Nâng cao nhận thức cho học sinh trường THPT Tôn Đức Thắng về việc quản
lý, bảo vệ các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền của nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Biển
không chỉ chứa đựng tiềm năng kinh tế to lớn, cửa ngõ mở rộng quan hệ giao
thương với quốc tế mà còn đóng vai trò quan trọng bảo đảm an ninh, quốc phòng
đồng thời là địa bàn chiến lược trọng yếu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Vì vậy, bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc không chỉ thể
hiện tư duy của Đảng ta trong các nghị quyết đại hội mà còn trở thành một trong
những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài đối với toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân, của cả hệ thống chính trị.
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc
Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch sử. Nắm vững và vận dụng quy luật đó, ngày
nay Đảng ta khẳng định: “Xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam”.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng xác định Giáo dục Quốc phòng - An
ninh là một bộ phận quan trọng trong xây dựng nền Quốc phòng toàn dân, đáp ứng
yêu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Trong những
năm qua Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “Giáo dục Quốc phòng - An ninh là bộ
phận của nền giáo dục quốc dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân”
Luật Giáo dục Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã xác định mục
tiêu giáo dục là: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tuởng độc lập dân tộc và
CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Chương trình Giáo dục Quốc phòng – An ninh góp phần giáo dục toàn diện
cho học sinh về lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào và sự trân trọng
đối với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, của các lực lượng vũ
trang nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở đó, nâng cao cảnh giác cách mạng, ý thức
trách nhiệm công dân; có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực
thù địch; có kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây
dựng, củng cố quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Do đó việc giảng dạy và học tập bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh
trong hệ thống trường THPT là hết sức cần thiết. Nhưng thực tế trong chương trình
giáo dục hiện hành nội dung kiến thức có đề cập đến vấn đề biển, đảo nhưng chưa
nhiều. Khi hỏi các em học sinh về biển, đảo của nước ta, đặc biệt là hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, đa số các em học sinh trả lời đó là “một phần máu thịt
thiêng liêng của Tổ quốc”. Nhưng để lý giải nguồn gốc của nó như thế nào, có tiềm
1
năng, thế mạnh, nguồn lợi kinh tế ra sao thì không phải học sinh nào cũng trả lời
được. Nhìn chung, kiến thức về biển, đảo của phần lớn các em học sinh hiện nay
còn yếu.
Thời gian qua, tình hình tranh chấp ngày càng gia tăng và diễn biến ngày
càng phức tạp về chủ quyền của một số nước trên biển Đông, trong đó có Việt
Nam. Vấn đề về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa và vận mệnh của đất nước đều nhận được sự quan tâm của mọi người
trong đó có học sinh những chủ nhân tương lai của đất nước.
Lợi dụng về vấn đề tranh chấp trên biển Đông, chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các thế lực thù địch trong và ngoài
nước đã tiến hành xuyên tạc, kích động nhằm chống đối cách mạng nước ta, làm
mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đối với học sinh là lực lượng
đông đảo và có vai trò to lớn trong đời sống xã hội; là bộ phận năng động, nhạy
bén, có khả năng thích nghi cái mới nhanh, nhiệt tình, xông xáo; nhưng vốn sống
và kinh nghiệm ít, kiến thức và bản lĩnh chính trị có hạn, mức độ kiềm chế và
năng lực đề kháng trước những cám dỗ còn thấp, dễ bị lôi kéo bởi những nguồn
thông tin sai lệch.
Từ ý nghĩa và thực tiễn đó tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài “Nâng
cao nhận thức cho học sinh trường THPT Tôn Đức Thắng về việc quản lý, bảo
vệ các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
1. Cơ sở lý luận.
Để tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI, Hội nghị lần
thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã thông qua Nghị quyết số 09NQ/TƯ ngày 09/02/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó
nhấn mạnh rằng thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương. Nghị quyết
đã xác định các quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020 bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
Một là, Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên
cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với
cơ cấu đa dạng, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với
tầm nhìn dài hạn;
Hai là, phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm
quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp giữa phát triển
vùng biển, ven biển, các hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công
nghiệp hoá và hiện đại hoá;
2
Ba là, tập trung khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ
môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có
hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các
nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước;
Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TƯ ngày 09/02/2007 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27/2007/NQCP ngày 30/5/2007 về Chương trình hành động của Chính phủ; Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 137/2007/QĐ-TTg ngày 21/8/2007 về phê duyệt Đề
án tổ chức thông tin phục vụ công tác phòng, chống thiên tai trên biển; Quyết định
số 1041/QĐ-TTg ngày 22/7/2009 về phê duyệt Đề án đảm bảo mạng lưới thông tin
biển, đảo; Quyết định số 373/QĐ-TTg ngày 23/3/2010 về phê duyệt Đề án đẩy
mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải
đảo Việt Nam. Các cơ quan ở Trung ương và địa phương đã chủ động xây dựng kế
hoạch, trực tiếp triển khai chương trình hành động cùng với sự nỗ lực của các cấp,
các ngành, toàn dân và đã đạt được những kết quả quan trọng: kinh tế biển, ven
biển được quan tâm đầu tư, phát triển theo hướng khai thác có hiệu quả nguồn tài
nguyên biển kết hợp phát triển lâm nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp chế biến, xuất
khẩu thuỷ sản, phát triển nuôi trồng gắn liền với nâng cao hiệu quả khai thác, đánh
bắt; tăng nhanh các ngành dịch vụ du lịch; kết hợp phát triển kinh tế biển bền vững
với đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng biển; xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo thế đứng
chân ổn định, vững chắc, sẵn sàng đối phó với các tình huống phức tạp xảy ra trên
biển; xây dựng hệ thống nhà ở, tường, kè chống xói lở trên các đảo thuộc quần đảo;
quy hoạch, triển khai xây dựng cụm công nghiệp ven biển; đẩy mạnh công tác quản
lý nhà nước về biển và công tác cải cách hành chính phục vụ phát triển kinh tế cảng
và du lịch; thiết lập các dự án, công trình nâng cao chất lượng môi trường ven biển,
cải thiện môi trường ven biển phục vụ phát triển kinh tế-xã hội mang tính bền
vững.
Hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta bước vào thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền
thiêng liêng của Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển
của dân tộc ta. Lấn biển để dựng nước và thông qua biển để giữ nước là một nét
độc đáo của dân tộc Việt Nam trong quá khứ. Đó cũng chính là nét độc đáo của bản
sắc văn hóa Việt Nam, cần được giữ vững và phát huy hơn nữa trong kỷ nguyên
mới - kỷ nguyên của khoa học - kỹ thuật, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Càng tự hào và trân trọng di sản của quá khứ, chúng ta càng phải khai thác, khơi
dậy nguồn sức mạnh của bao thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp giữ vững chủ
quyền vùng biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc hiện nay.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, Việt
Nam cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức. Các thế lực thù địch
3
chưa từ bỏ âm mưu can thiệp vào công việc nội bộ, gây mất ổn định chính trị - xã
hội, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia nước ta.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam hiện nay. Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung
đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an
ninh xã hội; duy trì trật tự kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của
đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù
địch, không để bị động, bất ngờ”.
2. Cơ sở thực tiễn
Biển đảo Việt Nam trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
chủ quyền của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều này đã được chứng
minh bằng lịch sử và các tài liệu khoa học. Các tư liệu khoa học và pháp lý được
công bố hiện nay, đều thể hiện quá trình khai phá, chiếm hữu và thực thi chủ quyền
liên tục, của Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên những năm gần đây, Trung
Quốc đã có nhiều hành động xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam: cản
trở ngư dân Việt Nam đánh bắt thủy - hải sản, tấn công các tàu Việt trên vùng biển
của chính Việt Nam, ngang ngược xây dựng thành phố Tam Sa trên quần đảo
Hoàng Sa…Những hành động nói trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm
trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; xâm
phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển của
Việt Nam; vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề
trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011; trái với tinh thần Tuyên
bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Tuyên bố cấp cao kỷ niệm 10
năm DOC, làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp.
