Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 4 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.71 KB, 12 trang )

1- MỞ ĐẦU
1.1Lý
do
chọn
đề
tài
Như chúng ta đã biết, con người có sức khỏe có muôn vàn ước mơ, người
không có sức khỏe chỉ có một ước mơ duy nhất là “sức khỏe”. Thật vậy sức khỏe là
vốn quý nhất của con người, có sức khỏe là có tất cả. là điều kiện quyết định sự
nghiệp,
tiền
đề,
tương
lai.
Hơn nữa trong thời đại ngày nay khi mà nền nhân loại bước vào thời đại văn
minh thì nguồn lực con người rất quan trọng. Muốn có nguồn lực con người có trí
tuệ, có sức khỏe, có nhân cách, có ích cho xã hội thì trước tiên phải coi trọng nền
giáo dục, trong đó giáo dục mầm non được coi là mặt trận hàng đầu trong hệ thống
giáo
dục
quốc
dân.
Bởi vì trẻ ở lứa tuổi này cần được nuôi dưỡng và chăm sóc một cách hợp lý
giống như ta chăm sóc cây non vậy, muốn cây non khỏe mạnh tốt tươi phải chăm
sóc cẩn thận nên nhớ rằng “cây cằn cỗi quả chát chua” vì thế nếu trẻ mầm non được
nuôi dưỡng và học tập trong môi trường sư phạm tốt, được nhận những tình cảm
của người lớn nhất là cô giáo, người mẹ hiền thứ hai của trẻ thì chắc rằng sẽ đào
luyện được những trẻ em ngoan ngoãn dễ thương thông minh và đáng quý.
Chính vì vậy giáo dục mầm non đặt ra hàng loạt nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục
khác nhau, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhưng rất thích hợp với trẻ đó là
hình thành thói quen học tập vui chơi, đan xen một cách hợp lí, các phương pháp


giáo dục mang đậm tính chất “học bằng chơi, chơi mà học”
Muốn thực hiện tốt được các nhiệm vụ đó trước hết phải chăm sóc nuôi dưỡng
trẻ để có thể lực tốt, một khi trẻ đã khỏe mạnh thì sẽ tích cực tham gia vào các hoạt
động tìm tòi khám phá thế giới xung quanh, từ đó tạo tiền đề để trẻ phát triển toàn
diện.
Trong khi đó ở lứa tuổi mầm non đặc điểm tâm sinh lý đang trên đà phát triển và
hoàn thiện dần dần, vì vậy nhu cầu ăn uống của trẻ phải đầy đủ song phải hợp vệ
sinh. Nếu như trẻ lứa tuổi này được ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, được
chăm sóc một cách hợp lý khoa học thì cơ thể mới phát triển, khi trẻ có sức khỏe
khả năng tham gia các hoạt động hàng ngày có hiệu quả hơn. Ngược lại chăm sóc
trẻ lơ là dễ dẫn đến trẻ còi xương suy dinh dưỡng bụng õng đít beo, trẻ mệt mỏi,
ngại vận động, không thích khám phá thế giới xung quanh dẫn đến vốn từ không
có, từ đó trẻ trở nên trầm cảm, không thích giao tiếp dần dần trí tuệ kém phát triển.
Bên cạnh đó, cung cấp cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về lương thực, thực
phẩm và giá trị dinh dưỡng của những loại thức ăn đó. Từ đó trẻ sẽ ăn hết tất cả các
loại thức ăn mà mẹ và cô giáo nấu, không kén chọn thức ăn là biện pháp tốt nhất
nâng cao sức khỏe góp phần từng bước hạ thấp tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em.
Ngoài ra việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ không
chỉ là nhiệm vụ của giáo viên, của gia đình mà còn là nhiệm vụ của toàn xã hội, để
chuẩn bị cho thế hệ mới phát triển đầy đủ sức khỏe, nhân cách cũng như tri thức.


