Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nướcKhắc phục những yếu kém trong thanh tra kiểm tra ở chi cục thuế thành phố h

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.74 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Khoá học......... được tổ chức tại Trường........... từ ngày........ đến ngày do Học
viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức và đào tạo đã thu hút
được...... học viên là cán bộ, công chức đang công tác tại các bộ phận, các cơ quan
chuyên môn thuộc các lĩnh vực của Uỷ ban nhân dân các cấp trong tỉnh.
Để nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ quản lý cho cán bộ, công chức trong
các cơ quan hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
về mọi mặt. Khoá học này, có thể ví như một khoá đào tạo ngắn hạn nhằm nâng cao
kỹ năng quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức ở địa phương. Bởi lẽ, một mặt khoá
học đã tập trung đi sâu trang bị những kiến thức cơ bản, những vấn đề mang tính lý
luận và những quy định mới trong chính sách của Đảng và Nhà nước cho học viên.
Mặt khác, khoá học là nơi để cán bộ, công chức được hướng dẫn, thực hành các kỹ
năng, nghiệp vụ cần thiết có liên quan đến các nội dung quản lý nhà nước, đặc biệt là
hướng cán bộ, công chức có khả năng làm việc nhóm, làm việc độc lập một cách sáng
tạo gắn với những yêu cầu của học viên.
Vấn đề về thuế giá trị gia tăng và công tác quản lý nhà nước về thuế giá trị gia
tăng của chính quyền địa phương các cấp ở nước ta hiện nay luôn nhận được sự quan
tâm của đối tượng. Điều này khẳng định, các quy định của Luật thuế giá trị gia tăng
bên cạnh những ưu điểm của nó đối với nhà nước và xã hội như: thu ngân sách Nhà
nước không giảm mà còn tăng nhiều so với thuế doanh thu; hoạt động sản xuất – kinh
doanh ngày càng đi vào mạnh mẽ; và, sản xuất nội địa được gia tăng áp lực bảo hộ thì
vẫn còn nhiều hạn chế làm phát sinh các hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong quá trình
thực thi thuế giá trị gia tăng, gian lận và chiếm đoạt tiền thuế,... Thực trạng những
năm gần đây về hiện tượng gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT của cá doanh
nghiệp (DN) để bòn rút tiền ngân sách Nhà nước (NSNN) đã trở thành một vấn nạn
của toàn xã hội. Bởi các hành vi gian lận này diễn ra trên phạm vi rất rộng, không chỉ
ở các thành phố lớn mà còn ở nhiều tỉnh lẻ, đồng thời số tiền gian lận, bòn rút tiền từ
NSNN bị phát hiện đã lên đến hàng trăm tỷ đồng và chừng như các vụ gian lận bị
phát hiện ngày càng lớn, càng nghiêm trọng hơn. Với những kiến thức và kỹ năng
được trang bị tại khoá đào tạo, cùng với những kinh nghiệm của một cán bộ, công
1




chức đang công tác tại ngành tài chính, tôi mạnh dạn lựa chọn: “Khắc phục những
yếu kém trong thanh tra kiểm tra ở Chi cục thuế thành phố H” làm nội dung cơ bản
để nghiên cứu viết bài tiểu luận cuối khoá.
I. GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG
Thuế và quản lý nhà nước về thuế là một nội dung phức tạp, có nội dung rộng
bao gồm các lĩnh vực như: thuế thu nhập cá nhân, thuế kinh doanh, thuế giá trị gia
tăng,... áp dụng cho các tổ chức và cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh
và dịch vụ. Tuy nhiên, thực tiễn nảy sinh nhiều vấn đề, nhiều bất cập trong hoạt động
quản lý như: quy trình kê khai đánh giá đến thanh tra, kiểm tra thuế... ở mỗi địa bàn
trong phạm vi cả nước. Với phạm vi của một tiểu luận, tôi nêu lên một tình huống cụ
thể xảy trên địa bàn thành phố H về trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng
H lợi dụng các quy định của pháp luật hiện hành và năng lực thẩm tra của cán bộ thuế
để trốn lậu thuế và truy thu hoàn thuế giá trị gia tăng bất hợp pháp. Có thể thấy, diễn
biến tình huống như sau:
Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoang H,-là công ty kinh doanh máy tính nguyên
chiếc có nhập khẩu linh kiện từ một số nước như Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc,... để
lắp giáp thành phẩm máy vi tính sách tay, máy bàn và các thiết bị phụ kiện khác. Năm
2009, doanh nghiệp đã tiến hành nhập khẩu con chíp điện tử, ram từ Trung Quốc với
trị giá hàng hơn 1tỷ đồng Việt Nam và nhập loa, màn hình, USB,.... từ Nhật Bản trị
giá 18 tỷ đồng Việt Nam,... và tiến hành bán lẻ các linh kiện, phụ kiện này cho mọi
khác hàng trên địa bàn thành phố H. Sau mỗi lần bán linh kiện, phụ kiện cho khách
hàng, kế toán của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H không viết hoá đơn bán linh
kiện, phụ kiện cho khách hàng đến mua. Sau mỗi ngày, kế toán công ty trách nhiệm
Hoàng H vẫn tiến hành lập hoá đơn xuất bán không phải dưới dạng linh kiện mà dưới
dạng thành phẩm máy tính trọn bộ nhằm hợp thức hoá các linh kiện và số dư hàng
linh kiện, phụ kiện còn tồn trong kho của Công ty.
Tháng 03 năm 2009, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H làm đơn xin hoàn
thuế giá trị gia tăng lần 1 và được Cục thuế Thành phố H, cho hoàn thuế giá trị gia

