Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

nâng cao chất lượng triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của đảng trên địa bàn tỉnh kiên giang tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.76 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo toàn xã hội thông qua
đường lối, chủ trương; thông qua tuyên truyền giáo dục, thuyết phục để biến
đường lối, chủ trương đó thành hiện thực, đi vào cuộc sống, đưa đất nước
ngày càng phát triển đi lên. Với tinh thần đó, thời gian qua đất nước ta các cấp
ủy Đảng có quan tâm đổi mới, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, triển khai
quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng; nhiều nơi có cách làm
hay, sáng tạo đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển của đất nước ta.
Chỉ thị, nghị quyết của Đảng có đi vào cuộc sống hay không phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố đặc biệt quan trọng là thường xuyên đổi
mới nâng cao chất lượng, hiệu quả việc quán triệt và tổ chức thực hiện các chỉ
thị, nghị quyết của các cấp ủy đảng.
Về vấn đề này, khi còn sống, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy: “Muốn
thành công phải biết tuyên truyền”(1). Công tác tuyên truyền nói chung, truyền
đạt chỉ thị, nghị quyết của Đảng nói riêng phải luôn luôn căn cứ vào đối tượng
và địa bàn để lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức và đổi mới phương pháp
truyền đạt thì mới có kết quả cao. Bàn về đối tượng tuyên truyền, Người nói:
“Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai? Nói cho ai nghe?
Nếu không như vậy, thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không
muốn cho người ta xem...”(2). Người viết: “Tuyên truyền không cần phải nói
tràng giang, đại hải. Mà nói ngắn gọn, nói những vấn đề thiết thực, chắc chắn
làm được, để mọi người hiểu rõ và quyết tâm làm bằng được”(3).
Thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Đảng ta luôn xác định việc quán triệt, tổ chức thực hiện chỉ thị,
nghị quyết của Đảng là khâu đầu tiên và rất quan trọng nhằm tạo ra sự thống
nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, làm tiền đề vững chắc đưa
1


chỉ thị, nghị quyết vào cuộc sống


Tuy nhiên, bên cạnh thành quả đạt được, chúng ta cũng thấy rằng công
tác triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng cũng còn
nhiều mặt hạn chế: sự lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều cấp ủy đối với việc triển
khai quán triệt chưa thật nghiêm túc, chưa đổi mới, hiệu quả không cao; vai
trò đồng chí Bí thư, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương còn mờ
nhạt; triển khai ra dân còn là khâu yếu; việc cụ thể hóa Nghị quyết của cấp
trên còn lúng túng, chưa sát hợp, thậm chí còn sao chép (chưa thật tâm huyết
trong công tác này); tổ chức thực hiện Nghị quyết là khâu yếu - tuy đã nói
đến rất nhiều nhưng đến nay chưa thật chuyển biến, đường lối luôn đúng đắn,
phù hợp nhưng thực hiện thường không đến nơi đến chốn; trong khi đó, công
tác kiểm tra, giám sát còn yếu, có lúc mang tính hình thức,.........Có thể nói
làm thế nào nâng cao chất lượng triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện
Nghị quyết của Đảng là trăn trở của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta,
của các đồng chí lãnh đạo tỉnh ta và của các đồng chí lãnh đạo Ban Tuyên
giáo qua các thời kỳ.
Vì vậy, việc nâng cao chất lượng triển khai quán triệt và tổ chức thực
hiện nghị quyết của Đảng trong toàn dân nói chung và trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang nói riêng càng là nỗi trăn trở, bức xúc hiện nay. Vì thế em xin mạnh
dạn chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng triển khai quán triệt và tổ chức thực
hiện nghị quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang”. Làm tiểu luận
môn học.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TRIỂN KHAI QUÁN TRIỆT VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NGHỊ
QUYẾT CỦA ĐẢNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1. Một số khái niệm.
1.1.1.Công tác tư tưởng và hiệu quả của công tác tư tưởng.
1.1.1.1.Công tác tư tưởng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: Lý luận là
gốc, tư tưởng dẫn đầu, Người viết: Giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là
việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư
tưởng”, “Tư tưởng không đúng thì công tác ắt sai lầm”, “Trong Đảng và ngoài
Đảng có nhận rõ tình hình mới thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống
nhất thì hành động mới thống nhất.”
Để hiểu được rõ bản chất của CTTT trước hết chúng ta cần tiếp cận và tìm
hiểu những khái niệm có liên quan đến CTTT, thứ nhất đó là tư tưởng:
Theo từ điển Tiếng Việt của NXB văn hóa thông tin trung tâm từ điển
học năm 2009 thì tư tưởng là ý nghĩa sâu sắc: Nhà tư tưởng, hệ tư tưởng.
Theo giáo trình hệ tư tưởng học thì tư tưởng là hình tháo cụ thể hóa và
biểu hiện cụ thể hơn của của tinh thần.
Ph. Ăngghen đã từng viết: “Tất cả tư tưởng đều bắt đầu từ kinh nghiệm.
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan đúng đắn và sai lệch”
Tư tưởng là một vấn đề hết sức nhạy cảm, là một lĩnh vực đặc biệt nó
có thể là một định hướng đúng đắn hoặc lệch lạc mà kéo theo đó là rất nhiều
vấn đề như về chính trị, kinh tế, xã hội,...
Theo cách hiểu khác từ chính môn chuyên ngành CTTT thì tư tưởng là
suy nghĩ, là quan điểm của con người (phản ánh qua lăng kính chủ quan) về tự
nhiên và xã hội. Như vậy tư tưởng hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thức
tồn tại của ý thức xã hội là kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách
3


quan trở thành những kinh nghiệm và sự hiểu biết của con người, tư tưởng
thuộc phạm trù ý thức, tồn tại như một thực tế khách quan gắn liền với hoat
động của con người, là sản phẩm chủ quan của con người, nhưng tư tưởng của