Chính vì giáo dục dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm có tầm quan trọng và cấp
thiết như vậy nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 4-5 tuổi”.
1.2- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm cho trẻ mầm non, đề xuất áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 4 – 5 tuổi tại
trường mầm non Hoằng Đức- Hoằng Hóa

1.3- Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm cho trẻ 4 -5 tuổi
1. 4- Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát
Phương pháp toán học thống kê
1.5-Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Sáng kiến kinh nghiệm áp dụng biện pháp lồng ghép tích hợp nội dung giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm vào các hoạt động học của trẻ mẫu
giáo 4 – 5 tuổi.
Áp dụng các trò chơi, các bài đồng dao để giáo dục trẻ về dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm
2- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1-Cơ sở lý luận
Sức khỏe tốt là niềm hạnh phúc của mọi người, mọi nhà và của toàn xã hội.
Vì vậy việc hình thành cho trẻ ý thức về dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm từ
nhỏ là việc làm cần thiết, nên bắt đầu từ những việc đơn giản nhất.
Giúp trẻ hiểu giá trị dinh dưỡng của lương thực, thực phẩm, giá trị dinh
dưỡng, không chỉ phụ thuộc vào thành phần hóa học của các loại lương thực thực
phẩm mà còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như cách bảo quản, chế biến.
Thực tế mỗi loại lương thực, thực phẩm đều có chất dinh dưỡng khác nhau.
Vì vậy làm thế nào để giúp trẻ hiểu nên phối hợp các loại lương thực, thực phẩm để
có đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng phù hợp với trẻ.
Để đảm bảo giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm tốt cho trẻ
cần giáo dục cho trẻ những hiểu biết về giá trị dinh dưỡng của các loại lương thực
thực phẩm thông qua trò chơi, bữa ăn hàng ngày, dạo chơi tham quan…Từ đó trẻ
có kiến thức, kỹ năng sơ đẳng về vấn đề dinh dưỡng, sức khỏe, biết lựa chọn một

cách thông minh, tự giác ăn uống để đảm bảo sức khỏe của mình.
2.2- Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trường mầm non Hoằng Đức là một trường thuộc vùng nông thôn, đạt chuẩn
quốc gia mức độ 1. Là một ngôi trường có các cô giáo dày dặn kinh nghiệm yêu


nghề mến trẻ, trình độ chuyên môn vững vàng. Vì vậy mà chất lượng nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ ngày càng đi lên.
Năm học 2016 – 2017 này tôi được phân công dạy lớp 4 – 5 tuổi. Tôi luôn
mong muốn mang lại cho các con một môi trường giáo dục tốt nhất giúp các con
phát triển khỏe mạnh, cân đối hài hòa, mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, biết quan
tâm chia sẻ, thể hiện hết khả năng của mình thông qua các hoạt động.
Để thực hiện được mục tiêu đó đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng
và tôi thấy được những khó khăn, thuận lợi như sau:
2.2.1- Thuận lợi:
Được sự quan tâm của các ban ngành đoàn thể, từng bước chăm lo cơ sở vật
chất cho nhà trường, có ngôi trường khang trang, phòng học thoáng mát, có khuôn
viên trường xanh -sạch- đẹp. có vườn cổ tích được qui hoạch hợp lý, thuận lợi cho
việc học tập vui chơi của trẻ.
Được sự quan tâm, chỉ đạo của ban giám hiệu về kế hoạch tổ chức các hoạt
động trong năm học. Được cung cấp trang bị nhiều tài liệu hướng dẫn thực hiện
chăm sóc nuôi dưỡng, phòng chống suy dinh dưỡng và an toàn thực phẩm. Nhà
trường luôn tạo điều kiện cho chị em giáo viên tham gia các lớp chuyên đề nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đội ngũ giáo viên có trình độ chuẩn và trên chuẩn, có trình độ chuyên môn
vững vàng, yêu nghề mến trẻ.
Đa số phụ huynh trẻ quan tâm đến con, đến các hoạt động của lớp.
2.2.2- Khó khăn:
Hàng năm, nhà trường đón nhận các cháu từ những gia đình khá giả, trung
bình, nghèo. trình độ văn hóa không đồng đều, thời gian dành nhiều cho công viêc,

