Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Xây dựng cơ chế phòng chống “lợi ích nhóm” và “tham nhũng chính sách” ở các cơ quan tổ chức đảng – thực trạng và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.87 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Tham nhũng đã trở thành một mối lo ngại lớn mang tính toàn cầu. Trung tuần
tháng 11-2009, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) đã công bố bảng xếp hạng chỉ số
nhận thức về tham nhũng (CPI) năm 2009. Dù không nhiều thay đổi so với năm
2008, nhưng xét về mặt tổng thể, điểm bình quân năm nay thấp hơn so với năm
ngoái.Cũng không có nhiều sự thay đổi ở tốp đầu khi các quốc gia như New
Zealand, Singapore, Đan Mạch, Thụy Điển vẫn được đánh giá là những nước có
CPI cao nhất và minh bạch nhất còn Somali, Afghanistan và Iraq vẫn là nơi có nạn
tham nhũng trầm trọng nhất thế giới.
Cụ thể, Việt Nam vẫn giữ nguyên ở mức 2,7 điểm, đứng thứ 120, tăng 1 bậc so
với năm 2008 và tăng 3 bậc so với năm 2007. Năm nay, New Zealand đã vượt qua
Đan Mạch để đứng đầu danh sách với 9,4 điểm. Đan Mạch đứng thứ hai với 9,3
điểm. Tiếp đó, Singapore và Thụy Điển cùng 9,2 điểm. Các nước xếp cuối bảng là
Somalia (1,1 điểm), Afghanistan (1,3 điểm). Mỹ đứng thứ 19 với 7,5 điểm. Trung
Quốc đứng thứ 79 (với 3điểm) và Nga 2,2 điểm đứng thứ 146.
Ngoài ý nghĩa cảnh báo về giá trị đạo đức suy giảm, tham nhũng còn phá hoại
những nỗ lực phát triển kinh tế đất nước, nỗ lực kinh doanh và nỗ lực tạo sự tin cậy
trong những cam kết quốc tế. Tham nhũng làm tăng các chi phí và rủi ro trong hoạt
động kinh doanh; làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư và làm tụt giảm điểm tín
nhiệm quốc gia. Tham nhũng còn gây ra những ngờ vực về độ tín nhiệm trong kinh
doanh, độ tin cậy của đội ngũ lãnh đạo chính phủ và độ tin cậy các cam kết.
Tham nhũng là một tệ nạn mang tính chất toàn cầu. Tuy nhiên không phải ở
bất kì nơi nào trên thế giới biểu hiện, tính chất, phạm vi của tham nhũng cũng
giống nhau mà mỗi quốc gia trên thế giới đều có những sự khác nhiều do đặc điểm
về kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Tại Việt Nam, tình hình tham nhũng cũng
diễn ra hết sức phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhiều mức độ khác nhau. Tham nhũng
tại Việt Nam theo các nhà lãnh đạo là nạn nội xâm, là quốc nạn, là vấn đề gây nhức

1



nhối của cả Việt Nam. Trong đó nổi lên là vấn đề tham nhũng trong hệ thống Hành
chính nhà nước. Tham nhũng trong cơ quan nhà nước là một vấn đề bức xúc và
đáng quan tâm nhất trong giai đoạn hiện nay. Do đó học viên chọn đề tài Xây
dựng cơ chế phòng chống “lợi ích nhóm” và “tham nhũng chính sách” ở các
cơ quan tổ chức Đảng – Thực trạng và những vấn đề đặt ra

