Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Tìm hiểu 30 vườn quốc gia ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 41 trang )

Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Giới thiệu chung
Vườn quốc gia Banff, Alberta, Canada.
Vườn quốc gia là một khu vực đất hay biển được bảo
tồn bằng các quy định pháp luật của chính quyền sở tại.
Vườn quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt khỏi sự khai
thác, can thiệp bởi con người. Vườn quốc gia thường
được thành lập ở những khu vực có địa mạo độc đáo có
giá trị khoa học hoặc những khu vực có hệ sinh thái
phong phú, có nhiều loài động-thực vật có nguy cơ tuyệt
chủng cao cần được bảo vệ nghiêm ngặt trước sự khai
thác của con người. Các vườn quốc gia là một khu vực
được bảo vệ theo quy định của IUCN loại II. Vườn quốc
gia lớn nhất thế giới là Vườn quốc gia Đông Bắc đảo
Greenland được thành lập năm 1974.
Định nghĩa: Theo định nghĩa của Liên minh Quốc tế
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN)
thì vườn quốc gia là: Natural area of land and/or sea, designated to(a) protect the ecological integrity of one or
more ecosystems for present and future generations,(b) exclude exploitation or occupation inimical to the
purposes of designation of the area and(c) provide a foundation for spiritual, scientific, educational, recreational
and visitor opportunities, all of which must be environmentally and culturally compatible.
Tạm dịch: Khu vực tự nhiên của vùng đất và hoặc vùng biển, được chọn để (a) bảo vệ tình trạng nguyên vẹn sinh
thái của một hay nhiều hệ sinh thái cho các thế hệ hiện tại và tương lai, (b) loại bỏ việc khai thác hay chiếm giữ
không thân thiện đối với các mục đích của việc chọn lựa khu vực và (c) chuẩn bị cơ sở cho các cơ hội tinh thần,
khoa học, giáo dục, giải trí và thăm quan, tất cả các cơ hội đó phải có tính tương thích về văn hóa và môi trường.
VƯỜN QUỐC GIA: khu bảo tồn thiên nhiên do nhà nước quyết định thành lập, nghiêm cấm mọi hoạt động khai
thác và phá huỷ giới tự nhiên trong đó nhằm bảo vệ nguyên vẹn các hệ sinh thái, bảo tồn nguyên vị loài động vật,
thực vật, bảo tồn nguồn gen tự nhiên có giá trị khoa học, kinh tế, giải trí, giáo dục và thẩm mĩ. Hệ thống sinh thái
trong khu VQG phải được giữ nguyên trạng, không có sự can thiệp của con người vào môi trường vật lí và các hệ
động vật, thực vật. Các mối quan hệ qua lại giữa hệ sinh vật và môi trường, giữa các hệ sinh vật và bên trong mỗi
hệ sinh vật vận hành theo quy luật cân bằng tự nhiên. Các chức năng sản xuất, điều hoà và bảo vệ trong hệ thống


triển khai một cách bình thường. VQG là đối tượng quản lí theo một quy chế nghiêm ngặt do nhà nước ban hành.
VQG được phân thành 3 phân khu: phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái, phân khu hành
chính - dịch vụ. Các khu dịch vụ dành cho hoạt động tham quan, giải trí và trụ sở cơ quan quản lí; có thể thiết kế
đường sá, vườn cây, hồ nước và công trình phục vụ khách tham quan. Để bảo đảm an toàn việc bảo tồn các hệ
động vật, hệ thực vật, hệ sinh thái có vùng đệm. Vùng đệm là vùng đất đai được phép khai thác hạn chế vì mục
đích dân sinh nằm liền kề với VQG hay khu bảo tồn thiên nhiên, là hành lang an toàn bảo vệ, kiểm soát, ngăn chặn
sự xâm nhập từ bên ngoài vào VQG. VQG thường được xây dựng tại các danh lam thắng cảnh, nơi có nhiều tài
nguyên quý giá, nhất là tài nguyên sinh vật, dùng làm nơi nghiên cứu tự nhiên nguyên sinh hoặc làm nơi du lịch,
nghỉ ngơi. VQG đầu tiên trên thế giới là VQG Yelâuxtân (Yellowstone) ở Hoa Kì, xây dựng vào năm 1872. Ở Việt
Nam, đến cuối năm 2003, đã có 27 VQG. VQG Cúc Phương, VQGCát Bà, VQG Cát Tiên, vv.
Lịch sử: Ý tưởng về việc thiết lập cảnh quan thiên nhiên đáng được bảo vệ cụ thể nào đó dưới sự bảo vệ có nguồn
gốc từ đầu thế kỷ 19. Nhà thơ người Anh William Wordsworth năm 1810 đã viết về hồ District như là "một loại
tài sản quốc gia trong đó mọi người có quyền và lợi ích, những người có mắt để nhận biết và trái tim để thưởng
thức". Họa sĩ Mỹ George Catlin năm 1832, trong những chuyến đi về miền tây nước Mỹ, đã viết rằng thổ dân Bắc
Mỹ tại Hoa Kỳ cần được bảo toàn: bằng một số chính sách bảo vệ lớn của chính quyền ... trong khu vườn tráng
lệ ... Một vườn quốc gia, chứa người và động vật, tất cả trong sự hoang dã và trong sạch của vẻ đẹp tự nhiên của
họ!. Nam tước Thụy Điển gốc Phần Lan Adolf Erik Nordenskiöld cũng đưa ra ý kiến tương tự vào năm 1880. Nhà
tự nhiên học người Mỹ gốc Scotland John Muir cũng đã đưa ra các cảm hứng trong việc thiết lập các vườn quốc
gia, đề cập tới nhiều ý tưởng của các phong trào bảo tồn, môi trường và quyền động vật sau này. Ý tưởng chung
1
của họ là giữ lại những điều kỳ diệu của thiên nhiên sao cho các thế hệ tương lai có thể thưởng thức chúng và tìm
lại được chúng tại nơi đó.
Ra đời: Cố gắng đầu tiên để thiết lập những vùng đất được bảo vệ là tại Hoa Kỳ, vào ngày 20 tháng 4 năm 1832,
khi tổng thống Andrew Jackson ký một sắc luật để dự trữ 4 vùng đất xung quanh khu vực ngày nay là Hot Springs,
Arkansas nhằm bảo vệ các suối nước nóng tự nhiên và các khu vực núi cận kề để chính quyền Hoa Kỳ sử dụng
trong tương lai. Nó được biết đến như là Khu bảo tồn Hot Springs. Tuy nhiên đã không có cơ quan quyền lực nhà
nước nào được thành lập và việc kiểm soát của liên bang đối với khu vực đã không được thiết lập một cách rõ ràng
cho tới tận năm 1877. Cố gắng tiếp theo nhằm thiết lập những vùng đất được bảo vệ cũng là tại Hoa Kỳ, khi tổng
thống Abraham Lincoln ký sắc luật của Quốc hội Hoa Kỳ ngày 30 tháng 6 năm 1864, nhượng lại thung lũng
Yosemite và rừng Mariposa với các cây cự sam (hay cù tùng khổng lồ) (sau này là Vườn quốc gia Yosemite) cho

bang California, trong đó ghi rõ: Bang đã đề cập [California] tới sẽ chấp nhận sự chuyển nhượng này với các điều
kiện rõ ràng rằng các tài sản sẽ được duy trì để sử dụng công cộng, làm trung tâm nghỉ ngơi và tiêu khiển; sẽ
không được chuyển nhượng vào bất kỳ thời gian nào.
Vườn quốc gia Yellowstone, Hoa Kỳ.
Năm 1872, Vườn quốc gia Yellowstone đã được thành lập như là
vườn quốc gia thật sự đầu tiên trên thế giới. Khi tin tức về các kỳ
quan thiên nhiên của khu vực Yellowstone lần đầu tiên được
công bố thì vùng đất này, khác với Yosemite, đang là một phần
của lãnh thổ mà chưa một bang nào chiếm quyền quản lý, vì thế
chính quyền liên bang đã chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý, một
quá trình chính thức được hoàn thành vào ngày 1 tháng 10 năm
1890. Nó là cố gắng và lợi ích tổ hợp của các nhà bảo tồn, các
chính khách và đặc biệt là các doanh nhân (cụ thể là công ty quản
lý tuyến đường sắt Bắc Thái Bình Dương, mà hành trình đi qua
Montana đã thu được lợi ích lớn nhờ sự tạo ra điểm hấp dẫn du
khách này), để đảm bảo rằng Quốc hội Hoa Kỳ sẽ thông qua sắc
luật nhằm thành lập Vườn quốc gia Yellowstone.Wallace Stegner đã viết rằng vườn quốc gia là ý tưởng tốt nhất
của người Mỹ – xuất phát từ việc bảo tồn mang tính hoàng tộc mà các chính thể Cựu thế giới phục vụ cho chính
bản thân họ - để tạo ra sự bảo tồn dân chủ, mở cho tất cả mọi người, "nó phản ánh chúng ta ở khía cạnh tốt nhất,
chứ không phải ở khía cạnh tệ nhất." . Tuy vậy, chỉ 44 năm sau khi thành lập các vườn quốc gia Yellowstone,
Yosemite và gần 37 vườn quốc gia, khu bảo tồn khác thì cơ quan nhà nước quản lý toàn diện các khu vực này mới
được thành lập tại Hoa Kỳ - đó là Cục Vườn Quốc gia Hoa Kỳ (NPS). Một điều thú vị là một doanh nhân, ông
Stephen Mather, đã là người thúc đẩy mạnh mẽ nhất cho viẹc thành lập NPS, ông dã viết cho Franklin Knight
Lane, khi đó là Bộ trưởng Nội vụ về nhu cầu đó. Lane đã mời Mather đến Washington, DC để làm việc cùng ông
trong soạn thảo và chờ sự thông qua của dự luật về tổ chức NPS, được Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn và ký ngày 25
tháng 8 năm 1916.Số lượng các khu vực hiện tại do NPS quản lý tại Hoa Kỳ là 391, trong đó chỉ có 58 là các vườn
quốc gia.
Tại các quốc gia khác, ý tưởng về thành lập vườn quốc gia như Yellowstone cũng đã dần dần được chấp nhận. Tại
Australia, Vườn quốc gia Hoàng gia đã được thành lập ở phía nam Sydney năm 1879. Tại Canada, Vườn quốc gia
Banff (khi đó gọi là Vườn quốc gia núi Rocky) là vườn quốc gia đầu tiên của nước này vào năm 1885. New

