Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề thủ công truyền thống ở Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.95 KB, 140 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG.................................................................................
MỞ ĐẦU............................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài..................................................................................
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.....................................................................
2.1. Các công trình nghiên cứu về nghề thủ công truyền thống Thanh Hóa....5
2.2. Các công trình nghiên cứu về vấn đề phát huy giá trị của các làng nghề
thủ công truyền thống ở Thanh Hóa................................................................7
3. Mục tiêu nghiên cứu.......................................................................................
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................
4.1. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................8
4.2. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................8
5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng............................
5.1. Cách tiếp cận đề tài...................................................................................9
5.2. Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng............................................10
6. Đóng góp của đề tài......................................................................................
6.1. Về lý luận................................................................................................10
6.2. Về thực tiễn.............................................................................................11
7. Bố cục của đề tài...........................................................................................
CHƯƠNG 1......................................................................................................
1.1. Một số khái niệm liên quan đến làng nghề thủ công truyền thống............
1.1.1. Nghề truyền thống...............................................................................12
1.1.2. Làng nghề thủ công truyền thống........................................................13
1.1.3. Giá trị làng nghề thủ công truyền thống..............................................18
1.2. Quan điểm về bảo tồn và phát huy giá trị của làng nghề thủ công
truyền thống......................................................................................................
1.3. Bài học kinh nghiệm bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề thủ công
truyền thống trong và ngoài nước.....................................................................
1.3.2. Bài học kinh nghiệm từ một số địa phương trong nước......................30
CHƯƠNG 2......................................................................................................
KHÁI QUÁT VỀ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG................


Ở THANH HÓA...............................................................................................
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hoá tác
động đến sự phát triển làng nghề......................................................................
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên................................................................................40
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội.....................................................................42
1


2.1.3. Tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đối với sự phát triển
làng nghề thủ công ở Thanh Hóa...................................................................43
2.2. Đặc điểm của làng nghề thủ công truyền thống ở Thanh Hóa...................
2.2.1. Đặc điểm về điều kiện hình thành........................................................44
2.2.2. Đặc điểm về số lượng, loại hình..........................................................45
2.2.3. Đặc điểm về lịch sử hình thành và phát triển.......................................46
2.2.4. Đặc điểm về mối quan hệ với nông nghiệp và thương nghiệp............49
2.2.5. Đặc điểm về tổ chức hoạt động và trình độ sản xuất...........................51
2.3. Một số làng nghề thủ công tiêu biểu ở Thanh Hóa....................................
CHƯƠNG 3......................................................................................................
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG Ở THANH HÓA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...................................................................
3.1. Thực trạng làng nghề thủ công truyền thống ở Thanh Hóa.......................
3.2. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của làng nghề
thủ công truyền thống Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay............................
3.3. Một số giải pháp bảo tồn, phát triển làng nghề thủ công truyền
thống ở Thanh Hóa.........................................................................................
KẾT LUẬN.....................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................
PHỤ LỤC.......................................................................................................


2


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Số lượng, loại hình nghề, làng nghề ở Thanh Hóa tính đến tháng
11/2015
Bảng 3.2: Những làng nghề thủ công truyền thống đã được công nhận tính
đến tháng 11 năm 2015
Bảng 3.3: Bảng 3.3: Phân bố nghề, làng nghề đã được công nhận trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa đến tháng 11/2015
Bảng 3.4: Tổng hợp cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề truyền thống
trên địa bàn tỉnh (tính đến tháng 11 năm 2015)
Bảng 3.5: Số lượng lao động các nhóm làng nghề thủ công truyền thống (tính
đến tháng 11/2015)
Bảng 3.6: Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Thanh Hóa, do đặc điểm về điều kiện tự nhiên và lịch sử, văn hóa, các
nghề và làng nghề thủ công, các trung tâm sản xuất, chế tác được hình thành từ
rất sớm. Theo kết quả thống kê bước đầu, Thanh Hóa có gần 500 làng có nghề,
trong đó có 127 làng nghề với 59 làng nghề đã được công nhận. Trong số 59
làng nghề đã được công nhận có 41 làng nghề truyền thống. Nhiều làng nghề
có lịch sử lâu đời và nổi tiếng trên cả nước, như chế tác đá An Hoạch (TP.
Thanh Hóa), gốm Lò Chum (TP. Thanh Hóa), đúc đồng Trà Đông (Thiệu Hóa),
dệt nhiễu Hồng Đô (Thiệu Hóa); chiếu cói Nga Sơn; bánh gai Tứ Trụ (Thọ
Xuân); nước mắm Do Xuyên (Tĩnh Gia); rèn Tất Tác (Hậu Lộc), mộc Đạt Tài

(Hoằng Hóa), dệt xăm súc (Sầm Sơn), làm nem chua (TP Thanh Hóa)… Ở
vùng trung du, miền núi có nghề dệt thổ cẩm, đan lát…
Mỗi sản phẩm của làng nghề được gắn với một địa danh văn hóa truyền
thống, được bàn tay khéo léo, tài hoa của các nghệ nhân tạo nên và được coi là
biểu tượng của cái đẹp mang đặc trưng văn hoá truyền thống dân tộc, bản địa
được lưu giữ qua một quá trình dài lâu.
Nghề và làng nghề truyền thống đã góp phần tạo dựng bản sắc văn hoá
xứ Thanh, đóng góp vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, nhất là
đối với các vùng nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, làng nghề truyền thống là
đặc điểm góp phần vào sự phân công lao động trong nền kinh tế nông nghiệp
truyền thống Việt Nam thành ba ngành công - nông - thương nghiệp. Cơ cấu
kinh tế này đã thực sự tạo cho làng xã Thanh Hóa nói riêng và làng xã Việt
Nam nói chung có thể ổn định lâu dài, vững chắc. Vì vậy, trong xu thế hội nhập
kinh tế và văn hoá giữa các nước ngày càng phát triển, việc bảo tồn và phát
triển các đặc trưng văn hoá của một vùng, một quốc gia là điều vô cùng quan
trọng, nó vừa giữ gìn và phát triển giá trị truyền thống của dân tộc để "hoà nhập
quốc tế nhưng không hoà tan", vừa góp phần tích cực tạo động lực thúc đẩy
xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho dân cư và đổi mới bộ mặt nông
thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đặc biệt, những giá trị và vẻ đẹp hiện
thực của các làng nghề như cảnh quan, sinh thái, cuộc sống lao động sản xuất
(làm nghề) và sinh hoạt thường ngày của người dân; các công trình văn hoá,
4


lịch sử; các lễ hội;... trở thành những yếu tố hấp dẫn và kích thích sự khám phá,
để mời gọi du khách, do vậy là yếu tố thúc đẩy du lịch làng nghề hình thành và
phát triển. Mặt khác, phát triển du lịch làng nghề lại là yếu tố thúc đẩy các làng
nghề phát triển hơn.
So với các địa phương khác trong cả nước, làng nghề truyền thống của