2


Chương 1:
Vấn đề “lợi ích nhóm” và “tham nhũng chính sách” trong cơ quan, tổ chức Đảng.
I. Thực trạng “lợi ích nhóm” và “tham nhũngchính sách” trong cơ quan,
tổ chức Đảng
Tham nhũng không phải là vấn đề mới phát sinh ở Việt Nam mà đã có từ lâu.
Ngay từ khi thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ ra khuyết điểm to nhất ở các địa phương lúc bấy giờ là tham ô.
Người tỏ rõ thái độ kiên quyết đấu tranh với tình trạng này bằng cách, phải dùng
pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Điều đó chỉ rõ ràng rằng, Đảng ta đã thực hiện
đấu tranh chống tham nhũng ngay từ khi giành được chính quyền. Đảng và Nhà
nước ta đã thành lập ra tổ chức chuyên trách đặc biệt để thực hiện chống tham
nhũng, ban hành Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và các sắc lệnh khác
liên quan đến chống tham nhũng. Thời kỳ hòa bình lập lại, qua các kỳ Đại hội,
Đảng ta đều chú trọng đã ban hành các nghị quyết về nâng cao ý thức trách nhiệm,
tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan
liêu; Nghị quyết về cuộc đấu tranh chống lấy cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, tăng
cường quản lý lao động, quản lý thị trường, giữ vững trật tự an ninh, phục vụ tốt
đời sống nhân dân, các nghị quyết về phòng, chống tham ô, lãng phí.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới với nhiều chủ trương, biện pháp quyết
liệt của Đảng, cuộc đấu tranh chống tham nhũng của ta đã đạt được một số kết quả
khả quan: Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị chỉ rõ ý nghĩa, tầm quan trọng,

mục tiêu, nhiệm vụ; những chủ trương, giải pháp chủ yếu của cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Các cấp ủy đảng và chính quyền từ trung ương đến địa
phương đã quan tâm hơn đến công tác kiểm tra, thanh tra, nhất là kiểm tra, thanh tra
công tác xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Quốc
hội và HĐND các cấp đã dành nhiều thời gian để giám sát công tác phòng, chống
tham nhũng. Cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công an, viện kiểm sát, tòa án
được củng cố một bước cả về thẩm quyền pháp lý, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy,

3


đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất. Việc xử lý tham nhũng bước đầu có sự chuyển biến
tích cực, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Vai trò giám sát, tham gia của
nhân dân trong công tác phòng chống tham nhũng lãng phí được nâng cao và có
đóng góp thiết thực hơn; Đảng đã chú trọng tổ chức cho cán bộ, đảng viên, công
chức và toàn dân học tập các nghị quyết của Đảng, học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, tìm hiểm về Đảng, Bác Hồ, đất nước…
Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã nhận thức ngày càng rõ
ràng hơn về vấn đề tham nhũng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề là một
bước quan trọng trong quá trình phòng chống tham nhũng. Vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta cũng đã có những giải pháp cụ thể trong việc phòng chống tham nhũng.
Đặc biệt Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 ngày 19/11/2005 đã thông qua luật phòng
- chống tham nhũng và Luật có hiệu lực từ 1/6/2006. Tiếp đó, Quốc hội khóa XII,
kỳ họp thứ nhất ngày 4/8/2007 cũng đã sửa đổi, bổ sung một số điều trong luật
phòng - chống tham nhũng có hiệu lực từ ngày công bố ( 17/8/2007). Trong mấy
năm gần đây qua các phiên họp Quốc hội cũng tiến hành bổ sung, điều chỉnh một
số điều trong luật cho phù hợp với thực tiễn. Luật được thông qua và đưa vào thực
tiễn có một tác dụng rất to lớn đối với công tác phòng-chống tham nhũng ở Việt
Nam. Điển hình cho hiệu quả của Luật là trong những năm gần đây Nhà nước ta đã
phá được các vụ án tham nhũng khá lớn. Tuy vậy, việc đưa luật vào thực tế là một

quá trinh lâu dài và cần phải có sự điều chỉnh theo từng giai đoạn, bên cạnh đó còn
có một số những điều kiện khách quan chi phối nên số vụ và hình thức tham nhũng
vẫn còn nhiều. Tình trạng tham nhũng ở Việt Nam xuất hiện ở tất cả các cấp, các
ngành, lĩnh vực từ quy mô nhỏ tới quy mô lớn. Chúng ta lại thiếu các biện pháp
đồng bộ, chưa quyết liệt, triệt để, còn né tránh, nể nang và trong chừng mực nhất
định, còn có sự thỏa hiệp trong lãnh đạo điều hành ở các cấp. Theo báo cáo của
chính phủ tại kỳ họp thứ 10 khóa IX đã phát hiện và xủ lý trên 500 vụ tham nhũng
với tổng số thiệt hại tài sản trên 1,2 tỷ đồng và trên 34 triệu USD. Năm 1996 đã
phát hiện 10 vụ tham nhũng lớn trên 100 tỷ đồng/vụ. Theo báo cáo của chánh tòa
4