Trước thực trạng về tình hình diễn biến ở khu vực ngày càng phức tạp, bên
cạnh đó một bộ phận không nhỏ người dân còn thờ ơ, chưa chú trọng cũng như
xem trọng việc kết hợp cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân. Vì vậy tôi nhận thấy vai trò, trách nhiệm của mình là làm
thế nào để nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ biển đảo của tổ quốc gia cho mọi
người, đặc biệt là học sinh những chủ nhân tương lai của đất nước.
Tại các đơn vị trường THPT hầu như các giáo viên giảng dạy bộ môn quốc
phòng thường giảng dạy theo kiểu thuyết trình truyền thụ kiến thức nên vấn đề về
biển đảo của Việt Nam được giáo viên giảng dạy theo cách đó dẫn đến gây nhàm
chán cho học sinh và các em chưa thấy được vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình
trong việc quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền của nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4
Vì vậy, trong quá trình giáo dục bộ môn tôi đã tìm tòi, đổi mới và sáng tạo
trong công tác giáo dục của mình. Để nâng cao nhận thức cho các em, giúp các em
nắm được một cách sâu sắc và thấy được vị trí, vai trò của mình: Qua một số tiết
học trong chương trình môn học Giáo dục An ninh- quốc phòng 11, tôi đã giáo dục
cũng như hướng dẫn các em tìm hiểu thông qua sách báo, các phương tiện thông tin
như internet, tình hình thực tế của địa phương…để tìm hiểu và từ các em nêu quan
điểm và nhận xét của mình để tổng hợp thành một báo cáo để báo cáo trước lớp.
Cùng với giảng dạy trên lớp, tôi phối hợp với các lực lượng giáo dục trong ngoài
nhà trường ( như bộ phận Đoàn thanh niên, Giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp,
Ban chỉ huy quân sự huyện….) để giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức về
việc quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền của nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Với cách giáo dục này này tôi đã giúp các em chủ động hơn, ý thức hơn và
nắm được kiến thức kĩ hơn, tốt hơn...từ đó các em thấy được thực tế vấn đề như thế
nào, để các em tích cực hơn nữa trong công cuộc cùng toàn Đảng, toàn dân tham
gia quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền của nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
III.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO
HỌC SINH TRƯỜNG THPT TÔN ĐỨC THẮNG VỀ VẤN ĐỀ
QUẢN LÝ, BẢO VỆ CÁC VÙNG BIỂN, ĐẢO THUỘC CHỦ
QUYỀN CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
1. Tăng cường giáo dục quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề
chủ quyền biển, đảo Việt Nam cho học sinh trường THPT Tôn Đức
Thắng.
Giáo dục quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề chủ quyền
biển, đảo Việt Nam cho học sinh, giúp học sinh nhìn nhận đúng đắn khách quan về
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề chủ quyền biển, đảo Việt
Nam.
Giáo dục quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề chủ quyền
biển, đảo Việt Nam cho học sinh gồm các nội dung sau:
Bảo vệ các quyền của quốc gia theo các chế độ pháp lý khác nhau, phù hợp
với luật pháp quốc tế trên các vùng biển khác nhau, trên các đảo, quần đảo và thềm
lục địa của quốc gia.
Bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
trên vùng biển quốc gia; bảo vệ những đặc quyền về bảo tồn, quản lý, thăm dò khai
thác tài nguyên thiên nhiên trên vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa của
quốc gia. Vấn đề chủ quyền và lợi ích kinh tế của nước ta trên biển có mối quan hệ
5
gắn bó chặt chẽ, mật thiết không tách rời nhau. Các hoạt động thăm dò, khai thác
tài nguyên, bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm... được xem như là một biểu hiện cụ
thể của quyền làm chủ trên các vùng biển của Nhà nước Việt Nam.
Bảo vệ chủ quyền, giữ vững hòa bình và ổn định trên các vùng biển của ta là
điều kiện tiên quyết, là tiền đề cần thiết để phát triển, khai thác biển và từng bước
tiến ra biển một cách vững chắc. Muốn khai thác được lợi ích, tiềm năng của biển,
trước hết phải làm chủ được biển, tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển để tạo
điều kiện cho phát triển kinh tế biển, đó là nội dung cấp thiết về bảo vệ biển, đảo
trong tình hình hiện nay.
Bảo vệ và giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển là công việc khó khăn và
phức tạp đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phấn đấu trên các lĩnh vực, nâng cao ý thức
của cả dân tộc về biển và làm chủ biển, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ
quyền và các quyền lợi quốc gia trên biển.
Bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội và văn hóa trên các vùng biển
Biển là môi trường mở, có điều kiện thiên nhiên khá khắc nghiệt và nhiều
biến động, thường xuyên có sự giao lưu quốc tế và từ đó các luồng văn hóa, tư
tưởng độc hại cũng dễ dàng thâm nhập vào đất liền. Hơn nữa, các quy chế pháp lý
ở mỗi vùng biển cũng khác nhau; do vậy, việc bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội
và văn hóa trên biển vô cùng phức tạp. Bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội và văn
hóa trên biển vừa mang tính chất đối nội, vừa mang tính chất đối ngoại, đồng thời
nó còn thể hiện năng lực làm chủ vùng biển quốc gia trước cộng đồng thế giới và
khu vực. Do vậy, chúng ta phải tăng cường khả năng bảo vệ an ninh, trật tự an toàn
xã hội và văn hóa trên các vùng biển, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự
nghiệp đổi mới đất nước
Nội dung chiến lược bảo vệ biển, đảo hiện nay của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam bao hàm cả bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân... bảo
vệ mục tiêu chiến lược biển đảo, bảo vệ các dự án phát triển trên các vùng biển,
phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước mạnh về biển.