một phần vì kinh tế khó khăn nên chắc chắn sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến việc chăm
sóc, nuôi dạy con.
Số lượng học sinh trong lớp có sự phát triển không đồng đều, một số cháu
béo phì, một số cháu gầy yếu, suy dinh dưỡng, các cháu đa phần là nam nên hiếu
động khó bảo.
Nhận thức của đa phần phụ huynh về việc chăm sóc, nuôi dưỡng còn hạn chế,
phụ huynh đã quan tâm chú trọng đến việc dinh dưỡng của con nhưng đôi khi chưa
khoa học, chưa hợp lý. Tính trạng trẻ bị “no dồn đói góp” thường xuyên xảy ra.
Nhiều lúc bố mẹ suy nghĩ chỉ cần mua cho con thật nhiều đồ ăn thức uống, cho con
ăn thoải mái là tốt, nhưng bố mẹ đâu có biết cảm giác của con ăn có ngon miệng
không, có thích món ăn đó không, thậm chí còn không biết tên món ăn đó gọi là gì?
Vì cho các con ăn uống tùy thích không hợp lý nên trẻ sinh ra biếng ăn và suy dinh
dưỡng, song lại có một số trẻ béo phì.
2.2.3- Kết quả khảo sát thực trạng đầu năm
Qua việc khảo sát dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở lớp
trong quá trình hướng dẫn trẻ vui chơi, học tập và hoạt động mọi lúc mọi nơi,tôi
nhận được kết quả sau:
TT
Nội dung
Số trẻ
Tỷ lệ


1
2
3

Nhận biết một số món ăn,thực phẩm thông
thường và lợi ích của chúng đối với sức khoẻ
Trẻ ăn hết xuất,không kén chọn thức ăn


14/32

43 %

15/32

46 %

Trẻ có nề nếp thói quen trong ăn uống như:
Chào mời,thao tác rửa tay bằng xà phòng,đi vệ
sinh đúng nơi quy định…

16/32

50%

2. 3- Các biện pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1- Lập kế hoạch tổ chức hoạt động và thống nhất với giáo viên cùng
nhóm lớp
Vào đầu năm học tôi khảo sát trẻ trong lớp và kết quả đạt rất thấp,nên tôi đã
phân loại nhóm học sinh,nhóm trẻ biếng ăn,nhóm trẻ nhận biết các món ăn còn
kém,nhóm trẻ chưa có nề nếp thói quen ăn uống…
Khi đã phân loại được nhóm trẻ,tôi dựa vào kế hoạch năm học của nhà
trườngvà căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi,căn cứ vào thời gian, thời
điểm các hoạt động của từng chủ đề, chủ điểm. Căn cứ vào mức độ phát triển,khả
năng thực tế của trẻ tôi đã xây dựng nội dung và hình thức lồng ghép tích hợp giáo
dục dinh dưỡng vào từng hoạt động cho từng nhóm trẻ.
Khi đã xây dựng kế hoạch hoạt động cho từng nhóm,tôi trao đổi với giáo viên
cùng nhóm lớp để thống nhất cách tổ chức và thực hiện

2.3.2- Lồng ghép giáo dục dinh dưỡng trong quá trình tổ chức hoạt
động học
Tôi thường suy nghĩ, sắp xếp cách lồng ghép tích hợp kiến thức dinh dưỡng và
an toàn thực phẩm vào các tiết học, vào từng hoạt động cụ thể Đồng thời trong các
tiết học, hoạt động luôn thay đổi hình thức kết hợp động tĩnh, trò chơi, câu đố, bài
hát phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
Qua các tiết học trẻ học thêm được nhiều từ mới như trộn thức ăn, thái mỏng,
xào, rán….và những hiểu biết thêm về món ăn cổ truyền của dân tộc, món ăn ngày
hội, ngày lễ. Cũng từ đó trẻ được ngửi, sờ, cầm, nếm các món mới, được chia bày
món ăn theo ý thích, từ đó hình thành khả năng tư duy, rèn luyện tính cẩn thận, tinh
thần tập thể được thể hiện rõ nét.
Các tiết học có thể tổ chức ngay trong lớp hoặc có thể tổ chức dưới hình thức
trò chơi
Để gây hứng thú cho trẻ tôi cho trẻ chơi chiếc nón kì diệu.
Cách chơi: trẻ lên quay chiếc nón kì diệu, khi mũi tên chỉ vào lương thực,
thực phẩm nào thì trẻ phải nói được tên lương thực, thực phẩm đó và nó cung cấp
chất dinh dưỡng gì.
VD: khi mũi tên chỉ vào củ sắn, bắp ngô. Trẻ phải nói được tên lương thực và
nó giàu chất bột đường.