tăng là 1.235.672.000 đồng. Sau đó, Công ty này tiếp tục làm đơn xin hoàn thuế vào
tháng 6 và tháng 9 năm 2010. Mỗi lần Công ty đều thu về hàng tỷ đồng tiền hoàn
2


thuế giá trị gia tăng. Đến ngày 6/12/2010 cán bộ chi cục thuế Nguyễn Thị T Thành
phố H, trong một lần tình cơ có đi mua một con chíp điện tử, con chuột và 1 bàn
phím máy tính tại cơ sở kinh doanh của Công ty hữu hạn trách nhiệm Hoàng H tại 43
phố TH quận Đ Đ thành phố H, khi lấy các phụ kiện đã mua, kế toán cũng không ghi
hoá đơn theo mẫu quy định mà chỉ ghi loại mẫu hoá đơn thông thường dùng để tính
tiền và lưu tại Công ty. Phát hiện ra dấu hiệu vi phạm này, cán bộ Nguyễn Thị T có
yêu cầu kế toán ghi đúng hoá đơn theo mẫu do Bộ Tài chính áp dụng thì kế toán của
Công ty Trần Bảo V nói rằng: “chị mua về gia đình để sử dụng nên cần gì phải hoá
đơn,...”. Sự việc này, đã được cán bộ Nguyễn Thị T báo cáo Chi cục trưởng Chi cục
thuế Thành phố H về tình trạng Công ty này chuyên bán linh kiện, phụ kiện cho
khách hàng mà không sử dụng hoá đơn. Mặt khác, trong 3 lần xin hoàn thuế trước
không hề có một hoá đơn nào kê khai về bán linh kiện hay phụ kiện mà toàn bộ đã
thành phẩm hoàn chỉnh. Ngày 14/12/2009, Chi cục trưởng Chi cục thuế thành phố H
cho tiến hành thanh tra kiểm tra toàn bộ số hoá đơn của Công ty trách nhiệm hữu hạn
Hoàng H nhưng không phát hiện được những sai phạm vi toàn bộ số hoá đơn này đều
hợp lệ và đúng với quy định của pháp luật,...
Để ngăn chặn hành vi “chốn thuế và xin hoàn thuế” làm thất thoát nguồn ngân
sách nhà nước trong trường hợp của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H, cần phải
cho thanh tra kiểm tra việc ghi chép hoá đơn hàng ngày tại cơ sở kinh doanh. Đồng
thời, tăng cường kiểm soát, quản lý quy trình xem xét hoàn thuế của các doanh
nghiệp trên địa bàn nói chung và của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H nói riêng
nhằm phát hiện ra sai phạm để xử lý vi phạm hành chính và truy thu lại thuế và hoàn
thuế do những vi phạm mà doanh nghiệp đã gây ra.
Song, vấn đề đặt ra đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước, nhất là cơ quan có chức
năng kiểm định, thanh tra, kiểm tra về thuế cần phải làm gì ? có biện pháp cụ thể

