Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn một só biện pháp phát triển ngôn ngữ tiếng việt cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi người dân tộc thiểu số tại trường mầm non ngọc sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.8 KB, 18 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Mỗi con người khi được sinh ra và lớn lên ở một vùng miền, một dân tộc
khác nhau thì sẽ có một loại ngôn ngữ giao tiếp khác nhau, tuy nhiên khi đi ra xã
hội nói chung thì cần có một loại ngôn ngữ chung nhất để giao tiếp và ngôn ngữ
đó chính là tiếng Việt phổ thông. Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, là ngôn ngữ
chính thức dùng trong nhà trường và các cơ sở giáo dục từ mầm non đến đại
học. Chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một ở trường tiểu học là một trong những mục
tiêu giáo dục toàn diện của giáo dục mầm non, trong đó có việc chuẩn bị tiếng
việt. Nhưng đối với vùng dân tộc thiểu số thì phần lớn trẻ em trước khi đi ra xã
hội hay nói cụ thể đó chính là khi đến trường mầm non đều sống trong môi
trường tiếng mẹ đẻ của người dân tộc thiểu số và điều kiện tiếp xúc với môi
trường giao tiếp tiếng việt còn rất nhiều hạn chế. Khi đến trường trẻ em thích
trao đổi với nhau bằng tiếng mẹ đẻ (cụ thể ở vùng dân tộc nơi tôi làm việc đó
chính là tiếng Mường) và có thói quen giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ (tiếng mường)
trong hoạt động chơi, trò chuyện hàng ngày và thậm chí ngay cả trong môi
trường học tập. Theo đó trẻ em dân tộc thiểu số sẽ không có vốn tiếng việt ban
đầu cần thiết để học tập bằng tiếng việt ở trường phổ thông nếu không được
chuẩn bị từ trước. Những hạn chế về tiếng việt là một nguyên nhân dẫn đến tình
trạng trẻ không ra lớp ở học sinh lứa tuổi Mầm non ở vùng dân tộc thiểu số và
đây cũng chính là vấn đề rất khó khăn cho hoạt động chăm sóc, giáo dục của
giáo viên cũng như chất lượng giáo dục học sinh không được tốt làm cản trở
hoạt động của bản thân giáo viên cũng như nhà trường.
Tiếng việt hay còn gọi là tiếng phổ thông là ngôn ngữ quốc gia, là ngôn
ngữ chính thức dùng trong nhà trường và các cơ sở giáo dục từ mầm non đến đại
học. Mỗi trẻ em từ khi mới sinh ra và lớn đều phải được quan tâm và chăm sóc
chu đáo, tuy nhiên có một bộ phận con em ở vùng dân tộc thiểu số thực sự vẫn
chưa được quan tâm một cách toàn diện về sự phát triển, trong đó có việc phát
triển ngôn ngữ tiếng Việt là một trong những vấn đề lớn cần được quan tâm và
chia sẻ nhất. [1]
Ở trường mầm non Ngọc Sơn giáo viên đứng lớp cũng như cán bộ quản lí


hầu hết là người bản xứ, cũng có nhiều giáo viên là người dân tộc thiểu số hoặc
không phải là người dân tộc thiểu số nhưng đã sống lâu năm ở đây nên việc trao
đổi hay nói chính xác hơn là giao tiếp với các cháu học sinh cũng không gặp
nhiều khó khăn. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên giảng dạy trên lớp không
phải là người dân tộc thiểu số. Chính vì thế khi trực tiếp đứng lớp nuôi dạy cháu
còn một số bất đồng ngôn ngữ bởi các cháu học sinh đại đa số là con em người
dân tộc thiểu số, khi đến lớp hầu như giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ (Tiếng Mường).
_______________________________
Ghi chú ( Giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở trang này):
- Trong mục 1: Đoạn từ “Tiếng Việt hay còn gọi............ chia sẻ nhất” được tác giả tham khảo nguyên văn từ
TLTK số 1.