Trò chơi chiếc nón kì diệu
Thông qua trò chơi đó trẻ khắc sâu nhớ lâu kiến thức mà cô cung cấp
Có một số tiết lồng dinh dưỡng vào dễ nhưng cũng có tiết gây cảm giác gò
bó, chưa sát với bài dạy đưa vào một cách qua loa thì không nên. Do đó tôi không
máy móc tiết nào cũng tích hợp mà có sự lựa chọn đề tài, nội dung, thời điểm nào
cho thích hợp.
VD: Khi dạy trẻ làm quen với môi trường xung quanh, cho trẻ làm quen một số
con vật nuôi trong gia đình.
Ngoài những kiến thức cơ bản tôi cung cấp cho trẻ như môi trường sống, thức

ăn, sinh sản…..của các con vật nuôi trong gia đình, tôi lồng ghép thêm về giáo dục
dinh dưỡng như lợi ích của con gà cung cấp thịt, trứng, trong thịt và trứng có rất
nhiều chất dinh dưỡng có ích cho cơ thể.
Bên cạnh đó tôi cho trẻ kể về các món ăn được chế biến từ thịt và trứng gà như thịt
gà luộc, thịt gà rang, thịt gà quay, thịt gà nộm, còn món trứng (trứng rán, trứng
luộc, trứng kho thịt, trứng làm bánh…) cứ như thế tôi lồng ghép dinh dưỡng vào
cho trẻ biết
Ngoài ra tôi còn tìm hiểu, sưu tầm thơ, câu đố, vè, truyện về dinh dưỡng để
lồng ghép vào các tiết học cho thêm phần phong phú và sinh động.
Để truyền đạt các kiến thức dinh dưỡng không gây cảm giác nhàm chán, nặng
nề đối với trẻ, tôi đã suy nghĩ, tìm tòi những hình thức khác nhau để lồng ghép.
VD: Khi dạy trẻ biết một số lương thực giàu chất bột đường: cụ thể là giới thiệu
hạt gạo chứa nhiều chất bột đường, để thu hút cháu tôi đã sáng tác câu đố:
Hạt gì màu trắng
Được nấu thành cơm
Cháu ăn hàng ngày
Giúp cháu mau lớn
Khi trẻ đã trả lời được tôi giới thiệu: đây là hạt gạo (cho trẻ xem gạo thật)
Muốn có cơm ăn phải làm thế nào? (phải nấu chín)
Gạo cung cấp chất dinh dưỡng gì? (chất bột đường)
Cho trẻ kể các món ăn được nấu ra từ gạo: nấu cháo, làm miến, phở, làm
bánh….
Cuối cùng cô chốt lại: trong gạo rất giàu chất bột đường, nó cung cấp năng
lượng, giúp cơ thể khỏe mạnh để học tập vui chơi….
Sau khi cung cấp kiến thức cơ bản cho trẻ, trẻ biết được tên một số lương
thực, thực phẩm giàu chất dinh dưỡng như đạm, chất béo, chất bột đường,
vitamin…Tôi củng cố kiến thức cho trẻ dưới hình thức trò chơi.
VD: Trò chơi mua hàng, đi vào siêu thị mua hàng, cô chia cháu thành 3 nhóm,
đi vào siêu thị mua hàng, mỗi nhóm sẽ mua hàng theo yêu cầu của cô:
Nhóm 1: mua thực phẩm giàu chất đạm