mỗi người lại phụ thuộc chặt chẽ vào đối tượng phản ánh và trình độ nhận thức
của họ. Sự vận động và phát triển của thực tại khách quan tác động vào tư
tưởng của con người và làm thay đổi nhận thức tư tưởng của họ. Đó chính là sự
thể hiện mối quan hệ giữa tồn tại XH và ý thức XH.
Từ khái niệm về tư tưởng ta có thể đưa ra khái niệm về hệ tư tưởng:
Hệ tư tưởng là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa thành lý
luận, học thuyết chính trị - XH, phản ánh và bảo vệ lợi ích cơ bản của một
giai cấp nhất định được giai cấp đó thừa nhận và truyền bá. Con người luôn
có nhu cầu vật chất và tinh thần. Để thỏa mãn nhu cầu vật chất, con người tổ
chức các quá trình sản xuất vật chất. Khi ở con người xuất hiện nhu cầu tinh
thần thì cũng bắt đầu quá trình sản xuất ra sản phẩm tinh thần để thỏa mãn
nhu cầu đó. Khi XH loài người phân chia thành giai cấp, giữa các giai cấp đối
kháng nhau về lợi ích căn bản cũng nảy sinh nhu cầu sản xuất ra hệ tư tưởng
để luận chứng cho địa vị giai cấp mình và phản ánh. Do đó lịch sử cũng bắt
đầu quá trình đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ, đồng thời cũng xuất hiện nhu
cầu sản xuất và truyền bá hệ tư tưởng. Quá trình sản xuất và truyền bá hệ tư
tưởng làm xuất hiện các quan hệ tư tưởng.
Vậy quan hệ tư tưởng tức là tác động giữa con người với con người
trong lĩnh vực tình cảm, nhận thức.
Quá trình tư tưởng là những khâu những bước nối tiếp nhau.
Trong hoạt động tư tưởng bao gồm: Quá trình sáng tạo ra tư tưởng,hệ
tư tưởng; quá trình truyền bá; quá trình vật chất hóa tư tưởng. Tuy nhiên các
quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng cũng bị chi phối bởi lợi ích giai cấp.
Trong lịch sử loài người, các giai cấp có hệ tư tưởng thông qua đội ngũ các
nhà tư tưởng cũng bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Trong lịch sử tư tưởng và
hệ thống các thiết chế tư tưởng luôn tìm mọi cách tác động, chi phối các quan
4


hệ tư tưởng vào quá trình tư tưởng nhằm biến hệ tư tưởng của giai cấp mình

thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần XH, động viên, cổ vũ mọi
thành viên trong XH tích cực hành động để xây dựng và bảo vệ chế độ. Sự tác
động của chủ thể hệ tư tưởng đến các quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng
để đặt mục đích đặt ra là CTTT. Vậy CTTT là gì? Với mục đích ra đời nhằm
đáp ứng nhu cầu hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị, biến hệ tư tưởng của giai cấp thống trị thành hệ tư tưởng thống trị
trong đời sống tinh thần và XH thì CTTT đã ra đời. Có hai cách hiểu cụ thể
như sau:
Theo nghĩa rộng: CTTT là hoạt động có mục đích của một giai cấp,
một chính đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần
chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
CTTT dưới CNXH là hoạt động có mục đích của ĐCS và nhà nước nhằm
phát triển, truyền bá hệ tư tưởng XHCN, biến hệ tư tưởng XHCN thành hệ tư
tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần XH, động viên, cổ vũ tính
tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
chế độ XHCN.
Theo nghĩa hẹp: Người ta quan niệm CTTT chỉ là hoạt động truyền bá
hệ tư tưởng và đường lối chính sách của Đảng quần chúng, động viên cổ vũ
quần chúng tham gia xây dựng CNXH.
Các bộ phận cấu thành CTTT
Là một quá trình liên tục gồm nhiều khâu, nhiều bộ phận kế tiếp nhau.
CTTT bao gồm ba quá trình cơ bản:
Quá trình sáng tạo hệ tư tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để đề ra đường
lối chính sách.
Quá trình truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chính sách.
Quá trình biến hệ tư tưởng, đường lối chính sách thành hiện thực.
Ba quá trình này được Lê Nin gọi một cách tương ứng là công tác lý
luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động.
Công tác lý luận: là quá trình hình thành, phát triển sáng tao hệ tư
5



tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để đề ra đường lối chiến lược, sách lược. Là
cơ sở nền tảng của CTTT, quyết định phương hướng nội dung của công tác
tuyên truyền cổ động.
Công tác tuyên truyền: là hoạt động nhằm truyền bá lý luận, xây dựng
nhận thức mới, củng cố niềm tin và cổ vũ hành động. Như vậy công tác tuyên
truyền nối tiếp công tác lý luận làm cho lý luận có sức sống mạnh mẽ, thể
hiện sinh động trong thực tiễn.
Công tác cổ động: là khâu cuối cùng quyết định việc chuyển hóa lý
luận đã được nhận thức, niềm tin đã được xây dựng và củng cố thành hành
động cách mạng. Thiếu sự nối tiếp của công tác cổ động thì công tác lý luận
và công tác tuyên truyền không đạt tới thực tiễn của mình là thay đổi hành vi,
cổ vũ hành động tích cực sáng tao của con người. Hơn nữa do công tác cổ
động gắn bó chặt che với hoạt động của con người, với thực tiễn cách mạng
cho nên thông qua công tác cổ động, bằng kết quả cổ động của cổ động có thể
kiểm nghiệm tính khoa học, tính khả thi của lý luận và của công tác tuyên
truyền.
Tất cả các bộ phận trên liên hệ mật thiết với nhau, tác động biện chứng
lẫn nhau như những quá trình bộ phận của cùng một quá trình chung,thống
nhất, đồng thời có vai trò, vị trí, chức năng, đặc điểm khác nhau. Nhận thức
đúng về từng hình thái cũng như về mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng,
kết hợp đồng bộ liên tuc các hình thái với nhau, góp phần nâng cao hiêu quả
cuả CTTT
1.1.1.2. Hiệu quả công tác tư tưởng.
Nói đến người làm CTTT là nói đến những người truyền đạt chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tất cả mọi
hoạt động của con người thì đều có mục đích, CTTT cũng vậy cần phải xem
đến tính hiệu quả của nó.
Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả trước và sau khi tiến hành một hoạt

động, giữa kết quả đã có và kết quả sẽ có. Hay hiệu quả là sự so sánh giữa kết
quả đạt được và chi phí về vật lực, tài lực,...để đạt kết quả đó.
6


