Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Chọn lọc bò cái trong chăn nuôi bò thịt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 40 trang )

Chọn lọc bò cái
Trong chăn nuôi
bò thịt

Hiệu đính: Vũ Chí Cương
Người dịch: Vũ Chí Cương
Phạm Kim Cương

1


Mục lục
Trang
Giới thiệu
1. Chương 1: Sinh sản bò cái
Giới thiệu
Giải phẫu cơ quan sinh dục cái
Sinh lý sinh sản
Động dục trở lại sau khi đẻ
Chăm sóc, quản lý chung

2
3
3
4
10
12

2. Chương 2: Giá trị của chọn lọc bò cái
Giới thiệu chung
Hiệu suất sinh sản


Tổng số lượng và chất lượng bê thông qua chọn lọc bò cái
Cải thiện các tính trạng về thịt xẻ
Tóm tắt

16
16
17
19
21
21

3. Chương 3: Chọn những con cái tốt
Đại cương
Các nguyên tắc chọn lọc cơ bản
Thiết lập những mục tiêu lai tạo giống
Cân bằng chọn lọc
Chọn lọc bò cái giống
Hệ thống quản lý bò cạn sữa
Chọn lọc bò cái với cường độ cao
Tóm tắt

23
23
23
27
27
28
33
35
35


4. Chương 4: Các công cụ quản lý đàn bò
Giới thiệu
Xác định những gia súc chất l ượng cao
Ghi chép và sử dụng số liệu
Đo đạc và phân tích khả năng sản xuất
Quản lý phối giống-BREEDPLAN
Phối giống nhân tạo
Cấy truyền phôi
Tránh có chửa cho những bò cái loại thải

37
37
39
39
45
45
46

2


Giới thiệu
Bước đầu tiên và quan trọng nhất trong xây dựng một ch ương trình nhân giống cân bằng
là xây dựng một tập hợp các mục tiêu nhân giống.
Để thực hiện được điều này cần phải nắm đ ược:
Tiềm năng sản xuất hoặc khả năng của trang trại.
Mức năng suất xuất hiện tại của đàn gia súc của bạn.
Các yêu cầu của thị trường hoặc thị trường bạn có kế hoạch cung cấp sản phẩm.
Những hạn chế về môi trường.

Một khi các mục tiêu nhân giống đã đ ược thiết lập công việc tiếp theo là xác định các tiêu
chuẩn chọn lọc sẽ được sử dụng trong đàn để đáp ứng mục tiêu đã vạch ra.
Để thực hiện được việc này cần lập danh sách:
Các tính trạng quan trọng về kinh tế.
Mục tiêu sản xuất trong tương lai.
Tiêu chuẩn chọn lọc.
Loại những con cái không chửa đẻ.
Những con đực có tốc độ sinh trưởng cao cần chọn lọc.
Điều quan trọng là phải xác lập các mối liên kết hoặc t ương quan di truyền giữa các tính
trạng và qua đó lựa chọn một tính trạng có thể tác động đến một tính trạng khác. Tác
động này có thể tích cực hoặc tiêu cực (có lợi hoặc có hại). Thí dụ chọn lọc về tốc độ sinh
trưởng có thể làm tăng khối lượng sơ sinh, do đó làm tăng các tr ường hợp đẻ khó.
Tiêu chuẩn chọn lọc cần được xếp ưu tiên theo tầm quan trọng kinh tế của các tính trạng.
Một số tiêu chuẩn chọn lọc sẽ đ ược áp dụng trên cơ sở "tất cả hoặc không". Tính tình có
thể là một tính trạng như vậy mà ở đó nếu gia súc đ ược cho là có tính tình không hiền lành
thì phải loại thải, không kể gia súc đó đáp ứng các tiêu chuẩn khác nh ư thế nào.
Người quản lý đàn cần phải nhận rõ được ảnh hưởng của chọn lọc con cái đến toàn đàn.
Trong một đời một bò cái giống có thể sản xuất 8 bê trong khi một con đực có thể sản
xuất được 120 bê.
Điều quan trọng là xác định khía cạnh nào trong quản lý chăm sóc đàn mà ng ười quản lý
có thể tác động để thay đổi năng suất bò cái. Các khía cạnh này là:
Dinh dưỡng
Quản lý phối giống.
Di truyền (chọn lọc)
Bệnh tật.
Dinh dưỡng có thể là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng sản xuất của bò cái nh ưng
yếu tố này không được thảo luận một cách chi tiết trong cuốn sách này. Cuốn sách này
chỉ đề cập đến các vấn đề:
Sinh sản (cấu tạo chức năng của đường sinh dục cái)
Giá trị của chọn lọc

Chọn lọc bò cái như thế nào cho đúng
Các công cụ trợ giúp trong chọn lọc và loại thải

3


Chương 1
Sinh sản của gia súc cái
Giới thiệu
Hiểu biết chắc chắn về sinh lý sinh sản ở bò cái tạo cho những ng ười chăn nuôi có
thể điều khiển và cải thiện năng suất sinh sản của bò. Cải tiến trong quản lý sinh
sản có thể làm tăng hiệu quả kinh tế cho những ng ười chăn nuôi bò.

Giải phẫu cơ quan sinh dục cái
Buồng trứng
Cơ quan sinh dục sơ cấp của con cái là buồng trứng. Buồng trứng có hai chức năng:
sản xuất tế bào sinh dục và hocmon. Các tế bào sinh dục của con cái gọi là trứng.
bò một buồng trứng có hơn 100.000 trứng lúc mới sinh. Tuy nhiên trong suốt đời của
một con bò cái chỉ một số lượng nhỏ trứng sẽ được thụ tinh và phát triển thành bê.
Hocmon được tiết ra từ buồng trứng điều khiển mức độ biểu hiện tính dục, sinh
trưởng và các quá trình phát triển. Chúng sẽ đ ược thảo luận chi tiết sau.
Phần lớn điều khiển về sinh sản liên quan đến điều khiển buồng trứng.

Hậu môn

Âm đạo

Manh nang

Cổ tử

cung

Rãnh cổ tử
cung
Buồng
trứng

Âm hộ
Lỗ niệu
đạo

Thân tử cung

Sừng tử
cung

!ng
niệu đạo
Vòi trứng
Bóng đái

Hình 1: Đường sinh dục của bò cái
- Hậu môn - âm đạo - âm hộ - Cổ tử cung - Thân tử cung - Sừng tử cung - ống dẫn
trứng - Bóng đái - Niệu đạo - Túi niệu
Kích thước và hình dáng của buồng trứng ở bò rất đa dạng. Những ng ười khám thai
có kinh nghiệm có khả năng cảm nhận đ ược buồng trứng của bò khi sờ nắn qua trực
tràng. Buồng trứng có kích thước bằng hạt đậu Hà Lan và ở những bê ch ưa thành
thục về tính chúng có kích th ước nhỏ hơn. Khi bắt đầu thành thục về tính chúng dài
khoảng 2 cm. Sau giai đoạn này kích th ước và hình thái của chúng rất thay đổi. bò


4


thành thục về tính trung bình buồng trứng có kích th ước và hình thái tương tự hạt
hạnh nhân.
Đường sinh dục
Âm hộ: là phần có thể nhìn thấy đ ược ở đường sinh dục cái, nó nằm ngay d ưới hậu
môn và bảo vệ cửa vào âm đạo. Âm đạo dài khoảng 24-26 cm ở hầu hết bò cái đã
thành thục về tính và có hình ống. Lúc giao phối tinh dịch đọng lại trong âm đạo gần
cổ tử cung. Cổ tử cung là cơ quan hình ống có cơ dày nối âm đạo với các bộ phận
khác của đường sinh dục, những người khám có kinh nghiệm có thể cảm nhận đ ược
chúng dễ dàng qua sỡ nắn trực tràng.
những bê cái tơ chưa thành thục về tính đường kính của cổ tử cung có thể <10
mm. thời kỳ thành thục về tính cổ tử cung ở phần lớn bò cái tơ có đ ường kính là 12 cm. những bò cái lớn tuổi hơn đường kính cổ tử cung có thể lên đến 6cm hoặc
hơn và dài 15 cm hoặc hơn. Cổ tử cung có kích th ước tăng lên theo tuổi và số l ượng
bê mà bò mẹ đã đẻ và có khuynh h ướng lớn hơn ở giống bò có nguồn gốc từ Bos
indicus. Cổ tử cung có tác dụng là hàng rào chắn bảo vệ nằm giữa âm đạo và các tổ
chức mô khác của tử cung.
Tử cung được chia thành hai sừng tử cung, chúng cách cổ tử cung khoảng 2-4 cm.
Sừng tử cung xoắn về phía trước và phía dưới và có thể dài đến 40 cm. Bê con sẽ
phát triển trong sừng tử cung sau khi trứng thụ tinh ở trong ống dẫn trứng (hay vòi
fallop). !ng dẫn trứng nối liền loa kèn với sừng tử cung và phần còn lại của đ ường
sinh dục. Buồng trứng được loa kèn bao quanh, loa kèn thu hút trứng đ ược giải
phóng từ buồng trứng và dẫn trực tiếp vào trong vòi fallop. T oàn bộ cơ quan sinh dục
được cố định nhờ một mảnh tổ chức gọi là dây chằng rộng. Dây chằng này cũng
bám vào trực tràng.

Sinh lý sinh sản
Sinh sản đạt kết quả tốt liên quan đến chu kỳ động dục (động dục đều) giao phối,
thụ thai (trứng thụ tinh), chửa, đẻ và tiết sữa (cho bê bú sữa).

Mỗi một thời kỳ trong các giai đoạn này đều đ ược điều khiển bằng hormone.
Hormone là các chất dẫn truyền thông tin hoá học đ ược giải phóng vào trong máu
và tác dụng đến phần khác của cơ thể. Hormone sinh dục cái đ ược giải phóng từ
buồng trứng và từ tuyến nội tiết nằm ở mặt d ưới não - tuyến yên. Hormone được giải
phóng từ tuyến yên chịu sự điều khiển của cơ chế thông tin ng ược, với sự tham gia
của các hormone giải phóng từ buồng trứng và các thông tin nhận đ ược từ não bộ.
Các thông tin từ bộ phận não cao cấp hơn chịu ảnh h ưởng của điều kiện cơ thể, mức
dinh dưỡng và các tín hiệu khác.
Chu kỳ động dục
Trong buồng trứng của bò, trứng phát triển liên tục trong suốt cả đời thành các mụn
nước chứa đầy dịch gọi là noãn nang. Mỗi một trứng mất khoảng 6 tháng để phát
triển. Phần lớn trứng không phát triển đầy đủ và bị tái hấp thu đi một cách đơn giản.
Sự phát triển của trứng đến khi thành thục về tính không cần có hormone của não.
Sau khi thành thục về tính, hormone được tuyến yên ở não tiết ra làm cho một số
trứng được chọn lọc phát triển đầy đủ và giải phóng khỏi buồng trứng có nghĩa là
rụng trứng. Noãn nang có thể có đường kính 10-15 mm ngay trước khi rụng trứng.
Phần lớn các noãn nang khác đ ường kính chỉ đạt 1-2 mm trước khi bị tái hấp thu. Tỷ
lệ thụ tinh cao nhất ở bò cái tơ động dục lần thứ 2 hoặc thứ 3. Mặc dù một số bò cái
tơ sẽ thụ tinh ở lần động dục đầu tiên và sẽ có thai nếu cho phối giống. Chu kỳ động
dục điển hình ở bò là 21 ngày, tuy nhiên có thể giao động trong phạm vi 18-24 ngày.