án nhân dân tối cao trước quốc hội từ năm 1992 đên 1997 tào đã xét xử 3021 vụ
tham những vơi 6.315 bị cáo, trong đó có 64,5% số bị cáo bị tù, 10 tên đã bị tuyên
án tử hình. Năm 2006, qua điều tra đã phát hiện tổng sai phạm trị giá 858 tỷ 969
triệu đồng. 5.487.583 USD, 120.569 EUR. Số liệu do các chuyên gia đưa ta trong
chương trình Hội thảo: “ Cải cách hành chính cấp tỉnh: Hiện trạng và khuyến nghị”
do ban Dân chủ- Pháp luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức tại thành phố Đà
Nẵng sáng 7/5/2009 cho biết: Tham nhũng trong lĩnh vực đất đai chiến tỷ lệ 20,8%,
giao thông chiến 11,3%, lĩnh vực hành chính công chiến 10%, ngành xây dựng
chiến 7,1%, tài chính-ngân hàng chiếm 4,9%... Bên cạnh đó đánh giá theo tỷ lệ
phân bổ theo địa lý thì các địa phương phía Nam chiếm 25%, phía Bắc chiếm 24%,
miền Trung chiếm 18%.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định một trong những nhiệm vụ quan
trọng phải đấu tranh chống “lợi ích nhóm”. Bởi vì, “lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu
cực) sẽ làm cho sự phát triển của đất nước và lợi ích quốc gia, dân tộc suy yếu và
tổn thất nghiêm trọng; nhân dân bị tước đoạt quyền lực và lợi ích; thành quả cách
mạng và chế độ chính trị - xã hội không được bảo vệ, dẫn đến đổ vỡ.
Lợi ích chính đáng (của một người, một nhóm) là lợi ích phù hợp với lợi ích

chung của quốc gia, dân tộc, góp phần và bổ trợ cho lợi ích chung; không mâu
thuẫn, không gây thiệt hại cho lợi ích chung. Lợi ích chính đáng luôn là mục tiêu và
động lực đối với hoạt động của con người, cần được tôn trọng, bảo vệ và khuyến
khích. Quên điều này, không quan tâm đến lợi ích chính đáng của con người, ngăn
cản các lợi ích chính đáng ấy, thì sự lãnh đạo và quản lý xã hội không thể thành
công, mà trước sau gì nhất định cũng sẽ thất bại.
Ngược lại, “lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) thì mâu thuẫn với lợi ích
chung của quốc gia, dân tộc; gây hại cho lợi ích chung, cho cộng đồng, làm suy yếu
và gây tổn thất nghiêm trọng đối với lợi ích chung. “Lợi ích nhóm” là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến việc hình thành các “nhóm lợi ích”. Đặc điểm của các “nhóm lợi
ích” là có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích, cùng hành động, cùng phân chia lợi ích,
5


giữa những người có nhiều tiền với những người có quyền lực trong nhà nước và
trong đảng cầm quyền. Có tiền chuyển hóa thành có quyền lực. Có quyền lực
chuyển hóa thành có tiền. Người có tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ
có tiền. Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn.
Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và
xã hội. Nhận thức sự quan trọng của thông tin, “nhóm lợi ích” còn móc nối, “kết
nạp”, kết hợp với một số nhóm truyền thông không lành mạnh để tác động chi phối
dư luận theo hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo những người,
những doanh nghiệp không cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi ích. “Lợi ích
nhóm” sẽ kéo theo và song hành với tham vọng quyền lực và tham vọng tiền bạc.
Ở nước ta, trong lãnh đạo, người đầu tiên công khai hóa và nêu lên sự cần thiết
phải đấu tranh với “lợi ích nhóm” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (phát biểu tại
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI). Sau Tổng Bí thư, một vài đồng chí lãnh đạo khác
của Đảng và Nhà nước cũng có nói đến, mặc dù chỉ mới thoáng qua và nói chung,
chưa có chỉ đạo gì quyết liệt trong việc ngăn ngừa, phòng chống “lợi ích nhóm”.
Trong giới khoa học của Việt Nam đã có một số nghiên cứu, chưa nhiều và mới ở