Từ những quan niệm trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hiệu quả
CTTT đó là: sự tương quan giữa kết quả đạt được do tác động tư tưởng mang
lại với mục đích của CTTT được đặt ra và với chi phí để đặt được kết quả đó
trong một điều kiện xã hội nhất định.
Thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Đảng ta luôn xác định việc quán triệt, tổ chức thực hiện chỉ thị,
nghị quyết của Đảng là khâu đầu tiên và rất quan trọng nhằm tạo ra sự thống
nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, làm tiền đề vững chắc đưa
chỉ thị, nghị quyết vào cuộc sống. Muốn thực hiện điều đó, đòi hỏi các cấp ủy
đảng, phải thường xuyên đổi mới nâng cao chất lượng triển khai quán triệt và
tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết, phải dựa vào các tổ chức đảng, các đoàn
thể quần chúng để kiểm tra sự hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong việc
thực hiện đường lối chính sách của Đảng, thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân. Song, việc đổi mới nâng cao chất lượng quán triệt và tổ chức thực hiện
các chỉ thị, nghị quyết của Đảng phải bắt đầu từ việc nâng cao chất lượng,
năng lực của cấp ủy, cán bộ chủ chốt, lực lượng báo cáo viên, để lực lượng
này đủ khả năng phân tích được các quan điểm, chủ trương, giải pháp mới
trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; giúp cho người học trả lời được câu
hỏi tại sao phải có các chủ trương, giải pháp mới đó. Đồng thời, thông qua
việc tiếp thu chỉ thị, nghị quyết, nhận thức của mỗi người được nâng lên, hiểu
sâu sắc hơn về trách nhiệm của bản thân đối với việc tiếp thu, tổ chức thực
hiện, đưa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Điều quan trọng
hơn là sau khi tiếp thu các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, phải tham mưu
cho các cấp xây dựng chương trình hành động thực hiện chỉ thị, nghị quyết
phù hợp với địa phương, đơn vị mình. Chương trình hành động là sự cụ thể

hóa các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong chỉ thị, nghị quyết của cấp trên
vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, đơn vị, từng cấp, từng ngành.
Nhấn mạnh nội dung trên, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII chỉ rõ:
“Trên cơ sở nghị quyết của Trung ương, xây dựng nghị quyết của cấp ủy
7


mình bằng các chương trình hành động cụ thể, phù hợp. Khắc phục ngay việc
ra các nghị quyết chung, mô phỏng nghị quyết của Trung ương” và công bố
công khai các chương trình hành động của cấp ủy có liên quan đến phát triển
kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, nghĩa vụ và quyền lợi của nhân
dân để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra các hoạt động của Đảng, xây
dựng và bảo vệ Đảng”(5).

8


Chương II
THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI QUÁN TRIỆT VÀ TỔ CHỨC THỰC
HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN
GIANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang
2.1.1.Về điều kiện tự nhiên tỉnh Kiên Giang
Kiên Giang là vùng đất tận cùng ở phía Tây Nam của Tổ quốc. Phía
Đông và Đông Nam giáp với tỉnh An Giang và Cần Thơ, phía Nam giáp tỉnh
Cà Mau và Bạc Liêu, phía Tây Nam giáp vịnh Thái Lan, phía Bắc giáp vương
quốc Campuchia. Kiên Giang có 14 đơn vị hành chính cấp huyện, thị: Thành
phố Rạch Giá, thị Xã Hà Tiên, huyện Kiên Lương, huyện Hòn Đất, huyện Tân
Hiệp, huyện Châu Thành, huyện Giồng Riềng, huyện Gò Quao, huyện An
Biên, huyện An Minh, huyện Vĩnh Thuận, huyện Phú Quốc, huyện Kiên Hải

và huyện U Minh Thượng.
Kiên Giang có diện tích tự nhiên 6.269 km 2, dân số gần 1,7 triệu người.
Trong đó dân tộc Kinh: 84,41%; Khmer: 12,23%; Hoa: 2,97%. Dân số của
tỉnh phân bố không đều, thường tập trung ở ven trục lộ giao thông, kênh rạch,
sông ngòi và một số đảo. Theo kế hoạch dân số, phấn đấu hạ tỷ lệ sinh hàng
năm từ 0,5-0,6‰ giai đoạn 2001-2005 và giảm 0,4‰ giai đoạn 2006-2010 thì
qui mô dân số toàn tỉnh đến 2005 là 1.689.745 người và đến năm 2010 hơn
1.834.000 người [50].
Với diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 629.905 ha, bờ biển dài 200km có nhiều
bãi biển đẹp, núi và hang động và năm quần đảo gồm hơn 140 đảo lớn nhỏ.
2.1.2.Về tình hình kinh tế - xã hội.
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP) đạt 21.049,8 tỷ đồng (giá CĐ 94), tăng
12,02% so với năm 2010 và đạt 100,16% kế hoạch đề ra năm 2011, trong đó,
khu vực I tăng 9,51%, khu vực II tăng 11,17%, khu vực III tăng 16,3%. Thu
nhập bình quân đầu người tính theo giá thực tế đạt 35 triệu 890 ngàn đồng
năm 2011 (quy đổi tỷ giá ngoại tệ đạt 1.686 USD).Thực hiện Kế hoạch phát
9


triển kinh tế - xã hội tỉnh ta cơ bản hoàn thành đạt 14/20 chỉ tiêu chủ yếu
HĐND tỉnh giao trong kế hoạch năm 2011. Nền kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng
trưởng 12,02% (đứng thứ 6 trong khu vực ĐBSCL); các chỉ tiêu chủ yếu về sản
xuất nông nghiệp, dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu, thu ngân sách Nhà nước, giải
quyết việc làm,... đều đạt kế hoạch và tăng cao so với năm 2010. Công tác giáo
dục và đào tạo, y tế chuyển biến nâng lên về chất lượng; các chế độ chính sách
đối với người có công, dân tộc thiểu số, hộ nghèo được quan tâm thực hiện, an
sinh xã hội được đảm bảo, đã góp phần thiết thực vào thực hiện mục tiêu giảm
nghèo. Quốc phòng an ninh được tăng cường, giữ vững ổn định, trật tự xã hội
được bảo đảm. Cải cách thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được quan tâm

chỉ đạo thực hiện và đạt một số kết quả, trong đó tập trung giải quyết các vụ
khiếu kiện đông người, không làm phát sinh điểm nóng, góp phần giữ vững
ổn định an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Chính điều kiện thuận lợi của điều kiện tự nhiên cũng như sự phát triển
của kinh tế xã hội cho thấy việc tổ chức thực hiện, đưa những nghĩ quyết
của Đảng vào đời sống nhân dân trên địa bàn Kiên Giang thực hiện có hiệu
quả. Công tác tổ chức triển khi nghị quyết của Đảng cũng ngày càng đạt
kết quả tốt hơn.
2.2. Thực trạng và giải pháp công tác triển khai quán triệt và tổ chức
thực hiện các chỉ thị nghị quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
2.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác triển khai, tổ chức thực
hiện các chỉ thị nghị quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
Nghị quyết của Đảng có đi vào cuộc sống hay không phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó một yếu tố hết sức quan trọng là thường xuyên đổi mới
phương thức quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của các cấp ủy đảng.
Do vậy, việc quán triệt và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng
có vai trò hết sức quan trọng, Đảng ta luôn xác định nghị quyết của Đảng là
10