Thanh Hóa nhiều về số lượng, nhưng chưa mạnh về thương hiệu, quy mô nhỏ,
phân tán. Trải qua những thăng trầm của lịch sử và sự canh tranh của những
loại vật liệu mới, công nghệ mới khiến nhiều làng nghề ở Thanh Hóa không thể
trụ vững và có nguy cơ bị mai một, thất truyền. Kinh tế làng nghề ở Thanh Hóa
vẫn mang nét cục bộ, được duy trì thông qua việc nối truyền của các thế hệ,
dựa trên đúc rút kinh nghiệm là chủ yếu. Bên cạnh đó, sản phẩm làng nghề
chưa thể vươn ra thị trường trong nước và quốc tế, do đó hiệu quả kinh tế còn
thấp. Cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa chưa có một làng nghề truyền
thống nào trở thành điểm du lịch nổi tiếng hấp dẫn du khách.
Đề tài "Nghiên cứu các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề thủ
công truyền thống ở Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay" là một đề tài mới, có
sự kế thừa song không trùng lặp với các công trình đã công bố.
Vì những lý do trên, việc nghiên cứu để đề xuất những giải pháp có tính
khoa học và khả thi nhằm phát huy giá trị lịch sử - văn hoá của làng nghề thủ
công truyền thống ở các địa phương nói chung, Thanh Hóa nói riêng trong giai
đoạn hiện nay là vấn đề bức thiết, góp phần "xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc" như Nghị quyết Trung ương V khoá VIII đã chỉ rõ.
Đồng thời, việc thực hiện đề tài sẽ góp phần thực hiện Chương trình Phát triển
du lịch - là một trong 5 chương trình trọng tâm của Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Các công trình nghiên cứu về nghề thủ công truyền thống Thanh Hóa
Trong thời kỳ Pháp thuộc, một số học giả Pháp đã quan tâm đến vấn đề
văn hóa tộc người xứ An Nam. Charles Robequain trong cuốn Tỉnh Thanh Hóa
(Le Thanh Hoa) (Nxb Thanh Hóa, 2012) đã dành một chương (chương IV: Thợ
thủ công) để khảo cứu các nghề thủ công chính (nghề dệt, đan lát, mộc, luyện
kim, đẽo đá, gốm) và các nghề thứ yếu (làm gạch, nung vôi, chế biến thực
phẩm, đan quạt, làm đồ thờ, làm trang sức) ở Thanh Hóa. Tuy các thông tin về
các làng nghề còn sơ lược và tản mạn do đặc trưng cuốn sách mang tính chất
tổng quan về tỉnh Thanh Hóa nhưng lại là những ghi chép thực tế và bước đầu

đưa ra nhận định về sự phát triển và vai trò kinh tế - xã hội của các nghề thủ
5


công đối với cộng đồng dân cư trong bối cảnh đầu thế kỷ XX. Vì vậy, đây là
những tư liệu quý trong nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển các làng
nghề thủ công ở Thanh Hóa.
Đáng kể là các nhà nghiên cứu Thanh Hóa đã có nhiều công trình nghiên
cứu, giới thiệu về nghề thủ công.
Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa đã biện soạn bộ sách
Nghề thủ công truyền thống tỉnh Thanh Hóa gồm 4 tập (Nxb Thanh Hóa, 1999,
2001, 2003, 2009). Công trình này tập hợp 83 bài viết của nhiều tác giả về
những nghề thủ công tiêu biểu ở Thanh Hóa. Các bài viết đã cố gắng thể hiện
được các giá trị lịch sử, văn hóa và kinh tế - xã hội của các nghề và làng nghề.
Trong lời nói đầu của bộ sách, Ban biên soạn đã nhận định "Đây chỉ là bước
đầu, vì vậy những nghề và làng nghề truyền thống được nêu trong tập sách này
không xuất phát từ một tiêu chí lựa chọn chuyên môn hay một tiêu chí nào
khác. Các tác giả thấy nghề nào có thể tạm đủ tư liệu, đủ cơ sở chứng cứ thì
tiến hành biên soạn". Đây là nguồn tư liệu quan trọng để thực hiện đề tài.
Bộ Địa chí tỉnh Thanh Hóa (tập I, II, III, IV) do Tỉnh ủy - Hội đồng nhân
dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa tổ chức biên soạn (Nxb Văn hóa Thông
tin, 2002, 2010, 2015), đã cung cấp tư liệu về các vùng nguyên liệu cho các
làng nghề thủ công ở Thanh Hóa, giới thiệu khái quát nghề thủ công truyền
thống ở các địa phương và sơ lược về một số ông tổ nghề, sự hình thành và
phát triển của một số nghề thủ công truyền thống. Đây là nguồn chỉ dẫn thông
tin để thực hiện đề tài.
Bên cạnh Địa chí tỉnh Thanh Hóa, các huyện, xã trong những năm qua đã
tổ chức biên soạn một hệ thống địa chí phong phú, trong đó nghề thủ công
truyền thống của địa phương là một nội dung quan trọng được đề cập đến.
Cuốn Làng nghề thủ công và làng khoa bảng thời phong kiến ở đồng

bằng sông Mã (Nxb Từ điển bách khoa, 2009) của tác giả Hà Mạnh Khoa. Các
làng nghề thủ công được nghiên cứu, khảo tả trong công trình này là: nghề
chạm khắc đá ở An Hoạch (huyện Đông Sơn), nghề đúc đồng ở làng Trà Đông
(huyện Thiệu Hóa), nghề dệt ở làng Phú Khê (huyện Hoằng Hóa). Trong công
trình này, tác giả đã đưa ra nhận định khái quát về sự hình thành và phát triển
của các nghề, làng nghề thủ công ở đồng bằng sông Mã. Đối với từng nghề cụ
thể, tác giả đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của làng nghề, lực
lượng và công cụ chế tác, phương pháp khai thác nguyên liệu, phương pháp, kỹ
thuật chế tác, những sản phẩm tiêu biểu, quần thể di tích liên quan.

6


Một số công trình, bài viết đề cập đến nghề, làng nghề thủ công cụ thể
như: Các tác giả Phạm Văn Đấu, Trần Thị Liên, Lê Thị Thảo... nghiên cứu về
nghề chế tác đá An Hoạch; tác giả Phạm Văn Kính có bài viết về nghề gốm ở
Lò Chum; tác giả Vũ Văn Tuyến có bài viết về nghề đúc đồng Trà Đông... Tuy
nhiên, số lượng bài viết chuyên sâu so với sự phong phú của hệ thống làng
nghề thủ công truyền thống ở Thanh Hóa còn ít ỏi.
2.2. Các công trình nghiên cứu về vấn đề phát huy giá trị của các làng nghề
thủ công truyền thống ở Thanh Hóa
Các làng nghề thủ công truyền thống có tiềm năng trong phát triển kinh
tế - xã hội, do vậy đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề phát huy giá trị của
các làng nghề thủ công truyền thống nói chung.
Năm 1996, Bộ Công nghiệp và Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp
quốc đã tổ chức Hội thảo quốc tế về Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền
thống Việt Nam ở Hà Nội. Trong hội thảo này, các tác giả đã phân tích một số
vai trò của làng nghề đối với phát triển kinh tế xã hội và bước đầu đề xuất giải
pháp thực hiện.
Năm 2003, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD) Việt Nam

và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã công bố công trình Nghiên cứu
quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông thôn Việt Nam, Trung tâm PTQT Nhật Bản và công ty ALMEC
phát hành.
Một số tác giả cũng đã xuất bản sách chuyên khảo về vấn đề này như:
Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển làng nghề trong quá trình
CNH, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Mai Thế Hởn (chủ biên) (2003), Phát
triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Phúc (2004), Công nghiệp nông
thôn Việt Nam thực trạng và giải pháp phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
Một số luận văn Thạc sỹ cũng đề cập đến vấn đề này, như: Đỗ Quang
Dũng (1997), Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển làng nghề truyền
thống trong quá trình CNH, HĐH nông thôn Hà Tây, Luận án Thạc sỹ kinh tế,
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội; Nguyễn Trọng Tuấn (2006), Nghề truyền
thống trên địa bàn Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn
thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Trần Minh
Yến (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá

7


trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Tuy không trực tiếp đề cập đến vấn đề phát huy giá trị của làng nghề thủ
công ở Thanh Hóa nhưng những công trình trên góp phần định hướng phương
pháp tiếp cận vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Năm 2003, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã ban hành Nghị quyết số 03 - NQ/TU
về phát triển ngành nghề, TTCN. Năm 2006, Sở Công nghiệp Thanh Hóa xây
dựng đề án phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp Thanh Hoá giai đoạn

