Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Tai lieu on tap ngu van thi vao lop 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.38 KB, 76 trang )

TÀI LIỆU ÔN TẬP VÀ THI VÀO LỚP 10 MÔN NGỮ VĂN
Phần thứ nhất
PHẦN VĂN HỌC
I- CÁC TÁC PHẨM TRỌNG TÂM CẦN ÔN TẬP:
A- Văn xuôi :
1- Phong cách Hồ Chí Minh – Lê Anh Tra
2- Đấu tranh cho một thế giới hòa bình – G.G.Mac ket
3- Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dư
4- Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – Phạm Đình Hô
5- Hoang Lê nhất thống chí – Ngô Gia văn phái
5- Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thanh Long
6- Chiếc lược nga – Nguyễn Quang Sáng
7- Ban về đọc sách – Chu Quang Tiềm
8- Tiếng nói của văn nghệ – Nguyễn Đình Thi
9- Nhưng ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê
10- Cố Hương – Lỗ Tấn
11- Bố của Xi-mông - Mô-pa-xăng
B- Thơ :
1- Truyện Kiều – Nguyễn Du
Các đoạn trích: Chị em Thúy Kiều, Cảnh ngay xuân, Kiều ở lầu Ngưng Bích.
2- Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu
Các đoạn tríc: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga.
3- Đồng chí – Chính Hưu
4- Bai thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật
5- Đoan thuyền đánh cá – Huy Cận
6- Khúc hát ru nhưng em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm
7- Ánh trăng – Nguyễn Duy
8- Con cò – Chế Lan Viên
9- Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải
10- Viếng Lăng Bác – Viễn Phương
11- Sang thu – Hưu Thỉnh


12- Nói với con – Y Phương
13- Mây va sóng – Ta Go
Ngoai ra còn một số tác phaẩm kịch va văn học nước ngoai, yêu cầu các thầy cô
giáo hướng dẫn học sinh tự ôn tập.


II- S LC Vấ MễT Sễ TAC GIA TAC PHM TIấU BIấU:

Chính Hữu "Đồng chí"
1.Tác giả:
Nhà thơ Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926.
Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đôvà hoạt động trong
quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mĩ Chính Hữu hầu nh chỉ viết về ngời lính và chiến
tranh.
"Hiện Chính Hữu mới chỉ công bố: tập thơ Đầu súng trăng
treo (1966), Thơ Chính Hữu (1977), Tuyển tập Chính Hữu
(1988). Thơ Chính Hữu giàu hình ảnh, nhiều suy tởng, ngôn
ngữ chon lọc, cô đọng. Ông thờng sử dụng thể thơ tự do, giàu
nhạc điệu, mà chủ yếu là nhạc điệu của nội tâm, vừa lắng
đọng vừa có sức âm vang. Chính Hữu làm thơ không nhiều nhng vẫn có một vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt
Nam, và một số bài thơ của ông thuộc số những tác phẩm tiêu
biểu nhất của thơ ca kháng chiến (Đồng chí, Đờng ra mặt trận,
Ngọn đèn đứng gác, Trang giấy học trò). Chính Hữu đợc tăng
Giải thởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2000
(Nguyễn Văn Long, Từ điển văn học, Sđđ).
2.Tác phẩm:
Bài thơ Đòng chí đợc sáng tác đầu năm 1948, thể hiện những
cảm xúc sâu xa và mạnh mẽ của nhà thơ Chính Hữu với đồng
đội trong chiến dịch Việt Bắc. Cảm hứng của bài thơ hớng về

chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất
thơ trong sự bình dị của đời thờng.
Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đôi gắn bó thắm thiết
của những ngời nông dân mặc áo lính trong thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu
thốn, tình cảm đó thật cảm động đẹp đẽ.


Phạm Tiến Duật "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
1. Tác giả :
Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh
Ba, tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Trờng đại
học s phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân
đội, hoạt động trên tuyến đờng Trờng Sơn và trở thành một
trong những gơng mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời
kì chống Mĩ cứu nớc.


Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ
trong cuộc khánh chiến chống đế quốc Mĩ qua các hình tợng
ngời lính và cô thanh niên trên tuyến đờng Trờng Sơn. Thơ ông
có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu
sắc.
Các tác phẩm chính: Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970); Thơ
một chặng đờng (thơ, 1971); ở hai đầu núi (thơ, 1981); Vầng
trăng và những quầng lửa (thơ, 1983); Nhóm lửa (thơ, 1996);...
Tác giả đã đợc nhận: giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969
- 1970.
2. Tác phẩm :
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm thuộc chùm

thơ đợc tăng Giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ năm 1969
- 1970.
trong bài thơ, tác giả đã thể hiện khá đặc sắc hình ảnh "anh
bộ đội cụ Hồ" hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung và những chiếc xe
không kính ngộ nghĩnh giữa tuyến đờng Trờng Sơn lịch sử thời
kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
"Chỉ một tuần sau bài thơ ra đời, cả mặt trận có vô số tiểu
đội xe không kính. Sau này, vào những năm cuối cuộc kháng
chiến, đã có những chiến sĩ lái xe tự lái xe vỡ để mắt thờng
nhìn trực tiếp mặt đờng chằng chịt hố bom cho rõ hơn dới ánh
sáng lù mù của chiếc đèn gần soi. Thậm chí, có ngời còn tháo cả
cánh cửa buồng lái để tiện cho việc xử lí tình huống khi xe bị
máy bay AC130 săn đuổi - loại máy bay bắn roc - ket hay đạn
27 li
vào mục tiêu di động bằng thiết bị dò âm thanh mặt đất và
bằng kính nhìn có tia hồng ngoại.
Mạn phép nói thêm cái chất thực của bài thơ để chúng ta
hiểu rằng, một bài thơ có nhiều khi vợt qua phạm trù cái đẹp văn
chơng thuần túy, dâng cho cuộc sống những giá trị thực tiễn lớn
lao biết nhờng nào. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính
có cái mãnh lực thần kỳ ấy, nó vừa mang tính chiến đấu nóng
bỏng, tính thời sự tức thời vừa mang tính lịch sử! Tất nhiên một
bài thơ nh thếphải là tiếng nói của cuộc sống thực hào hùng. Đó
là tiếng nói chân thành, độc đao của ngời trong cuộc. Nó nh
một tuyên ngôn về lẽ sống của một thế hệ ngời Việt Nam!
Giờ đây mỗi lần có dịp đọc lại hay nghe ai đó đọc lên bài
thơ này, không ít ngời nh tôi lại bồi hồi nhớ về một quãng đời
chiến tranh ở đờng 9 - Nam Lào, nhớ về hình ảnh anh Phạm
Tiến Duật lần đầu đứng trớc anh em đơn vị D61. Anh đọc cho



anh em nghe bài thơ nói về họ trớc giờ xuất kích. Đã hết câu
cuối cùng của bài thơ mà cả đơn vị còn lặng im, rồi phút chốc
cùng vùng dậy, thoáng đã nhồi sau tay lái. Một khoảng rừng già rộ
lên, những cỗ xe dắt kín lá ngụy trang rùng rùng chuyển bánh đi
về hớng Nam đã định"


Huy Cận "Đoàn thuyền đánh cá"
1.Tác giả:
Nhà thơ Huy Cận tên đầy đủ là Cù Huy Cận (1919-2005) .Huy
Cận nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa
thiêng(1940). Ông tham gia Cách mạng từ trớc năm 1945 và sau
cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính
quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu
biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Huy Cận đợc Nhà nớc
trao tặng Giải thởng Hồ Chí Minh về Văn học và nghệ
thuật( năm 1996).
Hơn sáu mơi năm Hoạt động văn học nói chung và làm thơ nói
riêng, với gần hai mơi thi phẩm thơ đi từ nỗi buồn "từ ngàn xa"đến niềm vui lớn hôm nay.
Huy Cận luôn gắn liền với mạch đời chung của dân tộc. Thơ
Huy Cận vừa bám lấy cuộc đời, vừa hớng tới những khoảng rộng
xa của tạo vật và thời gian, vừa trăn trở với cái chết, vừa nâng niu
sự sống trớc qui luật tử sinh, vừa triết lý suy t, vừa hồn nhiên thơ
trẻ, vừa bay bổng lãng mạn, vừa hiện thực đời thờng, trong cái
khoảnh khắc hữu hạn của đời ngời vẫn muốn hóa thân vào cái
vĩnh cửu, trờng sinh(Trời mỗi ngày lại sáng, đất nở hoa, Bài thơ
cuộc đời, Những năm sáu mơi, chiến trỡng gần đến chiến trờng
xa, ngày hằng sống ngày hằng thơ, Ngôi nhà giữa nắng, ta về
với biển, Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ). Với ý thức vận động

và sự chuyển hóa giữa nhiều yếu tố trong hình tợng cái tôi trữ
tình, Huy Cận đã tạo cho mình một phong cách đặc sắc, độc
đáo. Huy Cận đã tỏ ra sở trờng về thơ lục bát và có đóng góp
đáng kể trong sự mở rộng hình thức và nâng cao trí tuệ cho
thơ theo hớng suy tởng, vơn lên những khái quát rộng xa, giàu
liên tởng trong những bài thơ mở rộngl khuôn khổ , kích thớc.
Các tác phẩm chính : Lửa thiêng (thơ, 1940); Vũ trụ ca (thơ,
1942); Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942); Tính chất dân tộc trong văn
nghệ (nghiên cứu, 1958); Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất
nở hoa (thơ, 1960); Bài ca cuộc đời (thơ, 1963); Hai bài tay em
(thơ; 1967); Phù Đổng Thiên Vơng