quyết định chính trị, thể hiện đường lối, chủ trương, mục tiêu, giải pháp để
thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
qua các thời kỳ cách mạng. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết của
Đảng là khâu đầu tiên và rất quan trọng nhằm tạo ra sự thống nhất trong
Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, làm tiền đề vững chắc đưa nghị quyết
vào cuộc sống. Do tầm quan trọng như vậy nên Đảng luôn yêu cầu phải
thường xuyên đổi mới phương thức quán triệt và tổ chức thực hiện các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng; phải dựa vào các tổ chức đảng và các đoàn thể quần
chúng để kiểm tra sự hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp và sự hướng dẫn của
cơ quan chuyên môn cấp trên, các đoàn thể có nhiều cố gắng trong việc thực
hiện công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tham
gia thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và được các đoàn thể xem là
nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên. Công tác tuyên truyền, triển khai, vận
động được thực hiện với nhiều hình thức như: tổ chức cuộc triển khai (hình
thức này rất ít); qua các cuộc hội thi; lồng ghép vào các cuộc họp tổ, họp
nhóm, trong các cuộc sinh hoạt lệ của các tổ chức đoàn thể; qua việc thành
lập các câu lạc bộ, tổ, nhóm. Các đoàn thể đã thành lập rất nhiều tổ, nhóm, chỉ
tính riêng Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên và Hội Nông dân đã có
trên 10 ngàn tổ, nhóm, câu lạc bộ hoạt động trên các lĩnh vực; lồng ghép triển
khai thực hiện trong nhiều phong trào thi đua yêu nước như: toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư; phong trào thi đua “dân vận
khéo”; Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh
phúc; Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi; tổ nhân dân tự quản không
có tội phạm và tệ nạn xã hội... qua đó, đã góp phần rất lớn trong việc đưa chỉ
thị, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống và sự phát triển chung của tỉnh nhà.
Để hỗ trợ cho các đoàn thể thực hiện tốt công tác tuyên truyền nghị quyết,
11


chỉ thị của Đảng đến đoàn viên, hội viên..., Ban Tuyên giáo và Ban Dân vận
Tỉnh ủy đã phối hợp tu soạn nội dung nghị quyết dưới dạng tài liệu hỏi, đáp,
in trong Bản tin (tài liệu sinh hoạt Tổ nhân dân tự quản và các đoàn thể) và
được gửi đến chi hội, tổ nhân dân tự quản cơ bản đầy đủ .
Trong những năm vừa qua, việc triển khai, cụ thể hóa chủ trương chỉ thị,
nghị quyết của Trung ương cơ bản kịp thời và phù hợp với điều kiện, tình
hình thực tế; tỷ lệ đảng viên tham gia học chỉ thị, nghị quyết của Đảng đạt
trên 95%. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng được đẩy mạnh,
góp phần nâng cao nhận thức chính trị, tạo sự thống nhất về tư tưởng, hành

động trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
Phương thức quán triệt nghiêm túc và có chất lượng hơn. Khả năng nắm
bắt yêu cầu, nội dung nghị quyết tương đối sâu sắc; truyền đạt khá đầy đủ,
đúng đắn, biết lý giải bằng lý luận, gắn với những nhiệm vụ của địa phương,
cơ sở, phù hợp với trình độ của cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Qua đó, vừa tạo
lòng tin, sự đồng tình với đường lối, chủ trương của Đảng, vừa định hướng tư
tưởng, nhận thức và hành động cho đảng viên và nhân dân.
Trên cơ sở nội dung nghị quyết và thực tế tình hình cơ sở đã rất cố
gắng cụ thể hoá thành chương trình, kế hoạch, xác định được những nhiệm vụ
công tác và phân công, bố trí lực lượng để thực hiện. Đặc biệt là việc tổ chức
phát động các phong trào hành động cách mạng theo định hướng của nghị
quyết, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của
nghị quyết nói riêng, của nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở nói chung.
Mặt khác, qua tổ chức thực hiện nghị quyết, cở sở còn phát hiện ra những hạn
chế, bất cập, từ đó có phản ánh tính thực tiễn của nghị quyết để các cấp ủy
đảng cấp trên điều chỉnh và hoàn thiện nghị quyết. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Cấp xã mà làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”.

2.2.2. Những tồn tại, hạn chế trong công tác triển khai, tổ chức thực
12


hiện các chỉ thị nghị quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
Việc thực hiện công tác này còn nhiều hạn chế. Việc chỉ đạo, hướng dẫn
triển khai, tuyên truyền, vận động của các đoàn thể đối với từng chỉ thị, nghị
quyết chưa chặt chẽ; nhiều nơi chưa chú trọng việc tuyên truyền và đánh giá
hiệu quả sau tuyên truyền; phương pháp tuyên truyền còn đơn điệu, thiếu chiều
sâu. Công tác tuyên tuyền vận động chưa gắn kết giữa nội dung chỉ thị, nghị
quyết với việc làm cụ thể của địa phương, trách nhiệm và quyền lợi của nhân
dân nói chung, của đoàn viên, hội viên nói riêng.

Nội dung chỉ thị, nghị quyết tuy đã được tu soạn thành dạng tài liệu hỏi đáp
khá cô đọng, nhưng vẫn còn dài. Việc cụ thể hóa thành kế hoạch thực hiện ở
địa phương, nhất là ở cơ sở còn chung chung, chưa bám sát nhu cầu sản xuất,
đời sống của nhân dân và chưa chú trọng triển khai, quán triệt đến nhân dân.
Từng lúc công tác tuyên truyền chưa đi liền với công tác vận động. Cán bộ
các đoàn thể, nhất là ở chi, tổ hội ít chịu khó học tập, nghiên cứu, lưu giữ tài
liệu, cập nhật thông tin; bên cạnh đó, cán bộ phụ trách công tác dân vận ở cơ sở
vai trò tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo công tác này còn hạn chế. Chất lượng các
phong trào thi đua chưa cao, có biểu hiện chạy theo thành tích, nhiều về số, ít
về chất; chất lượng, hiệu quả các cuộc hội thi cũng là một vấn đề cần xem xét,
chấn chỉnh...
Việc triển khai quán triệt, cụ thể hóa thực hiện chỉ thị, nghị quyết của
Đảng ở một số nơi chất lượng, hiệu quả chưa cao. Việc đổi mới nội dung và
phương pháp triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết còn
chậm. Việc xây dựng chương trình hành động ở một số nơi còn sao chép các
văn bản nghị quyết của Trung ương và chương trình hành động của tỉnh.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy đối với việc tổ chức quán triệt
chủ trương, nghị quyết của Đảng chưa có sự đổi mới, còn làm theo nếp cũ.
Một số cấp ủy chỉ chú ý đối tượng là cán bộ cốt cán, ít chú ý đến lực lượng
làm công tác tham mưu, ít chú ý đến cơ sở. Có nơi tiến hành hội nghị cán bộ
13