Zealand có vườn quốc gia đầu tiên vào năm 1887. Tại châu Âu các vườn quốc gia đầu tiên là tập hợp gồm 9 vườn
tại Thụy Điển vào năm 1909. Hiện tại, châu Âu có 370 vườn quốc gia.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, các vườn quốc gia đã được thành lập trên khắp thế giới. Vườn quốc gia Vanoise
trong khu vực dãy núi Alps là vườn quốc gia đầu tiên của Pháp, thành lập năm 1963 sau khi diễn ra các cuộc biểu
tình ngăn chặn một dự án du lịch tại đây. Tại Việt Nam, Vườn quốc gia Cúc Phương thành lập năm 1966 là vườn
quốc gia đầu tiên của nước này.
Các đặc trưng của vườn quốc gia:
Vườn quốc gia hẻm núi Bryce tại miền nam Utah, Hoa Kỳ được
thành lập năm 1928. Trước đây nó là khu bảo tồn quốc gia.Các
vườn quốc gia thông thường nằm tại các khu vực chủ yếu là chưa
phát triển, thường là những khu vực với động - thực vật bản địa
quý hiếm và các hệ sinh thái đặc biệt (chẳng hạn cụ thể là các
loài đang nguy cấp), sự đa dạng sinh học, hay các đặc trưng địa
2
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
chất đặc biệt. Đôi khi, các vườn quốc gia cũng được thành lập tại các khu vực đã phát triển với mục tiêu làm cho
khu vực đó trở lại gần giống như tình trạng ban đầu của nó, càng gần càng tốt.
Tại một số quốc gia, chẳng hạn như tại Vương quốc Anh và Wales, các khu vực được dùng làm vườn quốc gia
không phải là vùng hoang vu, cũng không do nhà nước sở hữu, và có thể bao gồm các khu dân cư và việc sử dụng
đất là đáng kể, thông thường chúng là một bộ phận hợp thành của cảnh quan khu vực. Vườn quốc gia đầu tiên của
Scotland, vườn quốc gia Loch Lomond và Trossachs, được thành lập tháng 7 năm 2002 và vườn quốc gia
Cairngorms được thành lập tháng 3 năm 2003.
1.Quản lý, sử dụng: Phần lớn các vườn quốc gia có vai trò kép, một mặt đây là khu vực cung cấp nơi cư trú cho
sự sống hoang dã, mặt khác nó lại phục vụ như là nơi du lịch phổ biến cho quần chúng. Việc quản lý các mâu
thuẫn tiềm ẩn giữa hai mục đích này có thể là một vấn đề, cụ thể là du khách sẽ đem lại thu nhập cho vườn quốc
gia và vườn quốc gia sử dụng nguồn thu nhập này để duy trì và phát triển các dự án bảo tồn. Các vườn quốc gia
cũng là nguồn cung cấp các tài nguyên thiên nhiên có giá trị, chẳng hạn như gỗ, khoáng sản và các loại tài nguyên
có giá trị khác. Sự cân bằng giữa nhu cầu khai thác các tài nguyên này với tổn thất do việc khai thác gây ra, thường
là thách thức rất quan trọng đối với hệ thống quản lý vườn quốc gia. Các vườn quốc gia cũng hay bị đốn hạ bất
hợp pháp và các dạng khai thác lậu khác, đôi khi là do tham nhũng. Điều này đe dọa tính nguyên vẹn của nhiều

môi trường sống có giá trị.
2. Các dạng bảo tồn khác: Một vài quốc gia cũng chọn các khu vực với tầm quan trọng lịch sử, khoa học hay văn
hóa đặc biệt làm vườn quốc gia hoặc là các thực thể đặc biệt trong hệ thống vườn quốc gia của mình. Các quốc gia
khác lại sử dụng kiểu khác cho việc bảo tồn các khu vực lịch sử. Một số các khu vực này, nếu đạt được các tiêu
chuẩn đã đề ra, có thể được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Tại nhiều quốc gia, các cơ quan chính quyền địa phương có thể là tổ chức chịu trách nhiệm duy trì hệ thống vườn.
Một số trong số các hệ thống vườn này cũng được gọi là vườn quốc gia.
Một số vườn quốc gia theo quốc gia:
Áo: Hiện tại, Áo có 6 vườn quốc gia với tổng diện tích 2.356 km², chiếm khoảng 2,8% diện tích nước này.
Đức: Tại Đức hiện tại có 14 khu vực thiên nhiên có giá trị được gọi là vườn quốc gia. Với 9.134,31 km², các vườn
quốc gia của Đức chiếm khoảng 2,6% diện tích nước này.
Hoa Kỳ: Hiện tại Hoa Kỳ có 58 vườn quốc gia chính thức, nhiều trong số đó đã trên 100 năm tuổi. Vườn quốc gia
Yellowstone tại các bang Wyoming, Montana và Idaho được thành lập năm 1872 là vườn quốc gia đầu tiên trên
thế giới.
Việt Nam: Việt Nam hiện tại (năm 2007) có 30 vườn quốc gia, với vườn quốc gia Cúc Phương thành lập năm
1966 là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam. Tổng diện tích các vườn quốc gia khoảng 10.350,74 km² (trong đó có
620,10 km² là mặt biển), chiếm khoảng 2,93% diện tích đất liền của nước này.
Hình ảnh từ vệ tinh Landsat 7 của vườn quốc gia Kavir, Iran.
3
Vườn quốc gia tại Việt Nam là một danh hiệu được Chính phủ Việt Nam công nhận chính thức thông qua nghị
định, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý.
30 vườn quốc gia sau đây tại Việt Nam đã được công nhận:
Vùng Tên vườn
Năm thành
lập
Diện
tích(ha)
Địa điểm
Trung du và miền núi
phía Bắc

Hoàng Liên Lào Cai
Ba Bể 1992 7.610 Bắc Kạn
Bái Tử Long 2001 15.783 Quảng Ninh
Xuân Sơn 2002 15.048 Phú Thọ
Tam Đảo 36.883
Vĩnh Phúc, Thái Nguyên,
Tuyên Quang
Đồng bằng Bắc Bộ
Ba Vì 1991 6.986 Hà Tây
Cát Bà 1986 15.200 Hải Phòng
Cúc Phương 1994 20.000
Ninh Bình, Thanh Hóa,
Hòa Bình
Xuân Thủy 2003 7.100 Nam Định
Bắc Trung Bộ
Bến En 1992 16.634 Thanh Hóa
Pù Mát 2001 91.113 Nghệ An
Vũ Quang 2002 55.029 Hà Tĩnh
Phong Nha-Kẻ Bàng 200.000 Quảng Bình
Bạch Mã 1991 22.030 Thừa Thiên-Huế
Tây Nguyên
Chư Mom Ray 2002 56.621 Kon Tum
Kon Ka Kinh 2002 41.780 Gia Lai
Yok Đôn 1991 115.545 Đăk Lăk
Chư Yang Sin 2002 58.947 Đăk Lăk
Bidoup Núi Bà 64.800 Lâm Đồng
Đông Nam Bộ
Cát Tiên 1992 73.878
Đồng Nai, Lâm Đồng,
Bình Phước

Bù Gia Mập 2002 26.032 Bình Phước
Côn Đảo 1993 15.043 Bà Rịa-Vũng Tàu
Lò Gò Xa Mát 2002 18.765 Tây Ninh
Tây Nam Bộ
Tràm Chim 1994 7.588 Đồng Tháp
U Minh Thượng 2002 8.053 Kiên Giang
Mũi Cà Mau 2003 41.862 Cà Mau
U Minh Hạ 2006 8.286 Cà Mau
Phước Bình 2006 19.814 Ninh Thuận
Núi Chúa 2003 29.865 Ninh Thuận
Phú Quốc 2001 31.422 Kiên Giang
4
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
1.VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN
Nằm ở độ cao từ 1.000 đến 3.000 m so với mặt biển, 60.000 ha Vườn quốc gia
Hoàng Liên nằm ở phía Tây Nam huyện Sa Pa là một thảm thực vật đa dạng,
lá phổi xanh tạo cho môi trường cảnh quan thiên nhiên Sa Pa nói riêng và các
địa phương lân cận nói chung một khí hậu ôn hoà với đa dạng sinh học vô cùng
phong phú và quý hiếm.
Tại đây, từ rất sớm các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước qua nhiều năm nghiên cứu và tìm hiểu về hệ
sinh thái Sa Pa đều thừa nhận là một vùng đa dạng sinh học gồm nhiều chi, họ của hơn 2.000 loài thực vật bậc cao,
hàng ngàn loại động vật có xương sống, côn trùng và bò sát... chiếm gần 50% trong tổng loài của hệ động - thực
vật Việt Nam, trong đó có nhiều loài động, thực vật quý hiếm có tên trong sách đỏ như: bách xanh, thiết sam,
thông tre, thông đỏ, đinh tùng, dẻ tùng... Các loại chim quý như đại bàng đốm to, trĩ mào đỏ, chim hét mỏ vàng,
vượn đen, gấu trắng, đại bàng... nhiều nơi vắng bóng nhưng nơi đây vẫn còn. Đó là chưa kể hàng trăm loài thảo
dược quý hiếm như quy, thục, đỗ trọng, hoàng liên chân chim, đỗ quyên, kim giao, thảo quả chưa được khai thác.
Từ năm 2003 trở lại đây, sau khi có quyết định thành lập vườn quốc gia, một nhóm các nhà khoa học trong và
ngoài nước, các trường đại học được giao nhiệm vụ kết hợp cùng địa phương nghiên cứu sự đa dạng sinh học của
khu bảo tồn thiên nhiên đã tích cực khảo sát, thống kê một cách hệ thống nhằm xây dựng một bản đồ hiện trạng
vườn quốc gia. Qua khảo sát theo dọc tuyến Hoàng Liên đã phát hiện thêm nhiều loài quý hiếm như ở độ cao