Bảo vệ công cuộc lao động sản xuất, tính mạng và tài sản của nhân dân trên
các vùng biển, phòng chống thiên tai, địch họa và các rủi ro khác; bảo vệ lợi ích và
quyền công dân của người dân đã được chính sách của Đảng, Nhà nước ta thừa
nhận; bảo vệ môi trường sống, bảo vệ nhân dân được sống trong môi trường tự
nhiên, môi trường văn hóa xã hội trong sạch, lành mạnh. Mọi hoạt động kinh tế trên
vùng biển là sự thể hiện làm chủ của nhà nước Việt Nam trên các vùng biển của
mình. Các hoạt động đó chỉ có thể đạt được hiệu quả khi phát huy được vai trò lãnh
đạo của Đảng, năng lực quản lý nhà nước ở các Bộ, ngành, từ trung ương đến từng
địa phương cơ sở, vai trò làm chủ và ý thức của nhân dân làm ăn trên biển. Xây
6
dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên biển ngày càng vững chắc làm cơ sở cho
bảo đảm chủ quyền an ninh quốc gia trên biển là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, bảo vệ cuộc sống hòa bình của nhân dân.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, trong đó có sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa
của Tổ quốc. Càng trong những hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, sự lãnh đạo của Đảng
càng phải được tăng cường và chỉ có như vậy mới phát huy được cao nhất bản lĩnh,
trí tuệ, khí phách con người Việt Nam để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, mà ở
đây là bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, khi mà yêu
cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa đặt ra ngày càng cao, với nhiều tình
huống phức tạp, khó lường thì vai trò lãnh đạo của Đảng cần phải được nhận thức
đầy đủ và khẳng định trong thực tiễn. Đảng lãnh đạo thông qua đường lối, chủ
trương, phương châm, đối sách chiến lược để xử lý những vấn đề nảy sinh trong
tranh chấp chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa. Phải xây dựng các tổ chức đảng trong
các lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo, các địa phương ven biển trong
sạch, vững mạnh; đồng thời, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Nếu xa rời sự lãnh đạo của Đảng thì sự nghiệp
bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa sẽ mất phương hướng hoạt động; các đơn
vị lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ này sẽ thiếu đi sức mạnh về tư tưởng, tổ chức
và khả năng sẵn sàng chiến đấu; khi có tình huống phức tạp xảy ra sẽ lúng túng, xử
lý thiếu chính xác, hiệu quả thấp. Bởi vậy, các cấp cần làm tốt công tác tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho các đối tượng về sự cần thiết phải tăng
cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển,
đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Từ đó, đề cao trách nhiệm trong tổ chức thực hiện,
đảm bảo hiệu lực lãnh đạo của Đảng ngày càng cao trong mọi hoạt động của các tổ
chức, lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Nâng cao hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị trong thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa. Nâng cao hiệu quả công tác Đảng,
công tác chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa chính
là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ này. Bởi vậy, công tác Đảng,
công tác chính trị cần bám sát sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ, thực tiễn hoạt
động của bộ đội trên các vùng biển, đảo, nhà giàn, trực tiếp đối mặt với những hành
động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của ta để đổi mới nội dung,
hình thức hoạt động cho phù hợp. Cùng với đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền về chủ quyền biển, đảo để nhân dân Việt Nam, cộng đồng quốc tế hiểu và
nắm vững các vùng, khu vực thuộc chủ quyền lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng
như chủ quyền biển Việt Nam được xác lập trên cơ sở các điều khoản quy định
trong Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982. Đồng thời, tuyên truyền về các
điều khoản và nghĩa vụ chấp hành các quy định của luật pháp Việt Nam khi hoạt
động trong lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam; quan điểm
chủ đạo, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong thực thi quyền tài phán quốc gia
7
trên các vùng biển, đảo, quần đảo và các khu vực đặc quyền kinh tế biển. Đặc biệt,
chú trọng nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, nhất là các địa phương ven
biển và lực lượng vũ trang thấy rõ tình hình phức tạp ở Biển Đông, yêu cầu cao của
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh nước ta mở cửa, hội nhập.
Trên cơ sở đó, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức
mạnh trong nước và sức mạnh của cộng đồng quốc tế để thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Cùng với đó, công tác Đảng, công tác
chính trị phải hướng vào xây dựng tổ chức, con người vững mạnh; đẩy mạnh phong
trào Thi đua Quyết thắng; thực hiện tốt công tác dân vận, tham gia giúp dân nuôi
trồng thủy sản, phát triển kinh tế biển, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai,
góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển ngày càng vững chắc.
Tăng cường lãnh đạo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng
cường QP-AN trên biển. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta được thể hiện rõ
trong Nghị quyết Đại hội XI, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hai nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít,
hỗ trợ lẫn nhau, tạo sức mạnh để phát huy nguồn lực từ biển, xây dựng tiềm lực
quốc phòng, giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển, mở rộng giao thương quốc tế
và khu vực. Bởi vậy, các cấp, các ngành cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm
túc Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Theo đó, phát triển kinh tế biển phải tương xứng với vị thế và tiềm năng của
biển nước ta; kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng cường QP-AN, bảo vệ chủ
quyền, biển, đảo. Việc kết hợp phải được thực hiện trong từng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trên từng địa bàn; trong tăng
cường tiềm lực, lực lượng, thế trận QP-AN và nhiệm vụ, phương án, kế hoạch tác
chiến, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Để việc gắn kết hai nhiệm vụ đó mang
lại hiệu quả thiết thực, cần xây dựng các chính sách phù hợp nhằm khai thác tiềm
năng, lợi thế từ biển; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển với tăng cường
QP-AN trên biển. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để tiếp tục
xây dựng lực lượng, tổ chức điều chỉnh, bố trí và triển khai phát triển kinh tế - xã
hội trên vùng biển, đảo kết hợp với thế trận QP-AN một cách hợp lý; thúc đẩy
nhanh quá trình dân sự hóa trên biển gắn với xây dựng thế trận QP-AN, “thế trận
lòng dân” vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
Thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp
bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng
đối với chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp
bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Đảng cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo
đối với từng nhiệm vụ, từng lực lượng và trong từng tình huống. Trước hết, là đổi
mới nội dung, phương pháp, hình thức, phong cách lãnh đạo nhằm hiện thực hóa
chủ trương, đường lối, quan điểm, mục tiêu của Đảng trong bảo vệ chủ quyền biển,
đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Các tổ chức đảng cần chú trọng thực hiện tốt công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, rút ra những bài học trong lãnh đạo, chỉ
8
đạo nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, nhất là trong những tình huống khó
khăn, phức tạp. Đây cũng là cơ sở để hiện thực hóa đường lối, chủ trương sát đúng
với sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ. Đồng thời, tìm ra phương pháp lãnh đạo
phù hợp trong từng thời điểm và đổi mới phong cách lãnh đạo phải theo hướng phát
huy vai trò của cấp ủy, cán bộ chủ trì, đề cao trách nhiệm đội ngũ cán bộ, đảng
viên, thường xuyên sâu sát, nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, giải quyết có
hiệu quả những vấn đề phức tạp nảy sinh. Thực hiện nghiêm Quy chế Dân chủ cơ
sở, phát huy vai trò của hệ thống chính trị, quan tâm bảo đảm tốt chế độ, chính
sách, đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và các lực lượng làm nhiệm vụ quản
lý, bảo vệ biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
2. Giáo dục cho học sinh hiểu rõ các lực lượng làm nhiệm vụ quản lý,
bảo vệ biển, đảo Việt nam của nhà nước ta trong thời gian qua.
Để bảo vệ, quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản, bảo vệ cuộc sống làm
ăn bình thường của nhân dân ta trên các vùng biển đồng thời thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ quốc tế của một quốc gia ven biển, Việt Nam đã tổ chức, duy trì thường
xuyên các lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ và quản lý, giữ vững trật tự, an ninh trên
các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của nước ta.
Công tác quản lý, bảo vệ và giữ vững chủ quyền biển, đảo của Việt Nam là
nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, mà không phải là
trách nhiệm của riêng một lực lượng nào. Trách nhiệm quản lý, bảo vệ các vùng
biển Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, như Luật
Biên giới quốc gia (Điều 31, 36, 37), Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng (Điều 1), Nghị
định số 140/2004/NĐ-CP ngày 25/6/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Biên giới quốc gia (Điều 26 đến Điều 32); Nghị định
161/2003/ NĐ-CP ngày 18/12/2003 của Chính phủ về Quy chế khu vực biên giới
biển (Điều 22)...
Điều 9 Nghị định 161/2003/ NĐ- CP của Chính phủ quy định: “Quản lý, bảo
vệ biên giới quốc gia trên biển, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội trong khu vực
biên giới biển là trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng
vũ trang, chính quyền địa phương và mọi công dân”.
Nghị định 30-CP ngày 29/01/1980 của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính
phủ) đã quy định Quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển
của Việt Nam. Điều 21, Chương III đã nêu: việc kiểm soát trên biển của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được giao cho các lực lượng: Hải quân nhân dân và
các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ bảo vệ các đảo; Bộ đội Biên
phòng Việt Nam; Cảnh sát nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ tuần tra trên biển; Các
lực lượng nửa vũ trang trên các thuyền vận tải và tàu thuyền đánh cá của Việt Nam
được trao trách nhiệm kiểm soát theo từng yêu cầu công tác và có mang dấu hiệu rõ
ràng; và Các lực lượng kiểm soát chuyên môn của các ngành: Hải quan, Y tế, Kiểm
dịch làm nhiệm vụ kiểm soát từng mặt công tác của ngành mình.