(thơ, 1968); Những năm sáu mơi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ;
1972);
Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến trờng gần đến
chiến trờng xa (thơ, 1973);Chiến trờng gần chiến trờng xa(Thơ,
1973);Những ngời mẹ, những ngời vợ( thơ, 1974); Ngày hằng
sốmg ngày hằng thơ(thơ,1975); Sơn Tinh, Thủy Tinh (thơ, 1976)
; Ngôi nhà giữa nắng(thơ, 1978); Hạt lại gieo (thơ, 1984) ; Tuyển
tập( thơ, 1986);...
2 . Tác phẩm:
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thể hiện sự kết hợp giữa cảm
hứng lãng mạn
và cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ của nhà thơ Huy Cận.
Bài thơ đợc bố cục theo hành trình một chuyến ra khơicủa
đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ đầu là cảnh lên đờng và tâm
trạng náo nức của con ngời, bốn khổ tiếp theo là hoạt động của
đoàn thuyền đánh cávà khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về
trong buổi bình minh của ngày mới.

Về hoàn cảnh sáng tác, nhà thơ Huy Cân nhớ lại: "Bài thơ Đoàn
thuyền đánh cá của tôi đợc viết ra trong những tháng năm đất
nớc bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không khí lúc này vui,
cuộc đời phấn khởi, nhà thơ cũng rất phấn khởi. Cả tác phẩm
vùng than, vùng biển đang hăng say lao động từ bình minh cho
đến hoàng hôn và cả từ hoàng hôn cho đến binh minh.
Đoàn
thuyền đánh cá lấy thời điểm xuất phát khác với lệ thờng, lúc
mặt trời lặn và trở về trong ánh bình minh chói lọi. Khung cảnh
trên biển khi mặt trời tắt không nặng nề, tăm tối mà mang vẻ
đẹp của thiên nhiên tạo vật trong quy luật vận động tự nhiên của
nó. ở đây tôi đã miêu tả khung cảnh tạo vật với cảm hứng vũ trụ.
Nếu trớc cách mạng vũ trụ ta còn buồn thì bây giờ vui, trớc là
cách biệt xa cách với cuộc đời thì hôm nay lại gần gũi với con ngời. Bài thơ của tôi là một cuộc chạy đua giữa con ngời và thiên
nhiên và con ngời đã chiến thắng. Tôi coi đây là khúc tráng ca,
ca ngợi con ngời trogn lao động với tinh thần làm chủ với niềm
vui. Bài thơ cũng là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn. Chất
hiện thực của khung cảnh lao động trên biển cả khi vùng biển đã
về ta. Và chất lãng mạn thì cũng không cần phải tởng tợng
nhiều. ở giữa cảnh biẻn cao rộng đó, với gió, với trăng, rồi bình
minh và nắng hồng, và đặc biệt là sức ngời trong lao động
đều thực sự mang tính chất lãng mạn bay bổng "Thuyền ta lái
gió với buồm trắng" ; "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời".
Cảm hứng và hình ảnh ấy rất thích hợp với lạo động trên biển.


Tôi nghĩ rằng trong khung cảnh đó cũng không thể viết khác
đi.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đẹp của một ngày đẹp
của một ngày mới khi đoàn thuyền đang trở về, các khong

thuyền đầy ắp cá. Mở đầu bài thơ là hình ảnh "Mặt trời
xuống biển" và kết thúc là hình ảnh "mặt trời đội biển" nhô
lên giữa sông nớc.
Thiên nhiên đã vận động theo một vòng quay của mặt trời và
con ngời đã hoàn thành trách nhiệm của mình trong lao động.
Không có gì vui bằng lao động có hiệu quả.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá nằm trong cảm hứng chung của
thơ tôi trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tôi viết bài
thơ tơng đối nhanh, chỉ vài một giờ của buổi chiều trên vùng
biển Hạ Long. Bài thơ đợc viét liền mạch và ít phải sửa chữa. Tôi
nghĩ đó cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên mà thực sự là
cảm hứng đã đợc tích tụ trên một đề tài quen thuộc của tôi và
đợc viết ra trong không khí rất vui của những năm tháng đầu
xây dựng chủ
nghĩa xã hội" (Huy Cận, Tác phẩm văn học, NXB Văn học,
Hà Nội, 2001).


Bằng Việt "Bếp lửa"
1. Tác giả:
Nhà thơ Bằng Việt (tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng), sinh
năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm
thơ từ đầu những năm 60 của thế kỉ XXvà thuộc thế hệ các
nhà thơ trởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nớc.
"Bằng Việt là một nhà thơ đợc bạn đọc biết đến từ phần thơ
in chúng với Lu Quang Vũ trong tập Hơng cây - Bếp Lửa (1968).
Nỗi nhớ quê hơng dầu tiên thành thơ là giành cho bếp lửa : "Bếp
lửa chờn vờn sớng sớm - Một bếp lửa ấp iu nồng đợm" gắn với
hình ảnh ngời bà và bên ngời bà là ngời cháu. Bài thơ nói về
tình bà cháu vừa sâu sắc , vừa thâm thía trong những năm

đầu đất nớc đói kém, loạn lạc, cuộc đời gian khổ khó khăn.
Cảm xúc tinh tế, đợm buồn của ông về những kỷ niệm về cuộc
sống gia đình , về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt
Nam. Bài thơ biểu hiện một triết luận thầm kín: những gì là
thân thiết nhất của mỗi tuổi thơ mỗi con ngời, đều có sức tỏa
sáng, nâng đỡ họ trong suốt cuôc đời.Mạch triết luận thầm kín
đợc khởi đầu từ bếp lửa còn đợc tiếp nối trong nhiều bài thơ
khác nhơ trở lại trái tim mình khi ông coi Thủ đô Hà Nội nh một


cội nguồn tình cảm, cội nguồn sức mạnh. Cùng với th gửi ngời bạn
xa đất nớc, tình yêu và báo đông, Trở lại trái tim, nhà thơ ghi
lạiđợc những trạng thái phong phú của một tâm hồn thanh niên
rất mực mến yêu đất nớc, con ngời, nêu bật đợc một thủ đô hào
hoa thanh lịch, trầm tĩnh và anh hùng. Bằng Việt còn có những
bài thơ khá tài hoa diên đạt những suy t về những danh nhân
văn hóa nhân loại nhơ: Béc- tô - ven, Pau - tốp xky, pli- xet- xcaia. Ngời đọc còn biết đến ông về những lo toan chu đáo,
những bồi hồi thơng nhớ của một ngời cha ở nơi xa chăm chú
theo rõi từng bớc đi chập chững của đứa con, trong bài thơ Về
Nghệ An thăm con với lời thơ điềm đạm, kiệm lời mà có sức
vang xa. Có thể nói với 20 bài thơ trong tập thơ hơng cây- Bếp
lửa Bằng Việt đã phác họa đợc một triết luận thầm kín của riêng
mình. Ông là một trong số không nhiều nhà thơ trẻ đợc bạn đọc
tin yêu ngay từ ban đầu của thơ. Thơ Bằng Việt thờng nghiêng
về một lời tâm sự, một sự trao đổi suy nghĩ, gây đợc một cảm
giác gần gũi, thân thiết đối với ngời đọc.Thơ ông thờng sâu
lắng trầm t thích hợp với ngời đọc trong sự trầm tĩnh vắng
lặng. Đó là một dấu ấn riêng của thơ Bằng Việt, còn lu lại trong
ký ức ngời đọc" (Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam,
Sđđ).

Các tác phẩm chính : Hơng cây - Bếp lửa (thơ, in chung,
1968); Những gơng mặt những khoảng trời (thơ, 1973); Đất sau
ma (thơ, 1977); Khoảng cách giữa lời (thơ, 1983); Cát sáng (thơ,
1986); Bếp lửa - khoảng trời (thơ tuyển, 1988); Phía nửa mặt
trăng chìm ( thơ, 1986); Lọ lem (dịch thơ ép - tu - sen - kô);...
Tác giả đã đợc nhận: Giải Nhất Văn học - Nghệ thuật Hà Nội
năm 1967 với bài thơ Trở lại trái tim mình; Giải thởng chính thức
về dịch thuật văn học quốc tế và phát triển giao lu văn hóa quốc
tế do Quỹ Hòa bình (Liên Xô) trao tăng năm 1982.
2. Tác phẩm:
- Bài thơ Bếp lửa đợc tác giả Băng Việt sáng tác năm 1963, khi
là sinh viên đang học ở nớc ngoài.
- Bài thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc của ngời cháu về ngời
bà vào tuổi ấu thơ đợc ở cùng bà.