1


Khi các cháu giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ với các cô thì các cô không hiểu
các cháu nói gì và muốn gì? Điều đó rất khó khăn để các cô nuôi dạy các cháu.
Và đây cũng chính là một cản trở khá lớn đến chất lượng giáo dục cũng như chất
lượng chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu.
Xuất phát từ những lí do trên và chính bản thân tôi là một giáo viên mầm
non được phân công đứng lớp 3-4 tuổi C1 tại trường Mầm non Ngọc Sơn. Tôi
rất trăn trở đối với tình trạng sử dụng ngôn ngữ tiếng việt của các cháu học lớp
mình. Chính vì thế tôi đã nghiên cứu và đưa ra những biện pháp giúp trẻ mẫu
giáo 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt. Với
trách nhiệm lớn lao của một người giáo viên, tôi nghĩ đây là nhiệm vụ quan
trọng và cần phải có sự nỗ lực phấn đấu, quyết tâm cao. Cần phải chú trọng công
tác bồi dưỡng tiếng Việt cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện nhân cách
đáp ứng với yêu cầu sự nghiệp giáo dục mầm non trong thời đại hiện nay. Vì vậy
tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ tiếng việt cho trẻ
mẫu giáo 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số tại trường mầm non Ngọc Sơn” làm

đề tài nghiên cứu nhằm giúp các cháu mẫu giáo 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số
tại trường mầm non Ngọc Sơn giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt khi bước vào
môi trường học tập ngay từ mầm non và các cấp học tiếp theo.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tôi nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ tiếng Việt
cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số tại trường mầm non Ngọc Sơn”
nhằm đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 34 tuổi người dân tộc thiểu số tại trường mầm non Ngọc Sơn.
Nhằm giúp giáo viên có một số biện pháp linh hoạt sáng tạo trong công
tác tổ chức phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ một cách cao nhất.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi
người dân tộc thiểu số ở trường Mầm non Ngọc Sơn.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu đề tài này tôi chọn các phương pháp sau:
- Phương pháp xây dựng cơ sở lý thuyết.
Tham khảo các tài liệu liên quan đến ngôn ngữ tiếng việt cho trẻ mẫu giáo
người dân tộc thểu số. Các môn học có liên quan đến SKKN.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Khảo sát thực tế trên trẻ ở lớp mẫu giáo bé 3-4 tuổi C1, thu thập thông tin
cần thiết khi điều tra trên trẻ.
- Phương pháp thống kê sử lý số liệu.
Điều tra và khảo sát được số liệu sau đó thống kê lại để sử lý số liệu phù
hợp trong sáng kiến.

2


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
V.I.Lênin nói: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của

con người”. Ngôn ngữ chỉ có ở con người và cũng chính từ lao động con người
tiến hóa từ vượn thành người và phát triển. Đối với sự phát triển nhân cách của
trẻ mầm non nói riêng, của con người và xã hội nói chung thì ngôn ngữ và giao
tiếp có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy vì thế
ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nhận thức, giải quyết vấn
đề và chức năng tư duy kí hiệu tượng trưng ở trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện của
giao tiếp vì thế ngôn ngữ cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển các
năng lực và kĩ năng xã hội của trẻ. Trẻ không chỉ sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ
thái độ, suy nghĩ, tình cảm của bản thân đối với mọi người xung quanh mà còn
để tiếp nhận, hiểu thái độ, suy nghĩ, tình cảm và giao tiếp của người khác. Trình
độ phát triển ngôn ngữ và làm quen với đọc viết ban đầu còn góp phần quan
trọng vào việc chuẩn bị cho trẻ học tập ở trường phổ thông cũng như sự thành
đạt trong cuộc sống sau này của trẻ. [2]
Theo sách “Hướng dẫn chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc
thiểu số trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non” của tác giả Trần Thị
Ngọc Trâm – Bùi Thị Kim Tuyến (đồng chủ biên) Nhà xuất bản giáo dục đã nói:
Một số đặc điểm của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số khi học tiếng Việt là: Về căn
bản, học tiếng việt đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số là học ngôn ngữ thứ hai.
Khi đi học mẫu giáo, trẻ em nói chung đã có vốn hiểu biết và kỹ năng ban đầu
về hoạt động ngôn ngữ nói, biết sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp hàng ngày.
Kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ thứ nhất) có thể coi là nhân tố thuận lợi
giúp trẻ học tiếng Việt (Ngôn ngữ thứ hai) nếu có điều kiện thích hợp. Trẻ mẫu
giáo dân tộc thiểu số khi học tiếng Việt có một số đặc điểm như sau:
- Trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học tiếng Việt trên cơ sở kinh
nghiệm tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Việt.
- Môi trường giao tiếp tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp
về cả không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường lớp mầm non).
- Việc học tiếng Việt của trẻ dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn
ngữ thứ nhất và sự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng mẹ đẻ với tiếng Việt.
- Sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có khía cạnh ngôn