chủ chốt; quán triệt nghị quyết không dành đủ thời gian; nội dung hướng dẫn
chất lượng không cao. Thời gian để triển khai, quán triệt nội dung cho cơ sở
thì ngắn, nhưng việc tổ chức học tập ở cơ sở thường kéo dài, không khẩn
trương, dứt điểm; vì có nhiều việc chi phối cho nên dẫn đến tình trạng chưa
học xong nghị quyết này thì nghị quyết khác đã ra đời; Trung ương lại thường
ban hành rất nhiều văn bản; phải liên tục học tập, quán triệt...
Thực tế hiện nay, có thể nói không ngần ngại rằng, trên địa bàn tỉnh

Kiên Giang đội ngũ báo cáo viên vừa thiếu lại vừa yếu, ở các cấp. Về lý
thuyết, các cấp ủy viên, nhất là bí thư cấp ủy, phải có trách nhiệm truyền đạt
nghị quyết. Bí thư cấp ủy trình bày vừa sát thực tế, vừa không “bị động” về
báo cáo viên, đảm bảo việc triển khai nghị quyết ở cơ sở nhanh hơn, hiệu quả
hơn... Nhưng trong thực tế vừa qua, ít nơi làm được và có làm cũng chỉ một
số nơi; chất lượng không cao. Tình hình phổ biến hiện nay là nhiều huyện, thị,
xã, phường... thường mời báo cáo viên của tỉnh về truyền đạt nghị quyết cho
đảng bộ mình. Có tình hình đó là vì cấp ủy cơ sở nói chung và bí thư một số
cấp ủy nói riêng, không có điều kiện, thời gian để nghiên cứu kỹ nội dung các
nghị quyết, chưa đi sâu tìm tòi vận dụng những nội dung đó vào địa phương,
đơn vị mình nên ngán ngại; thường giao cho cán bộ tuyên giáo hoặc mời báo
cáo viên cấp trên. Hơn nữa, để truyền đạt tốt một nghị quyết, báo cáo viên
phải nắm nhiều thông tin, phải được trang bị nhiều kiến thức để việc truyền
đạt được sinh động, hấp dẫn. Mặt khác, cũng phải thấy rằng, công tác truyền
đạt nghị quyết đòi hỏi phải có “nghề”, ít nhất phải có phương pháp, trình độ
sư phạm... nếu không sẽ rơi vào tình huống chỉ “đọc nguyên văn” như nghị
quyết “đã có viết”, chưa kể một phần “năng khiếu” nói; không phải đồng chí
nào, cấp ủy viên nào cũng có được.
Đây cũng là một khó khăn lớn hiện nay ở cơ sở và cũng là một trong
những khâu yếu nhất của việc tổ chức học tập, nghiên cứu chủ trương, nghị
quyết của Đảng...
14


Khắc phục tình trạng trên văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thứ
IX, nhiệm kỳ 2010-2015, chỉ rõ: “Đổi mới, cải tiến việc triển khai quán triệt,
cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng phù hợp với
từng cấp, từng ngành, từng đối tượng…”
* Một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên
Sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng ở khá nhiều nơi chưa sâu sát, chặt chẽ,

còn khoán trắng công việc này cho ban dân vận, mặt trận và các đoàn thể; mặt
khác, hiện nay có quá nhiều chỉ thị, nghị quyết nên việc triển khai thực hiện
khó đến nơi, đến chốn;
Chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở trong những năm gần đây tuy có
cải thiện, nhưng còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, chênh lệch cao giữa cấp
trưởng và cấp phó trong cùng một tổ chức đoàn thể, làm cho nhiều cán bộ
trong đó có cán bộ dân vận, mặt trận, đoàn thể chưa an tâm công tác, thiếu
gắn bó, tâm huyết với nhiệm vụ;
Đội ngũ cán bộ đoàn thể ở chi, tổ hội biến động thường xuyên; còn
nhiều hạn chế, nhiều nơi không tự tổ chức khai hội, tổ chức được một cuộc
tuyên truyền, triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà phải nhờ sự hỗ trợ
của cấp trên;
Việc học tập chỉ thị, nghị quyết hiện nay chưa trở thành nhu cầu của nhân
dân. Phần lớn nhân dân, nhất là nhân dân vùng nông thôn lo bươn chải làm
ăn, chăm lo cải thiện cuộc sống, chú ý nhiều đến lợi ích kinh tế trước mắt, ít
chú ý đến chiều sâu, đến tính lâu dài.
3. Một giải pháp công tác triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện
các chỉ thị nghị quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
3.1. Nhóm giải pháp đổi mới việc lựa chọn hình thức và nội dung,
phương pháp tổ chức truyền đạt nghị quyết, chỉ thị phù hợp với đối tượng
3.1.1 Lựa chọn hình thức tổ chức truyền đạt chỉ thị, nghị quyết
15


Căn cứ vào đối tượng cán bộ, đảng viên trên địa bàn tỉnh mà tổ chức
các lớp triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng một cách thích hợp nhất:
Đối với cấp tỉnh, do Ban Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị Ban
chấp hành mở rộng, gồm: các đồng chí trong ban chấp hành, trưởng, phó ban
ngành đoàn thể cấp tỉnh; bí thư, phó bí thư, ban thường vụ các huyện, thị,
thành và tương đương. Ngoài ra có thể mời thêm các đồng chí nguyên là Ban

