào tạo có điều kiện tiếp


cận được với thị trường lao động để biết đươc tình hình thực tế cũng những thay đổi
về khoa học – công nghệ, các loại máy móc hiện đại để từ đó có thể cập nhật cho sinh
viên một cách liên tục và kịp thời những sự thay đổi đó.
d. Từ phía bản thân sinh viên và gia đình
-

Hiện nay, rất nhiều đối tượng chọn trường đại học nhưng không có sự

định hướng cho khả năng của đầu ra sau này mà chỉ chọn như một cái “mốt” với
những ngành đang “nổi” như tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông… Đây là
một tư tưởng tiêu cực có ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển kinh tế – xã
hội gây ra tình trạng thừa thiếu bất hợp lý. Vả lại, tâm lý hiện nay của nhiều bậc phụ
huynh là bắt buộc phải vào được đại học. Phải nói rằng có được tấm bằng đại học để
ra nghề là một điều rất cần thiết và quan trọng. Nhưng chúng ta cũng cần biết rằng
đại học chưa phải là con đường duy nhất để lập nghiệp. Vì vậy, bản thân đối tượng
được đào tạo cũng như các bậc phụ huynh cần phải đánh giá lại cách nhìn nhận làm
sao để chọn cho con em mình và hoàn cảnh gia đình mà vẫn có ích cho xã hội.
Những sinh viên ra trường cũng cần có cách nhìn nhận đúng đắn hơn trong việc chọn
cho mình một nơi làm việc. Một môi trường đúng với chuyên ngành được đào tạo sẽ
có lợi cho cả hai bên; người lao động sẽ làm tốt hơn công việc của mình, bên sử dụng
lao động sẽ được những người có trình độ chuyên môn phù hợp, có năng lực làm
việc. Sự kết hợp hài hoà và hợp lý này sẽ giúp cho công việc đạt hiệu quả cao hơn.

12


-

- Kết luận

-

Tóm lại, khi xem xét, nghiên cứu một sự vật hiện tượng nào đó thì ta

luôn phải chú ý đến quan điểm toàn diện tức là phải nghiên cứu mọi mối liên hệ và
sự tác động qua lại giữa chúng. Nền kinh tế cũng không ngoại trừ khả năng chịu tác
động, chi phối bởi những quan điểm này.
-

Việc ứng dụng hay nói đúng hơn là áp dụng vào thực tiễn là việc rất

cần thiết để phát triển nền kinh tế mạnh mẽ hơn. Nắm rõ được quy luật đó sẽ giúp ích
rất nhiều cho chính phủ, cho nhà nước ta những phương pháp, những ý tưởng để có
thể giảm thiểu tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường, mặc dù vấn đề này
không thể giải quyết một sớm một chiều.
-

13


- Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học – Tiểu ban triết học, Khoa lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí

Minh – Xuất bản 2014.
2. “Tiểu luận: Vận dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác _ Lê Nin để giải thích nguyên nhân của vấn

đề tình trạng sinh viên thất nghiệp sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước và đưa ra một vài giải pháp”, Thư viện số Trường Đại học Kinh tế Huế, truy cập tại:
ngày 10/12/2016
3. Hè


Về (19/04/2013), “Tình trạng thất nghiệp của sinh viên hiện nay”, truy cập tại:
ngày 10/12/2016



×