Nhóm 2: mua thực phẩm giàu vitamin, chất khoáng


Nhóm 3: mua lương thực giàu chất bột đường
Cho trẻ đổi nhóm chơi.
Trẻ hứng thú nhập vai chơi
Hoặc để dạy trẻ không khí ngày tết nguyên đán tôi dùng bài thơ, mâm cỗ ngày
tết:
Mâm cỗ ngày tế
Có chả có nem
Có măng nấu miến
Có bầu nấu tôm
Có tôm chiên giòn
Có bánh chưng xanh
Có nấm xào rau
Ăn móng chóng lớn.
Thông qua các bài thơ sưu tầm. Tôi cung cấp những món ăn ngày lễ, ngày tết,
các chất dinh dưỡng có trong các món ăn….
Ngoài ra trong các tiết học tôi đã lồng nội dung vệ sinh ăn uống, rèn luyện trẻ
có thói quen vệ sinh văn minh. Tôi trò chuyện với trẻ.
Hàng ngày trước khi ăn cháu thường làm gì? (rửa tay)
Vì sao trước khi ăn phải rửa tay? (vì bàn tay có nhiều vi khuẩn gây bệnh)
Nói chuyện trong giờ ăn sẽ thế nào? (mất vệ sinh)
Ăn không sạch sẽ thường mắc bệnh gì? (bệnh giun sán)
Trẻ rửa tay
trước khi ăn
2.3.3 - Cho trẻ ôn luyện dưới hình thức vui chơi, tham quan:
Trên các tiết học, trẻ nắm được một lượng kiến thức và một số khái niệm cơ bản
về dinh dưỡng và an toàn thực phẩm, để trẻ nhớ lâu, khắc sâu kiến thức tôi đã cho
trẻ ôn luyện dưới hình thức trò chơi nhằm tái tạo lại những kiến thức đã học để trẻ

kể lại hoặc mô phỏng.
VD: Để trẻ nhớ lại tên một số loại rau củ quả. Tôi sưu tầm các bài vè, thơ về
dinh dưỡng sau đó tổ chức cho các cháu đọc lúc dạo chơi ngoài trời, lúc chuyển
tiết:
Rềnh ràng
Rềnh rềnh ràng ràng
Đi chợ mua hàng
Bé làm nội trợ
Quả ngọt màu đỏ
Bé chọn nhanh tay

Cam sành vắt nước
Nhanh nhanh chọn trước
Xoài chín vàng thơm
Chuối chín cả buồng
Ăn ngon ngọt quá


Hoặc bài vè:
Ve vẻ vè ve
Nghe về thực phẩm
Phiên chợ bày bán
Đủ loại mặt hàng
Tôm cua ốc ếch
Rau củ tràn lan…..
Từ những câu chuyện, bài vè ngộ nghĩnh, gần gũi với trẻ đã giúp trẻ thích thú,
hào hứng đọc và khắc sâu kiến thức.
Hoặc trong giờ hoạt động góc, trong góc phân vai cô yêu cầu trẻ nấu món ăn
mà trẻ biết để đãi các bác xây dựng. Đến khi nhận xét trò chơi cô tập trung cả lớp
lại để giới thiệu các món ăn vừa nấu, các món ăn đó được nấu từ nguyên liệu thực

phẩm gì? Các món ăn giàu chất gì? Có tác dụng gì cho cơ thể, như vậy thông qua
trò chơi cả lớp biết thêm được một số món ăn

tập làm nội trợ
Trong quá trình chơi ở góc phân vai tôi thường tập cho cháu giao tiếp, trao đổi
với nhau để chọn món, chọn thực phẩm và biết trong thực phẩm đó giàu chất gì.
Ngoài ra những buổi hoạt động ngoài trời, dạo chơi tham quan, hoạt động lao
động. Tôi và trẻ thường tham quan vườn rau của nhà trường trò chuyện về các loại
cây ăn quả.
Ngoài kiến thức cơ bản cung cấp cho trẻ cây gì? Lá như thế nào? Quả làm
sao? Vì sao cây lớn được? Quả nó cung cấp chất dinh dưỡng gì? Khi ăn phải làm
gì? (rửa sạch, gọt vỏ, bỏ hạt,…)tôi khai thác thêm ở trẻ những loại quả đó chế biến
như thế nào
VD: quả xoài: có thể cắt ra ăn, ép nước uống ,làm nộm, sấy khô……
Cho trẻ tham quan vườn rau sạch nhà trường.
Cho trẻ tìm hiểu các loại rau của nhà trường.
Luống rau gì? Màu? Cách chăm sóc?
Đặc biệt khai thác ở trẻ rau có tác dụng gì, các món ăn nấu từ rau.
VD: Rau mùng tơi: nấu món gì? (canh, luộc,….)
Rau muống: nấu món gì? (xào,luộc, canh,nộm,…)
Các loại rau này cung cấp chất dinh dưỡng gì? (vitamin, chất xơ,….)
Các loại rau này rất cần thiết cho cơ thể.
Cách chăm sóc, bảo vệ vườn rau: nhổ cỏ, bắt sâu, tưới rau…
Cô và trẻ chăm sóc vườn rau
2.3.4 - Thông qua bữa ăn hàng ngày
Giới thiệu món ăn là thói quen thường xuyên ở lớp tôi, nhưng giới thiệu như
thế nào để đảm bảo kiến thức, đảm bảo vệ sinh, không ảnh hưởng hưởng đến giờ ăn
của trẻ vì vậy các câu hỏi tôi giới thiệu ở các thời điểm khác nhau.
VD: Trong giờ ăn trưa, trước khi ăn cô giáo giới thiệu cùng trẻ các món ăn sẽ