ngữ cũng ảnh hưởng tới việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số.
- Sự khác biệt về điều kiện sống của các nhóm dân tộc thiểu số có tác động nhất
định đối với việc học tiếng Việt của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số. [1]
________________________________
Ghi chú (Giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở trang này):
- Ở mục 1: Đoạn từ “V.I.Lênin ............... của trẻ” được tác giả tham khảo từ nguồn TLTK số 2.
- Tương tự, đoạn tiếp theo từ “Một số đặc điểm ................. dân tộc thiểu số” được tác giả tham khảo nguyên văn
từ nguồn TLTK số 1.

3


Một số dân tộc sống ở khu vực gần nơi có nhiều người Kinh sinh sống,
tiếng Việt trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc trong cộng đồng
đó nên việc học tiếng Việt của trẻ có nhiều thuận lợi. Một số dân tộc sống ở
vùng sâu, vùng xa, điều kiện sống khác biệt, hoặc khu vực chỉ có một dân tộc
thuần túy, không có nhu cầu giao tiếp giữa các dân tộc với nhau và tiếng Việt
không phải là ngôn ngữ giao tiếp chung trong cộng đồng, chỉ sử dụng tiếng mẹ
đẻ để giao tiếp nên trẻ ở môi trường này chỉ có duy nhất kinh nghiệm ngôn ngữ
trong phạm vi tiếng mẹ đẻ.
Ngoài ra, do đời sống kinh tế khó khăn, đại bộ phận các gia đình đồng bào
dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa còn thiếu các phương tiện thông tin
như máy thu thanh, vô tuyến truyền hình, sách báo,… Trình độ văn hóa của các
bậc cha mẹ thấp, một bộ phận không biết đọc, biết viết nên khi ở nhà các em ít
có cơ hội để giao tiếp với những người trong gia đình và cộng đồng bằng tiếng
Việt. [1]
Vì thế việc giúp trẻ vùng dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ tiếng Việt
trong giao tiếp là hết sức quan trọng và chúng ta là những người giáo viên mầm
non hàng ngày trực tiếp chăm sóc giáo dục các cháu phải làm tốt việc cho trẻ
được giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt nhằm giúp trẻ không ngừng phát triển

tư duy, trí tuệ, thể chất lẫn tinh thần hay nói một cách chung nhất đó chính là
phát triển một cách toàn diện. Như vậy giáo dục trẻ sẽ đạt được kết quả như
mong muốn.
2. Thực trạng việc phát triển ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi người dân tộc thiểu số lớp C1 tại trường mầm non Ngọc Sơn trước
khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
- Tổng số trẻ trong lớp: 25 cháu
- Trong quá trình nghiên cứu giúp trẻ 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số giao
tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt ở lớp mẫu giáo 3-4 tuổi C1 bản thân tôi đã gặp
những thuận lợi và khó khăn như sau:
2.1. Thuận lợi:
Lớp mẫu giáo 3-4 tuổi C1 bản thân phụ trách được đặt ở khu trung tâm
nên phạm vi giao tiếp của trẻ được mở rộng có nhiều thuận lợi trong việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường, nhiệt tình tâm
huyết bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên để từng bước nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên trong toàn trường. Đặc biệt BGH rất quan tâm bồi dưỡng cho
giáo viên về công tác phát triển ngôn ngữ tiếng Việt đối với các cháu học sinh
vùng dân tộc thiểu số.
_______________________________
Ghi chú (Giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở trang này):
- Đoạn từ “Một số dân tộc ………….. bằng tiếng Việt” được tác giả tham khảo nguyên văn từ nguồn tài liệu
tham khảo số 1

4


100% cán bộ, giáo viên trong nhà trường có trình độ chuẩn trong đó có
nhiều cán bộ, giáo viên có trình độ trên chuẩn và bản thân tôi là một giáo viên
đã có trình độ Đại Học SPMN nên thuận lợi cho việc học hỏi kinh nghiệm của
bản thân.