dạng lý thuyết chung, chưa gắn với thực tế tình hình nước ta. Các nhà nghiên cứu
trên thế giới đã có nhiều tài liệu nghiên cứu vấn đề này, gắn với quá trình phát triển
của một số quốc gia. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định
nhiệm vụ quan trọng phải đấu tranh chống “lợi ích nhóm”.
Hiện nay, “lợi ích nhóm” và hoạt động của “nhóm lợi ích” ở nước ta đã và
đang diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực quan trọng. Đó là trong quản lý doanh nghiệp
nhà nước, quản lý dự án đầu tư, nhất là đầu tư công; trong quản lý ngân sách, thuế,
quản lý ngân hàng - tín dụng; trong quản lý các nguồn vốn và chương trình đầu tư
về xã hội, trong quản lý tài sản, đất đai, bất động sản, tài nguyên khoáng sản, xuất
nhập khẩu; trong công tác cán bộ, quản lý biên chế; trong quản lý việc cấp các loại
giấy phép; kể cả trong các vụ án, trong tham mưu về chủ trương, chính sách và

6


trong điều hành. Đi sâu vào nghiên cứu các vụ tiêu cực, tham nhũng có tổ chức, các
vụ, việc mà dư luận có nhiều ý kiến thì sẽ có nhiều thông tin cụ thể về tình hình
“lợi ích nhóm” ở Việt Nam. Tức là tình hình xấu đã lan rộng, khá phổ biến và khá
ngang nhiên, nghiêm trọng đến mức báo động.
Như vậy, mặc dù đã có luật phòng - chống tham nhũng nhưng quá trình thực
thi vẫn gặp nhiều vướng mắc cho nên tình trạng tham nhũng vẫn tiếp diễn và đang
có nguy cơ ngày càng phát triển và mức độ nghiêm trọng tăng dần.

7


II. Nguyên nhân của tham nhũng trong cơ quan, tổ chức Đảng ở Việt Nam.
Như trên đã nói tình hình tham nhũng ở nước ta đặc biệt là trong lĩnh vực hành
chính công (chiếm 10%, năm 2009) đã và đang phát triển. Bất kì một hiện tượng

nào cũng có nguyên nhân của nó. Có điều đó là do một số nguyên nhân cơ bản sau:
Nguyên nhân đầu tiên và căn bản nhất là do chế độ người bóc lột người sinh
ra. Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã hội, khác với mọi sự vân động vật chất
khác trong tự nhiên ở chỗ con người hành động đều có mục đích là lợi ích. Bởi vậy
sự tồn tại của của sự bóc lột và tư tưởng chiếm hữu chính là nguyên nhân của các
hành vi tham nhũng. Khi mà chưa xóa bỏ sự sự bất bình đẳng trong xã hội thì tham
nhũng vẫn còn có cơ sở để tồn tại.
Nguyên nhân thứ hai đó là hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách nước ta còn
nhiều kẽ hở. Pháp luật về phòng ngừa tham nhũng được thể hiện ở rất nhiều văn
bản pháp luật khác nhau, trong đó quan trọng nhất là luật phòng-chống tham
nhũng. Luật phòng-chống tham nhũng đã có hiệu lực nhưng quá trình thực thi của
luật thì còn nhiều điểm hạn chế chưa phát huy hết hiệu lực của luật. Thêm vào đó
công tác soạn thảo luật của nước ta vẫn chưa hoàn thiện nên còn nhiều điểm chưa
đánh giá hết tình hình thực tế khách quan để ban hành văn bản phù hợp.Ngoài ra
công tác tuyên truyền pháp luật cũng chưa được chú ý đúng mức, chưa pháp động
và đánh trúng ý thức của toàn xã hội.
Nguyên nhân thứ ba là do những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động của một
số cơ quan Đảng và nhà nước. Tệ tham nhũng nói chung và các tội phạm có tính
chất tham nhũng phát triển phổ biến, gây hậu quả nghiêm trọng như hiện nay là do
những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động của nhiều cơ quan Đảng và Nhà nước
và do sự thoái hóa của một bộ phận cán bộ, Đảng viên.
Nguyên nhân thứ tư là những yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ do sự buông
lỏng, yếu kém trong quản lý nhà nước. Đảng ta chỉ rõ: “ Công tác cán bộ vừa bảo thủ,
vừa trì trệ về nhiều mặt, vi phạm nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt cán

8


bộ. Việc đào tạo cán bộ nhất là cán bộ kinh tế từ trước đến nay chưa được quan tâm
đúng mức, chưa đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế thị trường”.