2006-2010, định hướng đến 2015 và tổ chức Hội thảo khoa học Xây dựng quy
hoạch phát triển mạng lưới cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ
Thanh Hoá thời kỳ 2002- 2010. Các tài liệu này đã đề cập khái quát đến hệ
thống nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh, tuy nhiên, chủ yếu khai
thác ở góc độ sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế.
Tóm lại, từ việc đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về các làng
nghề thủ công truyền thống ở Thanh Hóa và việc bảo tồn, phát huy giá trị của
chúng, chúng tôi thấy rằng, đề tài Nghiên cứu các giải pháp bảo tồn, phát huy
giá trị làng nghề truyền thống Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay là một đề
tài mới, có sự kế thừa song không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu được giá trị của làng nghề thủ công Thanh Hóa;
- Đánh giá được thực trạng làng nghề thủ công Thanh Hóa;
- Đề xuất được giải pháp phát huy giá trị làng nghề thủ công Thanh Hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các làng nghể thủ công truyền thống
ở Thanh Hóa hiện đang còn tồn tại, đặc biệt tập trung vào những làng nghề nổi
tiếng, có các sản phẩm độc đáo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian của đề tài giới hạn trong địa bàn tỉnh Thanh Hóa
hiện nay, là một tỉnh có địa giới ổn định trong suốt chiều dài lịch sử, có đầy đủ
các dạng địa hình: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Các nghề thủ công
truyền thống ở Thanh Hóa trải khắp các khu vực đó, tuy nhiên tập trung chủ
yếu ở vùng đồng bằng, ven lưu vực các con sông lớn, đặc biệt là sông Mã và
sông Chu, do vậy phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng tập trung nghiên cứu khu
vực này.

8



- Phạm vi thời gian của đề tài hướng tới nghiên cứu những làng nghề thủ
công truyền thống đang còn hiện hữu đến hiện tại. Tuy nhiên, do giới hạn của
thời gian khảo sát, nghiên cứu thực tế, các thông tin, số liệu được cập nhật đến
thời điểm tháng 11 năm 2015. Các làng nghề thủ công truyền thống cũng được
xác định là các làng nghề đã xuất hiện ít nhất cách ngày nay 50 năm.
5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng
5.1. Cách tiếp cận đề tài
Cách tiếp cận đề tài theo 3 quan điểm nghiên cứu sau đây:
- Quan điểm thực tiễn
+ Nghiên cứu làng nghề thủ công truyền thống ở Thanh Hóa, nhất là
nghiên cứu những giá trị lịch sử - văn hóa của chúng phải đặt trong bối cảnh
hiện nay. Cách tiếp cận này giúp cho người nghiên cứu tập trung tìm hiểu
những giá trị phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thế giới, tránh tình
trạng quá đi sâu vào những yếu tố đã từng được coi là “giá trị” nhưng không
còn phù hợp với cuộc sống hiện đại.
+ Chỉ nghiên cứu, tìm hiểu các làng nghề đang còn hiện hữu, nhất là
những làng nghề đang thu hút được nhiều nhân công và có đóng góp cho kinh
tế - xã hội địa phương. Đồng thời đề tài chỉ nghiên cứu về những làng nghề thủ
công truyền thống, những làng nghề được hình thành cách ngày nay ít hơn 50
năm không được đề cập bởi giá trị và vai trò của chúng đối với cộng đồng dân
cư cần có thêm thời gian để khẳng định.
+ Các giải pháp phát huy giá trị của làng nghề ở Thanh Hóa phải phù hợp
với đặc điểm, tình hình cụ thể của địa phương, cũng như phong tục, tập quán
của cộng đồng dân cư.
- Quan điểm lịch sử
+ Tôn trọng và phản ánh khách quan những đặc điểm lịch sử của làng
nghề truyền thống, tránh hiện đại hóa những yếu tố có tính chất lịch sử của
làng nghề.
+ Kế thừa kết quả nghiên cứu về làng nghề truyền thống ở Thanh Hóa

của những nhà khoa học đi trước, đồng thời đưa ra những kết quả nghiên cứu
mới.
- Quan điểm hệ thống - lôgic
+ Nghiên cứu làng nghề thủ công truyền thống ở Thanh Hóa trong tổng
hể hệ thống làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, bên cạnh những đặc
điểm chung, cần làm rõ những đặc trưng riêng của nghề thủ công truyền thống
Thanh Hóa.
9


+ Nội dung nghiên cứu phải đảm bảo trình tự logic: Khảo sát, thống kê
hệ thống làng nghề thủ công truyền thống ở Thanh Hóa - Nhận diện những giá
trị đặc biệt, một số làng nghề tiêu biểu - Đánh giá thực trạng - Đề xuất giải
pháp bảo tồn và phát huy giá trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng
* Phương pháp luận
Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam và Tư tưởng Hồ
Chí Minh làm cơ sở lý luận để tiếp cận, phân tích, đánh giá một cách khoa học
và khách quan các vấn đề nghiên cứu của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Vận dụng phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành để giải quyết các
nội dung của đề tài: Sử học, Địa lý, Văn học, Dân tộc học, Khảo cổ học, Xã hội
học, Kinh tế học, Khoa học quản lý… Các phương pháp được sử dụng linh hoạt
nhằm đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
* Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thu tập tư liệu và tổ chức nghiên cứu, tập thể tác giả sẽ
thường xuyên tranh thủ ý kiến, trao đổi của các nhà khoa học chuyên sâu.
Tổ chức hội thảo để thảo luận các nội dung liên quan đến đề tài.
* Phương pháp thu thập, thống kê và phân tích tài liệu

Tổ chức thu thập, tập hợp, thống kê, phân loại, đánh giá các nguồn tài
liệu liên quan đến hệ thống làng nghề thủ công truyền thống ở Thanh Hóa đang
được lưu giữ trong các thư viện, kho lưu trữ, phòng tư liệu và trong cộng động
dân cư trên phạm vi cả nước.
Tiến hành các đợt điền dã, khảo sát hệ thống làng nghề thủ công truyền
thống ở các địa phương trong tỉnh; từ đó lập bảng thống kê tổng hợp theo
những tiêu chí đề ra.
Tổ chức thu thập thông tin về thực trạng làng nghề thủ công truyền thống
ở Thanh Hóa.
*Sử dụng phương tiện kỹ thuật:
Máy ảnh, máy quay camera, máy ghi âm... trong điều tra, khảo sát, thu
thập tài liệu.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về lý luận
- Góp phần làm rõ hệ thống lý luận khoa học về nghề và làng nghề thủ
công truyền thống ở Thanh Hóa.
10


- Cung cấp và bổ sung hoàn thiện giá trị của hệ thống nghề, làng nghề ở
Thanh Hóa, đặc trưng của một số nghề, làng nghề tiêu biểu.
- Cung cấp luận điểm khoa học để quy hoạch nghề và làng nghề thủ công
truyền thống trong bối cảnh hiện nay.
6.2. Về thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cung cấp luận cứ khoa học
và thực tiễn về phát huy giá trị của làng nghề thủ công truyền thống ở Thanh
Hóa trong bối cảnh hiện nay.
- Là tài liệu tham khảo cho giảng viên và sinh viên giảng dạy chuyên
ngành Quản lý văn hóa, Văn hóa - Du lịch tại trường Đại học VH,TT&DL
Thanh Hóa.