Khúc hát ru những em bé trên lng mẹ - Nguyễn Khoa
Điềm
1. Tác giả:
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại thôn Ưu Điềm,
xà Phong


Hòa, huyện Phong Điềm, tỉnh Thừa Thiên Huế. Quê gốc: làng An
Cựu, xã Thủy An , thành phố Huế.Lúc nhỏ đi học ở quê, năm 1955
ra miền Bắc học tại trờng học sinh miền Nam. Sau khi tốt nghiệp
trờng Đại học S phạm Hà Nội năm1964, vào miền Nam hoạt động
trong phong trào học sinh, sinh viên Huế, tham gia quân đội ,
xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo ,làm thơ,... cho đến năm
1975. Ông thuộc thế hệ nhà thơ trởng thành trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nớc của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm từng là
Tổng th Ký Hội nhà văn Việt Nam (khóa V), Bộ trởng bộ Văn hóa
thông tin. Từ năm 2001, ông là ủy viên Bộ ChínhTrị, Bí th Trung ơng Đảng, Trởng ban T tởng Văn hóa Trung ơng.
Nguyễn Khoa Điềm trởng thành trong giai đoạn kháng chiến
chống đế quốc Mỹ. Tập thơ Đất ngoại ô và Trờng ca Mặt đờng
khát vọng nhanh chóng khẳng định sự đóng góp và tài
thơNguyễn Khoa Điềm lúc bấy giờ. có thể nói thơ Nguyễn Khoa
Điềmlà thơ của một trí thức trẻ, giàu vốn sống thực tếvà vốn văn
hóa,triết lý và trữ tình, suy t và cảm xúc.
Các tác phẩm chính : Cửa thép (ký, 1972); Đất ngoại ô (thơ,
1973); Mặt đờng khát vọng (trờng ca, 1974); Ngôi nhà có ngọn
lửa ấm (thơ, 1986) ; Thơ Nguyễn Khoa Điềm (thơ, 1990) ;...
Nhà thơ đã đợc nhận: Giải thởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm.
2 . Tác phẩm :
- Bài thơ Khuc hát ru những em bé lớn trên lng mẹ đợc tác giả
Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, khi đang công tác ở
chiến khu Thừa Thiên .
- Bài thơ đã thể hiện truyền thống yêu nớc thơng dân một
cách đặc
sắc qua hình ảnh bà mẹ cõng con lên rẫy. những lời ngời mẹ ru
con bộc lộ sâu sắc tinh thần yêu nớc cùng ý chí quyết tâm
đánh giặc đến cùng của đồng bào các dân tộc nói riêng và
nhân dân ta nói chung.


Nguyễn Duy "ánh trăng"
1. Tác giả:
Nhà thơ Nguyễn Duy (tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ),
sinh năm 1984, tại xã Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa.

Tham gia cong tác từ 1965, làm tiểu đội trởng dân quân trực
chiến khu vực Hàm Rồng - Thanh Hóa. Năm 1966, nhập ngũ tại
Bộ t lệnh Thông tin, lính đờng dây, tham gia chiến đấu tại các
chiến trờng : Khe Sanh - Đờng 9 -


Nam Lào. Từ năm 1967, chuyển khỏi quân đội về làm báo Văn
nghệ Giải phóng. Hiện công tác tại tuàn báo Văn nghệ .
Các tác phẩm chính: Cát trắng (thơ, 1973); ánh trăng (thơ,
1984); Nhìn ra bể rộng trời cao (bút kí, 1985); Khoảng cách
(tiểu thuyết, 1985); Mẹ và em (thơ, 1987); Đờng xa (thơ, 1989);
Quà tặng (thơ, 1990); (thơ, 1994);...
Tác giả đã đợc nhận: Giải Nhất thơ tuần báo Văn Nghệ (1973);
Tặng thởng loại A về thơ của Hội Nhà văn Việt Nam (1985).
"Xuất hiện vào chặng cuối của chiến trang chống Mĩ cứu nớc,
từ khoảng 1972 trở đi, Nguyễn Duy đã trở thành một gơng mặt
tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Cho đến nay,
Nguyễn Duy vần là một trong số không nhiều nhà thơ "thời ấy"
con sung sức và đợc bạn đọc yêu thích. Có thể thấy tài năng và
con đờng thơ của ông phát triển và khẳng định gắn chặt với
những tháng năm đầy những biến động của lịch sử dân tộc.
Những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh, với chùm thơ đăng
trên báo Văn nghệ nảm 1972, Nguyễn Duy đã chiếm đợc lòng
mến mộ của độc giả. Nhà phê bình Hoài Thanh có công phát
hiện và giới thiệu Nguyễn Duy . Ông đã khẳng định ở thơ
Nguyễn Duy có một vẻ đẹp "không gì so sánh đợc" ,
"Quen thuộc mà không nhàm chán" , "Nguyễn Duy đặc biệt
thấm thía cái cao đẹp của những cuộc đời cần cù, gian khổ" ,
chất thơ của Nguyễn Duy chính là "cái hiền hậu, một cái gì rất
Việt Nam".

Sau chiến thắng năm 1975, Nguyễn Duy vần say sa và tiếp
tục con đờng thơ của mình. Tiếng thơ của ông ngày càng đậm
đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu quen thuộc mà
hấp dẫn ngời đọc. Tập thơ nổi bật của Nguyễn Duy là tập ánh
trăng (1984). Tập thơ đợc coi là một bớc tiến trong thơ Nguyễn
Duy , tập thơ đã đợc tặng Giải A của Hội Nhà văn Việt
Năm
1984 (cùng với tập thơ hoa trên đá của Chế Lan Viên) ánh trăng
tiếp tục viết về bộ đội, về cuộc đời ngời lính sau chiến tranh
với những vần thơ tha thiết và thấm thía, những trăn trở băn
khoăn (ánh trăng, nghe tắc kè kêu trong thành phố...). Cũng ở tập
thơ này, Nguyễn Duy còn dành nhiều bài thơ viết về tuổi thơ,
ruộng đồng cây cỏ, những vùng quê với những con ngời thân
thuộc bằng một tình cảm tha thiết nặng tình, nặng nghĩa (Đò
Lèn, Tuổi thơ, Cầu Bố, Ông già sông Hậu, Gửi Huế, Lời của cây,
Sông Thao, Đà Lạt một lần trăng,...). Vần tiếp tục chất giọng ca
dao đậm đà, thân thuộc nhiều bài trong ánh trăng viết theo
thể lục bát hết sức nhuần nhị, ngọt ngào nhiều khi khó mà


nbiết phân biệt đợc những bài ca dao (Từ điển tác giả tác phẩm
văn học Việt Nm dùng trong nhà trờng).
2. Tác phẩm:
Bài thơ ánh trăng đợc xem nh là niềm thôi thúc của tác giả, nhớ
về cội nguộn và ý thức trớc lẽ sống thủy chung.


Nguyễn Thành Long "Lặng lẽ Sa Pa"
1. Tác giả:
Nhà văn Nguyễn Thành Long ( 1925-1991), quê ở huyện Duy

Xuyệ tỉnh Quảng Nam, viết văn từ thời kì kháng chiến chống
thợc dân Pháp, Ông là cây bút chuyên về truyện ngắn,
Tập trung nhiệt thành ngợi ca những con ngời lao động mới,
dám nghĩ dám làm, không sợ khó khăn gian khổ, say mê trong
lao động sáng tạo, nhn hậu và tha thiết yêu cuộc sống...Truyện
của Nguyễn Thành Long hấp dẫn ngời đọc bằng văn trong sáng,
giàu chất thơ, nhẹ nhàng thoải mái, cốt truyện tởng nh đơn
giản mà giàu ý nghĩa khái quát, Lặng lẽ Sa Pa là
truyện ngắn tiêu biểu nh thế. Truyện viết về một thị xã nhỏ bé
của tỉnh Lào Cai luôn chìm đắm trong sơng mù: Sa Pa. Đén với
nới ấy là những con ngời thật: một anh thanh niên làm công tác
khí tợng thủy văn trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét, một cô kĩ
sơ nộng nghiệp mới ra trờng, một bác lái xe già đã chạy suốt
30năm trên tuyến đờng Sa Pa, một họa sĩ đi thực tế chuyến
cuối cùng - của cuộc đời công tác trớc khi nghỉ hu, bốn gơng
mặt tiêu biểu, bốn tính cách khác nhau: anh thanh niên đầy
nhiệt huyết bộc trực, chân thành, cô kĩ s trẻ hồn nhiên nhng kín
đáo tế nhị, ông họa sĩ trầm tĩnh sâu lắng, còn bác lái xe thì
sôi nổi, vui tính...Họ tình cờ gặp nhau trên con đờng tới Sa Pa
mà bỗng trở nên gần gũi và thân thiết nh một gia đình. Tuy
tính tình và nghề nghiệp khác nhau, nhng tất cả đều có chung
một tâm hồn trong sáng, tinh tế, một suy nghĩ lành mạnh sâu
sắc và nhất là họ có chung một thái độ sống, lao động, lầm
việc và cống hiiến hết mình cho Tổ quốc một cách vô t hồn
nhiên, âm thầm và lặng lẽ.Đó là một truyện ngăn hay tiêu biểu
cho phong cách của Nguyễn Thành Long: nhẹ nhàng kín đáo mà
rất sâu sẵcvà thấm đẫm chất thơ (Từ điiển tác giả tác phẩm
văn học Việt Nam dùng cho nhà trờng ).
Các tác phẩm chính: Bát cơm cụ Hồ( 1953); Chuyện nhà
chuyện xởng( 1962); những tiếng vỗ cánh(1967); Giũa trong

xanh(1972); Nửa đêm về sáng(1978); Lí Sơn mùa tỏi(1980); Sáng
mai nào, xế chiều nào(1984)...