nào ? để có thể phát hiện được vi phạm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H ?
là vấn đề đặt ra đối với Chi cục thuế Thành phố H. Mặt khác, cần phải làm gì để khắc
phục những kẽ hở trong quy định của pháp luật ? những yếu kém của quy trình thanh
tra, kiểm tra ? ... làm cơ sở để hoàn thiện các quy định này nhằm đáp ứng việc thực
3


hiện tốt các chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với các doanh nghiệp trên địa
bàn.
Khi cán bộ Nguyễn Thị T phát hiện những sai phạm của Công ty trách nhiệm
hữu hạn Hoàng H, đã có những động thái tích cực như, yêu cầu kế toán ghi hoá đơn,
báo cáo Chi cục trưởng, Chi cục trưởng đã tổ chức tiến hành thanh tra kiểm tra lại
nhưng không phát hiện được sai phạm cụ thể của Công ty trách nhiệm hữu hạn
Hoàng H. Tuy không phát hiện được, nhưng bước đầu đã có cơ sở để Chi cục thuế
tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm phát hiện những biểu hiện gian lận trong trốn
thuế và hoàn thuế của Công ty Hoàng H.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
Thuế GTGT nói chung và công tác thu thế nói riêng, có thể được tiếp cận
nghiên cứu dươí nhiều góc độ khác nhau như: luật học, chính sách, quản lý nhà nước,
kinh tế tài chính,... Mỗi góc độ sẽ chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm cũng như
nguyên nhân của nó từ đó góp phần khắc phục những tồn tại bằng những giải pháp
hữu hiệu nhất. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế,
nhất và việc quản lý và xử lý những vi phạm trong quá trình tổ chức thực hiện các
chính sách của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thuế tại địa phương đòi
hỏi tình huống trên phải được đánh giá, phân tích, làm sáng tỏ dưới góc độ của khoa
học quản lý nhà nước.
2.1. Cơ sở phân tích tình huống
Theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng[1] thì Thuế GTGT là một sắc thuế
đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ. Theo phương pháp khấu trừ,
thuế GTGT phải nộp của khâu sau được khấu trừ phần thuế đã nộp ở khâu trước. Do

vậy, khấu trừ là một đặc trưng cơ bản của thuế GTGT. Nói một cách khác, bỏ khấu
trừ thì thuế GTGT mất đi thuộc tính vốn có của nó, lúc bấy giờ thuế GTGT không
còn có ý nghĩa tồn tại.
Theo Luật thuế GTGT, đối với hàng hoá xuất khẩu chịu thuế suất là 0% và
được khấu trừ toàn bộ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Đây là một chủ trương nhằm
khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. Để được hoàn thuế, doanh
nghiệp phải có đầy đủ các hoá đơn hợp pháp. Tuy nhiên, do điều kiện đặc thù của nền
4


kinh tế nước ta, những trường hợp mua hàng là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế
biến của người sản xuất không có hoá đơn được khấu trừ theo tỷ lệ tính trên giá trị
theo bảng kê. Ngoài ra, ta cũng ban hành cơ chế hoàn trước - kiểm sau, nhằm tạo điều
kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp. Căn cứ chủ yếu để được hoàn thế là hoá
đơn hợp pháp và thông qua những tình tiết mà tình huống nên lên có thể thấy những
hình thức gian lận và trốn thuế của Công ty TNHH Hoàng H như sau:
Thứ nhất, kế toán Công ty TNHH Hoàng H khi bán các linh kiện, phụ kiện của
máy vi tính không sử dụng hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành, thực chất chỉ là hoá
đơn thông thường hay còn gọi là hoá đơn giả. Điều này phản ánh cả một quá trình
bán các sản phẩm linh kiện, phụ kiện hay thành phẩm của Công ty TNHH Hoàng H
không viết hoá đơn theo quy định. Mục đích của hành vi này là nhằm để hợp thức
hoá số linh kiện, phụ kiện do Công ty nhập khẩu từ các nước thành các sản phẩm do
Công ty lắp giáp và bán cho khác hàng. Điều này có thể làm phát sinh hành vi lợi
dụng hoá đơn thật để ghi các nội dung, chi tiết không đúng.
Thứ hai, việc làm của kế toán Công ty TNHH Hoàng H có thể làm nảy sinh
hành vi mua, bán hoá đơn giữa các doanh nghiệp. Vì việc kê khai bán hàng thành
phẩm có thể thừa hoá đơn hoặc thiếu hoá đơn. Mặt khác, có thể bán hoá đơn cho
khách hàng với nội dung theo yêu cầu của khách hàng để lấy phần % chênh lệch.
Hành vi này tuy chưa có căn cứ trong tình huống nhưng vẫn là thực trạng chung mà
đa số các doanh nghiệp liên kết, cấu kết với nhau để đạt được mục đích của mình.