Năm học 2016 - 2017 bản thân được Ban giám hiệu nhà trường phân công
phụ trách lớp mẫu giáo 3-4 tuổi C1 với tổng số cháu là 25 cháu, phần lớn các
cháu ở khu dân cư, thôn bản lân cận.
Có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giáo viên phụ trách nhóm lớp cùng
thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ.
2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên thì bản thân còn gặp không ít những khó
khăn trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ nói chung và hoạt động phát triển
giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ nói riêng cụ thể như:
Trường Mầm non Ngọc Sơn thuộc địa bàn xã nghèo, vùng kinh tế đặc biệt
khó khăn, đời sống nhân dân mức thu nhập thấp. Một số gia đình phải gửi con
cho ông bà đi làm ăn xa để phát triển kinh tế gia đình nên không có điều kiện
phối hợp với nhà trường thực hiện nhiệm vụ CSGD các cháu và đặc biệt là
không có thời gian để phối hợp với giáo viên trong việc giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ tiếng Việt.
100% số trẻ trong nhóm lớp là con em người DTTS thường xuyên sử
dụng tiếng Mường nên việc phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ là một việc
làm hết sức khó khăn.
Để thực hiện tốt việc giúp trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số
giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo
trong hoạt động chăm sóc giáo dục, tổ chức đa dạng các hình thức giúp trẻ tích
cực chủ động hoạt động khám phá lĩnh hội tri thức về phát triển ngôn ngữ tiếng
Việt một cách hệ thống phù hợp với khả năng của trẻ ở lớp.
2.3. Thực trạng khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ
lớp mẫu giáo 3-4 tuổi C1 người dân tộc thiểu số ở trường mầm non
Ngọc Sơn:
Qua quá trình điều tra, khảo sát thực trạng về khả năng của trẻ mẫu giáo
3-4 tuổi lớp C1 người dân tộc thiểu số giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt bằng
cách trò chuyện, tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Bản thân nhận
thấy được kết quả thực trạng về khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt của

trẻ cụ thể như sau:

5


Nội dung

Đạt
Chưa đạt
Số trẻ
khảo Số Tỷ Số trẻ Tỷ lệ
sát
trẻ lệ

- Nghe hiểu các từ chỉ người, hành động,
tên gọi đồ vật, sự vật hiện tượng quen
25
16 64
9
36
thuộc và công dụng, đặc điểm của đồ vật
bằng tiếng Việt.
- Nghe hiểu và làm theo 2 yêu cầu liên
25
15 60 10
40
tiếp bằng tiếng Việt.
- Phát âm rõ tiếng Việt. Biết sử dụng các
từ chỉ đồ vật, con vật, sự vật, hành động
25

17 68
8
32
quen thuộc trong giao tiếp bằng tiếng
Việt.
- Trả lời và đặt các câu hỏi : Tại sao? Như
thế nào? Để làm gì? Làm bằng gì? Có gì 25
15 60 10
40
khác nhau? Bằng ngôn ngữ tiếng Việt.
Từ những kết quả điều tra, thống kê trên đây ta có thể nhìn thấy rất rõ về
việc phát tiển ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ chưa đáp ứng được với yêu cầu giáo
dục mầm non hiện nay. Vì vậy bản thân đã nghiên cứu và đưa ra một vài biện
pháp của mình, hy vọng rằng qua những biện pháp đó giúp trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi
người dân tộc thiểu số giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt tốt để trẻ có thể được
phát triển một cách toàn diện, đặc biệt tạo cơ sở vững chắc để trẻ bước vào
những lớp học lớn hơn.
3. Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo
3-4 tuổi lớp C1 người dân tộc thiểu số tại trường mầm non Ngọc Sơn.
3.1. Giáo viên cần phải hiểu ngôn ngữ thứ nhất (tiếng mẹ đẻ - tiếng
mường) của trẻ để dạy trẻ học ngôn ngữ tiếng Việt.
Đây là biện pháp đầu tiên mà người giáo viên cần phải biết khi tổ chức
các hoạt động giáo dục ở trường Mầm non vùng dân tộc thiểu số. Bất cứ một
giáo viên nào khi đến vùng dân tộc thiểu số giảng dạy thì điều cần thiết nhất là
phải hiểu được ngôn ngữ nơi đây bởi có hiểu được ngôn ngữ của trẻ thì việc
giao tiếp và tiếp cận với trẻ mới hoàn toàn dễ dàng. Bản thân tôi may mắn hơn
vì tôi cũng là người dân tộc nên việc hiểu được ngôn ngữ của trẻ quá dễ dàng và
việc tiếp cận trẻ cũng không gặp phải khó khăn gì. Tuy vậy đối với những giáo
viên không phải là người dân tộc như tôi thì bản thân giáo viên đó cũng phải tìm
hiểu và tìm cách biết được ngôn ngữ thứ nhất của trẻ như: Tiếp xúc với những