5


Tỷ lệ đạt tuổi thành thục (%)

Sự thành thục về tính
Sự thành thục về tính được định nghĩa là tuổi hoặc thời kỳ phát triển, mà tại thời điểm
đó gia súc có thể sinh sản đ ược có nghĩa là đã thành thục về tính. Tuổi thành thục
về tính ở bò cái tơ rất thay đổi giữa các cá thể, giống và các điều kiện khác nhau,

đặc biệt là dinh dưỡng.

Khối lượng (kg)
Hình 2: Khối lượng bò cái tơ lai Brahman ở nam Australia lúc thành thục về
tính (G.Fordyce, DPI Queensland, chưa xuất bản)
vùng ôn đới của Australia có khí hậu ôn hoà, điều kiện nói chung thuận lợi bò có
tốc độ sinh trưởng nhanh, bò cái tơ thành thục ở khối l ượng thấp hơn và ở tuổi nhỏ
hơn so với môi trường nhiệt đới khắc nghiệt hơn nh ư môi trường ở miền bắc
Australia.
Ghép đôi giao phối lúc khoảng 1 năm tuổi (th ường từ 13-17 tháng tuổi) có thể là sự
lựa chọn thực tế và mong muốn trong các điều kiện bò sinh tr ưởng tốt. Bò cái có
"khối lượng giao phối tốt nhất" là 280 kg đối với phần lớn giống bò của Anh đ ược
dùng làm chỉ số mà tại đó phần lớn bò cái tơ đạt đ ược thành thục về tính. Chỉ số này
được sử dụng vì ở khối l ượng này 85% bò cái tơ hoặc hơn sẽ bắt đầu động dục nếu
lớn lên trong các điều kiện dinh d ưỡng tốt. Sự chênh lệch về khối l ượng khi bò cái tơ
bắt đầu động dục rất ít: 25 kg trong các điều kiện tốc độ sinh tr ưởng nhanh.
Tình hình này rất khác ở các vùng nhiệt đới khắc nghiệt. Trong các vùng này nghiên
cứu của DPI (Bộ Nông nghiệp Bang Queensland) cho thấy có sự biến động lớn về
khối lượng khi bắt đầu thành thục về tính: 100 kg (tham khảo hình 2). Động dục lần
đầu được phát hiện ở 95% gia súc có khối l ượng nằm trong khoảng 175-375kg và
tuổi nằm trong khoảng 13-33 tháng. Nói chung điều kiện càng khó khăn và dinh
dưỡng càng nghèo, thời gian bắt đầu thành thục về tính càng kéo dài. Lần động dục
đầu tiên thường ở khối lượng và tuổi cao hơn nhiều trong các điều kiện nghèo dinh
dưỡng so với các điều kiện tốt hơn.
Tuổi bắt đầu thành thục về tính trung bình ở bò lai Brahman ở Bắc Queensland là
20,5 tháng và khối lượng 285 kg như vậy ở khối lượng này chỉ 1/2 số gia súc bắt đầu
động dục. Tuy nhiên do khối lượng lớn hơn thường đạt được vào đầu mùa ẩm ướt,
phần lớn bê cái lỡ sẽ đủ lớn để thành thục về tính và đ ược cho giao phối thành công
vào cuối mùa mưa. Khối lượng trung bình lúc thành thục về tính ở mùa vụ thuận lợi ở
Swans Lagoon là khoảng 250 kg và ở mùa không thuận lợi là khoảng 300 kg.

miền Bắc Australia ghép đôi giao phối lúc bò d ưới 18 tháng, bò cái tơ Bos indicus là
20-30% có thai trong thời kỳ ghép đôi giao phối 3 tháng. Tỷ lệ này dao động trong
6


khoảng 20-80% phụ thuộc vào mùa vụ và chăm sóc quản lý. Bổ sung thức ăn ở mức
thấp có thể làm tăng tỷ lệ thụ thai 15%.
các môi trường thuận lợi hơn tỷ lệ thụ thai
có kết quả đạt 70-90% ở thời kỳ ghép đôi giao phối ngắn.
Ghép đôi giao phối
Giao phối lúc bò cái động dục là lúc bò cái tiếp nhận, tìm kiếm và thu hút con đực.
Động dục bình thường kéo dài khoảng 6-30 giờ. Bò cái Bos indicus và bò ở các môi
trường nóng hơn có xu hướng thể hiện các biểu hiện động dục trong thời gian ngắn
hơn.
Trong thời kỳ động dục con cái biểu hiện các dấu hiệu điển hình về các hành vi này
do khối lượng lớn oestrogen tiết ra từ các noãn nang trước khi rụng trứng tác động
đến não gây ra. Các dấu hiệu này là: Bồn chồn, nhảy lên các bò cái khác, đứng yêu
cho con khác nhảy lên, từ tử cung và tử cung giải phóng một l ượng niêm dịch dạng
sợi trong suốt được xem là các sợi thu hút con đực. Các biểu hiện bên ngoài về hoạt
động tính dục có thể nhìn thấy đ ược là âm hộ trở nên sưng, đỏ, lông và đuôi xù lên,
có các vết cọ sát ở phần đầu của đuôi và các x ương đuôi nhỏ.

Hình 3 : Phôi bò
Thụ thai
Thụ thai là sự thụ tinh thành công của một trứng bởi một tinh trùng sau khi rụng
trứng. Rụng trứng do luternizing hormone (LH) được giải phóng từ tuyến yên ở não
gây ra. Rụng trứng thường xảy ra khoảng 12 giờ sau khi các biểu hiện động dục kết
thúc. Tuy nhiên giới hạn này có thể nằm trong khoảng 2-26 giờ. Rụng trứng chậm
sau khi kết thúc biểu hiện động dục bảo đảm rằng tinh trùng đã ở trong đ ường sinh
dục con cái ít nhất 1-6 giờ trước khi trứng chuyển xuống ống dẫn trứng để thụ tinh.

Thời gian này cho phép tinh trùng trải qua một quá trình tăng hoạt lực, quá trình này
giúp cho sự thụ tinh xảy ra. Quá trinh fnày nhằm thay đổi cấu trúc đầu tinh trùng làm
cho nó có khả năng thụ tinh một tế bào trứng có hiệu quả.
Sự thụ tinh cần phải xảy ra trong vòng 6 giờ sau khi rụng trứng. Sau thời gian này
trứng không được thụ tinh sẽ thoái hoá hoặc nếu được thụ tinh thì hợp tử cũng không
có khả năng sống. Sau khi thụ tinh hợp tử mất 6-7 ngày để chuyển xuống ống dẫn
trứng đi vào trong sừng tử cung và cấy vào đó.
Sau khi rụng trứng, khoảng trống do noãn nang rụng đi để lại ở trong buồng trứng
được lấp đầy bởi các tổ chức có màu da cam hơi vàng, và sau 5 ngày hình thành thể
vàng. Thể vàng sản sinh ra progesterone cần thiết để duy trì thai. Sau 5-6 tháng thai
nghén các cấu trúc khác nh ư nhau thai sản xuất đủ progesterone để duy trì thai cho

7


đến sau khi sinh. Progesterone cũng tác động đến não, ức chế giải phóng hormone
tuyến yên và ngăn cản bò có thai động dục.
Nếu bò cái không có thai, tử cung sẽ giải phóng prostaglandin khoảng 16-17 ngày
sau khi rụng trứng. Các prostaglandin làm tiêu tan thể vàng và nh ư vậy ngăn cản sự
sản xuất tiếp tục progesterone. Tiếp theo đó hormone kích thích noãn nang (FSH)
được giải phóng từ tuyến yên bò và làm cho chu kỳ động dục mới bắt đầu. FSH có
thể tạo khả năng cho một hoặc nhiều noãn nang đang phát triển có kích th ước nhỏ
(đường kính 1-2 mm) lớn lên đủ kích th ước để rụng trứng.
Một con cái sẽ tiếp tục chu kỳ động dục 21 ngày một lần trừ khi nó có thai hoặc chịu
stress về dinh dưỡng làm cho não giảm sản xuất hormone từ tuyến yên.
Chửa
Phôi thai rời khỏi ống dẫn trứng và đi vào tử cung vào ngày thứ 6 hoặc thứ 7. Một số
ngày sau đó phôi bám vào vách tử cung. Sau đó phôi giải phóng ra các tín hiệu hoá
học nhắc nhở các hệ thống ở bò cái về sự hiện diện của nó. Điều này ngăn cản tử
cung bò giải phóng prostaglandin làm tiêu tan thể vàng, chấm dứt việc chửa.

Không phải toàn bộ sự thụ thai đều đưa đến có chửa. Bình thường khoảng 25% phôi
bị mất đi trong vòng 17 ngày từ khi thụ thai. Điều này có thể là do khuyết tật nhỏ về
di truyền hoặc phôi không có khả năng chuyển đ ược các tín hiệu hoá học mạnh đến
hệ thống hormone của bò. Trên thực tế một tỷ lệ có thai 75% là tỷ lệ có thể đạt đ ược
ở một chu kỳ động dục đơn. Điều này giải thích tại sao 3 chu kỳ động dục hoặc
nhiều hơn (tối thiểu 9 tuần) là cần thiết để đạt được tỷ lệ có thai 95%.
Tỷ lệ phôi chết tăng lên trong vòng 17 ngày sau khi thụ thai có thể do bò cái chịu
stress từ nhiệt độ không bình thường, nghèo dinh dưỡng hoặc mắc bệnh. Trong
phần lớn trường hợp mất phôi sớm được xem là không thụ thai vì bò cái sẽ động dục
trở lại ở thời điểm bình th ường.
Tỷ lệ không có chửa sau 17 ngày không nên v ượt quá 3% nếu không có chửa quá
mức này cần phải được điều tra vì có thể liên quan đến các bệnh: phẩy khuẩn
(vilriosis) bệnh Trichomonas (Trichomonasis), bệnh Lepto (Leptospirosis).
Bò cái có thời gian chửa trung bình là 283 ngày, bình thường khoảng 275-295 ngày.
Một số giống như Jersey có thời gian chửa ngắn hơn trong khi các giống Châu "u có
thời gian chửa dài hơn. Bò Bos indcus chửa dài nhất khoảng 290 ngày. Chửa bê đực
thường dài hơn chửa bê cái 1 hoặc 2 ngày.
Chửa sinh đôi xảy ra khoảng 2 trong 1000 lần sinh đẻ ở bò Bos indicus và con lai
của chúng, nhưng lên đến 30 trong 1000 lượt sinh đẻ ở bò sữa, 90% trường hợp
chửa sinh đôi máu đến nuôi dưỡng bê là chung cho cả hai. Nếu một bê là đực và
một bê là cái, hormone do phôi thai đực sản xuất giữa ngày thứ 80 và ngày thứ 120
trong giai đoạn có chửa có thể làm rối loạn sự phát triển của cơ quan sinh dục bê cái
dẫn đến tình trạng được gọi là bất dục (freemartin). Freemertin có tính đực ở bên
ngoài và thường mất một số phần ở đường sinh dục. Bê Freemertin không có khả
năng sinh sản và cần phải loại thải. 10% trong các bê sinh đôi có 2 giới tính hỗn hợp
có thể phát triển thành con cái bình th ường.
Đẻ
Đẻ hay sinh lần đầu tiên bắt đầu do bê chứ không do phải bò mẹ: khi đạt đến một
giai đoạn phát triển nhất định, não bê giải phóng các hormone gây stress gọi là
corticosteroid hormone và hormone này gây ra quá trình sinh đẻ, đẻ cũng một phần