Thứ ba, tình huống trên chỉ ra quy trình thanh tra kiểm tra chỉ mang tính chất
hậu kiểm, nên khó có thể phát hiện những “dấu vết” do ghi không đúng với nội dung
của hoá đơn như trường hợp của kế toán Công ty TTNHH Hoàng H.
2.2.Mục tiêu chung
Những hành vi gian lận của Công ty TNHH Hoàng H nêu trên đòi hỏi phải
được lý giải một cách thoả đáng như: Tại sao Công ty TNHH Hoàng H lại có thể dễ
dàng thực hiện hành vi vi phạm của mình ? Thông qua đó làm sáng tỏ những hạn chế
của thể chế, chính sách, điều kiện kinh tế-xã hội,... ở nước ta hiện nay.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến hậu quả của tình huống trên
5


Từ những phân tích trên, có thể thấy những sai phạm trên xuất phát từ những
nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nhìn chung, có các nguyên nhân cơ bản như:
Thứ nhất, những nguyên nhân khách quan:
Một là, điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mở ra
là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam phát triển trong điều kiện kinh doanh lành
mạnh và hợp pháp. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường và những hạn chế về
kinh nghiệm của một quốc gia mới hơn 23 năm chuyển đổi nền kinh tế đã tạo ra
những hạn chế trong việc quản lý nhằm đảm đảm sự phát triển lành mạnh, ổn định và
vững chắc của các thành phần kinh tế. Những hành vi tiêu cực trong kinh doanh, gian
lận thương mại, buôn lậu,... là một thực tế khách quan mà chúng ta phải chấp nhận.
Do đó, những biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực tính thuế và hoàn thuế GTGT vẫn có
cơ sở để nảy sinh.
Hai là, những hạn chế của quy định về hoàn thuế GTGT dẫn đến sự lạm dụng
trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT. Bởi lẽ, việc tính thuế được tiến hành theo phương
pháp khấu trừ: “ Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào”.
Kết quả khấu trừ này có thể dương hay âm. Kết quả khấu trừ âm chính là cơ sở để
tính toán hoàn thuế - tức trả lại tiền từ quỹ hoàn thuế, cũng có nghĩa là từ NSNN, cho
các DN. Để được tính khấu trừ hay hoàn thuế, cả số thuế GTGT đầu ra, đầu vào đều

phải được căn cứ trên chứng từ, hoá đơn. Do vậy hiện nay, chứng từ, hoá đơn mà kế
toán Công TNHH Hoàng H sử dụng chính là công cụ trực tiếp để thực hiện hành vi
gian lận trốn thuế và thu lợi bất hợp pháp từ việc hoàn thuế-tức kê khai giá mua vào
cao hơn giá bán ra và được phù phép bằng con đường xuất khẩu khống. Với thuế suất
TTTĐB 70%, chi phí lắp ráp là 12.000.000 đồng/bộ, giá bán nội địa 18.000.000
đồng/bộ. Với cách khai khống bằng con đường xuất khẩu, thì không những Công ty
H được hoàn thuế mà không phải nộp cả phần thuế chi chi phí lắp ráp. Mặt khác, khái
niệm thuế GTGT đầu vào, thuế GTGT đầu ra và đặc biệt là thuế GTGT đầu ra bằng 0
đồng còn quá mới mẻ đối với người kinh doanh. Những điểm nói trên không chỉ mới
đối với người nộp mà đối với cả cơ quan thu thuế.
Ba là, thiếu công nghệ cần thiết phục vụ cho quá trình kiểm soát nghiêm ngặt
các lô hàng được hoàn thuế nên dẫn đến tình trạng đa số hoá đơn, chứng từ nằm
6