7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và khai thác giá trị của
làng nghề truyền thống
Chương 2: Khát quát về làng nghề thủ công truyền thống Thanh Hóa
Chương 3: Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị của làng
nghề thủ công truyền thống ở Thanh Hóa trong giai đoạn hiện
nay

11


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO TỒN VÀ KHAI THÁC
GIÁ TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến làng nghề thủ công truyền thống
1.1.1. Nghề truyền thống
Theo từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ Việt Nam), nghề là công việc
hằng ngày làm để sinh nhai. Một cách khái quát, có thể hiểu “nghề” là một lĩnh
vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được
những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh
thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Nghề thủ công là những nghề được tiến chủ yếu dùng sức lao động của
con người và công cụ thô sơ, ít có sự can thiệp của máy móc hiện đại.
Truyền thống là thuật ngữ dùng để chỉ các giá trị, yếu tố, quan niệm của
một cộng đồng người hay của xã hội lưu giữ trong một thời gian dài từ thế hệ
này qua thế hệ khác. Truyền thống biểu hiện tính kế thừa là chủ yếu tuy nhiên
cũng có sự phát triển theo lịch sử.
Nghề thủ công truyền thống là những nghề thủ công được hình thành,

tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được sản xuất tập trung tại một vùng
hay một làng nào đó và được lưu truyền từ đời này qua đời khác (truyền nghề),
lưu giữ kỹ thuật sản xuất (bí quyết nghề nghiệp), đúc kết kinh nghiệm. Nghề
truyền thống thường được lưu giữ trong một gia đình, một dòng họ, một làng,
một vùng.
Theo quy định hiện hành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
một nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đảm bảo ba tiêu chí sau:
1. Đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm được
công nhận.
2. Tạo ra sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc.
3. Gắn với tên tuổi của một hoặc nhiều nghệ nhân hoặc tên của một làng
nghề.
Còn theo TS. Trần Minh Yến: Nghề truyền thống bao gồm những nghề
tiểu thủ công nghiệp xuất hiện từ lâu trong lịch sử, được truyền từ đời này qua
đời khác còn tồn tại đến ngày nay, kể cả những nghề đã được cải tiến hoặc sử
dụng những loại máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công

12


nghệ truyền thống, và đặc biệt sản phẩm của nó vẫn thể hiện những nét văn hóa
đặc sắc của dân tộc [55; tr.21].
Việc phân loại các nhóm nghề truyền thống không phải là dễ vì một số
nghề có thể được coi là ở nhóm này song cũng có thể vừa thuộc cả nhóm khác.
Có nhiều cách phân loại khác nhau nhưng chúng cũng chỉ mang tính chất tương
đối.
Dựa vào giá trị sử dụng của sản phẩm, còn có thể phân loại các ngành
nghề truyền thống theo các nhóm sau:
+ Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: khảm
gỗ, vàng bạc, thêu thùa.

+ Ngành nghề phục vụ sản xuất và đời sống như: nghề mộc, đúc đồng,
sản xuất vật liệu xây dựng.
+ Ngành nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thông thường như: khâu
nón, dệt chiếu.
+ Ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm, như: xay xát, nấu rượu,
làm bánh.
Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 của Chính phủ về việc phát
triển ngành nghề nông thôn đã phân chia các ngành nghề ở nông thôn nước ta
thành 7 nhóm chính:
- Chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản.
- Sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt
may, cơ khí nhỏ.
- Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông
thôn.
- Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
- Gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh.
- Xây dựng, vận tải trong nội bộ xã, liên xã và các dịch vụ khác phục vụ
sản xuất, đời sống dân cư nông thôn.
- Tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề; tư vấn sản xuất, kinh doanh trong
lĩnh vực ngành nghề nông thôn.
1.1.2. Làng nghề thủ công truyền thống
Việc xác định danh hiệu làng nghề ở nước ta chưa thống nhất, có nhiều
tiêu chí khác nhau.
Theo cách định danh dân gian, một nghề có "thâm niên" và tỷ lệ người
làm nghề (ở trong làng) cao, thu nhập từ nghề là nguồn thu nhập chính, tên làng
dần dần gắn với tên nghề... thì được gọi là làng nghề; còn nếu một nghề có tỷ
13


lệ người theo nghề thấp, thời gian xuất hiện chưa có "thâm niên", sản phẩm

chưa mang lại tên tuổi cho làng... thì chỉ được gọi là nghề (của làng). Tuy
nhiên, cách gọi này chỉ mang tính tương đối, bởi trên thực tế, có những làng có
nghề chỉ mới xuất hiện trong một thời gian ngắn, nhưng đã có tiếng tăm do làm
ăn phát đạt, dân gian vẫn gọi là làng nghề, và ngược lại, có những nghề tồn tại
lâu đời, nhưng cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, eo hẹp, không có cơ hội phát triển, cả làng
chỉ có một vài người hành nghề, nên dân gian chỉ gọi là nghề.
Theo quy định hiện hành của Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn, làng
nghề phải đảm bảo ba tiêu chí sau:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành
nghề nông thôn.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm được công nhận.
- Chấp hành tốt chính sách pháp luật của nhà nước.
Các tiêu chí trên chỉ có tính chất tương đối vì với các nghề khác nhau tỷ
lệ trên ở các làng nghề cũng khác nhau mặt khác số lượng lao động làm nghề
cũng có sự biến động thường xuyên. Như vậy khái niệm làng nghề cần được
hiểu là những làng ở nông thôn có các ngành nghề không phải là nông nghiệp
mà chúng chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và tỷ trọng thu nhập so với nghề
nông.
Làng nghề thủ công truyền thống là làng nghề được tồn tại và phát triển
lâu đời trong lịch sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ công truyền
thống, là nơi quy tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ
gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ
nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các
thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc.
Với một số làng tuy chưa đạt đầy đủ các tiêu chí làng nghề vì giá trị kinh
tế, thu nhập, số hộ làm nghề chiếm tỷ lệ rất nhỏ nhưng có ít nhất một nghề
truyền thống thì được công nhận là làng nghề truyền thống (công nhận danh
hiệu làng nghề mang ý nghĩa về văn hóa nhiều hơn về kinh tế).
Làng nghề thủ công truyền thống có những đặc điểm sau đây:

- Đặc điểm về mối quan hệ với nông nghiệp và nông thôn
Nghề thủ công truyền thống bắt nguồn từ nông nghiệp mà ra và gắn liền
với sự phân công lao động ở nông thôn. Trước đây hàng loạt các nghề thủ công
truyền thống ra đời nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt tự cung tự cấp của người
nông dân và chủ yếu phục vụ nông nghiệp. Không những vậy, nghề truyền
14


thống còn dựa vào nông nghiệp để phát triển. Nông nghiệp là nguồn cung cấp
nguyên liệu, nguồn nhân lực, nguồn vốn chủ yếu và là thị trường tiêu thụ rộng
lớn.
Lao động trong các làng nghề truyền thống chủ yếu là những người nông
dân, địa điểm sản xuất của nghề thủ công truyền thống là tại gia đình họ. Họ tự
quản lý, phân công lao động, thời gian cho phù hợp với việc sản xuất nông
nghiệp những lúc mùa vụ và với nghề thủ công những lúc nông nhàn.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, làng nghề ngày càng có tính độc lập
hơn đối với nông nghiệp. Bởi vì, nguyên liệu cho sản xuất của làng nghề được
đa dạng hoá trong đó có cả sản phẩm của các ngành công nghiệp ở thành thị.
Hơn nữa, hiện nay nước ta đã là thành viên chính thức của WTO, việc thực
hiện các cam kết thương mại quốc tế, đã làm cho nguyên liệu của các làng nghề
bị cạnh tranh quyết liệt từ các bạn hàng nước ngoài. Do tác động của cách
mạng khoa học công nghệ, lợi thế tài nguyên có nguồn gốc trực tiếp từ tự nhiên
giảm xuống, làm cho sự tồn tại và phát triển làng nghề gắn liền với nguyên liệu
tại chỗ từ nông nghiệp có xu hướng giảm xuống.
- Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm của làng nghể thủ công truyền thống hầu hết là các vật dụng
hàng ngày, hay những sản phẩm vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ
hoặc chỉ là vật để dùng trang trí ở nhà, công sở, nơi tôn nghiêm như đình chùa.
Dưới những bàn tay tài hoa của người thợ thủ công từ ốc trai, vỏ trứng có thể
biến hoá thành những bức tranh có giá trị nghệ thuật cao. Các sản phẩm nghề