được ăn hôm nay, sau đó giới thiệu luôn giá trị dinh dưỡng của các món ăn như
Hôm nay các con sẽ được ăn món thịt sốt cà chua, trong thịt có rất nhiều chất
đạm giúp cơ thể các con phát triển, thông minh, nhanh lớn. Trong cà chua chứa rất
nhiều vitamin A, rất tốt cho mắt, ăn vào các con có làn da hồng hào, mắt sáng long
lanh rất đẹp đấy.
Ngoài ra hôm nay các con còn được ăn món canh rau cải, nấu với thịt có nhiều
vitamin A , C và đạm giúp các con chóng lớn, thông minh và bài tiết tốt. Vậy các
con phải ăn hết xuất của mình nhé.
Ngoài việc giáo dục cho trẻ ăn uống đủ chất vẫn chưa đủ mà hàng ngày chúng
ta còn phải giáo dục cho trẻ ăn uống đủ chất vẫn chưa đủ mà hàng ngày chúng ta
còn phải giáo dục vệ sinh cho trẻ: phải rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh.
Vào bàn ăn phải ngồi ngay ngắn, ngồi đúng nơi quy định, đúng chỗ của mình.
Trước giờ ăn chuẩn bị khăn lau tay, phải có đĩa đựng cơm rơi vãi, xúc cơm cẩn
thận, không được rơi vãi ra ngoài.
Khi ăn phải nhai kĩ, khi ho phải che miệng, quay ra ngoài.
Khi ăn xong phải lau tay, lau miệng, uống nước.
Giáo dục trẻ không ăn quá nhanh, không uống nước lã dễ bị vi khuẩn xâm
nhập làm đau bụng.
Giờ ăn của trẻ
Không nhất thiết ngày nào tôi cũng hỏi theo trình tự như trên, có thể mỗi ngày
chọn một hoặc hai thời điểm để giáo dục cháu.
Hoặc thông qua các bữa ăn phụ buổi chiều, tôi hỏi trẻ về các món ăn và cách
chế biến, rồi gợi ý hỏi trẻ cũng nguyên liệu đó chế biến thêm được những món ăn
nào.
VD: Chè đậu đen cháu ăn thấy có vị gì? Mầu nước chè đen ra sao? Chè đậu đen
được ăn vào mùa nào?
Cũng có những hôm trẻ uống sữa vào bữa phụ, tôi giới thiệu,thực hiện ví dụ
cho trẻ thấy cách pha sữa bột.
Đầu tiên cô pha nước ấm vào cốc, bỏ sữa vào và khuấy đều. Cứ như vậy tôi trò

chuyện với trẻ về cách thực hiện, về chất dinh dưỡng, giúp trẻ háo hức ăn và uống
2.3.5 - Phối hợp với cha mẹ và cộng đồng
Sự tiếp xúc đầu tiên với xã hội để lại dấu ấn sâu đậm ở trẻ chính là cha mẹ,là
những người thân trong gia đình vì vậy sự “ Tập nhiễm,bắt chước’’từ những mẫu
hoạt động của cha mẹ là rất lớn vì vậy giáo viên cần phối hợp chặt chẽ với gia đình
để có nội dung phương pháp giáo dục đồng nhất
Tôi động viên phụ huynh ở nhà luôn luôn nhắc nhở trẻ thực hiện tốt các thao
tác vệ sinh cá nhân, như rửa tay trước khi ăn,sau khi đi vệ sinh,ăn chín uống
sôi,chơi sạch sẽ…Nhắc nhở trẻ thói quen ăn uống phải chào mời