do di truyền quyết định. Thời điểm đẻ thích hợp có khả năng đ ược kế thừa. Điều này
có nghĩa là thời gian chửa có thể thay đổi bằng sự chọn lọc.
Quá trình sinh đẻ có sự tham gia và điều khiển của nhiều hormone. Giải phòng
hormone corticosteroid ở bê làm cho tử cung bò mẹ giải phóng prostaglandin.
Prostaglandin làm tiêu tan thể vàng, làm dãn cổ tử cung và gây co bóp tử cung

8


Hormone relaxin làm dãn dây chằng vùng chậu, chính hormone này làm cho bò cái
đi lại kém vững chắc hơn và đuôi d ường như nâng cao hơn khi bò cái "đứng bật
dậy". Oxytocin gây co bóp tử cung mạnh hơn xảy ra ở thời kỳ cuối của giai đoạn đẻ.
Oxytocin cũng là hormone làm tăng thêm sữa.
Khi đẻ phần lớn bê xuất hiện chân tr ước duỗi ra và đầu tựa lên chân trước hoặc nằm
giữa 2 chân trước. Nếu các chân sau ra trước đó là đẻ ngôi nông. Quá trình đẻ hoàn
thành khi nhau thai được đẩy ra ngoài.
Phần lớn bê chết trong vòng 1 tuần sau khi sinh. Tỷ lệ chết của bê lên đến 10%
trong khoảng thời gian từ khi kiểm tra xác định có chửa đến khi cai sữa, có thể xảy
ra ở các môi trường khắc nghiệt. Bê chết do nhiều nguyên nhân khác bao gồm: bê
chết khi sinh ra hoặc yếu do đẻ khó, bệnh tật và các nhân tố stress khác hoặc nuôi
dưỡng bò mẹ không đầy đủ dẫn đến thiếu sữa.
Tiết sữa

Năng lượng cần thiết hàng ngày (MJ)

Khả năng tiết sữa của con mẹ là nhân tố quyết định chủ yếu sự sống sót của bê và
khối lượng cai sữa ở bê. Yêu cầu về thức ăn và năng l ượng của bò cái ở thời kỳ sau
của giai đoạn có chửa và ở giai đoạn tiết sữa rất cao. Những ng ười sản xuất có thể
xác định điều này bằng cách đánh giá thay đổi điểm thể trạng ở bò cái.


Chửa
Tiết sữa

Tháng sau khi thụ thai
Hình 4: Nhu cầu năng lượng hàng ngày để duy trì thể trạng một bò lai
Brahman khối lượng 400kg (Tính toán của G. Forduyce, DPI, Charters T owers)
Bò có thể bù lại từng phần nhu cầu năng l ượng thêm ra trong lúc cho sữa bằng cách
tăng lượng thức ăn ăn vào, lượng thức ăn ăn vào có thể tăng >20%. Trong các điều
kiện dinh dưỡng tốt lượng thức ăn ăn vào tăng này có thể đủ để cho bò cái duy trì
khối lượng và thể trạng của cơ thể trong khi cung cấp sữa nuôi d ưỡng một con bê
(hoặc trong các trường hợp ngoại lệ tăng khối lượng lên một ít). Điều này có thể xảy
ra ở bắc Australia vì bò đẻ trong mùa mưa ẩm ướt.
Do nhu cầu năng lượng cho tiết sữa, năng suất tối ưu của bò cái chỉ có đ ược khi
những người chăn nuôi kết hợp hài hoà giữa tháng cho sữa và nuôi d ưỡng. Bò đẻ
trong các thời điểm không thuận lợi nh ư mùa khô sẽ tìm cách khắc phục sự thiếu hụt
năng lượng bằng cách huy động các phần dự trữ của cơ thể (giảm khối l ượng và thể
trạng của cơ thể) và bằng cách sản xuất ít sữa hơn.
Tốc độ sinh trưởng của bê trong các điều kiện khắc nghiệt: ở Swan Lagoon (vùng
nhiệt đới khô hanh) ở bắc Queensland bê bú sữa tăng tr ưởng điển hình 0,8-0,9
kg/ngày trong mùa ẩm. Tuy nhiên sự tăng trưởng này giảm xuống đến 0,5 kg/ngày
trong đầu mùa khô và chỉ còn 0,3 kg/ngày vào cuối mùa khô.

9


Thiếu dinh dưỡng (protein và năng lượng) đặc biệt nghiêm trọng vào cuối mùa khô.
Tại thời điểm này lượng chất khô ăn vào của những bò chửa to không đ ược bổ sung
thức ăn và ở những bò sữa chăn trên đồng cỏ có chất l ượng kém điển hình là
khoảng 1/3 đến 1/2 nhu cầu cần thiết. Bò cái ở trong các tình trạng này sẽ giảm khối
lượng ở mức độ cao 1,25kg/ngày.

Động dục trở lại sau khi đẻ

Từ khi đẻ đến khi có chửa (tháng)

Động dục trở lại của bò cái chịu ảnh h ưởng của tình trạng dinh dưỡng và tiết sữa.
Sau khi đẻ bò mất ít nhất 3-4 tuần để đường sinh dục trở lại kích th ước bình thường
trước khi động dục có thể bắt đầu. Động dục lần đầu sau khi đẻ nói chung yếu, ngắn
hơn bình thường, khả năng thụ thai thấp. Rất ít bò thụ thai nếu cho giao phối vào lúc
đó. Vì vậy, do thời gian chửa kéo dài xấp xỉ 9 tháng 10 ngày và một tỷ lệ phần trăm
mất phôi là rất bình thường, bò cái cần phải động dục trong vòng 2 tháng sau khi đẻ
để khoảng cách giữa các lần đẻ là 12 tháng. Khoảng cách trung bình giữa các lần
đẻ và động dục là khoảng 7 tháng ở Bắc Australia.
đó tỷ lệ cai sữa bình quân
khoảng 55-60%. Đây chủ yếu là kết quả của dinh d ưỡng nghèo, khả năng thụ thai
thấp và cho bú kéo dài.

Tỷ lệ cai sữa (%) = (Số bê cai sữa/Số bò cái phối giống) x 100
Hình 5: Tỷ lệ cai sữa và thời gian không động dục sau khi đẻ ước tính cho đàn
bò thịt miền bắc Australia phối giống liên tục
(Tính toán của G.forduyce DPI, chanrters T owers)
Hình 5 cho thấy rằng: để đạt được tỷ lệ 80% cai sữa, bò cái phải có chửa trong vòng
4 tháng sau khi đẻ. Để động dục bò cái cần phải có một tập hợp các noãn nang phát
triển khoẻ mạnh có thể rụng trứng với sự hỗ trợ thích hợp. Dinh d ưỡng là nhân tố
điều chỉnh chủ yếu sự phát triển của noãn nang. Khi buồng trứng đã đạt đ ược một
trạng thái có thể rụng trứng. Trúng không rụng một cách tự động. Trong khi dinh
dưỡng có ảnh hưởng xa hơn đến sự tăng trưởng của noãn nang, cho bú ảnh hưởng
mạnh nhất đến sự phát triển của noãn nang.
nh hưởng của dinh dưỡng
Do tình trạng năng lượng của bò cái giảm xuống qua mùa khô, sự phát triển của
noãn nang trong buồng trứng bị chậm lại. Đó là nguyên nhân chủ yếu tại sao bò cái

ở điều kiện dinh dưỡng nghèo hơn khi đẻ mất thời gian dài hơn để chửa lại và có tỷ
lệ có chửa thấp hơn sau khi cai sữa. Để tránh tình trạng này những ng ười sản xuất
có thể sử dụng các kỹ thuật chăm sóc quản lý (thí dụ nh ư cai sữa, giảm bớt mật độ
chăn thả, cường độ chăn thả, tỷ lệ đàn gia súc phối giống theo mùa vụ, bổ sung thức
ăn) để giữ khối lượng và điều kiện bình thường cho bò cái qua mùa khô, bằng cách
đó sẽ đảm bảo cho noãn nang phát triển bình th ường. Thường thường người ta nhận
thấy giá của đầu ra (bán bê) lớn hơn nhiều chi phí đầu t ư cho việc chăm sóc quản lý
10


này. Tuy nhiên các nhân tố như: tỷ lệ có thai, giá trị thu hồi của bò cái cần đ ược
xem xét cân nhắc khi tính toán chi phí cho bất kỳ chế độ cho ăn bổ sung nào.
Sự phát triển noãn nang không bao giờ ngừng lại và thậm chí xảy ra trong thời gian
có chửa để chuẩn bị cho lần chửa tiếp theo. Rụng trứng bị ngăn cản trong thời gian
chửa và tất cả noãn nang được tái hấp thu đi. Nếu sự phát triển của noãn nang bị
chậm do stress về thức ăn dinh d ưỡng cần có thức ăn giàu năng lượng để các nang
trứng khoẻ mạnh được hồi phục.
Để tránh các vấn đề về thụ thai cho bò cái chăn thả trên đồng cỏ có chất l ượng kém,
chúng có thể phải được cung cấp thức ăn bổ sung giàu protein và năng l ượng như
bột hạt bông, rỉ mật với urê, ít nhất 50 ngày trước khi đẻ. Việc này sẽ phục hồi sự
phát triển của noãn nang đã từng bị phát triển chậm lại. Việc này đ ược gọi là cho ăn
bổ sung cố định. Nếu ngay sau thời kỳ cho ăn bổ sung có một thời kỳ nghỉ, sự phát
triển tiếp tục của noãn nang sẽ bị chậm lại trong giai đoạn sau khi đẻ nh ư vậy tạo
khả năng thụ thai sớm hơn và tỷ lệ bò có thai cao hơn tr ước khi cai sữa.
Nếu cung cấp thức ăn bổ sung giàu năng l ượng để phục hồi sự phát triển của noãn
nang bị chậm lại cho đến khi đẻ, cần phải cho ăn tiếp tục ít nhất 2 tháng. Vì vậy rất
nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng trong thời gian tiết sữa bò mẹ có khuynh
hướng tập trung chất dinh dưỡng cho việc sản xuất sữa. Sự phát triển của bò mẹ và
bê sau khi bò đẻ sẽ tốt hơn nhưng khả năng đáp ứng về thụ thai sẽ thấp. Vì vậy
dạng bổ sung này thường không có hiệu quả kinh tế.