2.000 mét của khu vực các xã Séo Mý Tỷ đến Dền Thàng có khu rừng pơ mu mọc liên tiếp với diện tích trên 100
ha, mỗi cây có đường kính trên 1m, là vùng đất hầu như còn nguyên sơ chưa ai đặt chân đến. Còn ở huyện Phan
Xi Păng đi San Sả Hồ ở độ cao gần 3.000m, lại phát hiện rừng đỗ quyên với khoảng 20 loài trong tổng số 27 loài
có mặt tại Việt Nam, trong đó đẹp và nhiều nhất là loài quyên ly, quyên huyền diệu, quyên silie... Ngay cả loài kim
giao được coi là hiếm cũng tìm thấy ở đây - trên độ cao 1.700m. Đó là chưa kể còn trên 2.500 loài lấy được mẫu
tiêu bản nhưng chưa xác định được tên họ của cây. Gần đây, tại khu vực Vườn quốc gia, người ta còn tìm thấy loài
nấm cổ linh chi, trong đó có cây to, nặng gần 6 kg. Về động vật, ngoài một số loài quen thuộc như sóc bay, mèo
rừng, sơn dương, vượn đen, gà lôi đủ màu... mới đây còn phát hiện thêm loài ếch gai rất hiếm có ở Việt nam.
Do diện tích vườn rộng lớn, địa hình phức tạp, tiếp giáp với cả 6 xã trong huyện và một số huyện bạn, tỉnh bạn nên
công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên trong vườn được chính quyền địa phương (tỉnh Lào Cai) đặt lên hàng đầu
và trực tiếp giao nhiệm vụ cho Ban giám đốc vườn quốc gia bằng những biện pháp hữu hiệu bảo vệ bằng được
môi trường sinh thái ở đây. Trước mắt là đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân ở các vùng đệm không vào rừng khai
thác, săn bắn bừa bãi động thực vật quý hiếm.
Từ năm 2003 trở lại đây, lãnh đạo Vườn đã có sáng kiến ký kết với các hộ dân trong vùng tham gia bảo vệ và phát
triển Vườn. Đến giữa quý II/2004 đã có trên 300 hộ dân ở 6 xã vùng đệm và các trưởng thôn bản, các trường dòng
họ ký cam kết tham gia bảo vệ rừng và thú rừng theo những nội dung cam kết không săn bắn, bẫy bắt chim chóc,
thú rừng, không khai thác chặt phá rừng v.v... Phát triển du lịch cảnh quan sinh thái phải đảm bảo không xâm hại
đến rừng, không vứt rác thải, hoá chất gây tác động xấu ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái của Vườn. Có kế
hoạch hỗ trợ rút những hộ dân ra khỏi vùng lõi để tập trung công tác tu bổ, bảo vệ phát triển vốn rừng... Tuy nhiên
đến nay mới có 1/6 diện tích (khoảng 10.000 ha trong tổng số 60.000 ha) Vườn được ký cam kết với dân, số diện
tích còn lại vẫn đang tiếp tục được triển khai theo phương án tiếp tục ký kết với dân địa phương hoặc tăng cường
biên chế cho lực lượng bảo vệ Vườn; tăng cường giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên môi trờng đối với
người dân đi đôi với áp dụng các biện pháp ngăn chặn sự săn bắn, khai thác bừa bãi tài nguyên rừng, hạn chế và
tiến tới ngăn chạn có hiệu quả việc khai thác, săn bắn khiến sinh vật trong Vườn suy giảm.
Với lòng yêu nghề và quý rừng, hiện nay đội ngũ cán bộ Vườn quốc gia đang tập trung hoàn chỉnh bản đồ hiện
trạng rừng Vườn quốc gia Hoàng Liên với thời gian sớm nhất để phục vụ nghiên cứu khoa học và bảo tồn sự đa
5
dạng sinh học tại đây, góp phần giữ cho môi trường sinh thái Sa Pa mãi mãi trở thành điểm nghỉ mát hấp dẫn,
điểm tham quan du lịch phía Tây Bắc của tổ quốc còn giữ mãi được vẻ đẹp tự nhiên và không khí trong lành vốn
có của nó.

2.VƯỜN QUỐC GIA BA BỂ:
Địa điểm: miền Bắc Việt Nam
Gần thành phố Bắc Cạn
Tọa độ: 22
o
24’19’’N, 105
o
36’55’’E
Diện tích : 76,19 km
2.
Thành lập: 1992
Khách tham quan: 63.000 ( năm 2004).
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Bắc Cạn
Hồ Ba Bể trong vườn quốc gia Ba Bể.
Vườn quốc gia Ba Bể: là một vườn quốc gia, rừng đặc dụng, khu du lịch sinh thái của Việt Nam, nằm trên địa
phận tỉnh Bắc Kạn, với trung tâm là hồ Ba Bể. Vườn quốc gia Ba Bể được thành lập theo Quyết định số 83/TTg
ngày 10 tháng 11 năm năm 1992 của Thủ tướng Chính phủ.
Vị trí: Vườn có tọa độ là 105°36′55″ kinh đông, 22°24′19″ vĩ bắc. Nó nằm trên địa bàn 5 xã Nam Mẫu, Khang
Ninh, Cao Thương, Quảng Khê, Cao Trĩ thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Vườn quốc gia này cách thị xã Bắc
Kạn 50 km và Hà Nội 250 km về phía bắc.
Thông tin chính: Vườn có diện tích 7.610 ha, trong đó:
- Khu bảo vệ nghiêm ngặt có diện tích 3.266,2 ha.
- Khu phục hồi tái sinh rộng 4.083,4 ha,
- Khu dịch vụ hành chính 301,4 ha.
Vườn có độ cao so với mực nước biển là từ 150 m đến 1.098 m. Ở phía tây nam của vườn có dãy núi Phia Boóc,
có các điểm cao từ 1.505 m đến 1.527 m.
Đa dạng sinh học: Với trung tâm là hồ Ba Bể, khu vườn quốc gia này có:
- 600 loài cây thân gỗ (thuộc 300 chi, 114 họ khác nhau).
- 65 loài thú (22 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam).
- 214 loài chim thuộc 17 bộ,47 họ (7 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam).

- 46 loài bò sát và động vật lưỡng cư.
- 87 loài cá (11 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam).
Vườn có một số loài quý hiếm như voọc mũi hếch, gấu ngựa, báo lửa, báo hoa.
3.VƯỜN QUỐC GIA BÁI TỬ LONG
Địa điểm: miền Bắc Việt Nam
Gần thành phố : Hạ Long
Tọa độ: 21
o
05’07’’N, 107
o
38’15’’E
Diện tích : 157,84 km
2.
Thành lập: 2001
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Quảng Ninh.
Vườn quốc gia Bái Tử Long là một khu bảo tồn sinh quyển cấp quốc gia tại khu vực vịnh Bái Tử Long huyện
Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh Việt Nam. Vườn được thành lập theo quyết định 85/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng
chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 1 tháng 6 năm 2001.
Vườn quốc gia Bái Tử Long nằm trong vùng có tọa độ địa lý là: 20°55'05" ÷ 21°15'10" vĩ độ Bắc và 107°30'10" ÷
107°46'20" kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên của vườn bao gồm diện tích đất đai của tất cả các đảo nằm trong khu
vực tọa độ trên, kèm theo các vùng biển vùng quanh các đảo này với bề rộng 1 km tính từ đường bờ biển các đảo
đó, tổng diện tích là 15.783 ha. Các đảo thuộc vườn quốc gia bao gồm: Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ, Sậu
Nam, Sậu Động, Đông Ma, Hòn Chính, Lò Hố, Máng Hà Nam, Máng Hà Bắc, Di To, Chầy Cháy, Đá Ẩy, Soi
Nhụ, ..., và các đảo nhỏ trong vùng tọa độ nêu trên.
6
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
4. VƯỜN QUỐC GIA XUÂN SƠN
Địa điểm:Phú Thọ, Việt Nam
Gần thành phố Việt Trì
Tọa độ: 21