2. Tác phẩm:
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa đợc nhà văn Nguyễn Thành Long
viết năm 1970 sau chuyến đi Lào Cat của tác giả.
Thông qua một tình huống gặo gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ
già, cô kĩ s trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tợng
trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa, tác giả khẳng định vẻ đẹp của
con ngời lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.


Nguyễn Quang Sáng "Chiếc lợc ngà"
1. Tác giả :
Nhà văn Nguyễn quang Sáng sinh năm 1932, qua ở huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang. Trong thời kì kháng chiến chống thực dân
Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trờng Nam Bộ. Từ
sau năm 1954
tập kết ra bắc Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Trong
thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nớc, ông trở về Nam Bộ tham
gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết nhiều thể loại: truyện
ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu nh chỉ viết về cuộc
sống và con ngời Nam bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng nh
sau hòa bình.
"Lối viết của Nguyễn Quang Sáng giản dị , mộc mạc nhng sâu
sắc, viết để "phục vụ ngay, để đánh trả lại kẻ thù từng miếng
từng nhát thật sâu" . Ông đã khắc họa những hình ảnh chân
duung thực, đẹp đẽ của những con ngời miền Nam kháng

chiến. Đó là hình ảnh những ngời dân Sài Gòn đánh địch
ngoan cờng theo "kiểu Sài Gòn" ( Chị Nhung, Sài Gòn dới tầng
khói) đó là những ngời nông dân đồng bằng sông Cửu Long nh
anh Báy Ngàn bình thản ngồi hút thuốc sau khi quần nhau mấy
lần hút chết với giặc
( Một chuyện vui) hay anh Ba Hoành trong Quán rợi ngời câm
cắn răng chụi đựng những trận tra tấn của kẻ thù đến hóa câm,
bốn năm ở nhà với vợ trông nom một quán rợi ven sông và âm
thầm chuẩn bị lực lợng cho ngày đống khởi... Trong những năm
kháng chiến, tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng đã có tác dụng
to lớn trong việc cổ vũ, động viên sức chiến đấu mạnh mẽ của
nhân dân miền Nam, củng cố niềm tin yêu của cả nớc đối với
đồng bào nơi thành đồng Tổ quốc" ( Từ điển tác giả, tác phẩm
văn xuôi dùng trong nhà trờng)


Với thể loại truyện ngắn, qua nhiều tác phẩm, ông đã khẳng
định một phong cách đậm đầ chất Nam bộ từ việc xây dựmh
khung cảnh thiên nhiên đến kháec họa tính cách con ngời.
Các tác phẩm chính: Con chim vàng ( 1957); Ngời quê hơng
(truyện ngắn,1958); Nhật kí ngời ở lại (tiểu thuyết,1962); Đất
lửa (1963); Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa,1966);
Chiếc lợc ngà (truyện ngắn 1966); Bông cẩm thạch (truyện
ngắn, 1969); Mùa gió chớng ( tiểu thuyết, 1975); Ngời con đi xa
(truyện ngắn 1977); Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985); Bàn
thờ tổ của một cô đào (truyện ngắn, 1985); Tôi thích làm vua
(truyện ngắn, 1988); Paris - tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990);
Con mèo Fujita (truyện ngắn, 1991); Mùa gió chớng (1977, kịch
bản phim); Cánh đồng hoang (1978, kịch bản phim); Cho đến
bao giờ (1982); Mùa nớc nổi

(1986); Dòng sông hát (1988); Câu nói dối đầu tiên (1988); Thời
thơ ấu (1995); Giữa dòng (1995); Nh một huyền thoại (1995);...
Tác giả đã đợc nhận : Giải thởng cuộc thi truyện ngắn báo
Thống
nhất
(1995); Giải thởng cuộc thi truyên ngắn Tạp chí văn nghệ quân
đội (1959); Giải thởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà Văn
(1985); Giải thởng thởng Hội Nhà Văn Việt Nam 1993; Huy chơng
vàng Liên hoan phim toàn quốc (1980); Huy chơng vàng Liên
hoan phim ở Matxcơva (1981); Huy chơng bạc Liên hoan phim
toàn quốc (1980).
2. Tác phẩm:
Truyện chiếc lợc ngà đợc nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết
năm 1966 tại chiến Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến
chông đế quốc Mĩ của nhân dân ta đang diễn ra quyết liệt.
Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn
Quang Sáng. Băng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc
sắà xây dựng tình huống bất ngờ, tác giả đã thể hiện một cách
cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu.


Chế Lan Viên "Con cò"
1. Tác giả:
Nhà thơ Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc
Hoan, quê ở Cam Lộ - Quảng trị. Trớc CM tháng 8, Chế Lan Viên
đã nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới qua tập Điêu tàn, Chế Lan
Viên đã có những đóng góp lớn vào những thành tựu của văn học
kháng chiến, ông là một trong những tên tuổi hành đầu ở nền
thơ Viết Nam thế kỉ XX .



"17 tuổi với tập thơ Điêu tàn, Chế lan Viên đã làm nên "một
niềm tin kinh dị "trên thi đài của Việt Nam đầu thế kỉ. Bộc lộ
bằng một cảm xúc khác thờng, quay lng lại với thực lại hiện hữu:
"hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh - Một vì sao trơ trọi cuối trời xa
- Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh - những u phiền đau khổ
với buồn lo". Chế Lan Viên tìm về quá khứ của dân tộc Chăm
cũng là một cách diễn tả tâm trạng mình về hiện thực của dân
tộc.
Phần tích cực lẫn hạn chế trong hồn thơ Chế Lan Viên giao
thao trên những nội buồn, giấc mơ, những dằn vặt về sự tồn tại
của chính mình. Khi những quan điểm Điêu tàn đến Vàng sao
đã không còn phù hợp, Chế Lan Viên rơi vào thần bí, bế tắc. Chỉ
còn một cách lựa chọn là hớng cảm xúc của chủ thể sáng tạo và
yêu cầu mới, Chế Lan Viên đã bắt gặp ngọn nguồn của sáng tạo
sau CM tháng 8 1945.
Với Gửi các anh, tập thơ viết trong kháng chiến chống thực
dân Pháp Chế
Lan Viên đã cố gắng tiếp cận với hiện thực cách mạng. Những ở
đây, con ngời công dân và con ngời nghệ sĩ vẫn cha gặp
nhau, bản sắc thi sĩ cha kịp định hình. Chỉ đến ánh sáng và
phù sa, Chế Lan Viên mới thực sự "từ thung lũng đau thơng đến
cánh đông vui", làm nên một gơng mặt thi nhân tài hoa vào
độc đáo trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Từ đây cho
những bài thơ cuối đời, cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên
luôn vận động vào phát triển, thống nhất trong đa dạng. Thơ
Chế Lan Viên đã tạo đợc một sức mạnh ám ảnh đối với ngời đọc
trên cả hai phơng diện cảm xúc và trí tuệ. Với ý thức phục vụ cáh
mạng, phục vụ cuộc sống bằng thi ca, thơ Chế lan Viên đã muốn
là tiếng nói thi ca lịc sử đất nớc trong thời đại mới. Trong những

cảm hứng từ vĩ mô đến vi mô có cả chim báo bão, có cả hai
ngày thờng, có đối thoại mới lẫn độc thoại với chính mình.
Chế Lan Viên là nhà thơ có công đầu trong việc cách tân
câu thơ Việt
Nam. Ông đã làm một cuộc cách mạng về câu
thơ, dòng thơ, khuôn khổ, phạm vi câu thơ cũ bị phá vỡ. Thay
vào đó, là các bài thơ tự do xuất hiện ngày càng nhiều với
những câu thơ dài ngắn xen lẫn nhau với các cặp phạm trù đối
lập nhằm biểu đạt ý tởng lớn của bài thơ. Chế lan Viên đa diện,
đa chiều, nhiều tầng ngữ nghĩa, chủ yếu thể hiện ở chiều
sâu, ở tần triết lí, có sự gặp gỡ của hai nền thơ ca phơng Tây
và phơng Đông.Chế Lan Viên còn là một trong số những nhà thơ
hiếm hoi là thơ tứ tuyệt thành công nhất trong thơ ca Việt Nam


hiên đại, kết hợp hài hòa giữa cái đẹp truyền thống và hiện đại"
(từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trờng,sdd)
Các tác phẩm chính: Điêu tàn (1937); Gửi các anh (1954); ánh
sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thờng,Chim báo bão (1967);
Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Hoa trớc
lăng Ngời (1976); Hái theo mùa (1977); HoaTrên đáTuyển tập Chế
Lan Viên (hai tập 1985); Di cảo I (1994); Di cảo II (1995). Về văn
xuôi có các tập ký: Thăm Trung Quốc (1963); Những ngày nổi
giận (1966); Giờ của số thành (1977); Nói chuyện văn thơ
(1960); Phê bình Văn học (1962); Vào nghề (1962); Suy nghĩ và
bình luận (1971); Bay theo đờng dân tộc đang bay (1976);
Nghĩ cạnh dòng thơ (1981); Từ gác Khuê văn đến quán trung
tân ( 1981); ...
Tác giả đã nhận đợc huân chơng độc lập hạng 2 (năm 1988)
Giả thởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996); Giải A

giải thởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1985( Tâp thơ Hoa
trên đá ); Giải thởng hội nhà Văn Việt Nam 1994 (Di cảo I và Di
cảo II ).
2. Tác phẩm :
Bài thơ Con cò đợc rút trong tập Hoa ngày thờng ,Chim báo bão
(1967). thông qua hình tợng con cò- một hình ảnh quên thuộc
của những lời hát ru trong ca dao - tác giả muốn đề cao ca ngợi
tình mẫu tử thiêng liêng và muốn khẳng định ý nghĩa lời ru
đối vơí cuộc đời mỗi con ngời.