thủ công truyền thống bộc lộ những nét tinh xảo điêu luyện, đạt tới đỉnh cao
nghệ thuật trang trí. Sản phẩm công nghiệp nếu như không ghi mác nhãn thì nó
sẽ xoá nhoà gốc tích, ngược lại, với sản phẩm nghề thủ công truyền thống nhìn
vào nét hoa văn độ tinh xảo của sản phẩm là có thể biết xuất xứ sản phẩm.
Thậm chí trong làng nghề truyền thống thì người ta có thể đánh giá gia đình
nào đã làm ra sản phẩm này.
Truyền thống nghề với truyền thống văn hóa vùng miền, tập quán, phong
tục từng vùng được hòa quyện trong sản phẩm. Nó thể hiện sự gắn bó khăng
khít văn hóa và nghề truyền thống. Cùng sản phẩm đồ gốm nhưng nhìn màu
men người ta có thể phân biệt được đó là gốm Bát Tràng, gốm Đông Triều hay
gốm Thổ Hà.
Các sản phẩm của nghề thủ công truyền thống mang tính chủ quan sáng
tạo, hoàn toàn phụ thuộc bàn tay người thợ. Cũng vì thế ở các làng nghề truyền
thống, sản phẩm chia loại chất lượng phụ thuộc trình độ người thợ, phụ thuộc
15


thị hiếu, mức tiền người tiêu dùng. Do đặc điểm điều kiện sản xuất kinh doanh,
sản phẩm thủ công in đậm dấu ấn người thợ nên khó sản xuất đại trà, mà chỉ
sản xuất đơn chiếc. Nhược điểm về sản phẩm như vậy đã làm cho làng nghề
truyền thống khó đáp ứng được đơn đặt hàng lớn, chất lượng sản phẩm không
đồng đều.
- Đặc điểm về kỹ thuật công nghệ
Kỹ thuật sản xuất đặc trưng trong làng nghề truyền thống là công cụ thủ
công, phương pháp, công nghệ mang tính cổ truyền do lịch sử để lại và do
chính người lao động trong làng nghề tạo ra. Kỹ thuật đặc biệt nhất của làng
nghề truyền thống là đôi bàn tay vàng của người thợ được tích luỹ qua nhiều
thế hệ, giữ được tính chất bí truyền của nghề. Đặc điểm kỹ thuật này quyết định
chất lượng sản phẩm. Đôi bàn tay người thợ thủ công là công đoạn kỹ thuật khó
có máy móc nào có thể thay thế. Nó làm cho nghề thủ công truyền thống có

tính đơn chiếc, phụ thuộc chủ quan người sản xuất. Điều này được thể hiện rõ
nhất ở nghề thêu ren, chạm khắc. Nhược điểm kỹ thuật của làng nghề truyền
thống không tổng kết thành lý luận, không được ghi chép, mà truyền miệng
trong gia đình, trong dòng họ, trong làng nên trong lịch sử nhiều bí quyết đã bị
thất truyền. Thực tế có những sản phẩm truyền thống hiện nay về độ tinh xảo,
tính độc đáo không sánh được với sản phẩm của cha ông ta trước đây. Nhiều
làng nghề đúc đồng nhưng chưa có nơi nào có thể làm trống đồng đạt chuẩn
mực như trống đồng trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn cách đây hàng nghìn
năm.
Có một số nghề thủ công truyền thống có những công đoạn kỹ thuật đặc
biệt phụ thuộc thời tiết. Ví dụ: công đoạn dệt nhuộm gặp nhiều khó khăn khi
thời tiết có gió nồm hoặc mưa phùn; Một sản phẩm sơn mài phải mất khoảng
51 ngày mới hoàn thành được tùy theo mẫu, nếu thời tiết quá nóng hoặc quá
lạnh sẽ không khô được. Kỹ thuật đặc biệt này là lý do bất khả kháng làm chậm
tiến độ giao hàng ở các làng nghề truyền thống. Lao động làm nghề truyền
thống chủ yếu là lao động sáng tạo kỳ diệu của những nghệ nhân và thợ nghề.
Không giống sản phẩm công nghiệp được sản xuất đồng loạt theo công nghệ
dây chuyền, mỗi sản phẩm của LN được coi là một tác phẩm nghệ thuật, chứa
đựng phong cách riêng, nét sáng tạo riêng, đầu óc mỹ thuật riêng của người làm
ra chúng.
- Đặc điểm về tổ chức sản xuất kinh doanh.
Như trên đã phân tích về mối quan hệ giữa nông dân và thợ thủ công: sự
gắn bó giữa nông nghiệp và nghề thủ công truyền thống tạo nên mô hình sản
16


xuất kinh doanh truyền thống phổ biến nhất ở các làng nghề truyền thống là
hình thức hộ gia đình.
Hộ gia đình là mô hình sản xuất đặc biệt trong đó lao động là các thành
viên trong gia đình, chỉ khi thời vụ hoặc khi chạy hàng thì có thể thuê thêm lao

động. Mọi thành viên trong gia đình đều có thể tham gia, tùy theo độ tuổi, trình
độ tay nghề để làm công việc phù hợp nhưng bao giờ cũng có ít nhất 1 hoặc 2
người chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật, quản lý, điều hành, giao dịch... Vì
vậy mô hình sản xuất hộ gia đình là qui mô nhỏ.
Hộ gia đình là mô hình tổ chức sản xuất phù hợp nhất với cơ sở vật chất
ở làng nghề hiện nay nên đã phát huy được nhiều ưu điểm trong sản xuất kinh
doanh: Tận dụng, tranh thủ mọi thời gian lao động; Linh hoạt trong sản xuất
kinh doanh; Hiệu quả kinh tế được hạch toán cụ thể, kịp thời, kích thích sản
xuất nhanh nhất và có sự phù hợp giữa qui mô, năng lực sản xuất với trình độ
quản lý.
Tuy nhiên, các chủ hộ không có kiến thức về quản lý kinh tế, khó tiếp
cận và chậm ứng dụng khoa học công nghệ; Năng lực sản xuất hạn chế; Một ưu
điểm và cũng là nhược điểm mọi độ tuổi đều có thể tham gia lao động tạo ra
thu nhập cho gia đình nên hiện tượng bỏ học sớm để làm kinh tế là phổ biến ở
một số làng nghề.
Hiện nay, ở các làng nghề đã xuất hiện nhiều hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh mới như tổ sản xuất, hợp tác xã, doanh nghiệp... Tuy nhiên, hình
thức sản xuất theo hộ gia đình vẫn là chủ yếu.
Nghề thủ công truyền thống không chỉ bó hẹp trong phạm vi làng nghề
mà còn mở rộng hơn như: xã nghề, phố nghề, phường nghề, hội nghề.
Phố nghề là kết quả của quá trình đô thị hoá và mở rộng thị trường mới
và những người thợ thủ công từ các làng nghề tụ họp lại trên cùng một địa điểm
để sản xuất hoặc kinh doanh. Ví dụ: Thủ đô Hà Nội có phố nghề làm đồ kim
hoàn như Hàng Bạc, Phố tiện gỗ Tô Tịch, Phố cắt may áo dài Cầu Gỗ.
Xã nghề để chỉ sự lan tỏa của nghề vượt khỏi phạm vi từ làng này sang
làng khác.
Còn phường nghề, hội nghề là những thợ thủ công cùng nghề nhóm họp
lại thành một tổ chức có luật lệ riêng.
Ngoài ra còn phải nói đến tổ nghề là những người có đức, có công dạy
nghề, hay phát minh ra nghề. Tổ nghề thì không nhất thiết phải là người ở địa

phương đó. Một số làng tổ nghề được suy tôn là thành hoàng làng hoặc được
lập miếu thờ. Một nghề có thể có thờ nhiều tổ nghề khác nhau ở các vùng khác
17