9
Cần lưu ý, một số nội dung của Nghị định 30-CP ngày 29/01/1980 trái với
quy định của Luật Biên giới quốc gia thì bị bãi bỏ; Điều 40 Luật Biên giới quốc gia
năm 2003 quy định: “Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2004;
Những quy định trước đây trái với Luật này đều bãi bỏ”. Theo khoản 5 Điều 111
Công ước luật biển năm 1982 quy định: “Quyền truy đuổi chỉ có thể được thực
hiện bởi các tàu chiến hay các phương tiện quân sự hoặc các tàu hay phương tiện
bay khác có mang các dấu hiện ở bên ngoài chỉ rõ ràng rằng, các tàu hay phương
tiện bay đó được sử dụng cho một cơ quan nhà nước và được phép làm nhiệm vụ
này”. Như vậy, lực lượng tuần tra kiểm, soát trên biển phải là lực lượng vũ trang
(quân đội, công an) hoặc của lực lượng khác được Nhà nước trao quyền nhưng phải
phù hợp với quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ví
dụ: Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc ký ngày
25/12/2000 quy định Lực lượng kiểm soát của Việt Nam bao gồm: Cảnh sát biển, Bộ
đội Biên phòng, Hải quân, Thanh tra bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.
Quyết định số 13-HĐBT ngày 11/2/1986 của Hội đồng Bộ trưởng đã nhấn
mạnh việc tăng cường công tác bảo vệ chủ quyền và an ninh các vùng biển và thềm
lục địa Việt Nam. Tại Mục II Quyết định này đã phân công phạm vi tuần tra kiểm
soát trên các vùng biển và thềm lục địa như sau: Bộ đội Hải quân phụ trách chủ yếu
là vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
Việt Nam; Bộ đội Biên phòng phụ trách vùng nội thuỷ, lãnh hải và làm nòng cốt
trong hoạt động của dân quân, tự vệ trên biển; Lực lượng Công an nhân dân phụ
trách việc bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên biển, các bến đậu,
các nơi trung chuyển, các bến bãi bốc dỡ hàng hoá dân sự, các công trình nổi trên
biển, các cửa sông lớn; và lực lượng của Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thuỷ sản (nay
là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn), Tổng công ty Dầu khí (nay là Tập
đoàn Dầu khí quốc gia), Hải quan… không ấn định phạm vi phụ trách riêng.
Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong việc duy trì và bảo vệ pháp
luật trên các vùng biển và thềm lục địa, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh số
03/2008/PL-UBTVQH12 ngày 26/01/2008 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam (trước đó là Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển
Việt Nam ngày 28/3/1998). Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam năm
2008 đã quy định: Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách
của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm
việc chấp hành pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên trên các vùng biển và thềm lục địa của
Việt Nam. Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam hoạt động theo quy định của Pháp
lệnh này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam (Điều 1); Lực lượng Cảnh
sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân của Việt Nam, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý
thống nhất của Chính phủ. Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý và điều hành hoạt
động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam (Điều 2); và Lực lượng Cảnh sát biển
10
Việt Nam hoạt động trên các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam. Trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có trách
nhiệm thực hiện, phối hợp với các lực lượng khác thực hiện nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật. Quy chế phối hợp hoạt động, trách nhiệm cụ thể của các lực
lượng do Chính phủ quy định (Điều 3). Các nội dung nói trên của Pháp lệnh lực
lượng Cảnh sát biển Việt Nam năm 2008 đã kế thừa Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát
biển Việt Nam năm 1998, nhưng có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình và
nhiệm vụ mới của Tổ quốc trong việc quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo và
thềm lục địa Việt Nam.
Để quản lý và bảo vệ khu vực biên giới biển, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số161/2003/NĐ-CP ngày 18/12/2003 quy định về Quy chế khu vực biên giới
biển. Theo đó, khu vực biên giới biển đã được quy chế hóa như sau:
Một là, Chính phủ thống nhất chỉ đạo các hoạt động quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia trên biển và duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong khu vực biên
giới biển; Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an thống nhất hướng dẫn
chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các cấp ven biển tổ chức quản lý, bảo vệ biên giới quốc
gia, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới biển theo quy
định của pháp luật; Bộ Ngoại giao chỉ đạo, hướng dẫn các Bộ, ngành, Ủy ban nhân
dân các cấp thực hiện chính sách xây dựng biên giới, các điều ước quốc tế về biên
giới mà Việt Nam đã ký kết với các nước hữu quan. Phối hợp với Bộ Quốc phòng
hướng dẫn Bộ đội Biên phòng thực hiện nhiệm vụ đối ngoại và giải quyết công
việc liên quan đến hai bên biên giới; Bộ Công an chỉ đạo, hướng dẫn các Bộ,
ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp bảo vệ an ninh khu vực biên giới biển; gắn an ninh
biên giới với an ninh nội địa. Phối hợp với Bộ Quốc phòng chỉ đạo, hướng dẫn Bộ
đội Biên phòng thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự và đấu tranh phòng,
chống tội phạm ở khu vực biên giới biển; Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý
nhà nước về biên giới quốc gia, phối hợp với Bộ Quốc phòng chỉ đạo, hướng
dẫn Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc
gia, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới biển theo quy
định của pháp luật; Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ của mình,
thực hiện quản lý nhà nước về biên giới quốc gia theo quy định của Chính phủ,
hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Quốc phòng và các Bộ, ngành chức năng. Xây dựng
quy hoạch sản xuất gắn với quy hoạch dân cư, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân ở khu vực biên giới; kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh
tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới biển.
Chỉ đạo các lực lượng, ban, ngành ở địa phương phối hợp với Bộ đội Biên phòng
trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự ở khu
vực biên giới biển thuộc địa phương quản lý (Điều 22);
11
Hai là, Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách chủ trì, phối
hợp với lực lượng Công an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa
phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên biển, giữ gìn an
ninh, trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới biển; Trong khu vực biên giới
biển, Bộ đội Biên phòng và các lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia
được bố trí lực lượng, phương tiện, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng các
loại phương tiện, vũ khí, khí tài, kỹ thuật quân sự, công cụ hỗ trợ và xây dựng các
công trình phục vụ nhằm quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên biển, giữ gìn an
ninh, trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới biển (điều 23).
Trên cơ sở Nghị định số 161/2003/NĐ-CP ngày 18/12/2003 của Chính phủ
quy định về Quy chế khu vực biên giới biển, Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư
số 89/2004/TT-BQP ngày 19/6/2004 để hướng dẫn thực hiện Nghị định nói trên.
Theo đó, tại mục 1 phần III của Thông tư này đã nhấn mạnh: Bộ đội Biên phòng là
lực lượng nòng cốt chuyên trách, chủ trì phối hợp với các lực lượng quân đội, công
an, cảnh sát biển, hải quan và các lực lượng liên quan khác trong việc thực hiện
nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên biển.
Như vậy, các lực lượng chuyên trách bảo đảm an ninh, quốc phòng trên biển
bao gồm: Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng và Hải quân, hoạt động phối hợp giữa
các lực lượng này sẽ do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định. Các lực lượng kiểm
tra, kiểm soát chuyên ngành gồm: Kiểm ngư, Thanh tra giao thông, Hải quan,
Thanh tra môi trường, Y tế và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam v.v...
Hiện nay, nhiều Bộ, ngành có liên quan trực tiếp và có chức năng về quản lý
biển. Ví dụ như, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Giao thông vận
tải, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học Công nghệ, Tổng Cục Hải quan,
Bộ Thông tin và Truyền thông, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Ủy ban
Quốc gia tìm kiếm - cứu nạn, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan vv...
Nhiệm vụ của các lực lượng tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Việt Nam
Tham gia quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo và thềm lục địa, Đảng và
Nhà nước ta đã giao cho nhiều cơ quan, tổ chức đảm nhiệm trọng trách quan trọng
này trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Điều đó đã được quy định cụ thể trong
nhiều văn bản pháp luật.