ngoài tầm kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước. Mặt khác, quy trình sử dụng
phương pháp truy xuất, đối chiếu chứng từ, hoá đơn hiện nay vẫn còn mang tính thủ
công. Do vậy, những hạn chế mà tình huống nêu được kế toán Công ty TNHH Hoàng
H sử dụng khá triệt để. Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn.
Thứ hai, những nguyên nhân chủ quan
Một là, số lượng biên chế đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay ở Chi cục thuế
Thành phố H vẫn còn quá ít, trong khi đó số lượng doanh nghiệp đã và đang hoạt
động rất lớn. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp mới xin phép hoạt động nên việc kiểm
soát một khối lượng hoá đơn rất lớn đã không thể đáp ứng được một cách chi tiết và
cụ thể. Từ sự quá tải này nên trong thực tế ở địa phương, ngay đối với các trường hợp
đã được hoàn thuế, tỷ lệ kiểm tra sau hoàn thuế hàng năm vẫn chưa đạt đến 30% số
doanh nghiệp đã được. Đại bộ phận cơ sở kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư
nhân không quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động kinh
doanh theo logic thô sơ. Nguy hiểm hơn là họ cho rằng sổ sách kế toán là công cụ của
cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản,

chứng từ,... là những phương tiện căn bản giúp họ tiếp cận hoạt động kinh doanh một
cách hệ thống để đánh giá, đo lường và phân tích kết quả kinh doanh cũng như dự
báo tương lai. Thêm nữa, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt. Mọi thanh
toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền Việt, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là đô
la Mỹ). Điều này được các doanh nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống;
đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện để ngăn chặn kịp thời.
Hai là, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện việc
kiểm tra quyết toán thuế còn nhiều yếu kém và hạn chế. Có thể thấy năng lực kiểm
tra của cán bộ Chi cục thuế thành phố H thông qua tình huống trên như: 3 lần liên
tiếp Công ty TNHH Hoàng H xin hoàn thuế mà không phát hiện ra, chỉ khi cán bộ
thuế Nguyễn Thị T tình cơ mua linh kiện, phụ kiện tại Công ty này mới phát hiện ra
những sai phạm của Công ty. Mặt khác, tình trạng về những biểu hiện tiêu cực của
một số nhân viên thuế thực hiện khi thực hiện kiểm tra quyết toán thuế nên khả năng
tiêu cực ở đây rất lớn. Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay
cho một số cá nhân ăn cắp tiền thuế. Chủ trương xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới
7


bị lợi dụng với sự tiếp sức của một vài cán bộ thuế biến chất. Để thu một tỷ đồng
thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế
nhưng chỉ cần hai ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều lần hơn trong
thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt doanh
nghiệp và dân chúng bị hoen ố.
Ba là, những yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng
và thói quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành, có nhiều trường hợp được quy
tội gian lận thuế không do chủ ý của cá nhân kinh doanh mà do hiểu không đúng các
quy định của thuế. Về phía người tiêu dùng, bản thân họ tiếp tay một cách vô ý cho
doanh nghiệp gian dối khi mua hàng không lấy hoá đơn. Hơn nữa họ cũng không có
động cơ giữ hoá đơn. Vì vậy, nếu được người bán đề nghị không lấy hoá đơn để khỏi
mất thêm 10% tiền thì họ đồng ý ngay.

Từ những đánh giá trên, đòi hỏi phải lựa chọn và xây dựng cách khắc phục các
nhược điểm nhằm hạn chế đến mức thấp nhấp những vi phạm trong lĩnh vực thuế nói
chung, trong kê khai hoàn thuế nói riêng.
III. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Tình huống trên cho phép mỗi cấp, ngành, cơ quan xây dựng cho mình phương
án giải quyết khác nhau. Song, nhìn chung tiểu luận nêu lên một số phương án giải
quyết cơ bản như:
3.1.Phương án 1: Tiến hành tuy tố, điều tra và kiên quyết trừng trị nghiêm
minh những hành vi vi phạm của Công ty TTHH Hoàng H
*Mục tiêu của phương án: Có tác dụng răn đe, trừng trị và giáo dục những
hành vi vi phạm nói chung và của Công ty H nói riêng.
*Nội dung chính của phương án:
-Có văn bản yêu cầu cơ quan điều tra tội phạm về kinh tế thành phố H vào
cuộc để tiến hành điều tra về những vi phạm của Công ty H.
-Tiến hành xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm này.
*Nguồn lực để thực hiện phương án.
-Chi phí cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là nguồn kinh phí nằm trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ “tố tụng hình sự” của Nhà nước nên không tốn kém.
8