nhau vì tổ nghề là người có công khởi xướng truyền nghề ở một vùng, một địa
phương.
1.1.3. Giá trị làng nghề thủ công truyền thống
Trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới, thuật ngữ “giá trị” (tiếng Anh: value,
tiếng Pháp: valeur; tiếng Nga: ценность, tiếng Trung: 价价 / 价价) được hiểu là
tốt, đáng giá. Trong ngôn ngữ phương Tây, thuật ngữ “giá trị” từ valere của
tiếng La-tinh ban đầu được dùng để chỉ việc một thứ gì đó đáng giá. Giá trị là
thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu triết học và xã hội học để chỉ
ý nghĩa con người, xã hội và văn hoá của những hiện tượng thực tế nhất định.
Là một thuật ngữ được sử dụng rất rộng rãi, song ở khái niệm “giá trị”
cho đến nay chưa có sự thống nhất trong giới nghiên cứu với tính cách là một
khái niệm khoa học chặt chẽ, chính xác như nhiều khái niệm khác trong các
ngành khoa học xã hội và tự nhiên. Dù người ta có thể xem nó là khái niệm của
triết học, của tâm lý học, của nhân học, của giáo dục học, của giá trị học hay
của bất cứ ngành khoa học xã hội, nhân văn nào đi nữa thì tình trạng ấy cũng
đều đang hiện hữu. Hệ giá trị, như nhiều nhà nghiên cứu hiện nay quan niệm,
có thể được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, bao gồm trong nó nhiều loại giá trị
khác nhau: có loại giá trị cốt lõi, có giá trị phổ quát, có loại giá trị chung nhân
loại, có loại giá trị dân tộc - quốc gia, có loại giá trị cộng đồng tộc người, có
loại giá trị cá thể, có loại giá trị xã hội, có loại giá trị con người,… Trong mỗi
loại giá trị như vậy lại có nhiều giá trị nhỏ khác nhau. Bản thân mỗi giá trị, phụ
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể lại là một biến số, có giá trị vĩnh hằng,
dù vị trí trong thang bậc cũng có thể không cố định, lại có giá trị chỉ là giá trị
trong một giai đoạn lịch sử nào đó. Sự thay đổi vị trí, thang bậc trong bảng giá
trị càng khiến cho các quan điểm, quan niệm, cách hiểu về giá trị càng thêm

khác biệt.
Tuy nhiên, trên bình diện chung nhất có thể hiểu rằng giá trị là những sự
vật, hiện tượng, quá trình hay tất cả những thứ được con người xem là có ý
nghĩa nhất định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của con người, xã
hội. Nó bao hàm cả mặt chủ quan lẫn khách quan gắn bó chặt chẽ, không tách
rời nhau1. Bản thân các sự vật, hiện tượng, quá trình, sự biến, tồn tại khách
quan, nhưng nếu không có sự đánh giá của con người, không được con người
xem là có ý nghĩa đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của họ thì các sự
vật, hiện tượng, quá trình, sự biến đó không có giá trị. Giá trị là phần cốt lõi,
1

PGS. TSKH. Lương Đình Hải (2015), Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu hội thảo
khoa học “Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập”.

18


trục chính, căn bản của văn hóa, nhưng không thể quan niệm rằng nó là một
hình thái tinh thần. Giá trị nằm ngay trong bản thân các sự vật, hiện tượng, quá
trình, nó có khía cạnh khách quan, hay nói cách khác, nó tồn tại khách quan.
Đây là điều kiện cần của mọi giá trị.
Theo cách hiểu trên, giá trị của làng nghề thủ công truyền thống được
biểu hiện ở vai trò, ý nghĩa tích cực của nó đối với sự phát triển của kinh tế, văn
hóa, xã hội. Có thể nêu ra một số giá trị chủ yếu của làng nghề thủ công truyền
thống như sau:
- Làng nghề góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân
Làng nghề truyền thống phát triển đóng vai trò quan trọng thu hút việc
làm, tận dụng lao động tránh tình trạng phát triển chợ lao động tự phát lúc trái
vụ, di dân tự do. Ở các làng nghề truyền thống có sự gia tăng giá trị sản phẩm,
tạo ra một khối lượng sản phẩm đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế chung và

trên từng địa phương. Đối với thị trường thế giới thì sản phẩm của làng nghề
thủ công truyền thống được xếp vào nhóm hàng có khả năng cạnh tranh cao bởi
tính độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc, là sự kết hợp giữa kỹ thuật và thẩm
mỹ, không thể sản xuất hàng loạt bằng máy móc được. Hiện nay hàng thủ công
mỹ nghệ được xếp vào 6 mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn tại Việt Nam
(báo cáo dự án hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu VIE 61/94),
có thị trường ở gần 100 nước, vùng lãnh thổ [37; tr.28].
- Phát triển làng nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề chính là con đường chủ yếu
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng chuyển từ lao động nông
nghiệp năng suất thấp, thu nhập thấp sang lao động ngành nghề có năng suất và
chất lượng cao với thu nhập cao hơn. Mục tiêu nâng cao đời sống của cư dân
nông thôn một cách toàn diện cả về kinh tế và văn hóa cũng chỉ có thể đạt được
nếu trong nông thôn có cơ cấu hợp lý của nông thôn mới, có nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ, có nông thôn vận động và phát triển thanh bình với hệ thống
làng nghề tiếp nối truyền thống văn hóa làng nghề với chuỗi đô thị nhỏ văn
minh, lành mạnh.
Bên cạnh đó, sản phẩm làng nghề còn góp phần quan trọng vào kim
ngạch xuất khẩu. Nhiều mặt hàng thủ công truyền thống của Thanh Hóa được
người nước ngoài ưa chuộng như: đồ đồng Trà Đông, chiếu cói Nga Sơn, đá
mỹ nghệ An Hoạch...
- Phát triển làng nghề truyền thống là phát huy lợi thế so sánh
19


Từ sau năm 1986, Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng đều đặt ra vấn đề phát
huy nội lực đất nước trong quá trình xây dựng đất nước. Làng nghề truyền
thống chính là nguồn lực còn bỏ ngỏ trong nước. Do có tính độc đáo, nên sản
phẩm của làng nghề truyền thống được xếp vào nhóm hàng có năng lực cạnh

tranh, là lợi thế của một nước nông nghiệp. Có giá trị thực thu lớn vì nguồn
nguyên liệu nhập khẩu dưới 10%; trong khi đó, các mặt hàng điện tử, dệt may,
giày da nguyên liệu nhập khẩu trên 80% nên giá trị thực thu thấp [38; tr29].
Chính vì vậy, hầu như tất cả các quốc gia ở châu Á khi tiến hành công nghiệp
hóa nông nghiệp nông thôn đều đặt ra nhiệm vụ phát triển làng nghể thủ công
truyền thống.
- Phát triển làng nghề truyền thống góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc
Giá trị văn hóa thể hiện rõ nét nhất trong các sản phẩm làng nghề gắn với
trí thông minh, bàn tay khéo léo và kỹ thuật tinh sảo của các nghệ nhân được
lưu truyền từ hàng trăm năm nay đang được kế thừa, khôi phục. Mỗi sản phẩm
làng nghề không chỉ là một sản phẩm hàng hóa thông thường mà còn là nơi gửi
gắm tâm hồn, tài năng, thể hiện khiếu thẩm mỹ, sự thông minh, sáng tạo, tinh
thần lao động của nghệ nhân - những người lưu giữ những tinh hoa văn hóa dân
tộc trong các sản phẩm làng nghề, đồng thời không ngừng sáng tạo để làng
nghề có thêm nhiều sản phẩm mới vừa phát huy được truyền thống văn hóa dân
tộc vừa thể hiện sức sáng tạo của nghệ nhân trong điều kiện mới.
Ở một số làng nghề truyền thống, ngày hội làng chính là ngày giỗ tổ
nghề, trong đó lòng tôn kính nghề nghiệp đã trở thành sinh hoạt văn hoá cộng
đồng. Ngoài ra có nhiều nghi lễ, phong tục xuất hiện từ văn hóa nghề mà ra.
Cùng với những thiết chế nghi lễ đó thì các quần thể công trình kiến trúc để suy
tôn, tưởng niệm các vị tổ nghề đã ra đời như đình, chùa, miếu, đền. Nếu làng
nghề truyền thống đó phát triển, kinh tế tăng trưởng thì diện mạo của các công
trình trên càng được tu bổ giữ gìn.
- Phát triển làng nghề góp phần tạo thành các sản phẩm du lịch đặc sắc.
Phát triển du lịch làng nghề là phát triển loại hình du lịch văn hóa chất
lượng cao. Du lịch làng nghề khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể,
các sản phẩm do lao động làng nghề làm ra, như là một đối tượng tài nguyên du
lịch phục vụ cho việc tìm hiểu văn hóa, tham quan, vui chơi, giải trí. Khách du
lịch có thể trực tiếp xem và tham gia vào một số công đoạn sản xuất sản phẩm

đặc trưng của làng nghề.