Nguyên nhân thứ năm là do bản chất của nền kinh tế thị trường. Trong nền
kinh tế thị trường vai trò của đồng tiền được đặt lên rất cao. Có không ít cá nhân, tổ
chức vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt đã dùng nhiều
thủ đoạn, trong đó có thủ đoạn hối lộ được sử dụng phổ biến. Và có người hối lộ tất
yếu sẽ có người nhận hối lộ.
Nguyên nhân thứ sáu là do trình độ dân trí. Nói chung trình độ dân trí vẫn còn
thấp nên nhân dân chưa có nhiều khả năng tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và của các cán bộ công chức.
Nguyên nhân thứ bảy là do cuộc đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng động
chạm đến những cán bộ có chức có quyền, có khi động chạm đến cả một tập thể
ngành, cơ quan, đơn vị, động chạm đến lợi ích thiết thực, đến thể diện, uy tín của
cán bộ. Hơn nữa tệ nạn tham nhũng vẫn còn cơ sở kinh tế - xã hội để tồn tại. Vì thế
cuộc đấu tranh chống tham nhũng là một quá trình lâu dài, phức tạp.
Những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên đã phần nêu lên được vì sao
có thực trạng tham nhũng như hiện nay trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Cần phải nhấn mạnh rằng khi mà nhà nước đang tồn tại thì tham nhũng cũng vẫn sẽ
tồn tại. Tham nhũng không thể xóa bỏ hoàn toàn mà chỉ có thể ngăn ngừa để tránh
những thiệt hại nghiêm trọn. Chỉ có thể giảm bớt tham nhũng chứ không thể xóa bỏ
triệt để. Và để ngăn chặn tham nhũng không phải là không thể làm được. Điều quan
trọng là chúng ta cần có những biện pháp thích hợp để phòng chống.

9


Chương 2:
Một số biện pháp phòng chống tham nhũng ” trong cơ quan, tổ chức Đảng
II. Các giải pháp phòng chống tham ” trong cơ quan, tổ chức Đảng ở Việt
Nam.
1.Đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam.
Muốn đưa ra biện pháp đấu tranh phòng chống tham nhũng thích hợp thì

không những phải biết rõ nguyên nhân, cơ chế tham nhũng mà còn phải biết rõ đặc
điểm tham nhũng ở nơi đó. Tham nhũng trên thế giới cũng có những đặc điểm
chung nhưng nếu dựa vào đặc điểm chung để chống tham nhũng trong từng nước
cụ thể thì khó mà đặt được kết quả cao, thậm chí có thể khiến tình hình trở nên khó
khăn hơn. Bởi vì, mỗi quốc gia trên thế giới có những điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội, … khác nhau. Cho nên khi nghiên cứu và đưa ra giải pháp cho tình hình
tham nhũng ở Việt Nam không thể không đề cập đến đặc điểm tham nhũng ở Việt
Nam. Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình
diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống...và đặc biệt là bằng công cụ
của tội phạm học để ghi nhận tính chất, đặc điểm và mức độ của tham nhũng. Trên
quan điểm tổng thể đó đã nêu ra những đặc trưng cơ bản của tham nhũng như sau:
Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ quyền hạn
làm việc trong bộ máy nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ
trung ương đến địa phương, cán bộ trong Đảng và các đoàn thể.
Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ
quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công
vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây thiệt hại
chung cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân..
Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi cho
bản thân mình, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm.
Từ những đặc trưng trên và qua nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy
tham nhũng ở Việt Nam có những đặc điểm chính sau:

10


Thứ nhất, về tính chất của tham nhũng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
chưa ở mức đặc biệt nghiêm trọng so với khu vực và thế giới.
Thứ hai, tham nhũng ở nước ta chưa có các tổ chức theo kiểu Maphia Theo
cách hiểu thông thường của các quốc gia và tổ chức quốc tế về đấu tranh chống tội

phạm thì Maphia là những băng nhóm phạm tội có tổ chức chặt chẽ, có sự phân
công phối hợp khi hành động phạm tội, đồng thời việc thực hiện tội phạm mang
tính chất chuyên nghiệp và có sự tham gia cấu kết của các quan chức chính phủ.
Thứ ba, tham nhũng ở nước ta mang tính phổ biến, nhỏ nhặt xảy ra ở tất cả các
cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
Như vây, chúng ta đã nhận biết được những đặc điểm riêng của tham nhũng ở
Việt Nam. Đây là một điều kiện quan trọng để góp phần đưa ra các biện pháp
phòng chống tham nhũng tại Việt Nam.
2.Các biện pháp phòng chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức Đảng
Việt Nam.
Những giải pháp trên của các nước trên thế giới có tính chất tham khảo để làm
kinh nghiệm trong công cuộc phòng chống tham nhũng cho Việt Nam. Còn tại Việt
Nam, do những điều kiện kinh tế, xã hội,… có điểm khác biệt so với các nước trên
thế giới cho nên muốn phòng chống tham nhũng ở Việt Nam cũng cần có những
giải pháp riêng để cải thiện tình hình, ngăn chặn những ảnh hưởng mà tham nhũng
gây ra. Sau đây là một vài biện pháp phòng chống tham nhũng có thể áp dụng trong
công cuộc phòng chống tham nhũng tại Việt Nam:
Thứ nhất đối với nguyên nhân sâu xa là chế độ người bóc lột người thì chúng
ta phải nhận thức đúng “sự bóc lột” ở đây khác hẳn với sự bóc lột của một số nước
trên thế giới. Sự bóc lột hay là nguyên nhân bất bình đẳng đã làm gia tăng tệ nạn
tham nhũng. Ở Việt Nam, Nhà nước ta là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa nên
tính chất bóc lột không còn gay gắt như các nước mà chỉ là một bộ phận. Thông
qua các giai đoạn thì chúng ta có những bước phát triển trong công cuộc phòng
chống tham nhũng. Xóa bỏ nguyên nhân sâu xa của tham nhũng là sự bóc lột thì

11


chúng ta cần phải xây dựng thành công nhà nước mà chúng ta đang hướng tới đó là
Nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước nửa nhà nước.

Đối với các nguyên nhân còn lại giải pháp quan trọng nhất là hoàn thiện hệ
thống pháp luật đặc biệt là luật chống tham nhũng đảm bảo những yêu cầu sau:
Thứ nhất, cần phải thiết lập các cơ chế hiệu quả và minh bạch trong hoạt động công
vụ. Trong nhóm giải pháp này bao gồm những giải pháp cụ thể như:
·Tăng cường liêm chính trong hoạt động công vụ: Thiết lập các cơ chế tuyển
dụng công chức nhằm đảm bảo tính công khai, công bằng, hiệu quả và khuyến
khích việc tuyển dụng những cá nhân có năng lực và phẩm chất tốt thông qua:
-Xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng nhằm duy trì cuộc sống ổn định, phù hợp
với sự phát triển của nền kinh tế.
-Xây dựng cơ chế tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, công chức minh bạch, giúp
tránh hiện tượng lạm dụng quyền, gia đình trị và thiên vị; thúc đẩy sự hình thành
của một hệ thống công vụ độc lập và giúp khuyến khích sự cân bằng thích đáng
giữa đề bạt chính trị và bổ nhiệm công tác.
-Xây dựng cơ chế giám sát phù hợp với các quyết định; xây dựng cơ chế nhân
sự với việc luân chuyển công việc định kỳ và kịp thời nhằm giảm tính cục bộ, một
nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng.
-Xây dựng các quy tắc ứng xử đạo đức và hành chính điều chỉnh xung đột lợi
ích, đảm bảo sử dụng đúng đắn các nguồn lực công và phát huy tính chuyên
nghiệp, liêm chính cao nhất của đội ngũ cán bộ, công chức thông qua:
-Những điều khoản cấm hoặc hạn chế để kiểm soát xung đột lợi ích.
-Những cơ chế tăng cường minh bạch thông qua việc công khai và giám sát,
chẳng hạn như đối với tài sản và trách nhiệm cá nhân.
-Hệ thống hành chính mạnh góp phần đảm bảo rằng mối quan hệ giữa cán bộ,
công chức với người dân trong hoạt động kinh doanh, nhất là trong một số hoạt
động như thuế, hải quan và các lĩnh vực khác dễ nảy sinh tham nhũng khác không
chịu sự tác động sai trái hoặc không đúng đắn.
-Khuyến khích việc tính đến chuẩn mực văn hóa truyền thống và chuẩn mực
quốc tế liên quan trong quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức. Khuyến khích việc