Nghị định 30-CP ngày 29/01/1980 của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính
phủ) về quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của Việt
Nam. Tại Điều 22 Nghị định này đã quy định nhiệm vụ cho các lực lượng kiểm
soát trên các vùng biển của Việt Nam, đó là bảo vệ chủ quyền và các quyền của
Việt Nam trên các vùng biển, chống lại mọi âm mưu và hành động xâm phạm dưới
12
mọi hình thức các vùng biển và thềm lục điạ Việt Nam (điểm a); Giám sát, kiểm
soát các tàu thuyền nước ngoài hoạt động trong nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp
lãnh hải Việt Nam, trong việc chấp hành nghị định này và các luật lệ, quy định hiện
hành về hải quan, y tế, tài chính, xuất cảnh, nhập cảnh, di cư, nhập cư, ...của Việt
Nam (điểm b); Giúp đỡ các cơ quan khác có nhiệm vụ quản lý trên biển thực hiện
tốt chức năng kiểm soát đã được Nhà nước giao phó (điểm c).
Theo Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam năm 2008, lực lượng cảnh
sát biển Việt Nam có các nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, trong nội thủy, lãnh hải và vùng nước cảng biển của Việt Nam, lực
lượng Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát theo quy định của
pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên để
bảo vệ chủ quyền; giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn; bảo vệ tài nguyên, phòng, chống
ô nhiễm môi trường; phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống các hành vi buôn lậu,
vận chuyển trái phép và mua bán người, vận chuyển, mua bán trái phép hàng hoá,
vũ khí, chất nổ, chất ma tuý, tiền chất và các hành vi vi phạm pháp luật khác (Điều
6);
Hai là, trong vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát
theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt
Nam là thành viên để bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán; bảo vệ tài nguyên,
phòng, chống ô nhiễm môi trường; phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh chống các
hành vi buôn lậu, cướp biển, cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền, vận chuyển trái
phép và buôn bán người, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma tuý…(Điều
7);
Ba là, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp
luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên để góp
phần giữ gìn an ninh, trật tự, hòa bình và ổn định trên các vùng biển (Điều 8).
Ngoài ra, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ thu thập, tiếp nhận
thông tin, xử lý kịp thời và thông báo cho cơ quan chức năng có liên quan theo quy
định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là
thành viên; tham gia tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục sự cố trên biển, và thực hiện các
hoạt động bảo vệ môi trường, tổ chức ứng phó sự cố môi trường biển (điều 9),phối
hợp với các lực lượng khác bảo vệ tài sản của nhà nước, tính mạng tài sản của
người và phương tiện hoạt động hợp pháp trên các vùng biển và thềm lục địa Việt
Nam, phối hợp với các đơn vị khác của lực lượng vũ trang để bảo vệ chủ quyền, an
ninh quốc gia trên các hải đảo, vùng biển thuộc lãnh thổ của Việt Nam và quyền
chủ quyền trên vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
13
Nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát biển theo Pháp lệnh năm 2008 nói trên
cũng đã được ghi nhận trong Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam năm
1998, nhưng đã được điều chỉnh và tăng thêm chức năng nhiệm vụ cho phù hợp với
tình hình biển, đảo Việt Nam hiện nay.
Tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam còn có lực lượng Bộ
đội Biên phòng. Theo Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997 quy định thì Bộ đội
Biên phòng là lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng, của Nhà nước Việt Nam, là
một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt, chuyên trách quản
lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất
liền, các hải đảo, vùng biển... Bộ đội Biên phòng có nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát
bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia trên biển theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Nghị định 25/2008/NĐ-CP ngày 04/3/2008 của Chính phủ quy định về chức
năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Theo đó,
Nghị định đã quy định Chính phủ giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện
chức năng quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và các hải đảo (Điều 1).
Theo nội dung của Luật Dân quân tự vệ năm 2009 (số 43/2009/QH12 ngày
23/11/2009) thì trong thành phần của dân quân tự vệ bao gồm cả dân quân tự vệ
biển (điểm c); dân quân tự vệ có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục
vụ chiến đấu để bảo vệ địa phương, cơ sở; phối hợp với các đơn vị Bộ đội Biên
phòng, Hải quân, Cảnh sát biển và lực lượng khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia và chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam (khoản
1, Điều 8); dân quân tự vệ có quy mô tổ chức.... cấp xã ven biển, xã đảo tổ chức
tiểu đội, trung đội dân quân biển (điểm b, Điều 18), Cơ quan, tổ chức tổ chức tiểu
đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn tự vệ. Cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động
trên biển tổ chức tiểu đội, trung đội, hải đội, hải đoàn tự vệ biển (điểm c, Điều 18);
Thông tư số 89/2004/TT-BQP ngày 19/6/2004 của Bộ Quốc phòng về việc
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 161/2003/NĐ-CP ngày 18/12/2003 của Chính
phủ quy định về Quy chế khu vực biên giới biển, đã nhấn mạnh đến các vấn đề:
tuần tra, kiểm soát phát hiện, ngăn chặn, bắt giữ và xử lý những cá nhân, tổ chức
Việt Nam và nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc các điều ước quốc tế mà
Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; đăng ký, quản lý, kiểm tra người, tàu thuyền ra vào
các bến bãi, khu vực neo đậu làm ăn, sản xuất kinh doanh và các hoạt động dịch vụ
khác ở khu vực biên giới biển; quản lý, duy trì an ninh, trật tự an toàn tại các bến
bãi, khu vực neo đậu của tàu thuyền Việt Nam và nước ngoài ở khu vực biên giới
biển.
3. Giáo dục cho học sinh tình hình quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua.
14
Giáo dục tình hình quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo; những thành tựu
quan trọng trong các lĩnh vực liên quan đến biển của Việt Nam từ 1986 đến nay cho
HS thấy được vai trò, vị trí cũng như tầm quan trọng của bảo vệ chủ quyền biển,
đảo của nhà nước ta.
Các ngành và địa phương
Các ngành và địa phương đã tích cực xây dựng nhiều chiến lược, quy hoạch
phát triển các ngành, lĩnh vực liên quan đến biển. Thực hiện các chủ trương của
Đảng (Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 22/9/1997 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát
triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá), chấp hành Chỉ thị
399/TTg của Thủ tướng Chính phủ, các ngành, các địa phương đã tiến hành quy
hoạch, trong đó rõ nhất là quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm
2010, các quy hoạch chuyên ngành thủy sản (khai thác xa bờ, nuôi tôm và hải sản ở
các vùng đồng bằng sông Hồng, miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long, thủy lợi
phục vụ nuôi trồng thủy sản ở bán đảo Cà Mau, quy hoạch thông tin cứu nạn ngành
thủy sản...); chiến lược phát triển ngành dầu khí; quy hoạch phát triển ngành tàu
thủy; các quy hoạch về phát triển cảng, tìm kiếm cứu nạn, v.v... Đến nay, các tỉnh
ven biển đều có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, trong đó, có nội
dung định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực về biển. Ngoài ra, đã tiến hành một
số quy hoạch liên quan đến phát triển kinh tế biển như quy hoạch phát triển các đảo
Phú Quốc, Phú Quý, Côn Đảo; quy hoạch phát triển một số khu kinh tế ven biển
như Vân Phong, Cam Ranh, Chân Mây, Chu Lai, Nhơn Hội…
Quy mô kinh tế biển và vùng ven biển
Quy mô kinh tế biển và vùng ven biển tăng lên, cơ cấu ngành, nghề có thay đổi
cùng với sự xuất hiện ngành kinh tế mới như khai thác dầu khí, tìm kiếm cứu hộ
cứu nạn... Năm 2000, GDP của kinh tế biển và vùng ven bằng 47% GDP cả nước.
Năm 2005, GDP của kinh tế biển và vùng ven biển bằng hơn 48% GDP cả nước,
trong đó, GDP của kinh tế biển chiếm khoảng gần 22% tổng GDP cả nước.
Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của ngành kinh tế diễn ra trên biển
chiếm tới 98%, trong đó, khai thác dầu khí chiếm 64%; hải sản 14%; hàng hải (vận
tải biển và dịch vụ cảng biển) 11%; du lịch biển trên 9%. Các ngành kinh tế có liên
quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí,
chế biến thuỷ, hải sản, thông tin liên lạc, v.v... bước đầu phát triển.
Nhiều ngành kinh tế biển phát triển mạnh so với thời điểm trước năm 1993
(năm có Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế biển). Ví dụ, năm 2005
ngành dầu khí đã khai thác 18,6 triệu tấn dầu thô và 6,6 tỉ m 3 khí. Sản lượng khai
thác hải sản năm 2005 đạt 1,8 triệu tấn. Ngành du lịch biển cũng phát triển mạnh,
thu hút hàng năm 73% số lượt khách du lịch quốc tế trong cả nước, đạt tốc độ tăng
bình quân gần 13%/năm.
Các vùng biển và ven biển
15
Các vùng biển và ven biển có đóng góp lớn vào xuất khẩu, thu ngoại tệ. Năm
2005, ngành dầu khí đã đóng góp trên 7 tỉ USD cho xuất khẩu, tăng hơn năm 2004
gần 1,33 tỉ USD; nộp ngân sách nhà nước trên 50.000 tỉ đồng, tăng 1.850 tỉ đồng so
với năm 2004. Hải sản xuất khẩu chính ngạch (gồm cả đánh bắt hải sản và nuôi
trồng) năm 2005 đạt hơn 2,6 tỉ USD. Các ngành khác như vận tải biển, đóng sửa
chữa tàu biển, xuất khẩu thuyền viên, v.v... đã đóng góp cho sự phát triển chung
của đất nước.
Công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên và, môi trường biển
Công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên và, môi trường biển đã được
quan tâm tốt hơn.Hiện nay, các kết quả điều tra nghiên cứu về biển đã cung cấp
được sự hiểu biết khái quát về các đặc trưng về điều kiện tự nhiên chủ yếu của
biển. Hệ thống pháp luật, các quy phạm về công tác điều tra tài nguyên, quản lý
môi trường biển đã được xây dựng.
Về việc hình thành các trung tâm phát triển để ra biển
Trong quá trình phát triển kinh tế mở, bước đầu đã hình thành các trung tâm
phát triển để ra biển. Đến nay, trên các vùng biển đã có các trung tâm kinh tế biển
như các thành phố Hạ Long, Hải Phòng (vùng biển Bắc Bộ); Huế, Đà Nẵng, Nha
Trang - Cam Ranh (vùng biển miền Trung); Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh
(vùng biển phía Nam) và Rạch Giá, Cà Mau, khu kinh tế đảo Phú Quốc (vùng biển
phía Tây Nam). Đây là những khu vực đã có sự phát triển tổng hợp các ngành,
nghề biển như hậu cần nghề cá; công nghiệp gắn với cảng; cảng biển và vận tải
biển, du lịch biển, nghiên cứu khoa học về biển, v.v...
Những phát triển mới ở một số hải đảo
Ở một số hải đảo đã có bước phát triển mới. Hiện nay, ở những đảo có điều
kiện phát triển đều có dân cư, kết cấu hạ tầng được tăng lên rõ rệt nhờ nguồn vốn
Biển Đông - hải đảo (hình thành hệ thống giao thông trên đảo, nhiều đảo gần bờ có
điện lưới, các đảo xa bờ có máy phát điện, một số đảo sử dụng điện mặt trời, trên
các đảo đã xây dựng các cơ sở cung cấp nước ngọt). Vai trò kinh tế của các đảo
tăng lên rõ rệt, nhiều đảo đã phát triển mạnh nghề cá, đặc biệt là đánh bắt xa bờ,
phát triển du lịch, bảo vệ và phát triển rừng, v.v. Tương lai có nhiều đảo như Vân
Đồn, Cát Hải, Côn Đảo, Phú Quốc... sẽ phát triển thành những trung tâm để ra
biển.
Về công tác đối ngoại liên quan đến biển
Công tác đối ngoại liên quan đến biển đã đạt được một số kết quả quan
trọng. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết một số thỏa thuận trên biển với các nước
láng giềng: Hiệp định vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia (l982), Thỏa thuận
khai thác chung vùng chồng lấn thềm lục địa Việt Nam - Malaysia (l992), Hiệp
định về phân định ranh giới biển Việt Nam - Thái Lan (l997), Hiệp định phân định
lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa Việt
16
Nam - Trung Quốc ký kết năm 2000 (Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn
Hiệp định này ngày 15/6/2004) và Hiệp định phân định thềm lục địa Việt Nam Indonesia (2003). Ngoài ra, Việt Nam cũng mở diễn đàn trao đổi về vấn đề chủ
quyền hai quần đảo với Philippin (1995), Trung Quốc (1995) và Malaysia, tham gia
ký kết các văn kiện mang tính chất khu vực về Biển Đông, triển khai một số dự án
hợp tác song phương và đa phương với các nước liên quan, trong đó có dự án
nghiên cứu khoa học biển Việt Nam - Philippin (JOMSRE).
Về quốc phòng, an ninh trên biển
Nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trên biển được bảo đảm. Việt Nam đã đàm
phán giải quyết phân định ranh giới về biển giữa nước ta với một số nước có biển
trong khu vực; các lực lượng an ninh đã thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý và bảo vệ
chủ quyền trên biển. Ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển của người dân
được nâng lên rõ rệt.
Công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Nhà nước ta trong thời
gian qua
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của Luật biển quốc tế và trật tự
pháp lý quốc tế mới trên các vùng biển, Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam
đã ban hành nhiều nghị quyết, luật, pháp lệnh, nghị định, tuyên bố khẳng định chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và thềm
lục địa Việt Nam; đề ra các chính sách, biện pháp tăng cường phát triển kinh tế biền
và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Chính quyền và Đảng bộ các cấp, các lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển,
Biên phòng, Dân quân tự vệ biển và các ngành khác đã thường xuyên tổ chức học
tập, giáo dục về đường lối chính sách, luật pháp, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên
các vùng biển Việt Nam; đồng thời độc lập hoặc phối hợp với các lực lượng liên
quan tiến hành tuần tra, kiểm soát bảo đảm việc thực hiện và thi hành các văn bản
luật pháp hiện hành, duy trì trật tự và an ninh, góp phần quản lý, bảo vệ tốt chủ
quyền biển, đảo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong những năm qua, các lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý,
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam đã tích cực tuần tra, kiểm soát trên các
vùng biển. Đã xua đuổi, bắt giữ nhiều tàu thuyền của nước ngoài xâm phạm vùng
biển đánh bắt hải sản, nghiên cứu, thăm dò dầu khí…. phát hiện, xử lý nhiều vụ vi
phạm về an ninh, trật tự trên các vùng biển như: vi phạm các nội dung hợp đồng
liên doanh, buôn lậu, cướp biển, dùng chất nổ, chất độc hại đánh cá, tranh chấp ngư
trường… từng bước lập lại kỷ cương trên biển; phát hiện và thường xuyên nắm tình
hình trên các vùng biển, giúp chính phủ đánh giá đúng tình hình nhằm phục vụ cho
công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển
và xác lập kế hoạch bảo vệ, quản lý, phát triển kinh tế biển; đề xuất với chính phủ
sửa đổi, ban hành, bổ sung nhiều văn bản góp phần tăng cường khả năng quản lý
17
biển, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế chủ động, tích cực phát triển và khai thác
tiềm năng của biển, cho các nước bạn bè an tâm hợp tác, liên doanh liên kết làm ăn
với Việt Nam.
4. Giáo dục nâng cao nhận thức cho học sinh trường THPT Tôn Đức
Thắng công ước LHQ về Luật biển 1982, DOC, COC....