Thường vụ Tỉnh ủy đã nghỉ hưu trên địa bàn thành phố.
Thời gian: Tùy theo tính chất, nội dung từng nghị quyết và tình hình cụ
thể của địa phương và hướng dẫn của cấp trên, nhưng nói chung thời gian cho
lớp này từ 1-2 ngày.
Báo cáo viên do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy hoặc các đồng chí trong Ban
Thường vụ Tỉnh ủy đã được đi dự các lớp Trung ương triệu tập.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy ủy quyền cho Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy triệu
tập Hội nghị quán triệt cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các đồng chí báo cáo viên
của tỉnh và của huyện, thị, thành chưa tham gia đợt một. Báo cáo viên do
Ban Tuyên giáo mời hoặc đảm nhiệm.
3.1.2 Lựa chọn nội dung truyền đạt chỉ thị, nghị quyết
Nội dung phải mạch lạc, có tính hệ thống từ trên xuống. Đối với nội dung
chỉ thị, nghị quyết của cấp trên chỉ nói khái quát, dành nhiều thời gian nói về
những việc cụ thể cần làm ở địa phương theo kế hoạch chỉ đạo của cấp ủy.
Đặc biệt là phải nói được đối với chỉ thị, nghị quyết đó, nhà nước sẽ làm
những việc gì? người dân ở địa phương phải làm những việc gì? Quyền lợi
của người dân tại địa phương nói riêng, của cả nước nói chung được hưởng; ý
nghĩa chính trị lâu dài đối với đất nước.
Trình bày rõ ràng, mạch lạc, dễ nghe; cần minh họa thêm hình ảnh, số
liệu... Cố gắng nói, chứng minh nhiều hơn đọc văn bản, hết sức tránh chỉ đọc
văn bản, phụ thuộc hoàn toàn vào văn bản. Thời gian trình bày nội dung
16


không nên quá dài, nên trình bày khoảng 20 đến 30 phút là vừa. Dành nhiều
thời gian cho việc vận động và bàn biện pháp thực hiện.
Việc lựa chọn nội dung truyền đạt chỉ thị, nghị quyết của Đảng phải
dựa vào những căn cứ chủ yếu sau:
Yêu cầu chung của việc quán triệt chỉ thị, nghị quyết.
Yêu cầu của việc đổi mới công tác tư tưởng nói chung và công tác quán

triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng nói riêng.
Yêu cầu đối với cán bộ tham dự ở cấp nào.
Mỗi lớp ngoài nội dung chung của chỉ thị, nghị quyết cần có nội dung
sát với từng đối tượng, tránh tình trạng dùng một bài chung truyền đạt cho
mọi đối tượng, mọi địa phương.
Từ yêu cầu trên, trong truyền đạt của chỉ thị, nghị quyết cần nêu được
những vấn đề dưới đây:
Nêu được những nội dung cơ bản của chỉ thị, nghị quyết
Đây là yêu cầu chung và là yêu cầu trước hết của việc quán triệt chỉ thị,
Nghị quyết. Nội dung này gồm: các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng thể hiện trong chỉ thị, nghị quyết, những trọng tâm, trọng điểm của chỉ
thị, nghị quyết; những nhiệm vụ, mục tiêu giải pháp mà chỉ thị, nghị quyết
nêu lên cho các cấp, các ngành.
Phải nêu được những điểm mới của chỉ thị, nghị quyết
Đây là yêu cầu rất quan trọng của việc đổi mới công tác tư tưởng nói
chung và công tác quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng nói riêng, trong đó
cần nhận diện cái mới ở phạm vi và cấp độ khác nhau. Đối với những chỉ thị,
nghị quyết mà các vấn đề, các nội dung trong đó lần đầu tiên được đề cập, thì
cần làm rõ: vì sao phải ra chỉ thị, nghị quyết, phạm vi yêu cầu, mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp mà chỉ thị, nghị quyết đặt ra.
17


Liên hệ vào tình hình, nhiệm vụ của đơn vị, ngành địa phương
Đây là nội dung không thể thiếu được trong khi quán triệt chỉ thị, nghị
quyết của Đảng phù hợp với yêu cầu chung và đáp ứng yêu cầu của đối tượng
được tiếp thu.
Yêu cầu của liên hệ thực tế khi quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng
phải bằng những dẫn chứng sinh động, sát thực có tính thuyết phục cao và có
tính hướng dẫn hành động. Nội dung liên hệ cần gắn với chương trình hoặc kế

hoạch thực hiện chỉ thị, nghị quyết của địa phương, đơn vị.
3.1.3 Đổi mới phương pháp truyền đạt chỉ thị, nghị quyết
Quá trình truyền đạt nghị quyết là quá trình tác động lẫn nhau, thống
nhất biện chứng giữa hoạt động truyền đạt với báo cáo viên và hoạt động học
tập của người nghe. Trong đó báo cáo viên có vai trò chủ đạo, tổ chức, chỉ đạo
học tập, kích thích tính tích cực, năng động của người nghe để phát huy vai
trò chủ thể nhận thức của họ. Theo cách hiểu chung nhất, có thể nói: phương
pháp truyền đạt nghị quyết là cách thức hoạt động của báo cáo viên tác động
vào đối tượng (cán bộ, đảng viên, quần chúng) hướng vào việc giải quyết các
mục tiêu đề ra của nhiệm vụ tuyên truyền nói riêng và nhiệm vụ của công tác
tư tưởng nói chung. Phương pháp truyền đạt chỉ thị, nghị quyết luôn gắn liền
với mục tiêu và nội dung tuyên truyền.
Ngoài ra, quá trình truyền đạt chỉ thị, nghị quyết còn phải tuân thủ các
quy luật khác, trong đó đáng chú ý là: hình thức tổ chức học tập chỉ thị, nghị
quyết phải phù hợp với mục tiêu, nội dung và phương pháp truyền đạt.
Như vậy, việc lựa chọn, đổi mới phương pháp truyền đạt Nghị quyết có
vị trí, vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình triển khai quán triệt và
thực hiện chỉ thị, nghị quyết ở các cấp, các ngành. Trong tình hình hiện nay,
vấn đề đổi mới phương pháp truyền đạt chỉ thị, nghị quyết bao gồm các nội
dung chủ yếu như: nâng cao chất lượng, hiệu quả các phương pháp truyền
18


thống; mặt khác, cần nhấn mạnh áp dụng những phương pháp, những hình
thức truyền đạt mới, bằng công nghệ mới.
3.2. Nhóm giải pháp xây dựng đội ngũ báo cáo viên, quán triệt và
tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết
Trong truyền đạt chỉ thị, nghị quyết và tổ chức thực hiện lực lượng báo
cáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, là lực lượng nòng cốt, chủ lực trong
đội ngũ tuyên truyền miệng, được lựa chọn theo những tiêu chuẩn nhất định,