Hình 6: Bò ăn thức ăn bổ sung
nh hưởng của cho bú
Cho bú sẽ ức chế giải phóng các hormone sinh sản ở não và vì vậy ức chế khả năng
động dục của bò mẹ. Thêm vào đó ở bò có sự tập trung về năng l ượng cho sản xuất
sữa. Một khi ngừng cho bú, bò mẹ th ường nhanh chóng bắt đầu động dục lại. Thực
hiện cai sữa tạo khả năng cho bò giữ đ ược thể trạng tốt trong suốt mùa khô sẽ làm
cho khả năng có thai tăng lên do giảm stress về dinh d ưỡng.
Cai sữa tạm thời trong 48 - 72 giờ là phương pháp cải thiện sự thụ thai. Cai sữa tạm
thời đã thu được các kết quả đáng kể trong một số hoàn cảnh nh ưng nó dường như
11


chỉ có tác dụng từng lúc. Phức tạp hơn nữa là ở chỗ cai sữa tạm thời tạo ra động dục
lần đầu sau khi đẻ, đó là động dục ngắn và ít có khả năng thụ thai. Cai sữa tạm thời
ở thời điểm duy nhất được khuyến cáo là khi sử dụng kết hợp với các ph ương pháp
gây động dục hàng loạt đặc biệt sử dụng liệu pháp progesterone trong ch ương trình
phối giống nhân tạo ở bò sữa.
Nhiều nghiên cứu đề nghị cho bê ăn thêm để giảm ảnh h ưởng của bú sữa và tạo
khả năng cho bò cái động dục trở lại sớm hơn. Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây
cho thấy nói chung cho ăn thêm không có tác dụng tốt hơn và trong điều kiện chăn
nuôi quảng canh không nên áp dụng biện pháp này.

Chăm sóc, quản lý chung
Các thông tin trước đã mô tả các vấn đề sinh học cơ bản để tạo ra 1 con bê. Nhu
cầu của gia súc cần phải gắn liền với nguồn tài nguyên sẵn có và thị tr ường để có
thể đạt được các mục tiêu. Sau rất nhiều các nghiên cứu: phân tích tài chính, các mô
hình trình diễn nhiều năm và kinh nghiệm tại các trang trại, hầu hết đã có các hệ
thống nuôi dưỡng rất có hiệu quả có thể sử dụng được cho tất cả các vùng.
Tỷ lệ chết của con cái th ường là vấn đề rất phổ biến, đặc biệt là trong các vùng chăn

nuôi quảng canh. Trong nhiều năm tỷ lệ con cái chết trên tổng số bò loại thải ở
Queensland là khoảng 35%, điều này cho thấy toàn bộ tỷ lệ chết hàng năm là 10%.
Chăm sóc quản lý được cải thiện cho thấy tỷ lệ con cái bán ra hàng năm tăng lên
40%. Cách tính toán chi phí có hiệu quả nhất để có lãi hơn trong nhiều đàn bò thịt là
cần phải giảm tỷ lệ chết của con cái. Các biện pháp chính có thể sử dụng là giảm
mật độ chăn thả, thực hiện cai sữa tốt hơn, tiêm vacxin và bổ sung thức ăn có kết
hợp với tách để nuôi riêng theo mục đích đã định sẵn.
Dinh dưỡng
Sản xuất thịt bò từ gia súc chăn thả trên đồng cỏ là chuyển cỏ thành thịt bò có chất
lượng tốt, ăn ngon. Đồng cỏ cung cấp thức ăn sẵn có rẻ nhất. Vì vậy kiểm soát bò
tốt, bảo đảm cho bò có đủ thức ăn thoả mãn yêu cầu và cung cấp n ước đầy đủ cỏ
chất lượng tốt là cơ sở để chăn nuôi bò thành công.
Dinh dưỡng (chất lượng đồng cỏ) thường ít khi ở trạng thái tối ưu. Có hai biện pháp
chính để giải quyết sự thiếu hụt dinh d ưỡng của đồng cỏ (ngoài việc trồng các giống
đã cải tiến và đưa vào các cây họ đậu): chăm sóc quản lý và bổ sung thức ăn. Chăm
sóc quản lý tốt bao gồm: điều chỉnh mật độ chăn thả, phân đàn, kiểm soát phối
giống, cai sữa vào thời điểm tốt nhất, và lựa chọn các chất liệu di truyền hợp lý. Bổ
sung thức ăn (thường là hỗn hợp các thức ăn khác nhau: nitơ, l ưu huỳnh, phốtpho và
năng lượng tuỳ thuộc vào từng vùng và thời gian trong năm) có thể là rất đắt.
Nh n giống
Bò tốt là những con bò sẽ sản xuất một cách có hiệu quả trong vùng nông thôn trên
cơ sở của chế độ chăm sóc quản lý sẵn có và thoả mãn các nhu cầu xác định của
thị trường. Trong các vùng stress về dinh dưỡng thường xuyên xảy ra và rất nghiêm
trọng đặc biệt là ở những nơi có các stress khác về môi tr ường như nóng và ký sinh
trùng, các giống thích thi với khí hậu nhiệt đới ở mức độ cao (nh ư Zebu hoặc Sanga)
cần sử dụng để giảm chi phí và tăng năng suất. Tỷ lệ của Zebu hoặc Sanga phải
được cân bằng so với tiềm năng năng suất cao hơn của các giống bò Anh và bò
châu Âu ở trong các môi trường tốt hơn.
Phối giống
các vùng năng suất đồng cỏ cao hơn, phối giống theo mùa vụ th ường được sử

dụng để hạn chế đẻ tràn lan trong năm, bằng cách đó tập trung thời gian chăm sóc
bò cái và bê cai sữa vào một thời điểm xác định trong năm và sản xuất nhiều bê cai
sữa đồng nhất về khối lượng và tuổi.
các vùng có đồng cỏ cằn cỗi hoặc cằn cỗi
12


theo mùa, mục tiêu chủ yếu của phối giống theo mùa vụ là để ngăn cản tiết sữa
trong mùa khô. Tốt nhất là bò cái tiết sữa trong mùa đồng cỏ phát triển. Việc này
cũng sẽ tạo ra những bê cai sữa nặng cân nhất và cải thiện tỷ lệ đẻ hàng năm. Thời
điểm để bắt đầu phối giống quan trọng hơn khoảng thời gian cho phối giống rất
nhiều. Trong một số vùng phối giống bò cái liên tục từ lần thả đực vào đàn cái thứ 2
trở đi có thể là tốt nhất.
Cai sữa
Trong các đàn bò được chăm sóc quản lý tốt trong môi tr ường thuận lợi, bò cái phải
chửa vào lúc cai sữa. Đối với những bò ch ưa chửa khi cai sữa bê, ngừng tiết sữa
trong nhiều trường hợp tạo điều kiện cho bò động dục. Trong các mùa vụ khó khăn
cai sữa sớm hơn có thể làm tăng tỷ lệ thụ thai và giữ ổn định thể trạng của cơ thể và
như vậy sẽ giảm chi phí nuôi bò và bảo đảm tỷ lệ sống cao. Khối l ượng và thể trạng
tốt trước khi bước vào mùa phối giống tiếp có thể làm tăng một cách đáng kể tỷ lệ
thụ thai. Tuy nhiên những bê được cai sữa ở tuổi còn non phải đ ược chăm sóc quản
lý để bảo đảm rằng chúng tiếp tục lớn lên.
Chăm sóc sức khoẻ đàn bò
Một số bệnh và ký sinh trùng có khả năng làm giảm hiệu quả kinh tế chăn nuôi bò
thịt ở Queensland. May mắn là bò đ ược nuôi dưỡng tốt và sử dụng vacxin sẽ khoẻ
mạnh, ít bệnh tật. Các thông tin về sức khoẻ của đàn nông dân có thể có đ ược từ
cán bộ chăn nuôi của địa phương, nhân viên thú y hoặc các thầy thuốc thú y t ư
nhân.
Bò cái tơ
Các môi trường khắc nghiệt

Trong vùng nhiệt đới của miền bắc Australia tỷ lệ có thai ở bò cái tơ 2 năm tuổi
thường <50%. Như vậy, lần tiết sữa đầu tiên thường xảy ra trong mùa khô, nên cả tỷ
lệ nuôi sống và khả năng thụ thai đều thấp. Để đối phó với những vấn đề này, bò cái
tơ thích hợp là bò cái tơ và bò cái 3,5 năm tuổi cần đ ược nuôi dưỡng đặc biệt. Nuôi
dưỡng tốt bò sẽ thành thục về tính sớm, tỷ lệ cai sữa cao, tỷ lệ chết thấp và dễ xác
định các con cái loại thành bò thịt. Chỉ có những con bò dễ chăm sóc và có hiệu quả
được đưa vào đàn bò cái ở 3,5 tuổi.
Sau đây là một ví dụ về một hệ thống duy trì chăm sóc quản lý riêng bò cái và bò cái
tơ. Cần có hai bãi chăn thả bò cái tơ có rào chắn, một bãi cho bò cai sữa đến 18
tháng tuổi. Từ đó chúng được chuyển sang bãi có hàng rào chắn thứ hai rộng hơn
cho 2 năm sau. Các bò cái tơ nhỏ được nuôi tách ra cho đến khi đủ khối l ượng để
nhập vào những bò cai sữa lớn tuổi hơn.
Thời gian phối giống hạn chế 3-4 tháng đ ược khuyến cáo cho bò cái tơ ngay cả ở nơi
phối giống bò cái theo kiểu liên tục, phối giống bò lúc 15-18 tháng tuổi, nếu chăn
sóc quản lý tốt có thể làm tăng số bê đẻ ra trong đàn 5 đơn vị, với chi phí thấp. Tất
cả bê được cai sữa vào cuối thời kỳ phối giống. Bổ sung thức ăn có thể sử dụng rất
có hiệu quả vì bò được nuôi tách riêng thành các nhóm mục tiêu theo ý muốn.
3-5
tuổi những bò non hoặc được chuyển vào đàn bò giống hoặc chuyển sang nuôi thịt.
Những vùng có điều kiện dinh dưỡng tốt
Nguyên tắc áp dụng cho việc chăm sóc bò cái tơ và bê trong các vùng này cũng
giống như trong các môi trường khắc nghiệt. Tuy nhiên phối giống lúc 15-18 tháng
tuổi thực sự là một tiêu chuẩn và bò cái tơ đạt khối l ượng lúc thành thục sớm hơn
nhiều, nên bò cái non đưa vào trong đàn giống chỉ mới 2,5 năm tuổi. Khối l ượng lúc
thành thục về tính thường < 280 kg đối với bò giống của Anh.
Một số sự khác nhau trong chăm sóc quản lý là:

13








Cho ăn thức ăn bổ sung để đạt được tăng trọng sau cai sữa 0,5kg/ngày thực tế
có thể thực hiện được.
Thiếu dinh dưỡng trong thời kỳ đầu có chửa cần phải đ ược ngăn chặn vì nó có
thể hạn chế phát triển của khung chậu và dẫn đến đẻ khó.
Phối giống nói chung chỉ nên trong vòng 9 tuần, bắt đầu sớm hơn 1 tháng đối với
bò tơ để đảm bảo có thức ăn chất lượng cao khi bò đẻ.
Sử dụng đực giống 15-18 tháng tuổi hoặc đực giống có EBV về khối l ượng sơ
sinh thấp.