12



đào tạo, bồi dưỡng và giám sát định kì đối với cán bộ công chức nhằm bảo đảm sự
hiểu biết đúng đắn về quyền hạn của họ.
-Các biện pháp bảo đảm rằng công chức sẽ tố cáo những hành vi tham nhũng
và bảo vệ sự an toàn về tính mạng, công việc cho người thực hiện hành vi tố cáo.
·Trách nhiệm giải trình và sự minh bạch: Bảo đảm trách nhiệm giải trình trong
hoạt động công vụ bằng những khuôn khổ pháp lý có hiệu lực, thông qua các hoạt
động quản lý và thủ tục kiểm toán với một số hành động cụ thể sau:
-Các biện pháp và cơ chế nhằm tăng cường minh bạch về tài sản.
-Các thủ tục kiểm toán thích hợp có khả năng áp dụng đối với nền hành chính
và khu vực công, các biện pháp và cơ chế nhằm công bố công khai và kịp thời về
hoạt động và việc ra quyết định của các cơ quan nhà nước.
-Các thủ tục minh bạch thích hợp đối với việc mua sắm công nhằm thúc đẩy
cạnh tranh lành mạnh và ngăn chặn hành vi tham nhũng và thủ tục hành chính được
đơn giản hóa tương xứng.
-Tăng cường các thiết chế kiểm tra, giám sát công.
-Cơ chế cung cấp thông tin để làm minh bạch hoạt động hành chính nhà nước.
-Đơn giản hóa môi trường quản lý thông qua việc hủy bỏ những quy định chồng
chéo, không rõ ràng hoặc rườm rà, gây phiền hà cho hoạt động của người dân.
Thứ hai, chúng ta cần tăng cường hoạt động chống hối lộ.Ngăn ngừa, điều tra
và truy tố có hiệu quả bằng việc:
-Đảm bảo các chế tài trừng phạt có tính răn đe nhằm ngăn ngừa một cách chủ
động và hiệu quả các hành vi hối lộ và nhận hối lộ của cán bộ, công chức.
-Đảm bảo xây dựng các quy định điều chỉnh hành vi hối lộ và nhận hối lộ.
Những tội danh này cần phải điều tra kĩ lưỡng, chính xác và đưa ra truy tố. Cơ quan
điều tra cần được trao quyền yêu cầu tiếp cận các hồ sơ ngân hàng, tài chính hoặc
thương mai,…
- Nâng cao năng lực điều tra và khởi tố thông qua việc đẩy mạnh hợp tác liên
ngành; đảm bảo công tác điều tra, khởi tố không bị tác động; có các biện pháp hiệu

quả để thu nhập bằng chứng, bảo vệ những người giúp các nhà chức trách chống
tham nhũng.
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc phòng
chống tham nhũng bởi nó không chỉ giúp cho nhà nước quản lý tốt các cán bộ,
13