được cấp ủy các cấp ra quyết định công nhận và do Ban Tuyên giáo trực tiếp
quản lý, điều hành. Báo cáo viên được tổ chức có hệ thống từ Trung ương đến
cơ sở.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, làm tốt việc tuyên
truyền, giáo dục quan điểm, đường lối chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đưa tiếng
nói của Đảng đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân cần tập trung làm tốt
những nội dung dưới đây:
Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức
trong hệ thống chính trị để mọi người nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của lực lượng báo cáo viên. Trên cơ sở đó, tỉnh cần phải có
nghị quyết chuyên đề hoặc giao cho Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy xây dựng đề án
tham mưu chỉ đạo hoạt động của đội ngũ báo cáo viên.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên, nhất là
cơ sở với những nội dung, hình thức phù hợp, thiết thực, hiệu quả.
Xây dựng cơ chế, chính sách cho đội ngũ báo cáo viên nói chung và
báo cáo viên ở cơ sở nói riêng.
Quan tâm đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho lực lượng báo
cáo viên. Tăng cường giao lưu, học tập kinh nghiệm giữa các huyện thị trong
tỉnh và ngoài tỉnh.
Bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho báo cáo viên trong quán triệt chỉ
19


thị, nghị quyết gắn với xây dựng chương trình hành động hoặc kế hoạch thực
hiện chỉ thị, nghị quyết phù hợp với địa phương, đơn vị.
3.3. Nhóm giải pháp đổi mới công tác xây dựng chương trình hành
động hoặc kế hoạch thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng
Xây dựng chương trình hành động là sự cụ thể hóa các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng vào điều kiện cụ thể của từng đơn vị, địa phương. Hồ Chí
Minh căn dặn: “Khi có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của

chính sách đó là cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm
tra. Nếu ba điều đó sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích. Mục đích sự
tổ chức công tác là: Động viên toàn thể nhân dân hăng hái thi hành chính sách
đã định”.
Xây dựng chương trình hành động thực hiện chỉ thị, nghị quyết là việc
xác định nhiệm vụ, lựa chọn nội dung triển khai phù hợp với các đơn vị, địa
phương, tránh lối chỉ đạo chung chung, dàn trải, hay áp đặt chủ quan. Làm
được như vậy thì chỉ thị, nghị quyết của Đảng mới đem lại hiệu quả thiết
thực, cụ thể ở từng địa phương, đơn vị. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) yêu cầu: “Khi đã có nghị quyết,
phải tập trung chỉ đạo thực hiện có kết quả, tạo chuyển biến thực sự, bảo đảm
lời nói đi đôi với việc làm”.
3.4. Nhóm giải pháp đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát thực
hiện chỉ thị, nghị quyết
Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của các cấp
ủy đảng. Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo.
Kiểm tra, giám sát có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đối với cán bộ,
đảng viên làm tròn nhiệm vụ với Đảng, với Nhà nước, làm gương tốt cho
nhân dân; do đó, góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức.
Công tác kiểm tra, giám sát là một bộ phận quan trọng của công tác xây
20


dựng Đảng, là khâu quan trọng của tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, là biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu. Do vậy, kiểm
tra, giám sát được coi là một trong các nhóm giải pháp để đổi mới nâng cao
chất lượng quán triệt và tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Từ phân tích như trên, có thể nói: việc đổi mới phương thức quán triệt
và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng có nhiều nhóm giải
pháp. Song có thể coi bốn nhóm nêu trên là hệ thống quy trình để triển khai

quán triệt cũng như tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng trên địa
bàn Kiên Giang. Tuân thủ đầy đủ quy trình này, chất lượng quán triệt và tổ
chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết sẽ cao hơn, hiệu quả chỉ thị, nghị quyết đi
vào cuộc sống nhanh hơn, khắc phục được tình trạng xơ cứng trong quán triệt
và tình trạng hô hào trong tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết.
4. Một số bài học kinh nghiệm từ thực tế trong công tác tuyên
truyền, vận động nhân dân thực hiện nghị quyết của Đảng trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang
Một là, phải lựa chọn cán bộ tuyên truyền, phổ biến các chủ trương,
nghị quyết của Đảng đúng năng lực, sở trường, có kinh nghiệm trong tuyên
truyền. Thực tiễn cho thấy, có chủ trương, nghị quyết đúng, cộng với cán bộ
có phương pháp truyền đạt cho người nghe dễ hiểu, dễ nhớ, hiểu đúng thì
người tiếp thu sẽ tích cực hơn trong lĩnh hội. Muốn vậy phải thường xuyên
củng cố, trao dồi đội ngũ cán bộ tuyên truyền viên xứng tầm, có tâm huyết
với nghề nghiệp
Hai là, nội dung chỉ thị, nghị quyết phải được lồng ghép vào một việc làm
cụ thể; kết luận cụ thể; phong trào hành động cách mạng cụ thể, phục vụ được
lợi ích trước mắt và lâu dài, những đòi hỏi bức xúc chính đáng của quần
chúng thì sẽ được họ quan tâm đón nhận. phải chọn nội dung tuyên truyền
cho phù hợp đối tượng. Thực tế cho thấy, đoàn viên, hội viên và nhân dân
trình độ học vấn, nhận thức có mặt còn giới hạn, bận công việc sản xuất, việc
21


nhà... nên thời gian rảnh rỗi để tiếp thu không nhiều. Vì vậy, chúng ta nên
nghiên cứu kỹ nội dung tuyên truyền, gom lại những vấn đề có tính mấu chốt,
sát thực tế địa phương và cuộc sống để tuyên truyền tránh rập khuôn, máy
móc và nguyên văn. Đồng thời, cũng không quên là: Nói cho ai nghe?; do đó,
việc xác định đối tượng tuyên truyền cũng hết sức quan trọng, chúng ta phải
biết tùy theo đối tượng mà tuyên truyền cho phù hợp, vận dụng vào thực tiễn

một cách có hiệu quả; tránh “nói như vẹt”
Ba là, hình thức tuyên truyền phải đa dạng: Nếu cứ tổ chức họp tổ
nhân dân tự quản, họp chi, tổ hội các đoàn thể thì kết quả sẽ không cao do có
sự nhàm chán về tư tưởng đi họp của nhân dân hiện nay. Vì vậy, kinh nghiệm
thực tế của xã vừa qua là phải tận dụng tất cả các cuộc họp của các hội đoàn
thể, các ngành, các tổ chức có liên quan đóng trên địa bàn (kể cả các cuộc hội
thảo, quảng bá sản phẩm...) cũng đều lồng ghép tổ chức tuyên truyền, mặc dù
ngắn gọn nhưng dể triệu tập, dễ tiếp thu và người tiếp thu là người trụ cột
trong gia đình.
Bốn là, chọn thời gian để tuyên truyền cho phù hợp: Bởi ở nông thôn thời
gian làm việc hành chính là đồng áng, chuyện nhà... Vì vậy, ngoài việc tổ
chức các cuộc tuyên truyền mang tính bắt buộc trong giờ hành chính, các
cuộc họp tổ nhân dân tự quản, sinh hoạt các chi, tổ hội, câu lạc bộ... các đoàn
thể nên chọn vào giờ nghỉ như lúc trưa hoặc chiều để tuyên truyền. Tuy gặp
khó khăn cho cán bộ tuyên truyền nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt, quyết tâm
của cán bộ thì sẽ vượt qua. Thực tế vừa qua cách làm này rất có hiệu quả, góp
phần cho công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, nghị quyết của
Đảng đạt kết quả.
Năm là, cán bộ đi làm công tác triệu tập để tuyên truyền cũng đóng vai
trò quan trọng. Người làm công tác tuyên tuyền phải linh hoạt, kiên trì trong
tuyên truyền vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện. Tuyên truyền phải đi
liền với vận động (nhận thức tốt là điều kiện cần cho hành động tốt, nhưng
22