o
07’30’’N, 104
o
56’00’’E
Diện tích : 150,48 km
2.
Thành lập: 2002
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Phú Thọ.
Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì 80 km, có
phạm vi ranh giới được xác định như sau:
- Phía Đông: Giáp các xã Tân Phú, Minh Đài, Long Cốc, huyện Tân Sơn.
- Phía Tây: Giáp huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La), huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình).
- Phía Nam: Giáp huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình).
- Phía Bắc: Giáp xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn.
Tọa độ địa lý: Từ 21°03' đến 21°12' vĩ bắc và từ 104°51' đến 105°01' kinh đông.
Địa hình: Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm trên hệ thống núi đá vôi có độ cao từ 700 đến 1.300 m. Trong khu vực có
rất nhiều hang đá.
Diện tích: Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 15.048ha khu
vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, phân khu phục hồi sinh thái kết hợp bảo tồn di tích lịch sử: 3.000 ha phân
khu hành chính, dịch vụ: 900 ha. Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên sinh
trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao,
đa dạng địa hình kiến tạo nên đa dạng cảnh quan.
Diện tích vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn là 18.639 ha, bao gồm các xã: Kiệt Sơn, Lai Đồng, Minh Đài và
một phần các xã: Đồng Sơn, Tân Sơn, Kim Thượng, Xuân Đài, đều cùng huyện.
Đa dạng sinh học:
Những dãy núi đá vôi tại Vườn quốc gia Xuân Sơn
Theo thống kê bước đầu, Vườn quốc gia Xuân Sơn có 726 loài thực vật
có mạch thuộc 475 chi và 134 họ trong đó có 52 loài thuộc ngành Quyết
và ngành Hạt trần. Có 282 loài động vật, với 23 loài lưỡng cư, 30 loài bò
sát, 168 loài chim, 61 loài thú

[1]
.
Nằm trong khu vực giao tiếp của hai luồng thực vật Mã Lai và Hoa Nam,
hệ thực vật ở Xuân Sơn có các loài re, dẻ, sồi và mộc lan chiếm ưu thế.
Ngoài ra, ở Xuân Sơn còn có các loài tiêu biểu cho khu vực Tây Bắc như
táu muối, táu lá duối, sao mặt quỷ và chò chỉ, chò vảy, nghiến, dồi, vầu
đắng, kim giao (rừng chò chỉ ở Xuân Sơn là một trong những rừng chò
chỉ đẹp và giàu nhất miền Bắc). Xuân Sơn còn là kho giống bản địa, kho cây thuốc khổng lồ, đặc biệt là cây rau
sắng mọc tự nhiên có mật độ cao nhất miền Bắc
5.VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO.
Vườn Quốc gia Tam Đảo có diện tích 36.883 ha. Thảm thực vật ở đây đặc trưng cho 5 kiểu rừng. Hệ thực
vật có 904 loài thuộc 478 chi, 213 họ thực vật bậc cao, trong đó có 64 loài thực vật quí hiếm được ghi vào
Sách Đỏ Việt Nam. Động vật gồm có 307 loài, trong đó 56 loài động vật quí hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt
Nam (gồm 22 loài thú, 9 loài chim, 17 loài bò sát, 7 loài lưỡng cư và 1 loài côn trùng).
Vườn quốc gia Tam Đảo là tài sản quý của quốc gia, có nhiều lợi ích cho cộng đồng cư dân trong khu vực.
6. VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ.
7
Vị trí: Vườn quốc gia Tam Đảo nằm trọn trong dãy núi Tam Điệp,tỉnh
Vĩnh Phúc.Đặc điểm: vườn quốc gia Tam Đảo là khu vực có tính đa dạng
sinh học cao, là kho dự trữ các nguồn gen động thực vật quý hiếm của
nước ta.
Vườn quốc gia Ba Vì là một vườn quốc gia của Việt Nam, được thành lập năm 1991 theo quyết định số 407-CT
ngày 18 tháng 12 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam.
Vị trí địa lý: Toạ độ địa lý: Từ 21 độ 01' đến 21 độ 07' vĩ độ bắc và 105 độ 16' đến 105 độ 25' kinh độ đông.
Vườn quốc gia Ba Vì nằm trên khu vực thuộc huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây và hai huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn tỉnh Hòa
Bình với diện tích 6.986 ha, cách Sơn Tây, Hà Tây 15 km và cách Hà Nội 50 km về phía tây.
Từ đầu thế kỉ 20, Ba Vì đã là địa danh nổi tiếng nhờ sự đa dạng của các hệ sinh thái và có phong cảnh đẹp, khí hậu
mát mẻ. Vườn quốc gia này nằm trong dãy núi cao chạy dọc theo hướng đông bắc-tây nam với đỉnh Vua cao 1.296
m, đỉnh Tản Viên cao 1.226 m, đỉnh Ngọc Hoa cao 1.120 m.
Động-thực vật: Hiện tại, người ta đã biết trên 1.000 loài thực vật, trong số đó có khoảng 200 loài cây dược liệu,

nhiều loài quý như bách xanh, thông, dẻ, lát hoa. Về động vật, có 45 loài thú, 115 loài chim, 61 loài bò sát và 27
loài ếch nhái, trong đó có nhiều loài quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới như gà lôi trắng, khỉ, báo,
gấu, sóc bay, v.v.
Hình ảnh:
Ba đỉnh núi cao nhất trong
dãy núi Ba Vì
Một phần vườn quốc
gia Ba Vì
Vườn ươm thạch thảo và xương rồng
trong Vườn quốc gia Ba Vì
Khỉ thả rông trong vườn
quốc gia Ba Vì
7.VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ
Vườn quốc gia Cát Bà là khu rừng đặc dụng của Việt Nam, khu dự trữ sinh quyển thế giới. Vườn quốc gia Cát Bà
thuộc huyện Cát Hải, Hải Phòng.
Lược sử: VQG Cát Bà thành lập ngày 31/3/1986 theo quyết định số 79/CP của Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam
(nay là chính phủ). Gồm các hệ sinh thái biển, hệ sinh thái rừng trên cạn, hệ sinh thái rừng ngập mặn.
Vị trí địa lý:
Bản đồ quần đảo Cát Bà, vùng rừng quốc gia Cát Bà được khoanh màu
xanh đậm
VQG Cát Bà nằm cách trung tâm thành phố Hải Phòng 35 hải lý về phía
đông. Có tọa độ địa lý: 20°43′50″-20°51′29″ vĩ bắc.
106°58′20″-107°10′50″ kinh đông.
Bắc giáp xã Gia Luận. Đông giáp vịnh Hạ Long. Tây giáp thị trấn Cát Bà
và các xã Xuân Đàm, Trân Châu, Hiền Hào.
Diện tích: Tổng diện tích tự nhiên của vườn là 15.200 ha. Trong đó có
9.800 ha là rừng núi và 5.400 ha là mặt nước biển.
Điều kiện tự nhiên:
Địa hình: Toàn bộ VQG Cát Bà gồm một vùng núi non hiểm
trở có độ cao <500 m, trong đó đa phần là nằm trong khoảng

50-200 m. Đảo Cát Bà chủ yếu là núi đá vôi xen kẽ nhiều
thung lũng hẹp chạy dài theo hướng Đông Bắc-Tây Nam.
Địa chất: Đá mẹ chủ yếu của đảo là đá vôi. Vườn quốc gia
Cát Bà nhìn từ đỉnh Cao Vọng
Đất đai:VQG Cát Bà gồm có 5 nhóm đất chính:
- Nhóm đất trên núi đá vôi: Đó là loại đất phong hóa màu nâu
đỏ hoặc nâu vàng phát triển trên đá vôi và sa thạch, tầng đất
>50 cm, pH = 6,5-7. Phân bố dưới tán rừng, rải rác trong
vườn.
8
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
- Nhóm đất đồi feralit màu nâu vàng hoặc nâu nhạt phát triển trên sản phẩm đá vôi ít chua hay gần trung tính.
Trong nhóm đất này còn có loại feralit màu trắng xám hay mầu nâu vàng phát triển trên diệp thạch sét chua vùng
đồi trọc, tầng đất mỏng, cấu tượng xấu, nhiều đá lẫn, dất khô dời rạc.
- Nhóm đât thung lũng cạn phát triển trên đá vôi hoặc sản phẩm đá vôi, tập trung ở các thung lũng, được rừng tự
nhiên che phủ.
- Nhóm đất thing lũng ngập nước, phát triển chủ yếu do quá trình bồi tụ, mùa mưa thường ngập nước, tầng đất mặt
trung bình hoặc mỏng.
- Nhóm đất bồi tụ ngập mặn do sản phẩm bồi tụ ở cửa sông, phát triển trên vung ngập mặn ở Cái Viềng, Phù Long.
Tài nguyên sinh vật:
Thực vật: Rừng ở đây có một kiểu chính là kiểu rừng mưa nhiệt đới thường xanh, nhưng do điều kiện địa hình,
đất đai và chế độ nước nên ở đây có một số kiểu rừng phụ: rừng trên núi đá vôi, rừng ngập mặn ven đảo, rừng
ngập nước ngọt trên núi. Rừng ở đây cũng có nhiều kiểu sinh thái rừng cá biệt như quần hợp Kim giao (tại khu vực
gần đỉnh Ngự Lâm); đơn ưu Và nước (khu vực Ao Ếch).
Thành phần thực vật có 741 loài, nhiều loại cây gỗ quý như trai lý, lát hoa, lim xẹt, dẻ hoa, kim giao, gõ trắng, chò
đãi, trên thế giới chỉ có ở dãy núi Himalaya, thực vật ngập mặn 23 loài, rong biển 75 loài, thực vật phù du 199 loài.
Động vật: Trên khu vực Vườn có Có 282 loài trong đó 32 loài thú, 78 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng ngư, 11
loài ếch nhái. Đặc biệt có loài voọc Cát Bà (tên khoa học: Trachypithecus poliocephalus phân loài poliocephalus)
tức voọc đầu vàng (một số tài liệu gọi nhầm là voọc đầu trắng, tên khoa học: Trachypithecus poliocephalus phân
loài leucocephalus chỉ có ở Trung Quốc) là loài đặc hữu hẹp của Cát Bà, hiện tại chỉ còn 66 cá thể, chỉ còn phân