14


Chương 2
Giá trị của chọn lọc bò cái
Giới thiệu chung
Những con cái tạo nên đàn giống trong các trại chăn nuôi bò thịt. Cũng nh ư trong
bất kỳ nhà máy nào khả năng cho lãi phụ thuộc vào số l ượng đơn vị được sản xuất
ra và giá trị tương đối của mỗi một đơn vị sản phẩm trừ đi chi phí sản xuất chúng có
nghĩa là
Lãi trong trại chăn nuôi bò thịt = (Số l ượng bò bán ra x giá bán) - chi phí.
Đàn bò cái ảnh hưởng đến toàn bộ các phần của phương trình này. Thông qua chọn
lọc con cái những người sản xuất có thể làm tăng tỷ lệ thụ thai, khối l ượng bê cai
sữa, khối lượng bò thịt và giá trị bán thịt móc hàm v.v. Tăng khả năng thụ thai và tỷ
lệ nuôi sống sẽ làm tăng số l ượng gia súc bán ra. Chọn lọc để thích nghi môi tr ường,
tăng tốc độ sinh trưởng, tính tình, cấu trúc cơ thể và theo các tính trạng thịt xẻ sẽ

ảnh hưởng đến giá bán và lợi nhuận. Các yếu tố nh ư thích nghi môi trường, bao gồm
cả sức đề kháng đối với bệnh tật và ký sinh trùng, tốc độ sinh tr ưởng cao sẽ ảnh
hưởng đến chi phí để sản xuất mỗi gia súc cho đến khi đạt khối l ượng giết mổ.
Người quản lý chăn nuôi đàn gia súc cần tập trung vào chọn lọc đàn làm giống và
quyết định cách chăm sóc quản lý để tăng lợi nhuận của đàn trong một thời gian dài.
Tiến bộ nhanh chóng nhất trong cải biến di truyền đàn bò thịt có thể đạt đ ược thông
qua chọn lọc bò đực giống một cách chính xác và có hiệu quả. Trung bình một đực
giống có thể ảnh hưởng di truyền đến 50-150 bê trong suốt đời làm việc của nó
trong khi mỗi con cái chỉ chuyển các đặc tính di truyền cho khoảng 5-10 con cái
trong đời của nó. Tuy nhiên do số lượng của con cái và mối quan hệ quan trọng của
nó với các cản trở của môi trường trang trại, thí dụ khả năng sản xuất của đồng cỏ,
chúng tiêu tốn nhiều nguồn lợi tự nhiên. Điều này là hợp lý vì nhiều nguồn lợi thu
được từ đàn giống là do những thay đổi trong chăm sóc quản lý, thí dụ nuôi d ưỡng
các con giống đã cải tiến.
Những người chăn nuôi bò thịt sử dụng nhiều thời gian chọn lọc bò cái tơ thay thế và
đánh giá những con cái đã thành thục về tính để giữ lại trong đàn. Chọn lọc đ ược
tiến hành hoặc bằng quan sát (chủ quan) hoặc sử dụng cả các tính trạng có thể nhìn
thấy được và đo lường (khách quan) thí dụ đo khung chậu và kết quả kiểm tra chẩn
đoán có thai. Khi chúng ta xem xét một đàn gia súc ở góc độ triển vọng về quản lý
hay như một khách thăm một xí nghiệp bò thịt chúng ta cần chú ý:



đến các đặc điểm có thể nhìn thấy đ ược của đàn bò giống (thí dụ giống, mầu sắc
và đàn bò nhìn như thế nào).
sự phù hợp của bò thịt cho các thị trường mục tiêu (thí dụ biến động về tuổi, khối
lượng, giai đoạn kết thúc, giống và các yêu cầu khác của thị tr ường).

Đàn giống là nhãn mác cho các quyết định về quản lý đã đ ược đưa ra khi kết hợp với
các trở ngại về nuôi dưỡng, khi quyết định tập trung chú trọng đến thị tr ường, sự di

truyền của gia súc, giống sử dụng và các cơ hội có thể sử dụng để chọn lọc.

Hiệu suất sinh sản
Có thể nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến lợi nhuận của các trang trại bò thịt là
sinh sản, đặc biệt với khuynh h ướng giảm tuổi giết thịt.
Ngoài thiệt hại về tài chính nhất thời do kết quả của năng suất sinh sản thấp, tiến bộ
di truyền trong đàn cũng giảm do sinh sản kém. Đẻ kém sẽ sản xuất ít bò cái tơ để
thay thế. Hậu quả là phải giữ lại những bò cái tơ có phẩm chất thấp kém hơn, không
loại thải được những bò cái có năng suất kém hoặc phải nhờ đến biện pháp mua

15


thay thế bổ sung. Không kể đến giá trị hoặc tiềm năng của bò cái, bò cái sẽ không
đạt tiêu chuẩn nếu không đẻ bê đều đặn. Đều đặn phụ thuộc vào trang trại ở đó đàn
gia súc được nuôi. vùng có điều kiện tốt, đều đặn có thể có nghĩa là cứ 12 tháng
sản xuất 1 bê. Tuy nhiên ở các môi trường khắc nghiệt hơn như ở Bắc Australia, điều
này có thể có nghĩa là 18 tháng sản xuất một bê hoặc là bò cái sản xuất 2 bê trong
3 năm. Điểm quan trọng là năng suất của đàn cần phải đ ược so sánh với các đàn
khác trong cùng một vùng hoặc cùng nước.
Sản xuất 12 tháng 1 bê đòi hỏi các kỹ năng trong xây dựng kế hoạch, chọn lọc, nuôi
dưỡng và quản lý sinh sản. Dinh dưỡng không đủ, bệnh tật và chăm sóc kém đàn
giống có thể dẫn đến giảm tỷ lệ đẻ một cách nghiêm trọng.
Để đánh giá việc quản lý sinh sản của một đàn bò thịt bạn cần phải xác định hiệu
suất sinh sản. Tỷ lệ đẻ thường được sử dụng để biểu thị hiệu suất nhân giống và
được tính toán bằng cách chia số l ượng bê sống cho số lượng bò cái cho phối giống
và nhân với 100.
Bê sinh ra
Tỷ lệ (%) đẻ =
x 100

Bò cho phối giống vào năm trước
Tỷ lệ đẻ (%) trung bình của đàn bò thịt ở Queensland dao động giữa 55 và 85% cho
thấy rằng hiệu suất sinh sản là vấn đề kinh tế quan trọng đối với những ng ười chăn
nuôi bò thịt. Tỷ lệ đẻ không cho ta thấy đ ược toàn bộ bức tranh kinh tế về đàn
giống. Các chỉ tiêu nh ư tỷ lệ (%) bê cai sữa hoặc khối l ượng bê cai sữa trên bò cho
phối giống cung cấp các thông tin tốt hơn về sinh sản, cho ăn, chọn lọc và chăm sóc
quản lý.
Bê cai sữa
Tỷ lệ (%) cai sữa =
x 100
Bò cho phối giống vào năm tr ước
Khối lượng bê cai sữa
cho 1 bò phối giống

=

Tổng số khối lượng bê lúc cai sữa
Số bò cho phối giống vào năm trước

x 100

Khi đàn bò có khối lượng cai sữa cá thể cao, tỷ lệ phần trăm bê cai sữa có ảnh
hưởng rõ rệt đến khối lượng của bê cai sữa trên 1 bò cho phối giống nh ư ở bảng 1:
Bảng 1: nh hưởng của tỷ lệ đẻ (!) đến khối lượng bình qu n của bê trên bò
cái cho phối giống
Khối lượng cai sữa
220
180
150
260

bình quân (kg)
Tỷ lệ đẻ %
Khối lượng cai sữa bình quân / Bò cho phối giống năm tr ước
100
260
220
180
150
90
234
198
162
135
80
208
176
144
120
70
182
154
126
105
60
152
132
108
90
Thí dụ nếu khối lượng cai sữa bình quân của đàn là 220 kg và tỷ lệ đẻ là 80%, khối
lượng bình quân của bê được cai sữa /bò cho phối giống sẽ là 176 kg.

Các thành tựu có thể đạt được ở bất kỳ trang trại bò nào phụ thuộc vào một số nhân
tố. Trong các môi trường rất thuận lợi tỷ lệ cai sữa có thể là 90% với khối l ượng cai
sữa bình quân 260 kg tương đương với 234 kg khối lượng cai sữa cho một bò trong
đàn giống. Tuy nhiên trong các điều kiện khắc nghiệt hơn tỷ lệ cai sữa bình quân có
thể chỉ đạt 70% khối lượng bê bình quân là 180 kg tương đương với 120 kg bê cai
sữa/1 bò.

16


Điểm quan trọng là những người chăn nuôi không nên quan tâm quá đến những gì
sẽ đạt được trong các môi trường khác mà phải quan tâm hơn đến những gì mà
những người chăn nuôi khác sẽ đạt đ ược trong môi trường tương tự.
Để tăng hiệu suất sinh sản người chăn nuôi cần phải:
Tính toán tỷ lệ sinh sản cho đàn bò của họ.
Đánh giá hoặc xem cải tiến nào có thể đạt đ ược thực sự trong môi trường của họ
theo điều kiện của họ.
Đánh giá chiến lược chọn lọc và giao phối làm tăng năng suất sinh sản.
Xác định mức tăng có lợi nhất về kinh tế.
Thực hiện các chiến lược
Kiểm tra giám sát, đánh giá kết quả và điều chỉnh tốt chiến l ược.
Đánh giá cẩn thận năng suất con giống và chi phí sản xuất là cần thiết để xác định
mức đầu tư có thể tăng tỷ lệ cai sữa một cách kinh tế nhất.