Thanh Hải "Mùa xuân nho nhỏ"
1. Tác giả :
Nhà thơ Thanh Hải (1930 - 1980) quê ở huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động văn nghệ trong suốt những
năm kháng chiến chống thực dân Pháp rồi chống đế quốc Mĩ và
là một trong số những cây bút có công xây dựng nền văn học
cách mạng ở mirnf Nam thời kì đầu.
Các tác phẩm chính: Những đồng chí trung kiên (1962); Huế
mùa xuân (tập 1, 1970; tập 2, 1975); Dấu võng Trờng Sơn
(1977); Mùa xuân đất này (1982); Thanh Hải thơ tuyển tập
(1982);...
2. Tác phẩm:
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ thể hiện niềm yêu mến thiết thavới
cuộc sống, với đất nớcvà ớc nguyện chân thành của tác giả về
một cuộc sống hàng ngày càng tơi đẹp hơn.




Viễn Phơng "Viếng lăng Bác"

1. Tác giả:
Nhà thơ Viễn Phơng sinh năm 1928, quê ở tỉnh An Giang. Ông
là một trong những cây bút ccó mặt sớm nhất của lực lợng Văn
nghệ Giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nớc. Thơ
Viễn Phơng còn nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, khá quen thuộc với bạn
đọc thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
Các tác phẩm chính: Chiến thắng Hòa Bình (trờng ca, 1953);
Anh hùng mìn gạt (tập truyện kí, 1968); Mắt sáng học trò (tập
thơ, 1970); Lời di chúc
(trờng ca, 1972); Nh mây màu xuân (tập thơ, 1978); Sắc lụa
Trữ la (tập truyện, 1988); Phù sa quê mẹ (tập thơ, 1991); Quê hơng địa đạo (tập truyên và kí);...
Tác giả đã đợc nhận: Giải Nhì Giải thởng Cửu Long Nam Bộ
(1954); Giải Nhì Cuộc thi viết cho thiếu nhi do Mặt trận tổ
quốc Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức; Giải thởng Hội nhà văn
Thành phố Hồ Chí Minh; Tăng thởng ủy ban toàn quốc Liên hiệp
Văn học - Nghệ thuật Việt Nam.
2. Tác phẩm:
- Bài thơ Viếng lăng Bác đợc viết khi lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh đợc xây dựng xong, đất nớc thống nhất, đồng bào miền
Nam đã có thể thực hiện đợc mong ớc ra viếng Bác. Trong niềm
xúc động vô bờ của đoàn ngời vào lăng viếng Bác, Viễn Phơng
đã viết bài thơ này.



Hữu Thỉnh "Sang thu"
1. Tác giả:
Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh năm 1942, quê ở huyên Tam Dơng,
tỉnh Vĩnh Phúc.Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình nông
dân có truyền thống Nho

học. Đã trải qua tuổi ấu thơ không dễ dàng, chỉ thực sự đợc đi
học từ sau hòa bình lập lại(1954). Tốt nghiệp phổ thông (1963),
sau đó vào bộ đội Tăng - thiết giáp và nhiều năm tham gia
chiến đấu tại các chiến trờng Đờng 8- Nam Lào (1970-1971) ,
Quảng Trị (1972), Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh.
Năm 1981, sau khi tốt nghiệp trờng viết văn Nguyễn Du( khóa
1), Hữu Thỉnh về làm phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ
Quân đội. ông đợc bầu vào Ban Chấp hành Hội nhà Văn Việt
Nam từ khóa III(1983) đến nay. Hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn
Việt Nam, Phó Chủ t5ịch Hội liên hiệpVăn học - Nghệ thuậtViệt
Nam, đại biểu Quốc hội khóa X, XI.


"Trớc khi là nhà thơ, Hữu Thỉnh đã là một ngời lính, sống thậy
sự cuộc sóng của mình giữa lòng cuộc chiến đấu của dân tộc,
Hình tợng ngời lính và hiện thực lớn lao, sôi động của những
năm tháng chiến tranh ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng chủ
đạo cho các tập thơ của Hữu Thỉnh. Ngay ở tập thơ âm vang
chiến hào, Hữu Thỉnh đã có một giọng điệu riêng chân thật
trong cảm xúc, tinh tế và có nhiều tìm tòi trong cách biểu hiện.
Sức bền của đất, Trên một chiếc xe tăng và Chuyến đò đêm
giáp ranh là những bài thơ đợc nhiều ngời biết tiếng. Một trong
những đặc điểm đa đến sự thành công trong thơ Hữu Thỉnh
là sự vận dụng nhuần nhuyễn và linh hoạt những câu tục ngữ ,
ca dao dân gian. Nét đặc trng này cũng là một điểm mạnh và
là yếu tố cơ bản hình thành cá tính thơ Hữu Thỉnh làm nên
nét đặc sắc cho thơ ông. Trờng ca Đờng tới thành phố đời đã
thực sự đánh dấu một giai đoạn trởng thành của thơ Hữu
Thỉnh. Hiện thực của mỗi thời chiến trận đã đợc thể hiện với
một quy môvà chiều dày hơn hẳn những tác phẩm ở những giai

đoạn trớc. Bằng những hình tợng tiêu biểu đầy cảm xúc, chặng
đờng dẫn đến chiền thắng của dân tộc đợc miêu tả và lí giải
hợp lí, đạt hiệu quả nghệ thuật cao, trong đó có khá nhiều
những câu thơ tài hoa xúc động. Trờng ca Biển viết về đảo Trờng Sa là một cuộc đối thoại khôn cùng giữa con ngời và biển cả.
Nhiều suy nghĩ và chiêm nghiệm sâu sắcvề cuộc đời đã đợc
thể hiện trong đó. Trớc đây những câu thơ hay của Hữu
Thỉnh thiên về cảm. Bây giờ câu thơ của ông đậm màu triết
luận, có sức nặng của suy nghĩ và chiêm nghiệm. Chất lợng thơ
Hữu Thỉnh thể hiện một quá trình phấn đấu
không ngừng. Tập Th mùa đông là một nỗ lực tự vơn lên mình
của ông"(từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho
nhà trờng Sđđ)
Các tác phẩm chính: âm vang chiến hào (in chung 1975); Đờng
tới thành
phố (trờng ca, 1979); Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in
chung); Th mùa
đông (1984) ; Trờng ca Biển (1984); Từ chiến hào đến thành
phố (1985);..
Tác giả đã đợc nhận : Giải nhất cuộc thi thơ báoVăn
nghệ(1976), Giải thởng Hội Nhà văn Việt Nam(1980,1995); Giải
thởng văn học ASEAN
(1999); Giải thởng Nhà nớc (2001);...


Hữu Thỉnh có nhiều bài thơ hay về con ngời và cuộc sống
nông thôn.
2. Tác phẩm:
Bài thơ Sang thu đợc tác giả sáng tác năm 1977, thể hiện
những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trớc biến thái của thiên
nhiên từ hạ sang thu.



Y Phơng "Nói với con"
1. Tác giả:
Nhà thơ Y Phơng tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sớc, sinh năm
1948, tại xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, hiện ở
Hà Nội. Ông là Hội viên hộI Nhà văn Việt Nam(1988).
Y Phơng nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến
năm 1981 chuyển về công tác tại Sở Văn hóa-Thông tin Cao Bằng.
Thơ Y Phơng nh một bức tranh thổ cẩmđan dệt những màu
sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhng trong có màu sắc
chủ đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và
độc đáo. Nết độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với
Y Phơng, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt nam nói
chung, có thêm một giọng điệu mới, một phong cach mới. (Từ
điển tác giá tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong nhà trờng).
Các tác phẩm chính: Ngời hoa núi(kịch bản sân khấu,
1982);Tiếng hát tháng giêng(thơ, 1986); Lửa hồng một góc( thơ
in chung, 1987);Lời chúc
(thơ,1991); Đàn then (thơ, 1996)....
Tác giả đã nhận đợc: giải A cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ
quân dội; Giải thởng loại A Giải thởng văn học 1987 của hội nhà
văn Việt Nam....
2. Tác phẩm:
Về hoàn cảnh ra đời bài thơ Nói với con, nhà thơ Y Phơng cho
biết:
Những năm cuối bảy mơi đầu tám mơi của thế kỉ XX , đời
sống tinh thần và vật chất của nhân dân ta cả nớc nói chung,
nhân đan cả nớc nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở
miền núi nói riêng, vô cùng khó khăn thiếu thốn. Bởi vì đất nớc

ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ lâu dài và
cục kì gian khổ. Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến
đời sống con ngời. Đại bộ phận nhân dân ta vẫn kiên trì khắc
phục và tìm mọi cách để vợi qua để duy trì đời sống. Họ vẫn
tồn tại và không ngừng sinh trởng là không phải nhờ vào phép


màu của lợng siêu nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần
của truyền thống văn hóa từ ngàn đời mà ông cha ta để lại.
Cuối năm 1975, tôi cũng mới từ mắt trận trở về, sau tám năm
đánh giặc xa
nhà nay trở về lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn
chung của
toàn xã hội. Nhìn cách con cầm bát cơm ăn không thịt cá mà
lòng xót đau khôn tả. Bởi chúng tôi cũng nh nhiều gia đình cán
bộ khác chỉ sống bằng đồng lơng quá ít ỏi. Hàng hoá khan
hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến chóng mặt. Bên cạnh cái
tốt của những ngời làm ăn lơng thiện, không ít những con ngời
bị tha hóa biến chất. Họ buôn bán lận, lợi dụng khẽ hở của nhà nớc
móc lối làm ăn phi pháp. ở miền Nam, một bộ phận nhỏ công
chức dới thời ngụy quyền Sài Gòn không chịu đợc đã tìm mọi
cách để vợt biên trốn ra nớc ngoài.
Từ hiện thực khó khăn ngày ấy, tôi làm bài thơ này để tâm
sự với chính mình, động viên mình, đồng thời là để nhắc nhở
con cái sau này.


Nguyễn Minh Châu - "Bến quê"
1.Tác giả:
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu ( 1930- 1989) sinh tại làng Thôi,

xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lu, tỉnh Nghệ An. Ông là hội viên
hội nhà văn Việt Nam (1972).
- Hoạt động văn học của Nguyễn Minh Châu khá phong phú
và có những thành công đáng trân trọng. Chỉ riêng về lĩnh vực
sáng tac, nhiều tác phẩm của ông đã trở thành đề tài tìm hiểu
của hàng trăm bài báo, bài nghiên cứu và những chuyên luận
khoa học trong và ngoài nớc. Đọc lại những trang viết cảu ông,
đọc lại những bài viết về ông, có thể thấy rằng: về cuộc đời và
sự nghiệp vă học của Nguyễn Minh Châu còn tiềm ẩn nhiều
vấn, nhiều ngợi ý có khả năng hứa hẹn cho việc tiếp tục tìm
hiểu, nghiên cứu ở những bình diện và phơng pháp tiếp cận
mới. (Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Minh Châu- về tác gia và tác
phẩm, NXB Giáo dục 2001).
Các tác phẩm chính : Cửa sông (tiểu thuyết, 1967) ; Những
vùng trời khác nhau ( Tập truyện ngắn, 1970) ; Dấu chân ngời
lính (tiểu thuyết, 1972) ; Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974) ;
Miền cháy (tiểu thuyết, 1977) ; Lửa từ những ngôi nhà (tiểu
thuyết,1977) ; Những ngày lu lạc (tiểu thuyết, 1981); Những ngời đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982) ; Ngời đàn bà trên


chiến tàu tốc hành ( Tập truyện ngắn, 1983) ; Đảo đá kì lạ
( 1985) ; Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987) ; Chiếc thuyền
ngoài xa ( Tập truyện ngắn, 1987) ; Cỏ lau ( Tập truyện vừa,
1989) ; Trang giấy chiếc đèn ( tiểu luận phê bình, 1994) ; ...
Tác giả đã đợc nhận : Giải thởng bộ quốc phòng ( 1984,
1989) ; Giải thởng hội nhà văn Việt Nam ( 1988, 1989) ; Giải thởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật ( 2000) .
2. Tác phẩm:
Truyện ngắn Bến Quê in trong tập truyện cùng tên của
Nguyễn Minh
Châu, xuất bản năm 1985. Trong truyện ngắn này, ngòi bút của

nhà văn hớng vào đời sống thế sự nhân sinh thờng ngày với
những xhi tiết sinh hoạt đời để phát hiện đợc chiều sâu của
cuộc sống với bao quy luật và nghịch lý, vợt ra khỏi cách nhìn,
cách nghĩ trớc đây của cả xã hội và của chính tác giả.


Lê Minh Khuê - "Những ngôi sao xa xôi"
1.Tác giả :
Nhà văn Lê Minh Khuê sinh năm 1949 tại xã An Hải, huyện Tĩnh
Gia, tỉnh Thanh Hóa ; Hội viên hội nhà văn Việt Nam ( 1980).
Tốt nghiệp phổ thông trung học, Lê Minh Khuê tham gia đội
thanh niên xung phong chống My cứu nớc. Những năm tháng vất
vả gian nan mà hào hùng ở ngoài tuyến lửa đã tạo cảm hứng
chớnh những sáng tác của chị sau này. Năm 1969 , chị là phóng
viên Tiền phong. Năm 19723- 1977, phóng viên đài phát thanh
Giải phóng và sau đó là đài truyền hình Việt Nam.Từ 1978
đến nay, nhà văn Lê Minh Khuê là biên tập viên nhà xuất bản Hội
Nhà văn.
Là nhà văn sở trờng về truyện ngắn, từ sau năm 1975, sáng tác
của Lê Minh Khuê đã bám sát những biến chuyển của đời sống,
đề cập đến nhiếu vấn đề bức xúc của xã hội thời điểm mới.
Ngòi bút miêu tả tâm lí của Lê Minh Khuê khá sắc sảo, nhất là
khi miêu tả tâm lí phụ nữ.
Các tác phẩm chính: Cao điểm mùa hạ ( 1978) ; Đoàn kết
(1980) ; Thiếu nữ mặc áo dài xanh (1984) ; Một chiều xa thành
phố (1987) ; Em đã không quên (1990) ; Bi khịch nhỏ (1993) ;
Trong làn gió heo may (1998) ; ...
Tác giả đã đợc nhận: Giải thởng văn xuôi Hội Nhà văn Việt
Nam năm 1987 ( tập truyện ngắn: Mội chiều xa thành phố).
2. Tác phẩm:



Truyện Những ngôi sao xa xôi viết về ba cô gái thanh niên
xung phong làm nhiệm vụ phá bom ở một cao điểm trong thời
kì cuộc chiền tranh trống đế quốc Mĩ đang diễm ra khốc liệt.
Miêu tả các cô gắi hằng ngày, hằng giờ đối mặt với nguy hiểm
nhng hấ dẫn của truyện không phải ở những chi tiết, sự kiện hòi
hộp, nóng bỏng mà ở khả năng miêu tả đời sống tâm hồn con
ngời khá sinh động, sâu sắc của tác giả.
III- HNG DN ễN TP MễT Sễ BAI CU THấ:
1.
Canh ngay xuõn
I/V
TR
ON

TRCH

:

õy la oan tiờp liờn theo oan ta v ep hai chi em Kiờu.oan nay ta canh chi em
Kiờu du xuõn trong tiờt Thanh minh. Cung la mụt lờ hụi ngay xuõn theo phong tuc
Trung
Quục.
II/B

CC:

a/4
cõu

õu
:
Ta
canh
b/ 8 cõu kờ : Khung canh lờ hụi trong
c/6
cõu
cuụi
:
Chi
em
Kiờu
du
III/

C

V

HIU

VN

ngay
xuõn.
tiờt thanh minh.
xuõn
tr
vờ.
BN


:

1/
Khung
canh
ngay
xuõn
:
Bụn
cõu
th
õu
gi
lờn
khung
canh
mua
xuõn
:
Ngay xuõn con en a thoi . Thiờu quang chin chuc ó ngoai sau mi.
Co non xanh rn chõn tri. Canh lờ trng iờm mụt vai bụng hoa
í cõu õu la ngay xuõn qua i nhanh nh chiờc thoi dờt ci do cai thoi thng lam
giụng nh con chim en . Nhng cung co thờ hiờu la canh ngay xuõn chim en bay
ln õy tri nh con thoi a ngu ý tiờc nuụi ngay xuõn qua nhanh qua. Nh thờ
hai cõu õu va noi vờ thi gian ma con gi ta khụng gian mua xuõn.
Hai cõu con lai la mụt bc tranh thiờn nhiờn tuyờt ep.
Co non xanh rn chõn tri. Canh lờ trng iờm mụt vai bụng hoa
Bat ngat trai rụng ờn tõn chõn tri la tham co non t xanh rn. o chinh la gam
mau nờn cua bc tranh ngay xuõn ti ep. Trờn nờn tham co xanh õy iờm thờm

vai bụng lờ trng. Mau sc cua bc tranh thõt hai hoa. Tõt ca cho thõy ngay xuõn
õy thõt mi m, thanh tõn, dat dao sc sụng trong mụt khụng khi trong lanh,
thanh thoat. T iờm dung õy lam cho bc tranh thờm sinh ụng, co hụn.
3/
Chi
em
du
xuõn
tr
vờ
:
Canh võt, khụng khi mua xuõn trong sau cõu nay so vi mõy cõu õu ó co s
khac
biờt.