-Sử dụng công cụ pháp luật hình sự và biện pháp hình sự là cơ sở để đảm bảo
phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
-Cơ quan tiến hành hoạt động tố tụng được xác định theo quy định của Luật tố
tụng hình sự năm 2004, bao gồm: cơ quan điều tra, cơ quan viện kiểm sát, cơ quan
toà án và cơ quan thi hành án.
3.2. Phương án 2: Hoàn thiện các quy định của Luật thuế giá trị gia tăng hiện
nay
*Mục tiêu của phương án: Nhằm xây dựng một khung khổ pháp lý đủ mạnh,
thống nhất và phù hợp tránh việc lợi dụng các kẽ hở, mâu thuẫn của Luật để trục lợi

gây thất thoát ngân sách nhà nước.
*Nội dung chính của phương án:
-Tiến hành rà soát, đánh giá và phân tích các quy định hiện hành nhằm phát
hiện những mâu thuẫn, chồng chéo và thiếu hợp lý.
-Tiến hành làm văn bản trình cấp có thẩm quyền theo quy định của Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004.
*Nguồn lực chính để thực hiện phương án:
-Chi phí cho rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật về thuế giá trị
gia tăng ở nước ta hiện nay rất tốn kém vì phải thuê các chuyên gia có kinh nghiệm.
-Sử dụng phương pháp nghiên cứu Luật, nghiên cứu hành chính để làm sáng tỏ
các nội dung đặt ra.
-Cơ quan chủ trì là Uỷ ban nhân dân thành phố H, và những chuyên gia được
hợp đồng để thực hiện nội dung.
-Thời gian thực hiện phương án ít nhất phải mất 3 tháng.
3.3. Phương án 3: Tiến hành thanh tra kiểm tra theo quy trình hành chính để xử
lý vi phạm của Công ty TNHH Hoàng H
*Mục tiêu của phương án: Nhằm làm sáng tỏ hành vi vi phạm trong lĩnh vực
thuế để kợp thời truy thu thuế cho Nhà nước.
* Nội dung chính của phương án:
9


-Tiến hành thanh tra kiểm tra Công ty TNHH Hoàng H theo đúng quy định tại
Quyết định số 1166/2005/QĐ-TCTC ngày 31/10/2005 của Tổng cục trưởng Tổng
Cục thuế về việc ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp để xác định
những hành vi vi phạm cụ thể về hoá đơn, chứng từ, sổ sách của Công ty H.
-Tiến hành xử lý vi phạm hành chính theo quy định của các văn bản, như: Pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính[2] và những văn bản hướng dẫn xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thuế như: Nghị định của Chính phủ số 185/2004/NĐ-CP

ngày 04/11/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán; Nghị định số
98/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007 của Chính phủ, quy định về xử lý vi phạm pháp
luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;Thông tư của Bộ Tài
chính số 41/2004/TT-BTC ngày 18/05/2004 hướng dẫn thi hành Nghị định số
100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thuế;...
*Nguồn lực chính để thực hiện phương án
-Chi phí cho quá trình thanh tra, kiểm tra được xác định theo quy trình thanh
tra, kiểm tra đột xuất nên chi phí thường không lớn.
-Sử dụng công cụ pháp luật hành chính và biện pháp hành chính, biện pháp
nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra để làm sáng tỏ hành vi vi phạm trên.
-Cơ quan tiến hành: Thủ trưởng Chi cục thuế; cán bộ, nhân viên thu và hoàn
thuế giá trị gia tăng; các cơ quan có liên quan phải tham gia và được mời tham gia.
-Thời gian để thực hiện phương án: từ 15 đến 30 ngày.
IV. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Trên đây là 03 phương án cơ bản mà tiểu luận đưa ra, mỗi phương án đều có
những ưu điểm, nhược điểm nhất định. Để lựa chọn được phương án tối ưu để giải
quyết trong tình huống này, có thể xem xét qua bảng so sánh sau:
PHƯƠNG

ƯU ĐIỂM

NHƯỢC ĐIỂM

ÁN
Phương án 1 -Có tác dụng không chỉ trừng trị -Không có căn cứ để khởi tố
hành vi vi phạm của Công ty Hvụ án hình sự nên rất khó để
mà còn có tác dụng giáo dục, răncơ quan điều tra có thể vào
10