20


Du lịch làng nghề được khai thác một cách bài bản, chuyên nghiệp, sẽ là
phương tiện giao lưu, quảng bá văn hóa, đất nước, con người Việt Nam một
cách sâu rộng và có hiệu quả, góp phần tôn vinh, bảo tồn và giới thiệu rộng rãi
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Du lịch làng nghề góp phần thúc
đẩy sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng các làng nghề. Du lịch làng nghề
được quảng bá và thị trường các sản phẩm của làng nghề được mở rộng sẽ nâng
cao thu nhập của cư dân làng nghề, mang lại lợi ích kinh tế không nhỏ cho làng
nghề và cho địa phương có làng nghề.
- Phát triển làng nghề thủ công truyền thống góp phần phát triển xã hội
Làng nghề là một lực lượng có vị thế, một cộng đồng có sự liên kết bền
chặt bởi những mối liên hệ khăng khít, nhiều mặt: về lãnh thổ, dòng họ, về hoạt
động kinh tế, có chung Thành hoàng làng và Tổ nghề; có chung văn hóa và tâm
linh.
Người thợ thủ công trong làng nghề gắn bó với làng, không chỉ vì yếu tố
kinh tế mà do nhiều yếu tố tâm linh, thiêng liêng, hình thành một cộng đồng
đoàn kết, gắn bó từ nhiều đời, hình thành “vốn xã hội” của cộng đồng dân cư
trong làng nghề.
1.2. Quan điểm về bảo tồn và phát huy giá trị của làng nghề thủ công
truyền thống
Làng nghề thủ công truyền thống là một di sản văn hóa của các cộng
đồng cư dân trong quá khứ gìn giữ, phát triển và lưu truyền đến hiện tại. Cho
đến nay, đã có nhiều quan điểm về "bảo tồn" và "phát huy" đối với di sản văn
hóa. Tựu chung lại có thể tập hợp thành 2 nhóm quan điểm: bảo tồn nguyên
vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế thừa.
Quan điểm bảo tồn nguyên vẹn, theo Gregory J.Ashworth, được phát

triển đầu tiên từ những năm 50 của thế kỷ XIX. Quan điểm bảo tồn nguyên vẹn
này được khá nhiều học giả ủng hộ, đặc biệt là các nhà bảo tồn, bảo tàng trong
lĩnh vực di sản văn hóa. Những người theo quan điểm bảo tồn nguyên vẹn cho
rằng, những sản phẩm của quá khứ nên được bảo vệ một cách nguyên vẹn như
nó vốn có, cố gắng phục hồi nguyên gốc các di sản văn hóa cũng như cách ly di
sản khỏi môi trường xã hội đương đại. Họ cho rằng mỗi di sản chứa đựng
những giá trị văn hóa - xã hội nhất định mà không pải lúc nào thế hệ hiện tại có
hiểu biết một cách cụ thể để có thể phát huy những giá trị ấy một cách thích
hợp. Hơn nữa, những giá trị văn hóa ấy luôn biến đổi theo thời gian do những
tác động của xã hội hiện tại và sẽ tạo nên những lớp văn hóa khác không trùng
nghĩa với lớp văn hóa mà thế hệ trước chuyển giao cho thế hệ sau, vì thế, có thể
21


làm cho các thế hệ sau nữa không thể truy nguyên được những giá trị di sản
đang tồn tại. Chính vì như vậy, những người theo quan điểm này cho rằng, do
chúng ta chưa có đủ thông tin, trình độ hiểu biết để có thể lý giải giá trị của các
di sản văn hóa, chúng ta nên giữ nguyên trạng những di sản này để khi có điều
kiện, các thế hệ tiếp nối có thể xử lý, giải thích và tìm cách kế thừa, phát huy di
sản một cách tốt hơn.
Gần đây, trong lĩnh vực di sản văn hóa, người ta quan tâm nhiều đến
quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa. Đại diện của nhóm quan điểm này có thể
kể đến Alfrey, Putnam, Ashworth và P.J.Larrkham... Các học giả này xem di
sản như một nguyên liệu cho ngành công nghiệp và cần phải có cách thức quản
lý di sản tương tự với cách thức quản lý của một ngành công nghiệp văn hóa
với những logic quản lý đặc biệt, phù hợp với tính đặc thù của các di sản. Hoặc
các nhà nghiên cứu Anh, Mỹ như Boniface, Fowler, Prentice.. thì cho rằng
không thể không đề cập đến phát triển du lịch trong vấn đề bảo tồn và phát huy
di sản. Một số tác giả như Horner và Harvay cũng cho rằng việc quản lý di sản
cần đặt dưới một cách tiếp cận toàn cầu hóa, nhìn nhận di sản là một đối tượng

sống động, có phát sinh, phát triển và biến đổi. Ngoài ra, các tác giả như Moore
và Caulton cũng cho rằng cần quan tâm làm thế nào lưu giữ được các di sản
văn hóa thông qua cách tiếp cận mới và phương tiện kỹ thuật mới. Nhìn chung,
các tác giả này quan niệm mỗi di sản cần phải thực hiện nhiệm vụ lịch sử của
mình ở một thời gian và không gian cụ thể. Khi di sản ấy tồn tại ở thời gian và
không gian hiện tại, di sản ấy cần phát huy giá trị văn hóa - xã hội phù hợp với
xã hội hiện nay và cần phải loại bỏ những gì không phù hợp với xã hội ấy.
Cả hai nhóm quan điểm trên đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Với
nhóm quan điểm thứ nhất, dường như bảo lưu các sản phẩm văn hóa trong môi
trường khép kín để tránh mọi tác động bên ngoài làm phương hại đến chúng.
Khuynh hướng này mang lại một số kết quả rất đáng quan tâm, nhờ đó, trong
nhiều năm qua, chúng ta đã lưu giữ được nhiều sắc thái văn hóa dân tộc. Tuy
nhiên, văn hóa nói chung, trong đó có làng nghề thủ công luôn gắn bó với cuộc
sống con người, với môi trường xã hội, do đó nó luôn biến đổi để phù hợp với
mọi thay đổi của cuộc sống. Bởi vậy, bảo tồn theo khuynh hướng này bộc lộ
hạn chế là làm khô cứng các sản phẩm văn hóa.
Với nhóm quan điểm thứ hai dường như thả nổi các di sản văn hóa. Sản
phẩm văn hóa nào có sức sống mãnh liệt, có giá trị, có nền tảng vững chắc do
được chắt lọc, được thử thách qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử sẽ có
nhiều cơ hội và lợi thế tự khẳng định mình nhiều hơn. Điều đó phụ thuộc vào
22


các tiêu chí và hệ giá trị. Bởi vậy, khi chúng ta sử dụng hệ giá trị hôm nay làm
thước đo sự thay đổi các sản phẩm văn hóa truyền thống, khuynh hướng thả nổi
sẽ đẩy nhanh quá trình làm biến dạng các tiêu chí và chuẩn mực vốn đã được
định hình từ lâu. Những sản phẩm văn hóa truyền thống tuy mang đậm nét đặc
thù nhưng khi đặt trong hệ quy chiếu mới nếu không được điều chỉnh sẽ khó có
cơ hội tồn tại lâu dài.
Tham khảo các quan điểm chung về bảo tồn và phát huy giá trị di sản