không phải bất cứ ai khi đã nhận thức tốt thì sẽ đi đến hành động tốt. Trong thực
tế có không ít người, không ít trường hợp đã nhận thức vấn đề tốt, nhưng họ lại
hành động không tốt, do đó công tác tuyên truyền phải đi liền với công tác vận
động thực hiện). Thực tế cho thấy cán bộ ấp, chi, tổ hội đoàn thể đi triệu tập
nhân dân để tuyên truyền nếu là cán bộ này có uy tín với dân, được dân tin thì ý

thức người được triệu tập rất tự giác đi họp, tự giác tiếp thu và có trách nhiệm
trong thực hiện và ngược lại. Do đó ở xã cần phải chỉ đạo cho ấp, chi, tổ hội các
đoàn thể... chọn người đi triệu tập họp dân phải cân nhắc và lựa chon.
Sáu là, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tiếp tục đổi mới, đa dạng hình
thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng; cấp ủy đảng phải quan tâm
lãnh đạo thực hiện công tác tuyên truyền; phát huy vai trò của đảng viên trong
công tác tuyên truyền, vận động quần chúng.

23


KẾT LUẬN
“Nâng cao chất lượng triển khai, quán triệt, cụ thể hóa và tổ chức thực
hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng...” Làm thế nào để nâng cao chất lượng
công tác tuyên truyền, triển khai, quán triệt hướng dẫn thực hiện chỉ thị, nghị
quyết của Đảng đến đoàn viên, hội viên và nhân dân thông qua các tổ chức
đoàn thể chính trị là một là một việc làm rất quan trọng và có liên quan đến
nhiều cấp, nhiều ngành..
Cả lý luận và thực tiễn đã chứng minh, muốn chỉ thị, nghị quyết của Đảng
nhanh chóng đi vào cuộc sống thì điều cốt lõi là nhân dân phải hiểu, đồng
thuận và tích cực tham gia thực hiện. Muốn dân hiểu, đồng thuận và tích cực
tham gia thực hiện thì phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động. Công tác
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên, thậm chí là
của cả người dân với người dân đặc biệt là các đoàn thể chính trị - xã hội.
Công tác triển khai, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng là trách
nhiệm của mỗi tổ chức Đảng và đảng viên. Đây là khâu vô cùng quan trọng
nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ
trương, đường lối, định hướng chính trị cho sự phát triển phù hợp với thực
tiễn trong từng giai đoạn cách mạng; tạo sự thống nhất về nhận thức, hành

động trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội để tổ chức thực hiện đưa
nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, tạo tiền đề để tổ chức thực hiện thắng
lợi nghị quyết của Đảng.
Những năm qua, công tác nghiên cứu, triển khai, quán triệt và tổ chức
thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang luôn
được Ban Thường vụ Tỉnh ủy quan tâm chỉ đạo thực hiện nghiêm túc từ thị xã
đến cơ sở. Phương thức tổ chức triển khai học tập nghị quyết đã thành nề nếp,
ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Công tác
triển khai, quán triệt đã có nhiều bước đổi mới về phương pháp truyền đạt, tổ
chức, quản lý lớp học… góp phần quan trọng vào việc tổ chức thực hiện hiệu
quả các nghị quyết. Chất lượng học tập được nâng dần lên cả về chất lượng và
24


số lượng. Tinh thần, thái độ, ý thức chấp hành nội quy của cán bộ, đảng viên
được thể hiện qua việc nghe, ghi chép, thảo luận, giờ giấc… có nhiều tiến bộ
so với trước. Hầu hết cấp ủy Đảng đã nêu cao vai trò trách nhiệm lãnh, chỉ
đạo trong tổ chức triển khai, quán triệt Nghị quyết của Đảng, như: quan tâm
dành nhiều thời gian để chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra nhắc nhở học tập của cán
bộ, đảng viên; lựa chọn cách thức tổ chức phù hợp, cụ thể hóa các nghị quyết
kịp thời, sát hợp và hiệu quả; quan tâm củng cố, kiện toàn và bồi dưỡng đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đặc biệt,
trong thời gian gần đây, thực hiện Thông báo kết luận số 169-TB/TW của Bộ
Chính trị (khóa X) về việc đổi mới cách thức triển khai nghị quyết đã phát
huy vai trò trực tiếp triển khai chỉ thị, nghị quyết của đồng chí Bí thư cấp ủy;
nâng cao vai trò của đội ngũ báo cáo viên trong việc soạn thảo đề cương, trực
tiếp triển khai, quán triệt, qua đó có sự liên hệ thực tiễn các địa phương; các
phương tiện thông tin đại chúng đã kịp thời tuyên truyền các nội dung cơ bản
của nghị quyết đến mọi tầng lớp nhân dân.
Qua các đợt tổ chức triển khai học tập, quán triệt và tuyên truyền sâu rộng


các chỉ thị, nghị quyết đã giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ mục
đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của những quan điểm chỉ đạo, nội dung cơ bản,
điểm mới và các giải pháp trong từng nghị quyết. Từ đó, nâng cao nhận thức
chính trị, tư tưởng, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong nội bộ
Đảng và sự đồng thuận lớn trong toàn xã hội, góp phần quan trọng vào sự
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân,
giữ vững an ninh, quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, tăng
cường vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, hoàn thành nhiệm vụ chính
trị của tỉnh nhà trong thời kỳ mới. Việc đưa chỉ thị, nghị quyết của Đảng vào
cuộc sống và phản ánh cuộc sống vào chỉ thị, nghị quyết của Đảng là nội dung
rất quan trọng, góp phần khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Do đó, tỉnh Kiên Giang luôn chú trọng công tác tổ chức
triển khai, quán triệt nghị quyết của Đảng, tạo ra sự chuyển biến thực sự trong
nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

25


×