Hình ": Bò m# c$ng bê con khoẻ mạnh

Tăng số lượng và chất lượng bê thông qua chọn lọc con cái
Di truyền, quản lý chăm sóc và chiến l ược chọn lọc của bạn có thể ảnh h ưởng đến
số lượng và chất lượng bê.
Cải tiến về di truyền rất chậm vì hệ số di truyền các tính trạng sinh sản rất thấp và tỷ

lệ các bò cái tơ cần phải thay thế lại rất cao. Vì vậy những con cái đ ược chọn lọc
thường chỉ tốt hơn về mặt di truyền so với bình quân của đàn một chút ít. Chọn lọc
con cái tốt nhất chỉ làm tăng số l ượng bê sinh ra trong đời của một con bò tối đa là
1% cho một thế hệ, có nghĩa là đối với 100 bò cái sẽ có thêm 6 bê/bò cái trong đời
của chúng. Trong khi cải tiến di truyền thông qua chọn lọc con cái xảy ra rất chậm,
đó là việc phải làm thường xuyên. Nếu bò đực cũng được chọn lọc theo tính trạng
sinh sản, việc cải tiến di truyền sẽ cao hơn. Một ngoại lệ với qui tắc này là lai giống.
Các con cái lai F 1 thường sinh sản tốt hơn nhiều so với bò cái thuần do ưu thế lai.
Quản lý dinh dưỡng và chăn nuôi (thí dụ cai sữa có kế hoạch và vắt sữa đồng bộ
vào lúc nhiều thức ăn có thể làm tăng một cách đáng kể khả năng sinh sản. Tăng 510 % số lượng bê sinh ra có thể thực hiện được trong các môi trường mà dinh dưỡng
là nhân tố hạn chế khả năng sinh sản. Những sự lựa chọn này cần đ ược cân nhắc
về mặt kinh tế, nhưng có thể là các phương pháp có lợi về chi phí để tăng số l ượng
bê.

17


Bảng 2: Tóm tắt sự tăng dự kiến tỷ lệ đẻ% năm t& chọn lọc, chăm sóc quản lý
và cải tiến di truyền
Chiến lược
Cải tiến di truyền/năm (chọn lọc con cái)
Cải tiến di truyền (con đực)/ năm (chọn con đực)
Chăm sóc quản lý (dinh d ưỡng thời gian phối giống,
cai sữa)

Tăng dự kiến tỷ lệ đẻ
< 1 bê/100 con cái
> 1 bê trên 100 con cái
1-10 bê/100 bò cái


Tăng tốc độ sinh trưởng thông qua chọn lọc con cái
Chọn lọc con cái rất khó để tăng sinh tr ưởng hoặc khối lượng lúc bán thịt. Chọn lọc
đơn giản. Những con to nhất là không chính xác vì chúng ta có khuynh h ướng sẽ
chọn lọc những con già nhất. Để có thể làm tăng độ chính xác, chúng ta phải hiệu
chỉnh tuổi. Trong các điều kiện lý tưởng hệ số di truyền vào 2 năm tuổi khoảng 1530%. Hệ số di truyền là phần biến động xác định đ ược giữa các cá thể gia súc do sự
khác biệt về di truyền giữa chúng.
nơi chúng ta không thể hiệu chỉnh tuổi gia súc, hệ số di truyền nhỏ hơn. Nếu
chúng ta cho rằng hệ số di truyền trong các tr ường hợp này chỉ 10%, chúng ta có
thể ước tính được đáp ứng chọn lọc về sinh tr ưởng qua một số thế hệ.
Bảng 3: Kết quả có thể thu được t& chọn lọc gia súc cái.
Nhóm chọn lọc

Nhóm đối chứng

Chỉ tiêu

Thế hệ
1

Thế hệ
2

Thế hệ
1

Thế hệ
2

Số lượng gia súc cái:
Khối lượng bình quân (kg)

Chênh lệch khối l ượng(kg)
Khác nhau về di truyền (kg) (h 2 = 10%)
Số bê bình quân/bò cái
Tổng số bê (a) 90% cai sữa
Số lượng bò cái tơ giữ lại cho thế hệ sau
Tổng số bán (trừ đi cái giữ lại)
Bán vượt (kg)
Tổng số bán x 1/2 khác biệt về di truyền
Tổng số thu được thực hiện trong 2 thế hệ
(kg) #

100
300
20
2
5
450
100
350
350

100
301*
21
3*
5
450
100
350
525


100
280
0
0
5
450
100
350
0

100
280
0
0
5
450
100
350
0

875

0

* 301 kg bao gồm 300 kg khối lượng thô + 1kg thu do tiến bộ di truyền.
3 kg chênh lệch về di truyền bắt nguồn tư 10% của 201 kg + 1kg tăng cho di truyền nhờ chọn lọc. #
Không kể khối lượng tăng khi bán bò cái.

Chú ý rằng 2 thế hệ là 12-14 năm. Điều này cho thấy sẽ không cải tiến đ ược nhiều

nhưng là công việc th ường xuyên và chỉ đòi hỏi thu thập khối l ượng trước khi chọn
lọc. Nơi mà cân gia súc là một việc làm th ường xuyên thì chi phí thêm sẽ không
đáng kể.
Hãy so sánh kết quả có thể thu đ ược qua chọn lọc con đực. Trong thí dụ dưới đây
con đực được chọn lọc có giá trị giống ước tính về khối lượng lúc 2 năm tuổi là +20
cao hơn đàn hiện có, có nghĩa là chúng có gen để khối l ượng lúc 2 năm tuổi cao hơn
trung bình 20 kg so với trung bình toàn đàn. Vì vậy thế hệ sau sẽ nặng hơn đàn hiện
có 10kg.

18


Bảng 4: Kết quả có thể thu được t& chọn lọc con đực
Số lượng con cái
Khối lượng bình quân (kg)
Chênh lệch khối l ượng (kg)
Khác biệt về di truyền ở con cái
Khác biệt về di truyền ở con đực
Số lượng bê bình quân/con cái
Tổng số bê (a) 90% cai sữa
Số lượng bò cái tơ giữ lại cho thế hệ sau
Tổng số bán (trừ đi số con cái giữ lại)
Bán vượt (kg)
(tổng số bán x 1/2 khác biệt về di truyền
Tổng số thu trong 2 thế hệ (kg)

Nhóm chọn lọc
Thế hệ 1 Thế hệ 2
100
100

300
290
0
10*
0
10*
20
20
5
5
450
450
100
100
350
350
3500

5250

Nhóm đối chứng
Thế hệ 1 Thế hệ 2
100
100
280
280
0
0
0
0

0
0
5
5
450
450
100
100
350
250
0

8750

0
0

Khối lượng tăng thêm ở con cái là do các tính trạng di truyền từ con bố.
* Không tính khối lượng bán vượt của bò cái
* Khác biệt về di truyền ở con cái là 10kg, từ con đực + 20 và từ con mẹ được cho là bằng 0.

Kết luận từ các thí dụ này là chọn lọc con cái cho tốc độ sinh tr ưởng là rất quan
trọng nhưng tiến bộ về di truyền rất nhỏ so với tiến bộ đạt đ ược do chọn lọc con đực
tốt hơn về mặt di truyền.

Cải thiện các tính trạng về thịt xẻ
Đánh giá bằng mắt thường chất lượng thịt xẻ ở gia súc sống t ương đối khó và vì vậy
tính chính xác để chọn lọc các tính trạng này rất thấp. Tuổi cũng ảnh h ưởng đến sự
đánh giá vì gia súc tuổi khác nhau biểu thị các mức độ phát triển khác nhau. Thí dụ
độ béo có thể khác nhau rất rõ giữa 12 và 15 tháng tuổi ở bò giống của Anh vì các

biến đổi về tính có khuynh h ướng tăng rất nhanh khi tuổi tăng. Để chuyển sang các
phương pháp đánh giá gia súc sống một cách khách quan trong các đàn gia súc
thương mại vào lúc này đòi hỏi các kỹ thuật đắt tiền đắt hơn các lợi ích thu đ ược từ
chọn lọc. Như với sinh trưởng, cải thiện về thịt xẻ có thể cho kết quả cao hơn thông
qua chọn lọc chính xác con đực.

Tóm tắt
Chọn lọc con cái nhằm mục đích làm tăng hiệu quả kinh tế của đàn. Điều này có nghĩa
là thực hiện các chiến lược chọn lọc và chăm sóc quản lý để làm tăng khối lượng và giá
trị của gia súc cho thịt đồng thời làm giảm chi phí. Phần lớn sự tiến bộ sẽ được bắt
nguồn từ tăng số lượng bê.
Người ta cho rằng kết quả thu được từ chọn lọc con cái rất ít và những người chăn nuôi
nên chỉ quan tâm đến việc chọn lọc con đực. Việc này không đúng. Điểm quan trọng là
kết quả thu được có thể nhiều hơn từ chọn lọc con đực. Tuy nhiên phối hợp chọn lọc con
đực và con cái có thể thu được tiến bộ cao nhất về di truyền.
Các chương tiếp theo sẽ cố gắng tăng hiểu biết cho người chăn nuôi về chiến lược chăm
sóc quản lý con cái để đạt được các mục tiêu này, các công cụ chăm sóc quản lý có thể
sử dụng cho quá trình này cũng sẽ được thảo luận.

19


Chương 3
Chọn những bò cái tốt
Đại cương
Các tính trạng quan trọng về kinh tế, dùng để chọn lọc bao gồm:
Sự thích nghi với môi trường.
Khả năng thụ thai.
Tốc độ sinh trưởng.
Thể khí.

Các tinh trạng thịt xẻ.
Cấu trúc cơ thể hợp lý.
Tầm quan trọng tương đối hoặc sự xếp hạng các tính trạng này sẽ phụ thuộc vào vị trí
của trang trại và cơ cấu của đàn gia súc hiện tại.
Giống bò hợp lý sẽ là giống sản xuất có hiệu quả ở một địa điểm nào đó, trong điều kiện
chăm sóc quản lý nhất định và thoả mãn với các nhu cầu của thị trường. Trong các điều
kiện khắc nghiệt, thích nghi môi trường là tính trạng quan trọng nhất vì tính trạng này ảnh
hưởng trực tiếp đến tỷ lệ nuôi sống của gia súc. Trong các vùng stress về dinh dưỡng
nghiêm trọng lại kết hợp với các stress về môi trường, tỷ lệ máu cao các giống thích nghi
tốt với vùng nhiệt đới cần được sử dụng (như: Zebu, Sanga) việc này sẽ làm giảm chi phí
điều hành và tăng năng suất. Các stress môi trường cũng gồm cả nội, ngoại ký sinh
trùng và thời tiết nóng.
Mức độ máu bò giống Zebu hoặc Sanga sử dụng để tạo sự thích nghi về môi trường
nhiệt đới phải được cân bằng với tiềm năng sản xuất cao hơn của các giống Anh và
giống Châu Âu. Sự kết hợp tốt nhất sẽ được xác định trên cơ sở tình hình mối trang trại.
Chọn lọc trong các giống là rất quan trọng bởi vì đối với nhiều tính trạng thường sự khác
nhau trong một giống nhiều hơn giữa các giống.