công chức mà còn góp phần quản lý chính bản thân nhà nước. Khắc phục những
yếu kém trong Đảng và nhà nước từ đó có thể hoàn thiện hơn nữa. Sự trong sạch
minh bạch trong các cơ quan hành chính nhà nước là tiền đề cơ bản cho việc chống
tham nhũng. Những biện pháp trên nếu áp dụng rộng rãi sẽ đem lại sự thay đổi tình
hình tham nhũng theo chiều hướng tích cực. Thế nhưng những biện pháp trên sẽ chỉ
là trên giấy tờ nếu không có các biện pháp cụ thể như sau:
·Thứ nhất, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
đối với công tác phòng chống tham nhũng. Tăng cường công tác kiểm tra của
Đảng, thanh tra của Nhà nước đối với đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức.
·Thứ hai, Đảng, Nhà nước phải xây dựng một cơ quan chuyên trách có trách
nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh
chống tham nhũng và chủ động phối hợp sức mạnh của toàn thể xã hội trong phòng
chống tham nhũng.
·Thứ ba, Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật. Kinh nghiệm thực tiễn cho
thấy xã hội luôn luôn biến động và thay đổi liên tục.
·Thứ tư, Đẩy nhanh tiến độ cải cách hành chính, xóa bỏ hẳn cơ chế “xin - cho”.
·Thứ năm,Tham nhũng, về mặt pháp lý, là vấn đề của đời sống dân sự, cho nên
nhân dân mới chính là chủ thể của quá trình chống tham nhũng. Đảng và Nhà nước
ta phải có những quy định cụ thể, phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong việc
giám sát các hoạt động của nhà nước. Đặc biệt chúng ta phải đặt vấn đề dân chủ lên
hàng đầu từ đó nâng cao dân trí cho nhân dân.

14



Kết Luận:
Bằng các giải pháp đấu tranh chống tham nhũng nêu trên Đảng và Nhà nước ta
đã và sẽ đạt được kết quả tốt trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Tham nhũng
đã được Đảng chỉ mặt đặt tên là “Một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền
trong cơ quan của Đảng và nhà nước” và chống tham những thực sự là một cuộc
đấu tranh lâu dài, do vậy trong tổ chức thực hiện thiết nghĩ Đảng và Nhà nước ta
cần tránh các tư tưởng quá chủ quan, nóng vội cũng như có tư tưởng nhận thức
không đúng về tham nhũng. Bên cạnh đó, cũng cần có chính sách cụ thể để phát
huy mạnh tính quần chúng trong đấu tranh phòng chống tham nhũng. Được như
vậy thì chắc chắn cuộc chiến chống tham nhũng sẽ đạt được những thắng lợi có
tính chất giai đoạn, lấy được lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Với đề tài:“Vấn đề tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước Việt
Nam” đã giúp chúng em nâng cao được nhận thức về vấn đề này đồng thời góp
tiếng nói chung trong cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng mà
Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành. Tuy nhiên đây là một đề tài lớn, quy mô rộng,
đòi hỏi kiến thức cao, mà khả năng nhận thức của chúng em còn nhiều hạn chế.
Chính vì thế mà khó tránh khỏi những sai sót. Chúng em rất mong nhận được sự
chỉ bảo thêm của giảng viên bộ môn./.

15


Tài liệu tham khảo
(1), (2), (3)Trung tâm Doanh nghiệp Tư nhân Quốc tế (CIPE), “Cải cách Kinh
tế”, tập 1, số 2, hè 2005.
(4) Luật phòng chống tham nhũng của Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày
01/6/2006.
1. Bản kế hoạch hành động chống tham nhũng khu vực Châu Á – Thái Bình

Dương. />2. Báo điện tử Chungta.com số 11/2006. Đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam.
Nguyễn Ngọc Chí, khoa Luật- ĐHQG Hà Nội.
3. Báo điện tử Vietnamnet số ra ngày 13/08/2005. Góp ý cho dự thảo Luật
phòng, chống tham nhũng: Sáu biện pháp để phòng, chống tham nhũng. L.S
Trương Quốc Hưng.

4. Tạp chí cộng sản số 31(tháng 11/2003). Hội thảo khoa

học và thực tiễn: Xây dựng chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng: Kinh nghiệm và
giải pháp.
5. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2002. Tệ nạn tham nhũng: Căn nguyên
sâu xa và biện pháp phòng chống. Nguyễn Đình Giám
6. Ngân hàng thế giới, Kiềm chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây dựng
trong sạch quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
7. Tạp chí nghiên cứu lập pháp.Phân loại tham nhũng: biện pháp cần thiết
trong đấu tranh phòng chống tham nhũng,PGS, TSKH Phan Xuân Sơn - Học viện
chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
8. Trang tin thanh tra GTVT số 11/2009. Kinh nghiệm phòng, chống tham
nhũng của một số nước trên thế giới./.

16



×