Cái không khí rộn rang náo nức của buôi sáng không còn . Mọi thứ đều đã lắng
xuống, nhạt dần. Cảnh vật lúc nay từ nắng cũng “nhạt” đi, khe suối nhỏ, nhịp cầu
bắc ngang tuy vẫn giư nét thanh diụ của mùa xuân với mọi chuyển động nhẹ
nhang, nhưng mặt trời ngả bóng về Tây, bước chân người thẩn thơ lưu luyến, tiếc
nuối, dòng nước uốn quanh. Nhưng tất nhiên thời gian khác thì không gian cũng
khác. Nếu cảnh trong bốn câu đầu la cảnh buôi sáng lúc lễ hôi mới bắt đầu thì ở
đây la cảnh chiều tan hội . Tâm trạng mọi người theo đó cũng khác hẳn. Nhưng từ
láy “nao nao”, “ta ta”, “thanh thanh” đâu chỉ tả cảnh ma còn ngụ tình … Một cái
gì đó lãng đãng, bâng khuâng, xuyến xao va tiếc nuối…Ngay vui nao rồi cũng
qua, cuộc vui nao rồi cũng tan...Bởi lẽ "Sự vật chảy trôi không ngoái đầu nhìn
lại...Sự vật chảy trôi không quyền nao ngăn cản nỗi" ( R. Tagore)
2.
Chị em Thuý Kiều
I.

MỞ
BÀI
“ Chị em Thúy kiều” la đoạn trích từ truyện Kiều của Nguyễn Du. Đoạn trích
miêu tả bức chân dung xinh đẹp của hai chị em Thúy Kiều va Thúy Vân. Nhưng
bức chân dung ấy thể hiện tai năng nghệ thuật tả người của Nguyễn Du.
II.
THÂN
BÀI:
Đoạn thơ đầy tính sáng tạo, cách miêu tả phong phú. Đây la bức chân dung của
hai nhân vật chính ma Nguyễn Du đã danh cho tất cả sự ưu ái trân trọng.
Trình tự giới thiệu, miêu tả của nha thơ rất cô điển: mở đầu giới thiệu chung, sau
đó
miêu
tả
riêng
va
cuối
cùng
kết
luận
chung.
Mở đầu đoạn trích, tác giả viết : “ Đầu lòng hai ả… Thúy Vân”
Cách giới thiệu của nha thơ thật tai tình, chỉ bằng hai câu lục bát người đọc hiểu
được lai lịch, vai vế của hai chị em. Đó la hai người con gái xinh đẹp “tố nga” của
gia đình Vương Viên Ngoại: Thúy Kiều la chị; Thúy Vân la em.
Chỉ bằng vai nét phác họa, tác giả đã gợi được mối thiện cảm cho người đọc “ Mai
cốt cách…vẹn mười” / Đừng nghĩ rằng hễ bắt tay vao vẻ chân dung la người ta vẻ
mặt, mắt, miệng …Ở Nguyễn Du, nha thơ chú ý trước hết đến “ cốt cách” va “
tinh thần”. Bằng biện pháp đảo ngư, kết hợp tương trưng va ẩn dụ người đọc hình
dung vóc dáng thanh tao, mảnh dẻ duyên dáng va tâm hồn trong sáng tinh sạch

của họ. vẻ đẹp của mỗi người đều có nhưng nét riêng va đều đạt đến độ hoan mĩ “
mười
phân
vẹn
mười”
Chân dung của Thúy Vân được nha thơ miêu tả chỉ bốn câu “ Vân xem …mau da”
Ở bốn câu thơ người đọc thấy được sự miêu tả tinh tế va toan vẹn từ khuôn mặt,
nét may, mau da, mái tóc đến nụ cười , tiếng nói va phong thái ứng xử. Nang có
khuôn mặt xinh đẹp, đầy đặn tươi sáng như vầng trăng tròn, lông may thanh tú
như nét may ngai, miệng nang cười tươi như đóa hoa mới nở, tiếng nang thốt ra
nhẹ nhang đằm thắm trong trẻo như viên ngọc qúy sáng lấp lánh , tóc nang la lan
mây bồng bềnh nhẹ tênh trên nền trời xanh thắm, lan da mượt ma mịn mang tắng
sáng. Bằng cách sử dụng sáng tạo nhưng biện pháp có tính ước lệ, tác giả đã khắc
họa một Thúy Vân thùy mị đoan trang phúc hậu, khiêm nhường…Một vẻ đẹp
khiến cho mọi người kính nể, chấp nhận một cách êm đềm. Thật vậy, cười nói


đoan trang trang la ngay thật, đúng mực, không quanh co châm chọc lam người ta
phật lòng, Từ nhưng thông điệp nghệ thuật” mây thua” , “tuyết nhường” Thúy Vân
tất sẽ có một tương lai hạnh phúc, một cuộc sống yên vui.
Vân la vậy còn Kiều ? Bức chân dung của cô chị được nha thơ khắc họa trong
mười hai dòng thơ tiếp theo trên hai bình diện tai va sắc . Với Kiều nha thơ vẻ : “
Kiều cang …kém xanh” / Nang có đôi mắt sáng trong veo thăm thẳm như lan
nước mùa thu . Cửa sô tâm hồn Kiều la thế - la thăm thẳm nhưng nỗi niềm chất
chứa . Nét may của đôi mắt ấy xanh tươi nhẹ nhang như dáng núi mùa xuân. Vẻ
đẹp sắc sảo mặn ma của nang lam cho hoa, liễu phải ghen hờn, nước thanh
nghiêng đô. Đẹp như thế la tuyệt thế giai nhân trên đời kh6ng ai sánh bằng. rất
khác va hơn hẳn vẻ đẹp đoan trang phúc hậu của Vân.
Có sắc, Kiều còn la một cô gái thông minh va rất mực tai hoa “ Thông minh…não
nhân”/ Tai của Kiều được giới thiệu lần lượt theo lối liệt kê: tai thơ, tai họa, tai

đan , tai hát ca…tai nao cũng cũng siêu tuyệt . Đáng chú ý la các từ “vốn sẵn tính
trời” , “ pha nghề, đủ mùi, ăn đứt”…lam cho tai nao cũng đầy đủ va trọn vẹn.
Ngoai ra Kiều còn sáng tác nhạc, một bai đan ai oán “ Thiên bạc mệnh” ai nghe
cũng buồn thảm đớn đau. Với sắc đẹp “ chim sa cá lặn” , rồi tai hoa trí tuệ thiên
bẩm, một tâm hồn đa sầu đa cảm của nang lam sao tránh khỏi sự hủy diệt của định
mệnh nghiệt ngã . Cũng như đoạn tả Thúy Vân, đoạn tả Kiều chức năng dự báo
còn phong phú va rõ rệt hơn : dự báo tấn bi kịch “ hồng nhan bạc mệnh” không
tránh khỏi suốt mười lăm năm lưu lạc chìm nôi của nang.
Bốn câu thơ cuối của đoạn trích, Nguyễn Du kết luận lại phẩm hạnh của họ : “
Phong lưu…mặc ai” / Tuôi tuy đã đến độ lấy chồng nhưng hai nang sống rất kỉ
cương , lễ giáo “Êm đềm” chỉ tư thế đai các, “ mặc ai” la thái độ điềm tĩnh , cao
giá của người đẹp. Đây cũng la cách ngợi ca kín đáo của nha thơ.
Cả vẻ đẹp lẫn tai năng của nhân vật tuy đều được vẽ rất khéo, bút pháp đa dạng
nhưng vẫn nằm trong khuôn khô của nghệ thuật trung đại với nhưng đường nét
ước lệ, cao quý, hoan hảo, lí tưởng. Đáng chú ý la dụng ý của tác giả khi phân biệt
nét khác nhau của hai nhân vật la nhấn mạng nét nay, bỏ qua nét kia lam hiện rõ
hai bức chân dung , dự báo số phận về sau của mỗi người. nang Vân rồi sẽ hưởng
đầy hạnh phúc, còn nang Kiều sẽ bị tạo hóa đố kị, ghen ghét. Đó la nghệ thuật “tả
ý” tinh vi, thâm thúy của Nguyễn Du. Điều ma không một tác giả nao có thể vượt
qua la mỗi nhân vật người đọc cảm nhận được vẻ đẹp bên ngoai hiểu được phẩm
chật, đạo đức , tâm hồn họ, va đặc biệt la dự báo tương lai số phận về sau. Chính
sự tai ti2ng đó Nguyễn Du được tôn vinh la “ bậc thầy của nghệt tả người”
III.
KẾT
BÀI:
Tóm lại, bằng nghệ thuật tả độc đáo va nhất la với tấm lòng ưu ái của tác giả danh
cho nhân vật, Nguyễn Du đã giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp của hai chị em Thúy
Vân – Thúy Kiều.
3.
Kiều ở lầu Ngưng Bích

I/
VỊ
TRÍ
ĐỌAN
TRÍCH


Sau khi nhận Kiều từ tay Mã giám sinh, Tú Ba buộc nang tiếp khách nhưng Kiều
không chịu. Mụ đã đánh đập thúc ép nên nang đã tự sát để mong thóat khỏi cảnh ô
nhục nhưng không được. Tú Ba đanh giam lỏng nang trong lầu Ngưng Bích nói la
để tìm nơi xứng đáng gả chồng cho nang nhưng kì thật la đợi để thực hiện mưu ma
chước quỷ băt nang phải lam gái lầu xanh kiếm lợi cho mụ. Đọan trích gồm 22
câu
từ
câu
1033
đến
câu
1054.
II/