văn hóa nói chung, chúng tôi tạm đưa ra những quan điểm về bảo tồn và phát
huy giá trị của làng nghề thủ công truyền thống như sau:
* Quan điểm về bảo tồn giá trị làng nghề thủ công truyền thống
- Bảo tồn nguyên dạng giá trị cốt lõi của làng nghề thủ công truyền
thống. Có nhiều quan điểm cho rằng bảo tồn di sản văn hóa cần phải bảo tồn
nguyên vẹn các yếu tố gốc của từng loại hình văn hóa bao gồm cả văn hóa vật
thể và phi vật thể. Quan điểm này đúng với những di sản không có cộng đồng
dân cư sinh sống trong lòng nó như Thánh địa Mỹ Sơn hay Kinh thành Huế...
Nhưng làng nghề thủ công truyền thống lại gắn bó chặt chẽ với cộng đồng cư
dân hiện tại, từng ngày, từng giờ tiếp nhận các nhu cầu mới của thời đại mới thì
quan điểm bảo tồn nguyên dạng đối với làng nghề thủ công truyền thống cần
được hiểu là bảo tồn nguyên dạng giá trị cốt lõi của làng nghề như: kỹ thuật
truyền thống, tính đơn chiếc, độc đáo của sản phẩm làm theo lối thủ công, các
sinh hoạt văn hóa tốt đẹp liên quan đến làng nghề (thờ tổ nghề, tôn vinh nghệ
nhân giỏi...). Ngoài ra, có thể bổ sung hoặc thay thế bằng những yếu tố mới khi
cần thiết (công nghệ bảo quản sản phẩm, một số công nghệ, dụng cụ mới hỗ trợ
kỹ thuật truyền thống, cách thức tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm) nhưng
không đánh mất đi giá trị cốt lõi của nó, hoài hòa giữa cũ và mới, đáp ứng được
nhu cầu của xã hội hiện đại.
- Bảo tồn giá trị làng nghề thủ công truyền thống gắn với công tác
nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng đồng. Nếu bảo tồn làng nghề truyền
thống mà không có những công trình nghiên cứu đi trước làm cơ sở khoa học
thì việc bảo tồn sẽ đi chệch hướng, dễ dàng đánh mất tính chân xác, những giá
trị quý báu của làng nghề. Nếu bảo tồn làng nghề mà không giáo dục cộng
đồng thì cộng đồng không nhận diện được giá trị của làng nghề đó dẫn tới chưa
quý trọng và chưa có ý thức bảo tồn làng nghề.
- Bảo tồn và phát huy giá trị của làng nghề thủ công truyền thống phải
chú ý đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng: Bảo tồn làng nghề cần gắn với sự
nỗ lực chung một cách tự nguyện của cả cộng đồng về mọi mặt bao gồm ý
23



thức, tài lực, vật lực... chứ không phải là sự bảo tồn bằng cách hô hào, gượng
ép. Bởi vì làng nghề là một "di sản sống" nên nó chỉ thực sự "sống" được khi
kết hợp hài hòa lợi ích của cộng đồng dân cư vào vấn đề bảo tồn, phát huy giá
trị di sản. Khi bảo tồn các giá trị truyền thống của làng nghề phải quan tâm đến
việc đáp ứng nhu cầu của cộng đồng bao gồm cả nhu cầu về vật chất và nhu
cầu về tinh thần.
* Quan điểm về phát huy giá trị làng nghề thủ công truyền thống
Bảo tồn làng nghề thủ công truyền thống không phải là cất giữ cho khỏi
mất mát, biến dạng mà bảo tồn là để phát triển, khai thác các giá trị tuyền
thống, làm cho nó có thể sống lại, là cho các giá trị đó tồn tại trong đời sống
thực, nặng động hóa các hình thức tồn tại của làng nghề trên cơ sở thu hút sự
quan tâm của các tầng lớp xã hội, nhờ đó mà các giá trị được vận hành, thâm
nhập vào cuộc sống hiện tại. Và ngược lại, phát huy giá trị của làng nghề thủ
công truyền thống chính là để đưa các giá trị của nó đến với cộng đồng, giúp
cộng đồng phát triển kinh tế, giúp đáp ứng cho công tác bảo tồn hoàn thiện
hơn.
Chúng tôi đưa ra quan điểm phát triển làng nghề thủ công truyền thống
phải hướng tới phát triển bền vững. Có thể hiểu phát triển bền vững làng nghề
truyền thống chính là quá trình phát triển sản xuất, kinh doanh của các làng
nghề truyền thống nằm thoả mãn nhu cầu đa dạng và ngày càng phát triển của
thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các
thế hệ tương lai.
Phát triển bền vững làng nghề thủ công truyền thống cần đảm bảo được
những nội dung sau:
- Thực hiện tốt công tác dạy nghề, truyền nghề trong làng nghề. Thế hệ
lao động trẻ theo nghề có khả năng duy trì, bảo tồn các kỹ xảo truyền thống của
cha ông, ngày càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm, trong lao động, đảm bảo
sự thành thục, khéo léo.

- Có khả năng ứng dụng công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất. Có
sự đầu tư nghiên cứu hiện đại hóa từng công đoạn nhưng vẫn đảm bảo sự tinh
xảo, độc đáo của nghề truyền thống. Gia tăng hàm lượng chất xám trong sản
phẩm. Nghiên cứu, sử dụng công nghệ hiện đại thay thế công nghệ cũ để tiết
kiệm tiêu hao năng lượng, giảm bớt chi phí mức độ nặng nhọc cho người lao
động, giảm thiểu ô nhiễm. Nâng cao hiệu suất sử dụng tư liệu sản xuất. Giảm
bớt sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên trong quá trình sản xuất.

24


- Phát triển bền vững làng nghề thủ công truyền thống cần thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn theo hướng thu hẹp tỷ
trọng nông nghiệp, phát triển các hoạt động phi nông nghiệp mang lại hiệu quả
kinh tế cao hơn, đồng thời hình thành những khu vực nông nghiệp chuyên môn
hóa, tạo ra năng suất lao động cao hơn và sản phẩm đạt chất lượng hơn.
- Phát triển bền vững làng nghề thủ công truyền thống cần tạo việc làm,
thu nhập ổn định cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, tăng quỹ phúc lợi,
nâng cao trình độ dân trí, xây dựng nông thôn mới, bảo tồn văn hóa vùng miền
ở Làng nghề, vùng nghề.
- Phát triển bền vững làng nghề truyền thống cần đảm bảo sự bền vững
về tài nguyên và môi trường làng nghề thể hiện ở việc sử dụng có hiệu quả, hợp
lý các tiềm năng và tài nguyên thiên nhiên môi trường làng nghề và các vùng
xung quanh. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên của làng nghề truyền thống
không chỉ thoả mãn nhu cầu của hiện tại mà còn đảm bảo cho nhu cầu của
nhiều thế hệ. Bên cạnh đó trong quá trình phát triển, các tác động của làng nghề
đến môi trường phải được hạn chế đi đôi với những đóng góp cho các nỗ lực
cải tạo tài nguyên, bảo vệ môi trường.
1.3. Bài học kinh nghiệm bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề thủ
công truyền thống trong và ngoài nước

1.3.1. Bài học kinh nghiệm bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề thủ
công truyền thống ở một số quốc gia
1.3.1.1. Nhật Bản
Nhật Bản tiến hành công nghiệp hóa đất nước từ một nước có nền nông
nghiệp cổ truyền, sản xuất manh mún. Trong quá trình công nghiệp hóa, họ đã
có những sáng tạo, những ngành nghề tiểu thủ công truyền thống không bị mất
đi mà là một trong những nội dung của công nghiệp hóa. Tại Nhật Bản có hơn
867 nghề truyền thống bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau như chế tác kim
hoàn, sơn mài, chế biến lương thực phẩm... Nhật Bản đã có nhiều biện pháp
tích cực nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của các làng nghề thủ công truyền
thống, trong đó đáng chú ý là phong trào "mỗi làng một sản phẩm".
Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” (OVOP - One village one product)
được khởi phát từ năm 1979 tại làng Oyama, tỉnh Oita, Nhật Bản, là cách thức
đưa nông nghiệp của tỉnh tăng trưởng và phát triển theo kịp với sự phát triển
chung của đất nước. Phong trào OVOP được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc
chính:

25


×