Các nguyên tắc chọn lọc cơ bản
Các tiến bộ về di truyền thường lâu dài và tích luỹ. Điều này có nghĩa là kết quả thu được
về di truyền trong đàn sẽ giữ nguyên trừ phi các bò đực hoặc bò cái có phẩm chất thấp
hơn được đưa từ bên ngoài vào trong đàn.
Tiến bộ về di truyền có thể thu được ở con đực nhiều hơn ở con cái. Điều này rất đơn
giản vì chúng ta giữ lại bò đực ít hơn bò cái nhiều, tỷ lệ bò đực dùng cho chọn lọc thấp vì
vậy áp lực chọn lọc ở bò đực lớn hơn nhiều. #p lực chọn lọc cao ở cả bò đực và bò cái
sẽ tăng tối đa tiến bộ di truyền.
Chọn lọc có hiệu quả không những đòi hỏi sự nhận dạng cá thể mà đòi hởi phải có cả cơ
sở hạ tầng như hàng rào, điểm cung cấp nước để tách riêng gia súc và kiểm soát phối
giống.
Có một số nhân tố quan trọng cần cân nhắc khi chọn lọc gia súc để nhân giống. Nếu

một số tính trạng đặc biệt được đưa vào trong chương trình nhân giống, chúng phải đáp
ứng các tiêu chuẩn sau:
Hệ số di truyền không quá nhỏ.
Có tầm quan trọng về kinh tế.
Có thể đo đọc được (trực tiếp hoặc gián tiếp)
Được đặc trưng bởi các biến động trong quần xã.

Hệ số di truyền
Hệ số di truyền (h2) được định nghĩa là mức độ các thuộc tính di truyền của bố mẹ được
chuyển cho thế hệ sau. Các biến đổi không di truyền là kết quả của các nhân tố nh ư
dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý, bệnh tật và tất cả các nhân tố môi trường khác.
Hệ số di truyền của một tính trạng càng lớn phần giá trị di truyền của bố mẹ truyền sang
cho con cái càng lớn. Phần lớn các tính trạng sinh trưởng ở bò thịt có hệ số di truyền

20


giữa 30 và 50% điều này có nghĩa sai khác đo được về tốc độ sinh trưởng giữa các cá
thể trong cùng một nhóm 30-50% là di truyền và 50-70% là do yếu tố không di truyền
hay ngoại cảnh.
Các tính trạng về thịt xẻ nói chung có hệ số di truyền 30-50%. Hệ số di truyền chu vi tinh
hoàn là 25-50% trong khi hệ số di truyền về khả năng phối giống là 15-30% (cho Bos
taurus). Các tính trạng sinh sản ở con cái có hệ số di truyền thấp hơn rất nhiều (5-20%).
Điều này có nghĩa là sai khác đo đạc được về khả năng sinh sản giữa các con cái chủ
yếu là do các nguyên nhân không di truyền vì thế tiến bộ di truyền về các tính trạng này
chậm hơn tiến bộ di truyền đạt được ở các tính trạng khác. Hệ số di truyền ước tính đạt
được cho một số tính trạng quan trọng ở bò thịt được trình bày ở bảng 5.

Bảng 5. Hệ số di truyền ước tính cho một số tính trạng ở bò thịt trong môi
trường ôn đới và nhiệt đới.

Tính trạng

Hệ số di truyền !
Bò 'n đới (Angus)
Bò Nhiệt đới (Brahman

Sinh sản
Tỷ lệ phối chửa
Tuổi đẻ lần đầu
Thời gian chửa
Khả năng nuôi con
Dễ đẻ (bò cái tơ)
Chất lượng tinh
Chu vi tinh hoàn (18 tháng)
Khả năng phối giống (18 tháng)
Hình thái và sinh trưởng
Dài thân
Vòng ngực
Cao vây
Khối lượng sơ sinh
Sản lượng sữa
Khối lượng lúc sữa
Khối lượng 200 ngày
Tăng trọng, từ sơ sinh đến cai sữa.
Tăng trọng 1 năm (chăn thả)
Khối lượng 400 ngày
Khối lượng 18 tháng (chăn thả)
Khối lượng 600 ngày
Khối lượng bò cái trưởng thành
Tăng trọng ở mùa khô

Tăng trọng ở mùa mưa
Thịt xẻ (M()
Khối lượng thịt xẻ/ ngày tuổi
Mỡ vùng sườn 12-13
Mỡ mông vị trí P8
Mỡ trong cơ bắp (%)
Diện tích mắt cơ
Tỷ lệ % thịt xẻ
Độ mềm
Sản lượng thịt bán lẻ
Hiệu suất % khối lượng thịt xẻ
Các tính trạng khác
Mẫn cảm với ung thư mắt
Sắc tố mi mắt
Tình tình
Kháng ve
Kháng giun
Kháng ruồi trâu

0-5
0-10
15-25
20-40
15-60
25-40
20-50
15-60

5-20
0-10

chưa có
chưa có
chưa có
6-44
28-36
chưa có

25-45
25-55
30-50
35-45(39)
20-25(10)
20-30
(18)
25-30
30-45
(25)
40-50
(31)
50-70(41)
chưa có
chưa có

chưa có
chưa có
chưa có
35-45(46)
(4)
3-50
(28)

16-40
20
(37)
30
(43)
25-40(39)
17-30
18

25-45(36)
(27)
29(28)
15(22)
20-25(23)
15
4-25
29(36)
49

(36)
(27)
18(28)
30(22)
(23)
37
16-30
36(36)
52

20-40

45-60
25-50
chưa có
chưa có
chưa có

chưa có
chưa có
25-50
20-42
25-36
20-30

Nguồn tài liệu tham khảo: (a) Hammon.K (ed) và cộng sự 1981 Selecting Beef Cattle for Maximum
Production in the 80s, AGBU, UNE. (b). Davis C - P 1993 Genetic Parameters for Tropical Beef Cattle

21


for Northern Australia. Aust.J. Agric.Res., 44 170 -198. (c). Robenson, D.L. Fergusun, D.M và Skeritt,
J.W 1998 Genetic Parameters for Beef T enderness, Marbling and Yield Proc 6 th World Congress
Genet APP Livestock Prod.

Tầm quan trọng về kinh tế
Tất cả những tính trạng chúng ta sử dụng trong chọn lọc cần phải có tầm quan trọng
về kinh tế. Không cần nỗ lực để cải tiến một tính trạng không mang lại hiệu quả kinh
tế cho người chăn nuôi. Ngoài ra trong hầu hết trường hợp những người làm công tác
giống sẽ cố gắng cải tiến được hai tính trạng trở lên trong cùng một lúc các tính
trạng thêm ra trong chương trình chọn lọc thường làm giảm nhịp độ cải biến các tính
trạng khác. Tốt nhất là tập trung chọn lọc trên một số tính trạng có giá trị kinh tế cao.

Tầm quan trọng về kinh tế có nghĩa khác nhau đối với những ng ười chăn nuôi. Đối
với phần lớn những người chăn nuôi bò thịt các tính trạng quan trọng nhất theo quan
điểm kinh kế là khả năng sinh sản, tốc độ sinh tr ưởng và chất lượng thịt xẻ. Đối với
người chăn nuôi gia súc giống để bán, có thể những tính trạng khác sẽ làm tăng hiệu
quả kinh tế do bán gia súc làm giống. Cùng với việc tăng c ường quan tâm đáp ứng
yêu cầu của thị trường, những tính trạng quan trọng về mặt kinh tế sẽ được kết hợp
với yêu cầu thị trường.
Khả năng đo đếm được
Đo đọc một cách khách quan các tính trạng năng suất của bò thịt tạo khả năng cho
phép người chăn nuôi so sánh đ ược các tính trạng không kể đến mùa vụ, năm, ảnh
hưởng của môi trường và ước tính được giá trị di truyền. Khối lượng rất dễ dàng xác
định và là lựa chọn đầu tiên có tính lôgíc đối với nhiều nghiên cứu về sinh tr ưởng của
gia súc trong chương trình cải tiến di truyền.
Tốc độ sinh trưởng dễ dàng xác định và có hệ số di truyền cao. Giá trị giống đầu tiên
(EBV) đã được tính toán cho tốc độ sinh trưởng. So với sinh trưởng các tính trạng
sinh sản đo đạc khó hơn. Đầu tiên người ta thường nhấn mạnh 2 tính trạng có liên
quan đến sinh sản được xác định tương đối dễ dàng là chu vi của bao dịch hoàn ở
bò đực và số ngày trước khi đẻ lứa đầu của bò cái. Gần đây hơn ng ười ta có thể xác
định được các tính trạng dễ đẻ và thời gian chửa từ Group BREEDPLAN cho một số
giống bò Anh.
Một số thuộc tính của thịt xẻ hiện tại có thể xác định đ ược vì vậy được đưa vào trong
giá trị EBV. Những tính trạng này bao gồm cả diện mắt cơ (EMA), mỡ sườn và mỡ
mông P8, tỷ lệ mỡ trong cơ và sản lượng thịt bò bán lẻ. Xác định các tính trạng này
có thể tiến hành bằng Scan siêu âm hoặc xác định thịt móc hàm ở lò mổ.
Sự biến động
Mọt tính trạng có biến động lớn có nhiều cơ hội hơn để thay đổi bằng chọn lọc. Một
số tính trạng có biến động lớn mặc dù có hệ số di truyền thấp. Đa số các tính trạng
được điều khiển bởi 2 gen trở lên và biến động của tính trạng là một phân phối
chuẩn. Phân phối chuẩn là một mô hình phân phối đơn giản ở đó đa số gia súc gần
ở giá trị trung bình (Hình 8).

Một tính trạng có biến động lớn (như tốc độ sinh trưởng, sản lượng sữa sẽ có đường
cong thấp hơn, rộng hơn) nhiều gia súc xa giá trị trung bình hơn, trong khi một tính
trạng có biến động nhỏ (như tỷ lệ mỡ trong cơ hoặc độ vân của cơ) sẽ có đ ường
cong cao hơn và hẹp hơn (nhiều gia súc gần với giá trị trung bình hơn). Nếu chúng
ta chọn lọc 10% gia súc trong mỗi một tr ường hợp thì khoảng cách từ giá trị trung
bình sẽ lớn hơn đối với tính trạng có biến động lớn hơn. Vì vậy tính trạng có biến
thiên lớn hơn từ giá trị trung bình có thể dự kiến thu đ ược kết quả chọn lọc lớn hơn
tính trạng có biến động ít hơn.

22


Tính trạng biến động nhỏ
Tính trạng biến động lớn

Trung bình

Trung bình

Hình ): Ph n phối chu*n đối với các tính trạng có biến động lớn và nh+.