Tôi vận động phụ huynh nhất là chi hội trưởng tham quan bếp ăn của nhà
trường, tham quan giờ ăn,giờ ngủ của trẻ để các bậc phụ huynh thấy thực tế nề nếp
thói quen,thực đơn của lớp,của trường.
Thông qua tổ chức các hội thi nhằm tuyên truyền phụ huynh hiểu thêm nhu cầu
vai trò của dinh dưỡng đối với sức khỏe trẻ
Sự phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường được tiến hành ở mọi lúc mọi nơi
nhưng ở thời điểm nhận và trả trẻ là thuận lợi hơn cả. Trong các thời điểm đó tôi đã
tranh thủ trao đổi với phụ huynh những biểu hiện của trẻ như hôm nay cháu ăn
không hết xuất, hoặc cháu không thích ăn món ăn này…Qua quá trình trao đổi như
thế để phối hợp với phụ huynh có biện pháp chăm sóc kịp thời.
Ngược lại tôi cũng luôn lắng nghe những phản ánh của phụ huynh về tính nết
của các cháu. Bên cạnh đó chúng tôi thường xuyên tổ chức họp phụ huynh theo
định kỳ để thống nhất nội dung, yêu cầu, hình thức, biện pháp giáo dục trẻ.
Họp phụ huynh định kỳ
Ngoài ra ở góc tuyên truyền với phụ huynh nên cập nhật hoạt động của trẻ
trong tháng , trong tuần,dán tranh ảnh tuyên truyền các thao tác vệ sinh văn minh
trong sinh hoạt ăn uống hàng ngày
Đặc biệt dán hình ảnh cụ thể về các dịch bệnh thường sảy ra theo mùa để các
bậc phụ huynh tham khảo

Góc tuyên truyền với phụ huynh
. 2. 4 - Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua suốt một năm học với sự quan tâm của ban giám hiệu, sự giúp đỡ của đồng
nghiệp.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh học sinh và cô giáo cũng như với nhà
trường.
Đặc biệt là sự nỗ lực của bản thân, tổ chức các hoạt động cho trẻ và tôi thấy kết
quả rõ rệt như sau:
Trẻ trong lớp đã mạnh dạn, tự tin hơn trong tất cả các hoạt động.Các cháu rất
hứng thú khi cùng cô tham gia các hoạt động để nắm kiến thức về dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm đồng thời cháu rất thích nghe truyện, đọc thơ, đọc đồng
dao…..Cháu phát âm tốt hơn, biết diễn đạt ý mong muốn của mình rõ ràng hơn
đồng thời vốn từ của trẻ phong phú hơn.
Đa số các cháu nhận biết tốt 4 nhóm thực phẩm và các món ăn thông thường, trẻ
ăn uống có nề nếp hơn, có hành vi văn minh trong ăn uống như chào mời, tự phục
vụ, vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống gọn gàng.
Tất cả trẻ đều ăn ngon miệng, phấn khởi ăn hết xuất, không kén chọn thức ăn.
Chính vì vậy mà kết quả đạt được của lớp tôi sau khi thực nghiệm đã có kết quả
như sau:
TT
Nội dung
Số trẻ

Tỷ


1
2
3


Nhận biết một số món ăn,thực phẩm thông thường và lợi
ích của chúng đối với sức khoẻ
Trẻ ăn hết xuất,không kén chọn thức ăn

30/32

93

31/32

96

Trẻ có nề nếp thói quen trong ăn uống như: Chào mời,thao
tác rửa tay bằng xà phòng,đi vệ sinh đúng nơi quy định…

32/32

100

Ngoài những kết quả đạt được ở trên tôi thấy trẻ trong lớp tăng cân đều,tỷ lệ
suy dinh dưỡng giảm so với đầu năm
Các tiết dạy có lồng ghép dinh dưỡng, tổ chức các hoạt động, các trò chơi đều
được đánh giá tốt
3- KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1- Kết luận
Thông qua việc áp dụng: “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 4-5 tuổi”. So sánh kết quả
khảo sát đầu năm tôi thấy các cháu trong lớp tiến bộ rất nhiều,trẻ khoẻ mạnh ,tự
tin,hứng thú tham gia mọi hoạt động ,có nề nếp thói quen văn minh.Từ đó tôi rút ra