bố ở các núi ven bờ biển (theo số liệu cung cấp của chi cục kiểm lâm VQG Cát Bà, năm 2007). Động vật phù du
98 loài, cá biển 196 loài, san hô 177 loài.
8.VƯỜN QUỐC GIA CÚC PHƯƠNG
Vườn Quốc gia Cúc Phương (hay rừng Cúc Phương) là một
khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng đặc dụng nằm trên địa phận
ba tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Vườn quốc gia này
có hệ động thực vật phong phú đa dạng mang đặc trưng rừng
mưa nhiệt đới. Nhiều loài động thực vật có nguy cơ tuyệt
chủng cao được phát hiện và bảo tồn tại đây. Đây cũng là vườn
quốc gia đầu tiên tại Việt Nam.
Lịch sử: Vườn quốc gia Cúc Phương là nơi mang những giá trị lịch sử và là một địa điểm khảo cổ. Các di vật
của người tiền sử có niên đại cách đây khoảng 12.000 năm đã được phát hiện tại Vườn quốc gia, chứng tỏ con
người đã từng sinh sống tại khu vực Cúc Phương từ 7.000 đến 12.000 năm trước. Người ta đã phát hiện một loạt
các hiện vật như mồ mả, rìu đá, mũi tên đá, dao bằng vỏ sò, dụng cụ xay nghiền v.v. trong một số hang động thuộc
vườn quốc gia này. Gần đây, một phần bộ xương của một loài lưỡng cư biển, rất có thể là thằn lằn cá
(Ichthyosaurus spp.) đã được phát hiện ở trong địa bàn vườn. Đây là khám phá đầu tiên của loài này ở Việt Nam.
Năm 1960, rừng Cúc Phương được công nhận là khu bảo tồn rừng và được thành lập theo Quyết định 72/TTg ngày
7 tháng 7 năm 1962 như là một khu rừng cấm với diện tích 20.000 ha đánh dấu sự ra đời khu bảo vệ đầu tiên của
Việt Nam. Quyết định số 18/QĐ-LN ngày 8 tháng 1 năm 1966 chuyển hạng lâm trường Cúc Phương thành Vườn
quốc gia Cúc Phương và thành lập một Ban quản lý vườn quốc gia này. Quyết định số 333/QĐ-LN ngày 23 tháng
5 năm 1966 quy định chức năng và trách nhiệm của Ban quản lý.
Vị trí địa lý: Toạ độ: Từ 20°14' tới 20°24' vĩ bắc, 105°29' tới 105°44' kinh đông.
Diện tích: Ngày 9 tháng 8 năm 1986, Cúc Phương được nêu trong danh sách các khu rừng đặc dụng theo Quyết
định số 194/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với phân hạng quản lý là Vườn quốc gia và diện tích được quyết
định là 25.000 ha
[1]
. Luận chứng kinh tế-kỹ thuật của vườn quốc gia đã được Viện điều tra quy hoạch rừng xây
dựng vào tháng 10 năm 1985. Luận chứng này sau đó được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phê duyệt ngày 9 tháng 5
năm 1988 theo Quyết định số 139/CT. Trong luận chứng, ranh giới của vườn quốc gia đã được xác định lại và
9

tổng diện tích được đưa ra là 22.200 ha, bao gồm 11.350 ha thuộc địa giới tỉnh Ninh Bình, 5.850 ha thuộc địa giới
tỉnh Thanh Hóa và 5.000 ha thuộc địa giới tỉnh Hòa Bình.
Địa hình và thủy văn: Vườn quốc gia Cúc Phương nằm ở phía đông nam của dãy núi Tam Điệp, một dãy núi đá
vôi chạy từ tỉnh Sơn La ở hướng tây bắc. Dải núi đá vôi này với ưu thế là kiểu karst tự nhiên, hình thành trong
lòng đại dương cách đây khoảng 200 Ma. Dãy núi này nhô lên đến độ cao 636 m tạo thành một nét địa hình nổi bật
giữa một vùng đồng bằng. Phần dãy núi đá vôi bao quanh vườn quốc gia có chiều dài khoảng 25 km và rộng đến
10 km, ở giữa có một thung lũng chạy dọc gần hết chiều dài của dãy núi.
Địa hình karst ảnh hưởng rõ nét đến hệ thống thủy văn của Cúc Phương. Phần lớn nước trong vườn quốc gia bị hệ
thống các mạch nước ngầm chằng chịt hút rất nhanh chóng, nước sau đó thường chảy ra ở những khe nhỏ ở bên
hai sườn của vườn quốc gia. Do vậy, không có các ao hồ tự nhiên hay các thủy vực tĩnh nằm trong vườn quốc gia,
mà chỉ có một dòng chảy thường xuyên là sông Bưởi. Con sông này nằm ở phía tây của vườn, chảy theo hướng
bắc-nam đổ vào sông Mã.
Đa dạng sinh học:Vườn quốc gia Cúc Phương-Việt Nam được
chụp từ trên cao, vào lúc hoàng hôn
Thực vật: Thảm thực vật Vườn quốc gia Cúc Phương với ưu thế
là rừng trên núi đá vôi. Ở một đôi chỗ, rừng hình thành nên nhiều
tầng tán có thể đến 5 tầng rõ rệt, trong đó tầng vượt tán đạt đến
độ cao trên 40 m. Do địa hình dốc, tầng tán thường không liên
tục và đôi khi sự phân tầng không rõ ràng. Nhiều cây rất phát
triển hệ rễ bạnh vè để đáp ứng với tầng đất mặt thường mỏng.
Vườn quốc gia hiện là nơi có nhiều loài cây gỗ lớn như chò xanh
(Terminalia myriocarpa), chò chỉ (Shorea sinensis) hay đăng
(Tetrameles nudiflora)
[2]
, hiện đang được bảo vệ để thu hút du
khách thăm quan. Đây cũng là nơi phong phú về các cây gỗ và
cây thuốc.
Cúc Phương có một khu hệ thực vật phong phú. Hiện nay, người ta đã thống kê được khoảng gần 2.000 loài thực
vật có mạch thuộc 887 chi trong 221 họ thực vật. Các họ giàu loài nhất trong hệ thực vật Cúc Phương là các họ
Đại kích (Euphorbiaceae), Hòa thảo (Poaceae), Đậu (Fabaceae), Thiến thảo (Rubiaceae), Cúc (Asteraceae), Dâu

tằm (Moraceae), Nguyệt quế (Lauraceae), Cói (Cyperaceae), Lan (Orchidaceae) và Ô rô (Acanthaceae). Khu hệ
thực vật ở Cúc Phương là tập hợp yếu tố địa lý thực vật bao gồm Trung Quốc-Himalaya, Ấn Độ-Myanma và
Malesia.
Đến nay, đã có 3 loài thực vật có mạch đặc hữu được xác định cho hệ thực vật Cúc Phương là hồ trăn Cúc Phương
(Pistacia cucphuongensis), mua Cúc Phương (Melastoma trungii) và cui Cúc Phương (Heritiera cucphuongensis) .
Vườn quốc gia Cúc Phương cũng được xác định là 1 trong 7 trung tâm đa dạng thực vật của Việt Nam.
Động vật: Rừng Cúc Phương có hệ sinh thái khá phong phú và đa dạng, gồm 97 loài thú (trong đó nổi bật nhất là
các loài khỉ châu Á), 300 loài chim, 36 loài bò sát, 17 loài lưỡng cư, 11 loài cá và hàng ngàn loài côn trùng. Nhiều
loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam. Cúc Phương là nơi sinh sống của một số quần thể thú quan trọng về mặt bảo
tồn, trong đó có loài linh trưởng đang bị đe dọa tuyệt chủng trên toàn cầu ở mức đe dọa cực kỳ nguy cấp là voọc
quần đùi trắng (Trachypithecus delacouri) và loài sẽ bị nguy cấp trên toàn cầu là cầy vằn bắc (Hemigalus owstoni).
Thêm vào đó, loài báo hoa mai (Panthera pardus) là loài bị đe dọa ở mức quốc gia cũng mới được ghi nhận gần
đây
[6]
. Ngoài ra, hơn 40 loài dơi đã được ghi nhận tại đây.
Đến nay, đã có 313 loài chim được xác định ở Cúc Phương. Cúc Phương nằm tại vị trí tận cùng phía bắc của vùng
chim đặc hữu vùng đất thấp Trung Bộ, tuy nhiên, chỉ có một loài có vùng phân bố giới hạn được ghi nhận tại đây
là khướu mỏ dài (Jabouilleia danjoui). Cúc Phương đã được công nhận là một trong số các vùng chim quan trọng
tại Việt Nam.
Nhiều nhóm sinh vật khác cũng đã được điều tra, nghiên cứu ở Cúc Phương trong đó có ốc. Khoảng 111 loài ốc đã
được ghi nhận trong một chuyến điều tra gần đây trong đó có 27 loài đặc hữu. Khu hệ cá trong các hang động
ngầm cũng đã được nghiên cứu, ít nhất đã có một loài cá được ghi nhận tại vườn quốc gia là loài đặc hữu đối với
vùng núi đá vôi, đó là cá mèo Cúc Phương (Parasilurus cucphuongensis). Loài cá này sau đó cũng đã được ghi
nhận tại khu đề xuất bảo tồn thiên nhiên Pù Luông. Đến nay đã xác định được 280 loài bướm ở đây, 7 loài trong số
đó là các loài lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam tại Cúc Phương vào năm 1998.
Các giá trị khác: Vườn quốc gia Cúc Phương là một trong những địa điểm du lịch có tiếng, thu hút số lượng lớn
du khách. Do số lượng du khách lớn, Cúc Phương là nơi rất có tiềm năng cho việc nâng cao nhận thức cộng đồng
10
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
về các vấn đề môi trường. Tiềm năng này cũng đã được thừa nhận và đã có những hoạt động thực tế được thực