ĐẠI

Ý

trích

đọan

:


Tả cảnh nơi lầu Ngưng Bích va tâm trạng cô đơn, buồn khô, nhớ nha, nhớ người
yêu
của
Kiều
III/

BỐ

CỤC

:

a/
6
câu
đầu
:
Giới
thiệu
thời
gian
không
gian.
b/ 8 câu kế : Tâm trạng cô đơn, buồn khô nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Kiều.
c/
8
câu
cuối
:

Ngọai
cảnh
trong
mắt
Kiều.
IV/
ĐỌC

HIỂU
VĂN
BẢN
.
1/Hòan
cảnh

đơn
của
Kiều
:
Sáu câu đầu la bức tranh thiên nhiên tại lầu Ngưng Bích . Gợi tả hòan cảnh cô đơn
của
Kiều
Trước hết la hình ảnh bị giam lỏng : “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”.
Khóa xuân la khóa kín tuôi xuân, ý nói la bị cấm cung. Hai chư cấm cung cho thấy
Kiều bị giam trong lầu Ngưng Bích như co gái bị cấm cung . Nang trơ trọi giưa
một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng, heo hút , không một bóng người :
“Vẻ
non
xa
tấm

trăng
gần
soi
chung.
Bốn
bề
bát
ngát
xa
trông,
Cát
vang
cồn
nọ,
bụi
hồng
dặm
kia”.
Câu thơ "Bốn bề bát ngát xa trông” như mở ra trước mắt Kiều một không gian rợn
ngợp. Từ lầu cao nhìn ra la nhưng dãy núi bát ngát điệp trùng xa mờ va mảnh
trăng gần gũi như sắp chạm đầu. Trước mắt nang la cảnh vật bốn bề xa trông bát
ngát, bên thì từng đụn cát vang nhấp nhô như sóng lượn , bên thì nhưng đám bụi
hồng
trải
khắp
dặm
xa.
Cảnh thiên nhiên mênh mông hoang vắng đó cang lam nôi bật hơn nỗi niềm cô
đơn, buồn tủi của Kiều khiến nang thêm bẻ bang chua xót :
“Bẽ bang mây sớm đèn khuya. Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Cụm từ “mây sớm đèn khuya” la từ thời gian khép kín. Khuya va sớm, đêm va
ngay Kiều lẻ loi trơ trọi chỉ biết lam bạn với mây va đèn . Có thể nói đây la lúc
nang

đơn
tuyệt
đối.
2/

Tâm

trạng

Thúy

Kiều

:


a/
Buồn
va
nhớ:
Trong xúc cảm, trước hết, nang nhớ đến Kim Trọng. Nang hình dung ra người yêu
đang sầu tư ngóng đợi. Có lẽ hơn lúc nao hết, trong lúc nay, Kiều thương Kim
Trọng vô hạn. Trong tình thương ấy có một chút ân hận ,nang cảm thấy như mình
có lỗi với chang. Để chang phải ngay đêm trông ngóng, đau khô, mòn mõi “ray
trông mai chờ”, Kiều xót xa, ân hận như một kẻ phụ tình.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống nhưng ray trông mai chờ”.

Cang thương nhớ người yêu , cang tiếc nuối mối tình đầu không trọn vẹn, Kiều
cang thấm thía tình cảnh bơ vơ nơi đất khách quê người của mình va cang hiểu
tấm lòng sắt son của mình đối với Kim sẽ không bao giờ phai nhạt.
“Bên trời góc bểbơ vơ. Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
Ở bốn câu thơ còn lại , Kiều xót xa thương nhớ cha mẹ :
“Xót người tựa cửa hôm mai . Quạt nồng ấm lạnh nhưng ai đó giờ ? Sân Lai cách
mấy nắng mưa. Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Với cha mẹ, nỗi nhớ thương của Kiều cũng ngập tran xót xa, da diết . Tuy đã bán
mình cứu cha va em khỏi cảnh ngục tù nhưng Kiều vẫn thấy mình chưa trọn đạo
lam con . Nang hình dung ra bóng song thân giayếu đang ngay đên “tựa cửa”
ngóng trông mình va xót xa tự nghĩ ai sẽ la người thay mình chăm sóc cha mẹ .
Chỉ với bốn câu thơ độc thọai nội tâm, tác giả đã thể hiện một cách sinh động , cao
đẹp va đầy xúc cảm tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
Trong đọan thơ nay , tai năng của thi hao Nguyễn du còn thể hiện ở chỗ đã đặt tình
trước hiếu khi viết về tâm trạng Kiều. Để nang nhớ người yêu trước rồi mới nhớ
đến cha mẹ. Điều nay thật chuẩn xác va khách quan vì đối vơi cha mẹ Kiều đả tự
bán mình, như vậy cũng đã đền đáp được một phần chư hiếu, công ơn sinh thanh
dưỡng dục của cha mẹ. Còn đối với Kim Trọng, Kiều đã thấy mình lỗi hẹn như
một
người
bạc
tình:
“Kim lang ơi, hỡi Kim lang. Thôi thôi thiếp đã phụ chang từ đây”
Đây la một chi tiết nhỏ nhưng nó cho thấy cái tinh tế trong tâm lý nhân vật ma
Nguyễn Du nhận ra đã thể hiện một cách cực kỳ chính xác.
b/
Buồn
va
lo
:

Tám câu cuối la tâm trọang buồn lo của Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình :
“Buồn trông cửa bể chiều hôm. Thuyền ai thấp thóang cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa. Hoa trôi man mác biết la về đâu.
Buồn trông nội cỏ dau dau. Chân mây mặt đất một mau xanh xanh”.
“Buồn” va “trông”. Buồn va cô đơn, nhìn đâu cũng thấy cảnh vật như có hồn, như
cũng buồn theo mình. Cụm từ “buồn trông” như một điệp khúc vừa tạo ra nhạc
điệu du dương vừa thể hiện nỗi buồn lớp lớp trao dâng trong lòng Kiều. Có nhưng
nét tả thực với “cửa bể, cánh buồm, chân mây, tiếng sóng…” nhưng đều chứa
đựng nhiều nghĩa ẩn dụ , gợi mở nhưng liên tuởng phản ảnh nỗi lòng Kiều . Kúc
nay nang đang cảm thấy số phận cô đơn mong manh trong hiện tại va hãi hùng
trước tương lai bão táp như đang chực chờ, đe dọa:


“Buồn trông gió cuốm mặt ghềnh. Ào ao tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Nang tưởng tượng như mình đang ở giưa biển khơi, bốn bề ầm ầm sóng vỗ . sóng
dư gao thét, cuồng nộ, tiếng dội bên tai dâng tran dội cả vao tâm hồn , vây bủa
nang như dự báo cơn giông bão sẽ đô ập xuống đầu không biết vao lúc nao…
Kiều ở lầu Ngưng Bích la một trong nhưng đọan tả cảnh ngụ tình hay nhất trong
Truyện Kiều.
4.

Phân tích tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ
*

Yêu

cầu

về


nội

dung:

Nội dung chính: Bai thơ được viết tháng 11.1980, khoảng 1 tháng sau thì nha thơ
qua đời. Bai thơ la khúc ca xuân, la tấm lòng tha thiết, gắn bó của Thanh Hải đối
với
đất
nước,
cách
mạng.
Các

em

1/

Mùa

có

thể
xuân

dựa
của

vao

3


thiên

ý

sau

nhiên,

để
đất

phân

tích:

trời:

- Miêu tả theo lối phác hoạ nhưng nha thơ vẽ ra được cả không gian gợi cảm vô
cùng, mau sắc tươi thắm, âm thanh vang vọng rộn rang, tươi vui.
- Cảm xúc say sưa ngây ngất của nha thơ được diễn tả đa dạng va tập trung nhiều
ở
chi
tiết
tạo
hình
“Từng
Tôi

giọt

đưa

long
tay

lanh
tôi

rơi
hứng”

2/ Mùa xuân của đất nước va cách mạng: Từ mùa xuân của thiên nhiên chuyển
sang cảm nhận về mùa xuân đất nước, cách mạng với hình ảnh “lộc non” gắn liền
với hình ảnh người chiến sĩ va người nông dân đều trao dâng sức sống mãnh liệt,
tự tin với tương lai xán lạn rộng mở (Đất nước như vì sao...)
3/

Tâm

niệm

của

nha

thơ:

- Nha thơ khéo chọn vẻ đẹp của thiên nhiên để thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, ước
nguyện nung nấu của chính mình. Đấy cũng la nhưng hình ảnh đơn sơ, nhỏ bé
(con chim hót, một nhanh hoa, nốt trầm...) nhưng giau sức gợi, thể hiện vẻ đẹp cao

quý của tâm hồn, lối sống của con người cách mạng. Va nghệ thuật điệp ngư, sự
chuyển đôi đại từ “tôi” sang “ta” cũng góp phần lam sáng tỏ nội dung, ý nghĩa bai
thơ.


×