được một số kinh nghiệm .
Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ là vô cùng quan
trọng và cần thiết, nếu ở lứa tuổi này mà chăm sóc trẻ tốt, trẻ khỏe mạnh, có thể lực
thì sẽ tích cực tham gia vào các hoạt động tìm tòi, khám phá. Từ đó tạo diền đề để
trẻ phát triển toàn diện.
Song để giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ được tốt, có
hiệu quả trước hết giáo viên phải không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu , học hỏi để có
một số vốn kiến thức về nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ.
Giáo viên phải chịu khó tìm tòi, sưu tầm những bài thơ, câu chuyện, vè, câu
đố, trò chơi hấp dẫn, phù hợp với lứa tuổi nhằm tổ chức các hoạt động lồng ghép
đạt hiệu quả.
Để trẻ tiếp thu kiến thức dinh dưỡng nhẹ nhàng, dễ hiểu, không gò bó, cô giáo
cần khéo léo lồng nội dung giáo dục dinh dưỡng vào bài với nhiều hình thức
phong phú, sinh động nhưng không ảnh hưởng đến nội dung trọng tâm của tiết
dạy. Tạo giờ học của trẻ thật sự thoải mái, nhẹ nhàng, nếu dạy trẻ bằng vật thật
thì kết quả trên trẻ sẽ cao hơn.
Thường xuyên giới thiệu các món ăn thông qua các bữa ăn hàng ngày nhưng
không hỏi trẻ nhiều quá và đảm bảo vệ sinh yêu cầu khi ăn.
Thông qua các góc chơi, trò chơi cô tham gia cùng cháu, cùng chế biến, lựa
chọn thực phẩm, trao đổi với trẻ về chất dinh dưỡng có trong thực phẩm.
Ngoài ra cô phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của từng cá nhân trẻ dựa vào
phân loại nhóm trẻ theo khả năng tiếp thu và nhận thức của từng trẻ để xây dựng
kế hoạch và đề ra biện pháp cụ thể, phù hợp
Làm tốt công tác tuyên truyền, để lấy được lòng tin phụ huynh, trước hết phải có
kết quả tiến bộ trên trẻ, sau đó là giao tiếp với phụ huynh để thấy việc giáo dục


dinh dưỡng là hết sức cần thiết.
Riêng đối với bản thân, không nên bằng lòng với những kết quả đạt được mà phải
không ngừng phấn đấu vươn lên, tự học hỏi và học hỏi đồng nghiệp để không

ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.tiếp cận kịp thời các chuyên đề để
đầu tư vào bài soạn đạt kết quả tốt hơn.
3.2- Kiến nghị
Đối với Phòng Giáo Dục
Mở các lớp chuyên đề thực hành giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm cho trẻ vào dịp hè để giáo viên được tham gia.
Đối với nhà trường
Trong năm học tổ chức nhiều đợt thao giảng để giáo viên học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau,phát huy được sự sáng tạo của giáo viên
Tạo điều kiện để giáo viên được tham quan dự giờ ở các trường bạn để học
tập kinh nghiệm
Qua một năm áp dụng sáng kiến này bên cạnh những kết quả đạt được, tôi
mong được sự quan tâm, giúp đỡ hơn nữa của ban giám hiệu nhà trường, trang bị
thêm sách báo, tài liệu, đồ dùng đồ chơi,….về dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực
phẩm
Đối với địa phương
Mở rộng diện tích trường để có nơi trồng rau sạch cho trẻ.
Bổ sung thêm trang thiết bị dạy và học cho nhà trường.
Phối hợp với nhà trường làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục dinh dưỡng và
vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhân dân và cộng đồng.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi đúc rút từ thực tiễn hoạt
động giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non.
Bên cạnh những kết quả thu được là trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tự tin, có thói
quen hành vi văn minh.Rất mong ban giám hiệu, bạn bè đồng nghiệp đóng góp ý
kiến để bản sáng kiến kinh nghiệm hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Hoằng Đức ngày 15 tháng 5 năm

2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của
tôi
viết,không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết SKKN

BÙI THỊ HUỆ
Hoàng Thị Hương




×