hiện ví dụ như Trung tâm Du khách của Vườn quốc gia đã đi vào hoạt động giữa năm 2000. Nó là một trong
những điểm quan, cùng với các điểm khác như Tam Cốc - Bích Động, nhà thờ Phát Diệm, cố đô Hoa Lư, khu bảo
tồn thiên nhiên Vân Long, v.v. của tỉnh Ninh Bình. Du khách đến đây để khám phá hệ động thực vật phong phú,
chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên đẹp.
Vườn quốc gia Cúc Phương được ứng cử là di sản thế giới năm 1991 tuy nhiên do hồ sơ còn thiếu sót nên hiện nay
vẫn tiếp tục hoàn thiện để được UNESCO sớm công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.Đây cũng là một địa điểm
nghiên cứu sinh học và đào tạo cán bộ khoa học: nhiều sinh viên và nghiên cứu sinh đã tiến hành các khoá học
thực địa tại vườn. Trong vườn cũng đã có một Trung tâm đào tạo cán bộ kiểm lâm cho các tỉnh phía Bắc Việt
Nam.
Rừng Cúc Phương còn đóng vai trò trong việc điều tiết nguồn nước cung cấp cho các cộng đồng dân cư địa
phương. Rừng bảo vệ đầu nguồn hồ chứa nước Yên Quang cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp
cho các vùng lân cận.
Các vấn đề về bảo tồn: Một số loài thú lớn như hổ (Panthera tigris), vượn đen má trắng (Hylobates leucogenys)
đã tuyệt chủng ở vườn quốc gia Cúc Phương trong thời gian gần đây. Nguyên nhân chính là do sức ép từ các hoạt
động săn bắn và diện tích của vườn là quá nhỏ không đáp ứng được yêu cầu bảo tồn các loài này.
Khi Vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập, có khoảng 500 người sống trong các xóm thuộc vùng lõi của
vườn quốc gia này. Quyết định số 251/CT ngày 6 tháng 10 năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã yêu cầu
di chuyển những khu dân cư này ra ngoài ranh giới vườn quốc gia. Trong giai đoạn di dời đầu tiên, kết thúc vào
cuối năm 1990, 6 xóm với 650 người đã được chuyển đến định cư ở vùng bán sơn địa ngoài cửa vườn. Tuy nhiên,
hiện vẫn còn khoảng 2.000 người sống dọc theo bờ sông Bưởi bên trong vườn. Số dân này cũng đang được lên kế
hoạch để di dời. Khoảng trên 50.000 dân sống ở vùng đệm của vườn quốc gia, rất nhiều người trong số họ có cuộc
sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên bên trong vườn. Lâm sản bị khai thác mạnh nhất là gỗ và củi.
Việc thu hoạch ốc, nấm, măng làm thức ăn cũng như việc đi lấy thân chuối làm thức ăn gia súc diễn ra thường
xuyên. Hoạt động săn bắn để lấy thức ăn và bán cho dân kinh doanh động vật hoang dã làm suy giảm nghiêm
trọng số lượng các loài thú, chim và bò sát trong vườn. Rừng ở vùng rìa tiếp giáp với dân cư đang bị suy thoái
nghiêm trọng do việc lấy củi và chăn thả gia súc bừa bãi cũng như bị phát quang lấy đất làm nương rẫy ở một số
khu vực.
Vấn đề khác là du lịch. Một lượng lớn du khách đến Cúc Phương hàng năm cũng tạo ra một vấn đề đặc biệt đối
với việc quản lý vườn quốc gia. Nước thải, thu hái cây cảnh và ô nhiễm tiếng ồn từ những nhóm du khách quá
đông là những vấn đề chưa kiểm soát được. Kế hoạch quản lý của vườn lại quá tập trung vào việc phát triển du

lịch và điều này làm giảm hiệu quả của công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Điều này cũng có thể dẫn đến sự phát
triển cơ sở hạ tầng du lịch với những những tác động tiêu cực về môi trường. Việc nâng cấp con đường xuyên qua
thung lũng trung tâm của vườn sẽ tạo điều kiện cho việc xâm nhập để khai thác lâm sản. Tương tự như vậy, việc
xây dựng các hồ nhân tạo trong vườn quốc gia sẽ dẫn đến một số khoảnh rừng bị phát quang và làm thay đổi chế
độ thủy văn của vùng.
Một trong những mối đe dọa lớn đến tính đa dạng sinh học của vườn quốc gia này là việc xây dựng đường Hồ Chí
Minh chạy dọc theo thung lũng phía tây sông Bưởi với chiều dài khoảng 7,5 km. Ngoài các tác động trực tiếp khi
thi công xây dựng, con đường này hoàn thành sẽ làm cho khả năng tiếp cận các khu vực rừng tăng cao, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc khai thác sản phẩm rừng trái phép cũng như trong tương lai các hoạt động tái định cư sẽ
được triển khai trong khu vực này. Tuy nhiên một số ý kiến lại cho rằng việc xây dựng con đường này không ảnh
hưởng tới môi trường của vườn quốc gia.
Các dự án có liên quan: Hiệp hội động vật học Frankfurt (Zoologische Gesellschaft Frankfurt) cùng Bộ Lâm
nghiệp Việt Nam đã thành lập Trung tâm Cứu hộ Linh trưởng nguy cấp (EPRC) ở Cúc Phương năm 1993 nhằm
nuôi nhốt, gây giống và nghiên cứu đối với các loài vượn, cu li và voọc của Việt Nam. EPRC nhận linh trưởng từ
các cơ quan nhà nước tịch thu từ những đối tượng buôn bán trái phép động vật hoang dã để chữa trị và chăm sóc
tại Trung tâm.
Cúc Phương cũng là nơi triển khai dự án sinh sản, sinh thái của loài cầy vằn bắc và chương trình sinh thái học và
bảo tồn rùa. Hai chương trình này triển khai nhằm thiết lập các trại nhân nuôi sinh sản quần thể của các loài động
vật bị đe dọa trên toàn cầu, hiện đang bị tình trạng buôn bán động vật hoang dã đe dọa. Dự án bảo tồn Cúc Phương
(CPCP) đã được Tổ chức Bảo tồn Động Thực vật hoang dã Quốc tế thực hiện từ năm 1996 đến năm 2002. Phối
hợp với các tổ chức hữu quan tại Việt Nam, FFI chương trình Việt Nam đã thực hiện dự án do World Bank và
GEF tài trợ có tên gọi là "Dự án bảo tồn cảnh quan núi đá vôi Pù Luông-Cúc Phương" trong giai đoạn 2002-2005.
11
Mục tiêu của dự án này nhằm bảo vệ vùng núi đá vôi tại Pù Luông-Cúc Phương cũng như các loài hoang dã sống
trong khu vực thông qua việc thành lập một khu bảo vệ mới, tăng cường các hệ thống bảo vệ hiện có và tăng
cường năng lực cho các đơn vị liên quan. Dự án còn tăng cường hiện trạng bảo tồn các loài voọc mông trắng
(Trachypithecus spp.) và kêu gọi, xây dựng sự ủng hộ từ cộng đồng trong công tác bảo tồn vùng núi đá vôi.
9.VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY.
Địa điểm: miền Bắc Việt Nam
Gần thành phố : Nam Định, Thái Bình.

Tọa độ: 20
o
13’48’’N, 106
o
31’00’’E.
Diện tích : 71,00 km
2.
Thành lập: 2003.
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Nam Định.
Vườn quốc gia Xuân Thủy là khu bảo tồn dự trữ sinh quyển đất rừng ngập mặn. Đây là rừng ngập mặn đầu tiên ở
Việt Nam được quốc tế công nhận theo công ước Ramsar, là rừng ngập mặn thứ 50 của thế giới.
Vườn quốc gia Xuân Thủy được nâng cấp từ Khu bảo tồn đất ngập nước Xuân Thủy theo quyết định số
01/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 2 tháng 1 năm 2003.
Địa lý: Vườn quốc gia Xuân Thủy nằm ở phía đông nam huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, ngay tại cửa Ba Lạt
của sông Hồng. Khu vực vùng lõi của vườn là diện tích đất ngập mặn trên ba cồn cát cửa sông là cồn Ngạn, cồn
Lư và cồn Xanh thuộc xã Giao Thiện. Toàn bộ vùng đệm và vùng lõi của vườn nằm trên địa phận các xã Giao
Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân và Giao Hải. Diện tích toàn bộ vườn khoảng 7.100 ha, gồm: 3.100 ha diện
tích đất nổi có rừng và 4.000 ha đất rừng ngập mặn.
Hàng năm có tới khoảng 100 loài chim di cư chọn nơi đây là điểm lưu trú trên đường di cư về phương Nam trú
đông, trong đó có tới 1/5 số lượng cò mỏ thìa của toàn thế giới. Tại vườn ước tính có 215 loài chim nước sinh
sống, nhiều loài gần như tuyệt chủng có tên trong sách đỏ thế giới, như: rẽ mỏ thìa, bồ nông, cò thìa, choi choi mỏ
thìa, mòng biển, diệc đầu đỏ...
Trên vùng đất ngập mặn này, dưới làn nước thủy triều có khoảng 165 loài động vật nổi và 154 loài động vật đáy,
tổng cộng khoảng 500 loài động vật.
Về thực vật, vườn hiện có 120 loài thực vật bậc cao, trong đó có nhiều loài rong tảo có giá trị kinh tế cao.
10.VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN.
Địa điểm: miền Trung Việt Nam.
Gần thành phố : Thanh Hóa.
Tọa độ:19
o