người dân tộc thiểu số nhiều hơn để hiểu tiếng của họ, hỏi đồng nghiệp những
người là dân tộc để tìm hiểu, … Có như vậy thì giáo viên mới hiểu được ngôn
ngữ của trẻ dân tộc thiểu số và có biện pháp tốt giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
tiếng Việt một cách có hiệu quả.
Ví dụ 1: Cháu Bảo Nam ngày đầu tiên đến lớp, cháu hoàn toàn nói bằng
tiếng mẹ đẻ (tiếng Mường). cháu cứ khóc và nói:
6


- “Cô giào ới, cho xôn vến ốông múu!”
- “Xôn chăng ở ní, xôn moành vến”….
-> Có nghĩa là : “Cô giáo ơi, cháu muốn về với Bà, cháu không ở đây đâu,
cháu muốn về”.
Khi nghe cháu khóc và nói như vậy tôi đã hiểu và đã an ủi cháu bằng
tiếng Mường cho cháu hiểu. Từ đó tôi dễ dàng giao tiếp và tiếp cận với cháu
hơn. Khi cháu nín và không còn đòi về nữa tôi bắt đầu dạy cho cháu nói bằng
ngôn ngữ tiếng Việt, tôi giải thích cho cháu hiểu khi đến lớp là phải nói bằng
tiếng Việt chứ không được nói bằng tiếng Mường. Từ đó cháu đã nói với tôi
bằng tiếng Việt.
Khi sử dụng biện pháp này sẽ tạo được sự mạnh dạn và tự tin cho trẻ khi
đến lớp, trẻ không cảm thấy bỡ ngỡ và quá lạ lẫm khi đến với một môi trường
mới mà trẻ vẫn cảm thấy gần gũi như chính ở trong gia đình của mình. Từ đó trẻ
dễ bộc lộ cảm xúc và trò chuyện với bạn bè, với cô giáo một cách tự nhiên và có
thể nói được nhiều hơn. Tuy nhiên khi sử dụng biện pháp này tuyệt đối giáo viên
không được lạm dụng quá nhiều tiếng mẹ đẻ (tiếng Mường) để giao tiếp với trẻ
mà cần phải nhận thức rõ: Chỉ dạy trẻ giao tiếp trong những trường hợp đặc biệt
như: trẻ chưa hiểu, trẻ không cảm nhận được khi giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng
Việt vì quá khó. Khi đó thì giáo viên được phép sử dụng tiếng Mường để dạy
cho trẻ chứ không có nghĩa là lạm dụng tiếng Mường để giao tiếp với trẻ. [1]
Ví dụ 2: Khi trò chuyện với trẻ tôi giới thiệu, cô tên là Vân. Tôi hỏi trẻ:

Con tên là gì? Nếu trẻ nhút nhát chưa trả lời được thì tôi hỏi cả lớp có bạn nào
biết tên của bạn không? Sau đó động viên trẻ nói tên của mình trước cả lớp. Nếu
trẻ không hiểu tiếng Việt thì tôi giải thích và hỏi trẻ bằng tiếng Mường cho trẻ
hiểu, sau đó dạy cho trẻ nói bằng tiếng Việt.
(Cụ thể: - Tôi hỏi:
Con tên gì?
- Cháu Mạnh: Con xên Mánh (Con tên Mạnh)
- Tôi : Con ơi : Con xên Mánh là tiếng Mường, còn tiếng Việt gọi là
Con tên Mạnh nhé. Con nói lại cùng cô nào! Con tên Mạnh ạ ( trẻ nhắc lại 3
lần).
Tôi hỏi cháu khác:
- Còn con tên là gì?
- Cháu Thái: …..nhút nhát không trả lời.
- Tôi phải sử dụng tiếng mẹ đẻ để hỏi cháu khuyến khích cháu trả lời:
Xên con là Thài ạ (Tên con là Thái ạ). Sau đó cô dạy trẻ trả lời bằng tiếng Việt.
Nào con nói theo cô nào. Tên con là Thái ạ. Đúng rồi con rất giỏi, con nói lại
lần nữa to hơn nào! Cho trẻ nhắc lại 3 lần. Các cháu khác trong lớp cũng tương
tự như vậy. Cô nhắc trẻ đến trường không nói tiếng Mường mà phải nói bằng
tiếng Việt các con nhé.
_______________________________
Ghi chú (Giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở trang này)
- Trong ví dụ 1: Đoạn từ “Khi sử dụng ................. với trẻ” được tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 1.