Thiết l,p những mục tiêu lai tạo giống
Bước đầu tiên và là bước quan nhất để thành công trong chương trình lai tạo là xác
định rõ các mục tiêu lai tạo. Việc định rõ các mục tiêu giống trong trang trại chăn
nuôi bò thịt đòi hỏi phải xác định rõ ràng mức năng suất hiện tại của đàn về tính
trạng quan trọng về kinh tế và xem xét các tính trạng này trong mối liên hệ với
những cản trở của môi trường, những đòi hỏi của thị trường mà bò thịt sẽ được bán.
Các bước tiến hành để đạt được các mục tiêu gồm:
Liệt kê các tính trạng có tầm quan trọng về kinh tế
Liệt kê những nhu cầu của khách hàng

Lập danh sách các mục tiêu sản xuất của đàn - Đặt các mục tiêu có thể thực
hiện được cho các tính trạng quan trọng.
Lập danh sách năng suất hiện tại của đàn gia súc của bạn theo năng suất của
đàn một cách khách quan.
Lập danh sách các mục tiêu chọn giống, các tính trạng cần đặc biệt quan tâm.
Lập danh sách các tiêu chuẩn chọn lọc, các ph ương tiện để đạt được các mục
tiêu trên.
Xếp thứ tự ưu tiên cho các tiêu chuẩn chọn lọc, xác định hệ số điểm cho từng
tính trạng.

C n b-ng chọn lọc
Chọn lọc một số tính trạng có thể tạo ra những ảnh h ưởng không mong muốn đến
các tính trạng có tầm quan trọng về kinh tế. Ví dụ rỗ ràng nhất là các tính trạng sinh
trưởng trong chăn nuôi bò thịt. Ngày nay tính trạng này có thể đ ược chọn lọc một
cách có hiệu quả nhằm tăng tốc độ sinh tr ưởng thông qua sử dụng giá trị giống ước
tính (EBVs) của chương trình BREEDPLAN. Chương trình này sẽ được giải thích ở
Chương 4 - Những công cụ quản lý đàn bò.
Dùng EBVs để chọn lọc đàn cho thấy đã làm tăng tăng trọng một cách đáng kể. Tuy
nhiên, trừ phi sử dụng chọn lọc cân bằng, nếu chỉ chú trọng đến tốc độ tăng trọng sẽ
có thể làm tăng hiện tượng đẻ khó do bê sơ sinh có khối l ượng lớn. Sinh trưởng bắt
đầu từ khi thụ thai và tốc độ tăng trọng cao th ường cho bê có khối lượng sơ sinh lớn
hơn. Tương quan giữa các tính trạng có thể là t ương quan dương (+) hoặc âm (-) do
đó cần phải được lưu ý trong bất cứ chương trình chọn lọc nào.
Chọn lọc cân bằng cần phải đảm bảo các tính trạng về sinh sản ít ảnh h ưởng đến
các tính trạng khác nh ư tốc độ sinh trưởng hoặc khả năng cho sữa.

Chọn lọc bò cái giống
Có 2 cơ hội để chọn lọc bò cái: tr ước và sau khi phối giống. Chọn lọc bò cái giống có
thể làm tăng mức độ di truyền các tính trạng cần chọn lọc trong đàn. Chọn lọc thông
qua việc sử dụng những công cụ chọn lọc tr ước khi phối giống để loại bỏ những bò

sản xuất kém cũng quan trọng để tăng lợi nhuận về kinh tế sau này. Chọn lọc cũng
23


cho phép "loại thải" để thay thế bò kém bằng những bò cái có khả năng sản xuất tốt
hơn hoặc cho phép giữ lại những gia súc có khả năng sản xuất tốt thu nhận thức ăn
và nước uống tốt. Bởi vì chọn lọc có kế hoạch và loại thải có thể tăng quay vòng
vốn và giảm áp lực chăn thả, nó là một thành phần trong quản lý giống bò thịt.
Vì một con cái trước đây rất tốt bây giờ có thể không đ ược chấp nhận điều quan
trọng cần nhấn mạnh ở đây là mặc dù khả năng sinh sản là tính trạng có hệ số di
truyền không cao, nó có độ lặp lại cao. Điều này có nghĩa là bò cái hàng năm đã đẻ
ra bê trong quá khứ thì vẫn đẻ như vậy trong tương lai.
Chọn lọc trước khi phối giống
Số lượng bò cái cần thay thế được xác định thông qua:
khả năng sinh sản hiện tại của đàn bò;
cách loại thải hoặc chọn lọc
- tuổi loại thải
- loại thải do khả năng sinh sản kém
- loại thải do không có hoặc kém trong các tính trạng sản xuất
tuổi cao nhất của bò sinh sản
tỷ lệ loại thải và tỷ lệ chết hàng năm
Khi khả năng sinh sản cao hơn sẽ cho phép tăng tỷ lệ loại thải theo năng suất hoặc
giảm tỷ lệ bò tơ giữ lại.
Bảng 6: So sánh số bò tơ có được để thay thế đàn ở 2 mức khả năng sinh sản
cao thấp
Đàn có 100 bò cái

Đàn A
Nuôi th m canh trong môi
trường thu,n lợi


Đàn B
Quản lý tốt trong
môi trường khắc
nghiệt

95
93
90
45
10.5
11
1
44

85
82
76
38
8.5
5
2
37

18 (40%)

18 (50%)

Số bò có chửa
Bê đẻ ra

Bê cai sữa
Bê cái hậu bị cai sữa
Tuổi loại thải (năm)
Tỷ lệ loại thải (%)
Tỷ lệ chết (%)
Số bò tơ có thể chọn lúc 26
tháng tuổi
Số bò cái tơ cần thay thế

Bảng 6 cho thấy đàn A chỉ có 10 bò cái trên tổng đàn 100 con cần loại thải do khả
năng sinh sản kém. Nếu loại thải theo tuổi thì những bò này đạt 10,5 tuổi, đàn A sẽ
cần phải thay thế 10-13 con/năm cho mục đích này. Nếu loại thải đ ược tiến hành vì
lý do khác như tính nết, bầu vú không phát triển, gày mòn hoặc không có khả năng
thích hợp cho việc nuôi bê thì cần phải thay thế thêm. Hơn nữa cần thay thế thêm
trong trường hợp bò bị chết hoặc từ các nguyên nhân khác. Điều này có nghĩa là
phần lớn các trường hợp, thậm chí trong trong điều kiện quản lý tốt, tỷ lệ những bò tơ
cần thiết để thay thế đàn sinh sản cũng phải trên 50%.
Tình huống đàn B cho phép hầu như không có áp lực trong chọn lọc đ ược áp dụng
trên bò cái tơ thay thế, nếu loại thải vì bò cái không có khả năng sinh sản đ ược tiến
hành trong đàn giống. Mỗi bò cái tơ đều sẽ cần để thay thế khi có nhu cầu. Trong
những trường hợp như vậy do áp lực chọn lọc bị hạn chế, tiến bộ về di truyền cũng
sẽ bị hạn chế theo.
Càng nhiều tính trạng được chọn lọc thì tiến bộ di truyền ở bất kỳ tính trạng nào đó
càng thấp. Điều quan trọng trong chọn lọc bò cái tơ là nên chọn lọc theo một số ít

24


các tính trạng kinh tế quan trọng. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể, thứ tự ưu tiên cho
chọn lọc bò cái là:

Khả năng sinh sản
Tính nết
Cấu trúc cơ thể
Tốc độ sinh trưởng
Hiện nay, có rất ít cơ hội để thu được lợi nhuận trong chọn lọc bò cái theo tính trạng
về khả năng cho thịt. Thông thường, khả năng thích nghi với môi trường sẽ được
biểu hiện qua một số tính trạng như tốc độ sinh trưởng. Việc chọn lọc nên tiến hành
khách quan ở những nơi có thể và nên là chọn lọc cân bằng tránh cực đoan trong
chọn lọc.
Tóm lại, bởi vì có ít đàn bò thịt th ương phẩm có được các thông tin khách quan như
các thông tin khách quan có được từ phân tích các số liệu của đàn bò tham gia vào
BREEDPLAN hoặc Group BREEDPLAN các thông tin này giúp cho các thao tác
chọn lọc và chọn lọc trước khi phối giống là nhỏ nhất. Chỉ những bò cái tính nết
không hiền hoặc không có khả năng sinh sản và phát triển bị thải. Những bò cái tơ
giữ lại phải cho phối giống trong các giai đoạn đủ dài và số bò có chửa sẽ giữ lại để
trong đàn.
Khả năng sinh sản
Sinh sản ở bò cái là tất cả hoặc không có nghĩa là 1 bò cái trong một khoảng thời
gian nhất định có thể đẻ được 1 bê hoặc không đẻ bê nào cả. Mặc dù hệ số di
truyền về sinh sản thấp sinh sản có độ lặp lại cao và đơn giản là giữ lại những bò cái
sinh sản có bê cai sữa sẽ nâng cao đ ược khả năng sản xuất của đàn.
Chọn lọc khách quan chỉ có thể thực hiện đ ược khi có thông tin về hệ phả hoặc các
thông tin về cha mẹ lý tưởng nhất là chọn lọc về khả năng sinh sản theo giá trị giống
ước tính (EBVs) được trình bày ở Chương 4. Như phần lớn các tính trạng, cải tiến về
mặt di truyền nhanh nhất là thông qua chọn lọc đực giống nh ưng thông thường điều
này chỉ thực hiện được ở trại giống hoặc trên đàn hạt nhân có các số liệu đ ược ghi
chép đầy đủ.
Nếu khó hoặc dễ đẻ là vấn đề thì có thể cải thiện về mặt di truyền tính dễ đẻ thông
qua việc chọn lọc những bò cái tơ có khung x ương chậu lớn. Để làm được việc này
cần phải đo phía trong khung xương chậu bằng thước đo chuyên dùng (pelvimeter)

và không thể đánh giá bằng mắt thường thông qua độ rộng giữa xương hông và
xương mông. Khung xương chậu có hệ số di truyền khá cao và trong t ương lai giá trị
giống ước tính EBVs của tính trạng này sẽ đ ược sử dụng. Ngày nay, sử dụng những
số liệu thô vẫn thu được những kết quả có ích (khi sử dụng cách này, hiệu chỉnh số
liệu với tuổi của gia súc là cần thiết). Khung x ương chậu lớn hơn so với tuổi thì phối
giống sẽ dễ hơn. Những bò cái tơ này có thể sẽ an toàn và dễ dàng trong khi đẻ
hơn.
Người lành nghề khám bên trong cơ quan sinh dục đánh giá kích th ước buồng trứng
và tử cung có thể biết được những bò cái tơ nào thành thục về tính trong thời gian
chọn lọc và có nhiều cơ hội nhất trong thụ thai khi phối giống. Việc khám bên trong
cơ quan sinh dục cũng cho phép biết những bò cái tơ đã có chửa, biết đ ược bò cái
này bất toàn và lưỡng tính (nửa đực-nửa cái) và các yếu tố khác ảnh h ưởng đến khả
năng sinh sản.
Tính nết
Tính nết của bò cái rất quan trọng về mặt kinh tế bởi vì những bò hiền lành th ường
dễ dàng, an toàn trong vận chuyển và ít bị stress tr ước khi giết mổ (và vì vậy thịt của
bò này mềm hơn).
Đáng tiếc là hiện nay vẫn ch ưa có một phương pháp thực tế đáng tin cậy nào để xác
định tính trạng này. Những phương pháp đánh giá tính nết bò chỉ là những ph ương

25


×