Nội dung giáo dục chú trọng vào các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về biển, đảo, Luật Biển Việt Nam, Chiến lược Biển Việt Nam đến
năm 2020, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các Hiệp định đã ký
kết về phân định ranh giới trên biển giữa nước ta với các nước có liên quan, Tuyên
bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC),… Qua đó, thống nhất nhận
thức, tạo sự chuyển biến tích cực về ý thức, trách nhiệm của học sinh trong nhà
trường về công tác giáo dục, tuyên truyền biển, đảo.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống, khơi dậy lòng yêu nước
chân chính, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân”,
củng cố niềm tin của học sinh đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước; nâng cao nhận thức chính trị, ý thức chấp hành pháp luật Việt Nam, pháp luật
quốc tế về biển trong HS của nhà trường… Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, động viên, cổ vũ học sinh tích cực
hưởng ứng các hoạt động hướng về biển, đảo và tham gia quản lý, bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc; đồng thời, không để cho các thế lực thù địch lợi dụng
tình hình căng thẳng ở Biển Đông có các hành động kích động chống phá.
5. Tuyên truyền, phổ biến về vấn đề biển, đảo Việt Nam cũng như các:
Hiến pháp 2013, Luật Biển 2012 và các Nghị quyết của Quốc hội,
Chính phủ về vấn đề biển, đảo Việt Nam cho học sinh
Công tác tuyên truyền biển, đảo cần bám sát thực tiễn tình hình, không
ngừng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyên truyền phù
hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng, đồng thời tận dụng có hiệu quả các
phương tiện kỹ thuật và chú trọng mở rộng phạm vi tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển đòi hỏi có sự phối
hợp đồng bộ giữa Ban Giám hiệu, Đoàn trường và tổ của nhà trường kết hợp lực
lượng giáo dục ngoài nhà trường ( Ban chỉ huy quân sự huyện) phải có sự chỉ đạo
thống nhất, chặt chẽ về nội dung và phương pháp tuyên truyền. Nội dung tuyên
truyền phải đa dạng và phong phú trên các phương tiện thông tin của nhà trường,
lồng ghép chặt chẽ giữa các hoạt động ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp, giờ
chào cờ đầu tuần, mời Ban chỉ huy quân sự huyện trong các buổi nói chuyện sinh
hoạt ngoại khóa...về vấn đề biển đảo Việt Nam trong HS của trường THPT Tôn
Đức Thắng. Qua đó, học sinh của trường hiểu và nắm vững các vùng, khu vực
thuộc chủ quyền lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ quyền biển Việt Nam
18
được xác lập trên cơ sở các điều khoản quy định trong Công ước quốc tế về Luật
Biển 1982, Hiến pháp 2013, Luật Biển 2012.
Tuyên truyền về các điều khoản và nghĩa vụ cần phải chấp hành các quy định
của luật pháp Việt Nam khi hoạt động hoặc tham gia giao thông trong phạm vi lãnh
hải, các vùng nội thuỷ, vùng đảo, quần đảo và khu vực đặc quyền kinh tế trên biển
Việt Nam; về các quan điểm chủ đạo và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt
Nam trong thực thi quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo, quần đảo và
các khu vực đặc quyền kinh tế biển. Tuyên truyền, giáo dục cho HS nhận thức rõ
tính chất phức tạp của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh mở cửa,
hội nhập quốc tế; khẳng định, củng cố niềm tin cho nhân dân cả nước, cộng đồng
quốc tế về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; làm
chuyển biến ý thức, trách nhiệm của mỗi học sinh… Qua đó phát huy sức mạnh của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh
trong và ngoài nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của
Tổ quốc.
Công tác tuyên truyền phải được tiến hành sâu rộng trong và ngoài nhà
trường, phải gắn kết giữa lịch sử với hiện tại để học sinh thấy được ý nghĩa và tầm
quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; làm cho
mỗi học sinh của trường thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với chủ
quyền biển, đảo quốc gia. Từ đó đoàn kết, chung sức đồng lòng quyết tâm làm chủ,
bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Nhà trường cần thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động giáo dục ngoại khóa,
kết hợp cùng thời gian lên lớp với các hình thức truyền tải nội dung đa dạng, phong
phú, hấp dẫn khác nhau nhằm thu hút đông đảo học sinh tham gia. Các nội dung để
tuyên truyền chủ yếu là giới thiệu về vùng biển chủ quyền của Việt Nam bao gồm
các vùng nước theo luật biển Quốc Tế như Vùng Nội thủy, vùng Lãnh hải, vùng
Tiếp giáp lãnh hải, vùng Đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Giới thiệu về hệ thống
các đảo lớn (huyện đảo) và các quần đảo. Điều kiện kinh tế xã hội, đặc điểm dân
cư, cuộc sống thường ngày của người dân trên các đảo.
Có thể tiến hành các phương pháp như: tổ chức các hội thi đố vui để học; thi
văn nghệ hát về biển, đảo; thi vẽ tranh với chủ đề Biển, đảo; tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu kiến thức về biển, đảo theo hình thức viết, trắc nghiệm với chính sách
động viên, khen thưởng hấp dẫn thi kể chuyện; hùng biện với chủ đề biển, đảo…
nhằm tạo sân chơi sôi nổi, hấp dẫn và lôi cuốn đa số học sinh toàn trường tham gia.
6. Nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh
19
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị - xã hội của
thanh niên Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam sáng
lập, lãnh đạo và rèn luyện. Tổ chức đoàn chính là trường học cộng sản của thanh
niên Việt Nam, là người đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi của tuổi trẻ.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới
cũng như khu vực đã tác động mạnh mẽ đến thế hệ trẻ. Những tác động đó đã ảnh
hưởng không nhỏ đến một bộ phận thanh niên học sinh làm cho các bạn hoang
mang dao động về lý tưởng, mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, nghi ngờ con
đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Bên cạnh đó
âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang chĩa mũi nhọn vào
nước ta nhằm lôi kéo, tha hóa học sinh, bằng lối sống thực dụng, buông thả, ích kỉ,
chỉ có biết đồng tiền và hưởng thụ, dẫn đến dễ bị mắc vào các tệ nạn xã hội và cao
hơn nữa là vi phạm pháp luật.
Trước những tình hình đó đòi hỏi tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phải
nhanh chóng đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động để tập hợp, động viên, rèn
luyện và định hướng hoạt động cho HS nhằm phát huy hơn nữa vai trò của HS
trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Nội dung hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phải phong phú, thiết
thực, sinh động... mục tiêu là giáo dục cho học sinh sống và làm việc theo nội quy,
quy định của trường, theo pháp luật, theo bản sắc văn hoá đân tộc; làm cho HS
thấm nhuần quan điểm: Đảng, đất nước, dân tộc có quan hệ chặt chẽ với chế độ xã
hội chủ nghĩa; từ đó họ phải kiên định với con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đã vạch ra.
Bằng nhiều hình thức, thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng để HS tự
xác định cho mình về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình.
Ban Giám hiệu nhà trường cần quan tâm tạo mọi điều kiện về vật chất và
tinh thần cho tổ chức Đoàn của trường hoạt động.
2. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Môn GDQP-AN là môn học còn khá mới mẻ với các em, một số nội dung
trong mộn học còn khô khan, tài liệu tham khảo và mở rộng kiến thức cho giáo
viên và học sinh còn hạn chế. Vì vậy, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư, tìm tòi, học hỏi
để có thể mang đến cho các em một luồng sinh khí mới trong mỗi tiết học, giúp các
em có thể chủ động nắm bắt những kiến thức cơ bản nhất.