7


Trong giờ điểm danh tôi gọi tên trẻ và yêu cầu: Cô gọi tên bạn nào thì bạn
đó đứng lên khoanh tay và nói: Con dạ cô! Đối với những cháu nhút nhát thì tôi
động viên và khuyến khích cháu nhiều hơn.
Ở những câu hỏi tôi đặt ra nếu trẻ không hiểu tiếng việt thì tôi sẽ giải

thích và hỏi trẻ bằng tiếng Mường. Sau đó tôi sẽ dạy cho trẻ phát âm bằng ngôn
ngữ tiếng Việt.
Ví dụ 3: Cho trẻ quan sát bức tranh vẽ Con gà, tôi hỏi: Đây là con gì?
Nhiều trẻ chưa biết Con gà mà chỉ biết là “Con Kha” (tiếng mường) tôi sẽ
phải giải thích “Con kha” là tiếng Mường còn tiếng Việt gọi là “Con gà” chính
vì thế các con phải nói là “Con gà”. Sau đó cho trẻ phát âm “Con gà” 3 lần.
Đặc biệt gọi những trẻ chưa biết phát âm bằng tiếng Việt đứng lên để phát âm
nhiều lần.
Trong quá trình nhận thức, khi được sử dụng tiếng mẹ đẻ trẻ sẽ biết nhanh
và chính xác hơn bản chất của các sự vật hiện tượng, bởi vì trẻ hiểu được nghĩa
trước khi học một khái niệm mới. Do vậy, giáo viên biết tiếng dân tộc thì rất dễ
dàng trò chuyện với trẻ hơn. Nếu giáo viên không biết tiếng dân tộc thiểu số thì
giáo viên có thể mời cha mẹ hoặc nhân viên hay giáo viên đồng nghiệp biết
tiếng dân tộc thiểu số hỗ trợ trong việc trò chuyện với trẻ. Giáo viên cần đưa ra
chủ đề và hướng dẫn cho người hỗ trợ cách trò chuyện, cách đặt câu hỏi. [1]
Ví dụ 4:
- Đặt câu hỏi kích thích trẻ tìm kiếm và khám phá về bản chất sự vật hiện
tượng (Đây là cái gì? Để làm gì? Trông như thế nào? ….)
- Tôi: Đây là cái gì?(Chỉ vào cái bát)
- Trẻ: Cày tóoi (Cái bát)
- Tôi: Con nói đúng rồi nhưng đó là tiếng mường, khi đếp lớp con phải
nói là “Cái Bát” con nhé. Bây giờ con nói theo cô nào:
- Tôi: Đây là cái bát ạ!
- Trẻ: Đây là cái bát ạ!
- Cái bát để làm gì?
- Trẻ: Cái bát để ăn cơm ạ!
- Câu hỏi giúp trẻ giải thích, suy đoán, phỏng đoán diễn biến của sự vật
hiện tượng (Tại sao? Điều gì sẽ sảy ra? ….)
- Tôi: Tại sao con cá sống dưới nước?
- Trẻ: Vì con cá là động vật sống dưới nước.