đe các hành vi vi phạm về thuếcuộc
của các doanh nghiệp khác trên-Thời gian tiến hành lâu vì
địa bàn.

phải trải qua nhiều cơ quan,

-Có tính khả thi cao vì chỉ có thểcông đoạn theo đúng trình tự
sử dụng các biện pháp nghiệp vụthủ tục tố tụng hình sự.
điều tra để làm rõ được hành vi
vi phạm
-Ít tốn kém nguồn lực.
-Xây dựng được một hệ thống cơ-Tốn kém nguồn kinh phí
sở pháp lý nhằm đảm bảo cho-Thời gian thực hiện lâu
mọi hoạt động của doanh nghiệp
Phương án 2 diễn ra công bằng, lành mạnh.
-Đảm bảo cho mục tiêu, chính
sách của Đảng và Nhà nước phát
huy được hiệu quả trong thực tế.
-Là phương án nhằm thực hiện-Phụ thuộc vào ý chí chủ quan
chức năng, nhiệm vụ và thẩmcủa Thủ trưởng cơ quan thuế
quyền của cơ quan hành chínhvà cán bộ, công chức thuế
Nhà nước nên thái độ, ý thức vàtham gia.
Phương án 3

trách nhiệm rất cao.

-Cần có sự đồng thuận của

-Có tác dụng trực tiếp trong việcnhiều chủ thể như: công an,

xử lý hành vi vi phạm của CôngUỷ ban nhân dân, Chính trị xã
ty H theo đúng quy định của hội và nhân dân,..
pháp luật hiện hành.

-Ít tốn kém chi phí
Qua những so sánh trên, tiểu luận xác định phương án 3 là phương án tối ưu để
giải quyết tình huống này. Bởi lẽ, nếu sử dụng phương án 1 còn thiếu căn cứ nên dễ
có thể bị bỏ qua mà không thể xử lý được hành vi vi phạm còn nếu sử dụng phương
án 3 thì thời gian, nhân lực cần nhiều nên chỉ có thể là biện pháp lâu dài mà không
thể giải quyết trực tiếp tình huống cụ thể. Do vậy, phương án 3 là phương án phù hợp
nhất với tình huống và các quy định hiện hành của pháp luật nước ta.
11


V. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
5.1.Giải pháp tổ chức thực hiện phương án tối ưu
Để thực hiện được phương án 3 (phương án mà tiểu luận lựa chọn) cần phải
tiền hành các bước cơ bản sau:
-Bước 1: Chi cục Trưởng Chi cục thuế thành phố H ra Quyết định tiến hành
thanh tra, kiểm tra đột xuất Công ty TNHH H. Trong quyết định này xác định thời
gian, địa điểm, tổ chức, cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành cụ thể theo quy định.
Thời gian ban hành Quyết định này là 01 ngày.
-Bước 2: Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ, thẩm quyền tiến hành
thực hiện thanh tra, kiểm tra đột xuất Công ty TNHH H thời gian tiến hành 02 ngày.
Quá trình thanh tra, kiểm tra cần có biên bản xác định vi phạm dự kiến mức xử lý
theo quy định hiện hành của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính và các văn bản
hướng dẫn khác.
-Bước 3: Chi cục Trưởng Chi Cục thuế tiến hành mời đại diện hợp pháp của
Công ty TNHH đến cơ quan để xem xét giải quyết. Thời gian tiến hành 01 ngày (trừ
trường hợp Công ty không đến).

-Bước 4: Chi cục Trưởng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Thời gian
tiến hành 01 ngày và chuyển Quyết định đến các cơ quan có liên quan và Công ty
TNHH Hoàng H.
-Bước 5: Tổ chức thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Thời gian
01 ngày. Trong trường hợp phải cưỡng chế thì thời gian từ 2 đến 3 ngày để làm các
thủ tục cần thiết.
5.2.Một số kiến nghị
Để góp phần hoàn thiện giải pháp tối ưu trong tính thống nhất biện chứng của
nó nhằm phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tiểu luận mạnh dạn nêu lên
một số kiến nghị cơ bản như sau:
* Đối với Trung ương
-Sớm kiện toàn hệ thống văn bản về thuế và các quy định liên quan đến quản lý
và xử lý vi phạm về thuế. Chính phủ, cần tổng kết, đánh giá và nghiên cứu làm tờ
trình Quốc hội trong kỳ họp gần nhất hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội để xem xét
12


sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng theo hướng thu hẹp
khoảng cách các mức thuế suất; cho phép doanh nghiệp tự in và chịu trách nhiệm về
hoá đơn của mình;...
-Các bộ và cơ quan ngang bộ, trong phạm vi trách nhiệm của mình cần nghiên
cứu, tổng kết và rút kinh nghiệm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn các quy định về thuế và quản lý thuế ở địa phương. Chủ động phân cấp,
tạo điều kiện cho UBND và cơ quan thuế ở địa phương phát huy tính sáng tạo và
nghiệp vụ của mình trong quản lý hiệu quả đối với các doanh nghiệp đóng trên địa
bàn.
* Đối với địa phương
-Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về thuế cho mọi đối tượng
trên địa bàn bằng nhiều kênh và hình thức khác nhau. Trong đó, cần tập trung tuyên
truyền vào đối tượng doanh nghiệp và người tiêu dùng để họ có ý thức trong việc

chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật.
-Nên Chi cục thuế thành phố H cần chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc chuyển
các hộ kinh doanh nhỏ ra khỏi diện chịu thuế GTGT để quá trình vận hành của thuế
thông suốt và sử dụng duy nhất một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ.
-UBND chỉ đạo các cơ quan ra khuyến cáo nhằm khuyến khích cá nhân đòi hoá
đơn khi mua hàng. Có thể khẳng định rằng hoá đơn là khâu then chốt bảo đảm thành
công khi áp dụng thuế GTGT. Do đó, cần xây dựng các hình thức và biện pháp nhằm
khuyến khích người tiêu dùng lấy hoá đơn khi mua hàng.
KẾT LUẬN
Tóm lại, thuế và công tác quản lý thuế của cơ quan, người có thẩm quyền có ý
nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Một mặt, nó phần phần hoàn thiện lý luận
về khoa học quản lý tài chính công, quản lý nhà nước hiệu quả,... Mặt khác, nó chính
là nguồn quan trọng để bổ sung vào ngân sách nhà nước góp phần tạo nguồn lực để
đáp ứng các dịch vụ công cho xã hội công dân. Do vậy, cần phải có lộ trình, giải pháp
và những bước đi thích hợp để kiện toàn, hoàn thiện và xây dựng mới từ cơ chế, quy
định, đến nguồn lực nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động quản lý nhà nước về thuế ở
địa phương đúng hướng, đạt được mục tiêu đã đặt ra. Đồng thời, cần chủ động phát
13


huy hơn nữu tính năng động, sáng tạo của mỗi cán bộ, công chức góp phần lành
mạnh hoá, trong sách hoá công tác quản lý thuế trong điều kiện hội nhập sâu rộng
kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính, Quyết định 146 ngày 4/12/2002, về điều chỉnh thuế suất thuế
nhập khẩu đối với một số mặt hàng trong đó chủ yếu là linh kiện sản xuất ôtô chưa
đầy một tháng đã bị ngừng thực hiện.
2. Bộ tài Chính, Quyết định số 189/2003/QĐ-BTC ngày 14/11/2003, quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục thuế trực thuộc Tổng cục

Thuế.
3. Bộ Tài chính, Thông tư số 41/2004/TT-BTC ngày 18/05/2004, hướng dẫn thi
hành Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 của Chính phủ quy định về
việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
4. Bộ Tài chính, Quyết định số 3483/QĐ-BTC ngày 7/10/2005, về việc mở
rộng thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh.
5. Chính phủ, Nghị định số 185/2004/NĐ-CP ngày 04/11/2004, về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán.
6. Chính phủ, Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007, quy định về xử
lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
7. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 197/2003/QĐ-TTg ngày 23/9/2003, về
việc thí điểm thực hiện cơ chế cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế.
8. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 218/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003,
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế trực
thuộc Bộ Tài chính.
9. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg ngày 6/12/2004, về
việc phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010.
14


10. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 161/2005/QĐ-TTg ngày 30/6/2005,
về việc mở rộng thí điểm cơ sở sản xuất kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế đối với
thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất trong nước; thuế tài nguyên; thuế nhà, đất; thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao và thuế môn bài.
11. Quốc hội, Luật thanh tra, được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004.
12. Quốc hội, Luật thuế giá trị gia tăng, được Quốc hội thông qua ngày
03/6/2008.
13. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, ngày
16/7/2002.


15



×