37’00’’N, 105
o
31’30’’E.
Diện tích : 166,34 km
2.
Thành lập: 1992
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Thanh Hoá.
Vườn quốc gia Bến En là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Được thành lập theo quyết định
số 33 ngày 27 tháng 1 năm 1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam.
Số liệu địa lý: Thuộc huyện Như Thanh và huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nằm cách thành phố Thanh Hóa
khoảng 36 km về phía tây nam. Tổng diện tích là 16.634 ha, trong đó rừng nguyên sinh là 8.544 ha. Vườn quốc gia
Bến En có địa hình nhiều đồi núi, có nhiều sông, suối và hồ trên núi.
Đa dạng sinh học: Có nhiều loài sinh vật quý, với 870 loài thực vật (lim xanh, lát hoa, chò chỉ, trai lý, bù
hương...), 66 loài thú (với 29 loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam như: sói đỏ, gấu ngựa, vượn đen, phượng hoàng
đất, gà tiền mặt vàng...)
Tiềm năng du lịch:
12
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Nằm cách thành phố Thanh Hoá 46 km về phía Tây nam, vườn quốc
gia Bến En là một địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn đối với bất kỳ
ai yêu thích vẻ nguyên sơ của tạo hoá. So với các Vườn quốc gia ở
phía Bắc như: Ba Bể, Ba Vì, Tam Đảo, Cúc Phương .. vườn Bến En
có tầm cỡ thực sự về tiềm năng du lịch sinh thái. Vườn Bến En trải
rộng trên 2 huyện Như Xuân và Như Thanh với tổng diện tích
16.634ha, chia làm 3 khu vực chính, trong đó khu bảo tồn nguồn
gien là nơi 'cấm địa' của vườn (chỉ những nhà khoa học mới được
phép tìm hiểu, nghiên cứu), ở đây hệ thực vật rất phong phú với
hàng trăm loài, bộ, họ (Có họ có tới 10 loài) như các loại cây lim
xanh rất đặc trưng (có cây lên tới cả ngàn tuổi) cây trò trĩ và các loài
thuốc nam quý … Tính đặc trưng của vườn có những nét đẹp và

phong phú rất khác các vườn quốc gia khác. Hệ động vật cũng vậy,
các loài quý hiếm
ở đây là voi, hổ,
gấu, chim …tồn tại trong 37 bộ, 96 họ, 216 giống và 309 loài,
các loài Voi, Vượn má trắng, hổ ...thuộc loại quý hiếm đang
được bảo vệ. Tuy nhiên, ở phân khu du lịch sinh thái dường
như gần gũi với du khách hơn cả. Khu này gồm lòng hồ được
hình thành bởi 4 con suối và con sông Mực có diện tích rộng
khoảng 3.500 ha, nước bốn mùa xanh biếc, tĩnh lặng trong
quần thể không gian trời, mây, non, nước hữu tình. Du khách
sẽ thoả lòng khi đến thăm 21 hòn đảo với những sắc thái rất
khác nhau bằng các chuyến ca nô, xuồng máy ....Đặc biệt, tại
đây có 8 tuyến đi du lịch trên hồ thăm các ốc đảo. Trong 8
tuyến đi (cơ bản tuỳ theo sự lựa chọn của khách) tuyến ngắn
nhất là 1,5km và tuyến dài nhất 8,5km.
Du khách có thể đến thăm đảo động vật, đảo thực vật, chiêm
ngưỡng hang Dơi, ngắm cảnh hang động với nhiều hình thù kỳ
lạ được sắp đặt bởi bàn tay của tạo hoá. Hơn thế nữa, du khách
có thể đi vào các bản làng của người H'Mông, người Thổ uống
rượu cần … hoàn toàn phù hợp với tour du lịch cộng đồng. Ở các đảo động vật, các loài thú được bảo vệ, nuôi
nấng theo hình thức bán hoang dã nên mọi hoạt động sinh hoạt của nó đều tự nhiên đến lý thú. Trong đảo thực vật
bao gồm tất cả các loài cây có tên ở Việt Nam, được trồng phân theo từng loại, từng bộ, họ … đã phục vụ rất tốt
cho các nhà khoa học, ngành lâm nghiệp, môi trường sinh thái và khách du lịch …
Trên tuyến bộ bắt đầu từ trung tâm vườn đi lên khu phía Bắc, chúng ta sẽ bắt gặp những cảnh quan không kém
phần hấp dẫn so với nội khu. Đó là cụm núi đá Hải Vân tồn tại song song với 21 hòn đảo trong lòng hồ, cụm di
tích hang Lò Cao kháng chiến - nơi Giáo sư Trần Đại Nghĩa từng chế tạo vũ khí từ năm 1945 phục vụ kháng
chiến chống Pháp. Đi xa hơn nữa, khách du lịch có thể đến
Phủ Sung, Phủ Na - nơi nhân dân vẫn thường tổ chức
phường hội cúng tế trời đất … Tiếp đó là quần thể thắng
cảnh hang Ngọc, cây lim trăm tuổi như biểu tượng của

vườn. Trong hang Ngọc, một suối nước trong vắt, theo quan
niệm nếu tắm được ở đây có nghĩa là đã cởi bỏ được những
tục trần nặng nhọc nhất của cuộc sống đời thường. Có lẽ
chính vì thế mà hang Ngọc tuy có xa hơn một chút so với
các đảo trên lòng hồ Bến En, song vẫn là điểm được khách
đến đông hơn cả.
Đến Bến En, dù là du lịch sinh thái, song nếu đặt trước vẫn
có thể được hưởng những món ăn đặc sản như: món cá quả,
cá mè.. rất to được bắt từ sông Mực có thể nướng hoặc luộc,
hấp … Mùa hè có thể ăn thêm món trai dắt vách đá (một loại
nhuyễn thể gần giống với ốc) đặc biệt mang hương vị của
13
rừng.
Bến En hôm nay đang được quan tâm chú ý đúng mức, đến khả năng du lịch sinh thái và nhiệm vụ bảo tồn. Với
những thế mạnh vốn có, có thể khẳng định Vườn Quốc gia Bến En với đảo, rừng, sông, suối, hồ nước, hang động
và sự trân trọng của con người, Bến En sẽ là điểm du lịch sinh thái lý tưởng.
11.V ƯỜN QUỐC GIA PÙ MÁT.
Vườn quốc gia Pù Mát là một khu rừng đặc dụng ở phía Tây tỉnh Nghệ An. Tiếng Thái, Pù Mát có nghĩa là những
con dốc cao. Được thành lập theo quyết định số 174/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/11/2001 về
việc chuyển hạng Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Mát thành Vườn quốc gia.
Vị trí địa lý: Từ 18°46′ đến 19°12′ vĩ bắc và từ 104°24′ đến 104°56′ kinh độ đông.
Điều kiện tự nhiên:
Diện tích: Tổng diện tích của Vườn quốc gia Pù Mát là 91.113 ha, trải rộng trên 3 huyện Tương Dương, Con
Cuông và Anh Sơn của tỉnh Nghệ An. Trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 89.517 ha, phân khu phục hồi sinh
thái: 1.596 ha. Vùng đệm của Vườn quốc gia Pù Mát có diện tích 86.000 ha.
Địa hình: Độ cao biến động của rừng Pù Mát là từ 200 - 1.814 m trong đó đỉnh Pù Mát cao nhất: 1.814m.
:
Một cảnh vườn quốc gia Pù Mát.
Đa dạng sinh học: Pù Mát là một trong những điểm được nghiên cứu rất kỹ về đa dạng sinh học. Cho đến nay đã
có 1.144 loài thực vật có mạch được ghi nhận là phân bố ở Pù Mát. Trong đó có 3 loài là mới cho khoa học:

Cleistanthus spp. nov., Phyllagathis spp. nov. và Phrynium pumatensis.
Kiểu rừng đặc trưng nhất là rừng thường xanh trên đất thấp với ưu thế của các cây họ dầu (Dipterocarpaceae)
(Hopea spp. và Dipterocarpus spp.), Dẻ (Fagaceae) (Quercus spp., Lithocarpus spp. và Castanopsis spp.) và Long
não Lauraceae (Cinnamomum spp. và Litsea spp.).
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học ở đây có 3 loài thú đặc hữu Đông Dương: sao la (Pseudoryx
nghetinhensis), thỏ sọc Bắc Bộ (Nesolagus spp. nov.), vượn đen má trắng (Hylobates leucogenys), vượn má hung
(Hylobates gabriellae). Ngoài ra còn có các ghi nhận về mang lớn, mang Trường Sơn, voọc chà vá chân nâu, hổ,
voi, cầy vằn...
Tổng số có 259 loài chim được phát hiện, trong đó 22 loài có nguy cơ tuyệt chủng, nhiều loài chim quý, hiếm như
trĩ sao, niệng cổ hung..
Dân cư: Sinh sống xen kẽ trong khu rừng cấm này chủ yếu là người Kinh, người Thái, người Thổ (bộ tộc Đan
Lai). Họ sinh sống ở hầu hết các thôn bản, trong các nhà sàn bằng gỗ với nghề trồng lúa nước. Ở những vùng đồi,
họ tham gia trồng cây hoặc đốt nương làm rẫy, trồng màu hoặc các loại cây lương thực khác; nuôi trâu, bò và gia
cầm; làm sản phẩm tre và dệt vải truyền thống.
12.VƯỜN QUỐC GIA VŨ QUANG.
Vườn quốc gia Vũ Quang là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Hà Tĩnh, nơi có nhiều loài sinh vật đặc hữu chỉ có ở
Việt Nam. Được thành lập theo quyết định số 102/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam ngày 30 tháng 7 năm 2002.
Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Vũ Quang nằm ở phía tây bắc tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh 75 km.
14
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
- Phía đông giáp xã Hoà Hải (huyện Hương Khê).
- Phía tây giáp xã Sơn Kim (huyện Hương Sơn).
- Phía nam giáp biên giới Việt Nam - Lào.
- Phía bắc giáp xã Sơn Tây (huyện Hương Sơn), và các xã Hương Đại, Hương Minh (huyện Vũ Quang).
Toạ độ địa lý: Từ 18°09′ đến 18°26′ vĩ bắc.
Từ 105°16′ đến 105°33′ kinh đông.
Diện tích: Tổng diện tích: 55.028,9 ha. Trong đó:
• Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 38.800,0 ha.
• Phân khu phục hồi sinh thái: 16.184,9 ha.

• Phân khu hành chính dịch vụ: 44,0 ha.
13.VƯỜN QUÔC GIA PHONG NHA - KẺ BÀNG.
Di sản thế giới UNESCO.
Quốc gia
Việt Nam
Dạng Thiên nhiên
Tiêu chuẩn viii
Tham khảo 951
Vùng† Châu Á - Thái Bình Dương
Công nhận 2003 (Kỳ họp thứ 27)
Vư ờn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một vườn quốc gia tại
huyện Bố Trạch và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố
Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội
khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp khu bảo tồn
thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây, cách
Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia.
Phong Nha-Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng khoảng
200.000 ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ Lào tiếp
giáp vườn quốc gia này cũng có diện tích núi đá vôi khoảng
200.000 ha. Diện tích vùng lõi của vườn quốc gia là 85.754 ha và
một vùng đệm rộng 195.400 ha. Vườn quốc gia này được thiết
lập để bảo vệ một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với
khoảng 300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở
khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đặc trưng của vườn quốc gia
này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ
động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ
thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và
Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng.
Động Phong Nha là động giữ nhiều kỷ lục:
(1) Hang nước dài nhất.

(2) Cửa hang cao và rộng nhất.
(3) Bãi cát, đá rộng và đẹp nhất.
(4) Hồ ngầm đẹp nhất.
(5) Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất.
(6) Dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam.
(7) Hang khô rộng và đẹp nhất thế giới.
Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành từ 400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ
Sinh do đó là carxtơ cổ nhất ở châu Á.Trải qua nhiều thay đổi lớn về địa tầng và địa mạo, địa hình khu vực này hết
sức phức tạp. Phong Nha-Kẻ Bàng phô diễn các bằng chứng ấn tượng về lịch sử Trái Đất, giúp nghiên cứu lịch sử
hiểu được lịch sử địa chất và địa hình của khu vực. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có lẽ là một trong những mẫu
hình riêng biệt và đẹp nhất về sự kiến tạo carxtơ phức tạp ở Đông Nam Á. Được UNESCO công nhận là Di sản
thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm 2003, Phong Nha-Kẻ Bàng đang hướng tới mục tiêu được
15
UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học vào năm 2008.
Nguồn gốc tên gọi: Tên gọi vườn quốc gia này ghép từ hai thành phần: tên động Phong Nha và tên khu vực
rừng núi đá vôi Kẻ Bàng. Động Phong Nha trước đây thường được xem là động lớn và đẹp nhất trong quần thể
hang động này. Có ý kiến giải thích cho rằng nguồn gốc tên gọi Phong Nha có nghĩa là gió (chữ Hán: phong) răng
(chữ Hán: nha) (gió thổi từ trong trong động, nhũ đá tua tủa như hàm răng) nhưng ý kiến khác lại cho rằng Phong
Nha có nghĩa là tên ngôi làng gần đấy chứ không có nghĩa là gió và răng như vẫn thường được giải thích. Theo Lê
Quý Đôn thì Phong Nha là tên một làng miền núi ngày xưa. Có ý kiến khác lại cho rằng tên gọi Phong Nha không
phải xuất phát từ ý nghĩa răng và gió, mà từ hình ảnh những ngọn núi nằm thành từng dãy đều đặn như hình ảnh
các quan đứng thành hàng trên sân chầu hay ở quan thự, người ta đã lấy chữ Phong Nha theo chữ Hán (chữ phong
nghĩa là đỉnh núi, nha có nghĩa là quan lại) để đặt tên cho động Phong Nha. Động Phong Nha còn có tên khác như
Động Thầy Tiên, Núi Thầy, Động Troóc, Hang Trùa (Hang Chùa).
Vị trí, diện tích, dân số:
Trước khi trở thành một vườn quốc gia, khu vực này đã là một khu bảo tồn tự nhiên. Khu bảo tồn Phong Nha-Kẻ
Bàng có diện tích 5000 ha đã được Chính phủ Việt Nam chính thức công bố ngày 9 tháng 8 năm 1986 và đã được
mở rộng thành 41.132 ha vào năm 1991. Ngày 12 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số
189/2001/QĐ-TTG chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha-Kẻ Bàng thành vườn quốc gia với tên gọi như
hiện nay.

Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tọa độ từ 17°21′ tới 17°39′ vĩ bắc và từ 105°57′ tới 106°24′ kinh đông, nằm
trong địa bàn các xã tân Trạch, Thượng Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch và Sơn Trạch thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình. Phong Nha-Kẻ Bàng cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội
khoảng 500 km về phía bắc. Phía tây vườn quốc gia này giáp khu vực bảo tồn Hin Namno, một khu vực carxtơ
nằm ở tỉnh Khăm Muộn, Lào.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tổng diện tích là 85.754 ha, bao gồm:
• Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 64.894 ha
• Phân khu phục hồi sinh thái: 17.449 ha
• Phân khu dịch vụ hành chính: 3.411 ha.
Trong khu vực vùng đệm của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có dân của 12 xã với tổng diện tích thuộc vùng
đệm là 1479,45 km² thuộc huyện Minh Hóa (Dân Hóa, Hóa Sơn, Trung Hoa, Thượng Hóa); Bố Trạch (Tân Trạch,
Thượng Trạch, Phúc Trạch, Sơn Trạch, Phú Định, Hưng Trạch) và huyện Quảng Ninh (Trường Sơn). Các khu vực
dân cư này chủ yếu sống ven các sông lớn như sông Chày, sông Son và các các thung lũng có suối phía đông và
đông bắc của vườn quốc gia này. Các khu vực này thuộc khu vực vùng sâu vùng xa của Quảng Bình, có điều kiện
hạ tầng cơ sở như đường giao thông, điện, giáo dục, ý tế kém phát triển. Dân cư ở đây chủ yếu sống bằng nghề
nông, khai thác lâm sản.
Khí hậu: Cũng giống như vùng Bắc Trung Bộ nói chung, và tỉnh Quảng Bình nói riêng, khí hậu ở vườn quốc gia
này mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23-25°C, với nhiệt độ
cao nhât là 41°C vào mùa hè và mức thấp nhất có thể xuống 6°C vào mùa đông. Thời kỳ nóng nhất là vào tháng 6-
8 với nhiệt độ trung bình 28°C, còn từ tháng 12 đến tháng 2 có nhiệt độ trung bình 18°C. Lượng mưa trung bình
hàng năm đo được là 2.000–2.500 mm, với 88% lượng mưa trong khoảng thời gian từ tháng 7-12. Mỗi năm có hơn
160 ngày mưa. Độ ẩm tương đối là 84%.
Địa chất, địa mạo:
Quá trình hình thành: Hệ thống hang động tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành do những kiến tạo
địa chất xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng cách đây hơn 400 triệu năm vào thời kỳ Đại Cổ Sinh. Trải qua
các thời kỳ kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, phối tảng và uốn nếp đã liên tục tạo ra các dãy
núi trùng điệp do chuyển động nâng cao và các bồn trầm tích do chuyển động sụt lún, đóng vai trò như nguyên
nhân của mọi nguyên nhân để tạo ra tính đa dạng về địa chất, địa hình - địa mạo, mạng lưới thủy văn và tính đa
dạng, kỳ thú về hang động du lịch đối với các thành hệ đá vôi Phong Nha-Kẻ Bàng phát triển từ Devon đến
Carbon - Trecmi.

Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng hiện tại là kết quả tổng hợp của 5 giai đoạn phát triển lớn trong lịch sử phát triển vỏ
Trái Đất trong khu vực:
- Giai đoạn Kỷ Ordovic muộn - giai đoạn Siluri đầu (450 triệu năm)
- Giai đoạn Kỷ Devon giữa và muộn (khoảng 340 triệu năm)
- Giai đoạn Kỷ Than Đá - Kỷ Permi (300 triệu năm)
- Giai đoạn Orogen
16

×