Chính vì vậy, tôi đã để các học sinh của mình chủ động tìm hiểu để nắm bắt,
xử lí những thông tin từ internet, báo đài cũng như thực tế của đất nước. Mặc dù
thời gian đầu cũng gặp phải một số khó khăn vì các em vẫn chưa quen với cách làm
việc mới của tôi. Nhưng sau đó, tôi thấy các em mạnh dạn hơn, yêu thích hơn, sáng
tạo hơn, thoải mái hơn khi đến tiết học vì thông qua đó các em có thể tự do phát
20
biểu ý kiến, nói lên suy nghĩ, cảm nhận của mình về các vấn đề mà các em đã được
biết, đã được tìm hiểu.
Từ kết quả khảo sát thực tế cho thấy, có đến 90% các em thích thú với việc
tự mình tìm hiểu thực tế và kết quả học tập của các em cũng cải thiện rõ rệt. Dưới
đây là kết quả thống kê của tôi đối với những em giáo dục nhận thức bảo vệ biển
đảo Việt Nam so với những em chưa được triển khai ở các năm học trước. Sau khi
các em tìm hiểu, viết báo cáo và thực hiện báo cáo về nội dung mình từ những báo
cáo của các em tôi đã sử dụng kiến thức tìm kiếm được của các em, để các em vận
dụng vào bài kiểm tra.
Nội dung kiểm tra kiến thức các em học sinh lớp 11 về bảo vệ biển đảo
Việt Nam
* Câu hỏi 1: Em hãy kể tên các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam? Là công dân Việt Nam thì em sẽ làm gì khi có
sự xâm phạm đến các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền của nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam?
* Câu hỏi 2: Em có nhận định như thế nào về việc Trung Quốc chiếm đóng
trái phép trên quần đảo Hoàng Sa của đất nước ta?
Kết quả đánh giá bằng điểm số sau khi các em làm bài tôi ghi nhận sau
đây:
Kết
Lớp
quả
bài
kiểm
tra của
các em 11a
NH:
2015- 11b2
2016
11b3
Sĩ số
học
sinh
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
38
6
16%
7
18%
25
64%
0
0%
36
4
11%
6
17%
26
72%
0
0%
35
2
6%
4
11%
29
83%
0
0%
11b4
37
5
14%
6
16%
26
70%
0
0%
11b5
34
4
12%
5
15%
25
73%
0
0%
180
21
12%
28
16%
131
73%
0
0%
Tổng cộng
21
Kết
Lớp
quả
bài
kiểm
tra của
các em 11a
NH:
2016- 11b2
2017
11b3
Sĩ số
học
sinh
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
39
11
28%
7
18%
21
54%
0
0%
32
10
31%
14
44%
8
25%
0
0%
35
13
37%
11
31%
11
32%
0
0%
11b4
36
10
28%
13
36%
13
36%
0
0%
11b5
35
9
26%
13
37%
13
37%
0
0%
177
53
30%
58
33%
66
37%
0
0%
Tổng cộng
Từ kết quả trên so sánh với kết quả dưới đây, khi các em được giáo dục nhận
thức về biển đảo thì kết quả khả quan hơn rất nhiều. Tỉ lệ học sinh khá, giỏi tăng
cao, cụ thể năm học 2015 – 2016 (chưa tổ chức giáo dục nhận thức về biển – đảo)
so với năm học 2016 – 2017 tỉ lệ học sinh giỏi tăng từ 12% lên 30% học sinh khá
từ 16% lên 33%, học sinh trung bình giảm từ 73% xuống còn 37%, từ kết quả
này đã cho tôi thấy được phương pháp mới này giúp các em lĩnh hội tốt hơn kiến
thức môn học. Đây cũng là điểu khích lệ, động viên tinh thần tôi rất nhiều, cũng
như tạo động lực cho tôi không ngừng tìm tòi, học hỏi, nâng cao tính sáng tạo… để
những gì truyền đạt đến học sinh đạt kết quả tốt nhất và cao nhất .
Qua những sáng tạo để phát huy những thuận lợi và khắc phục những khó
khăn trên, đã đem lại những kết quả rõ nét trong giảng dạy và hiệu quả trong công
tác triển khai việc cộng tác học tập, rèn luyện của thầy và trò… điều này sẽ giúp
các em dễ dàng tiếp thu, lĩnh hội những kiến thức nhanh hơn, dễ hơn, tạo cho các
em sự hứng thú, tự tin, chủ động và sẵn sàng cho việc học tập, tiếp thu kiến thức .
Ý thức tham gia phong trào toàn dân bảo vệ biển, đảo quê hương của tất cả
các em học sinh trường THPT Tôn Đức Thắng được nâng cao rõ rệt. Các em hiểu
được vai trò và trách nhiệm bảo vệ biển, đảo quê hương là của toàn xã hội trong đó
góp phần lớn của các em.
22
3. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Trên cơ sở căn cứ vào những điều kiện cũng như tình hình thực tế nhà trường
mà tổ chức tiến hành các hình thức tuyên truyền phù hợp. Thông qua công tác này
sẽ giúp học sinh hiểu hơn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng cũng như tiềm năng của
biển, đảo Việt Nam; các đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà
nước ta về chiến lược biển, đảo trong tình hình mới. Qua đó, giúp nâng cao ý thức
và trách nhiệm hơn cho học sinh của trường trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo
thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, giúp học sinh tăng cường cảnh giác, bản lĩnh
hơn với các âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch và các loại tội phạm đang
hàng ngày, hàng giờ tác động, chuyển hóa tư tưởng, lôi kéo họ vào các hoạt động
chống Đảng, Nhà nước ta và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Đề tài áp dụng hiệu quả tại trường THPT Tôn Đức Thắng và có khả năng áp
dụng trên các trường THPT trên toàn tỉnh Đồng Nai.
Vì vậy tôi mạnh dạn đề xuất một số vấn đề có liên quan đến môn học như
sau:
Cần đầu tư trang thiết bị hơn nữa để công tác giảng dạy đạt kết quả cao
hơn, vì đây là môn học được xem là môn đặc thù nên tài liêu tham khảo, dụng cụ
giảng dạy còn rất thiếu thốn.
Các cấp, ban, ngành cần tạo điều kiện hơn nữa để giáo viên có điều kiện nâng
cao nhận thức và trình độ chuyên môn, để công tác giảng dạy, truyền thụ kiến thức
được tốt hơn, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu trong thời kì mới.
Công tác tập huấn hàng năm cần thực hiện bài bản hơn, chặt chẽ hơn . Bên
cạnh đó, qua các đợt thi giáo viên giỏi, các đề tài sáng kiến kinh nghiệm, nếu giáo
viên nào, đề tài nào đạt kết quả cao cần triển khai mở rộng cũng như đưa vào
chương trình tập huấn, để những giáo viên khác có thể tham khảo, nếu thấy phù
hợp với điều kiện địa phương, cơ quan nơi mình đang công tác thì có thể áp dụng,
để công tác giảng dạy đạt kết quả cao…
Người viết
Nguyễn văn Huấn
23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Giáo Dục Quốc Phòng – AN Ninh 11 (Sách giáo khoa)
2. Sách Giáo Dục Quốc Phòng – AN Ninh 11 (Sách giáo viên)
3. Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982- Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, H.1999
4. Giáo trình lý luận chung về lãnh thổ, biên giới Việt Nam và quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, H.2003.
5. Giáo trình một Số Vấn Đề Cơ Bản Về Công Tác Quốc Phòng, Nhà xuất bản
HCM, năm 2002.
6. Luật biên giới quốc gia, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H. 2004.
7. Một số vấn đề về Luật biển – Bộ Tư lệnh Hải quân xuất bản năm 1982.
8. Những điều cần biết về Luật biển, Nhà xuất bản Công an nhân dân, H. 1994.
9. Văn bản pháp luật về lực lượng cảnh sát biển Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, H 2000.
24
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Ký hiệu
Diễn giải
CB
Cán bộ
GDQP&AN
Giáo dục quốc phòng và an ninh
TNCS
Thanh Niên cộng sản
ĐH
Đại học
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
THPT
Trung học phổ thông
25