- Tôi: Cô để con cá trên sân không có nước điều gì sẽ xảy ra?
- Trẻ: Con cá sẽ chểt ạ!
- Tôi: Con nói đúng rồi, nhưng “Chểt” là tiếng mường, con phải nói
bằng tiếng Việt là “Chết” nhé. Cô mời con nói lại cả câu nào!
- Trẻ: Con cá sẽ chết ạ!
__________________________________
Ghi chú (Giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở trang này):
- Trong ví dụ 3: Đoạn từ “Trong quá trình ...... câu hỏi” được tác giả tham khảo nguyên văn từ nguồn tài liệu số 1

8


Qua cách đặt câu hỏi cho trẻ trả lời tôi đã giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ tiếng
Việt được nhiều hơn.
Có thể nói rằng đây là một biện pháp giúp các cháu lĩnh hội được kiến
thức rất nhanh và khi áp dụng vào thực tế lớp tôi phụ trách tôi thấy rằng sự phát
triển ngôn ngữ tiếng Việt của các cháu được nâng cao một cách rõ rệt. Chính vì
thế mà giáo viên cần phải hiểu ngôn ngữ thứ nhất (tiếng mẹ đẻ - tiếng Mường)
của trẻ để dạy trẻ học ngôn ngữ tiếng Việt. Đây là một biện pháp hữu hiệu cơ
bản đầu tiên để giúp trẻ lĩnh hội ngôn ngữ tiếng việt khi trẻ đến trường.
3.2. Biện pháp tạo môi trường giao tiếp thường xuyên bằng tiếng việt
để phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ.
Cho trẻ nghe, nói tiếng việt trong các tình huống giao tiếp hàng ngày giữa
cô và trẻ, giữa trẻ và trẻ để tạo cho trẻ thói quen sủ dụng tiếng Việt. Qua đó trẻ
sẽ học nói tiếng Việt một cách tự nhiên và có hiệu quả. Cho trẻ lĩnh hội vốn từ,
ngữ pháp tiếng Việt… không tách rời khỏi hoạt động lời nói.
Ví dụ: Trong giờ điểm danh, ngoài thời gian điểm danh gọi tên trẻ tôi sẽ
dành thêm thời gian để trò chuyện với trẻ về các lĩnh vực trong cuộc sống như:
Hôm nay các con được ai đưa đi học? (mỗi trẻ trả lời bằng câu trả lời riêng:
Bố, mẹ, ông, bà…..), Bố, mẹ các con ở nhà làm gì? ( Làm ruộng, bán hàng,…).

Hoặc trong giờ hoạt động góc, trẻ chơi giao lưu với nhau bằng tiếng mẹ đẻ,vì
vậy khi phân vai chơi cho trẻ thì tôi cũng đóng vai chơi cùng với trẻ, tôi đến
từng góc chơi và chơi cùng trẻ, giao tiếp với trẻ bằng tiếng việt: Bác mua cái gì?
Cái này bao nhiêu tiền? Hôm nay bác nấu món gì?... giúp trẻ giao tiếp với cô và
các bạn bằng ngôn ngữ tiếng việt thường xuyên trong mọi hoạt động. Trong
từng trường hợp tôi luôn chú ý sửa sai cho trẻ.
- Bên cạnh tôi luôn chú trọng việc mở rộng và tích cực hóa các thành
phần giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt với trẻ, như mời các cô giáo, các bậc
phụ huynh (những người biết tiếng Việt) đến trò chuyện, giao tiếp với trẻ để tạo
cơ hội cho trẻ được nghe và nói.
Ví dụ: Trong giờ sinh hoạt nhận xét bé ngoan cuối tuần, có tuần tôi mời
cô Hiệu trưởng hoặc cô Phó hiệu trưởng đến trò chuyện với trẻ. Các cô sẽ đến và
hỏi thăm trẻ, trò chuyện với trẻ một cách cởi mở, trẻ sẽ được giao tiếp trong môi
trường tiếng Việt, được nghe và được nói sẽ mở rộng thêm được môi trường
giao tiếp của trẻ đối với những người xung quanh trẻ.
- Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục bản thân đã thường
xuyên sử dụng các phương tiện hỗ trợ như: băng đĩa, máy tính, ti vi… để trẻ
được nghe và phân biệt âm thanh từ các giọng khác nhau.
Ví dụ: Cho trẻ nghe kể chuyện trên băng đĩa, cho trẻ nghe các bài hát trên
loa đài, cho trẻ xem phim hoạt hình trên máy tính, …
- Tôi cũng đã tăng cường các hình thức mang tính chất cộng đồng, tập thể
như: chơi trò chơi, văn nghệ, tập làm lớp trưởng, … để trẻ có cơ hội thể hiện
mình.

9


Ví dụ: Cho trẻ tập làm lớp trưởng, khi lên làm lớp trưởng thì trẻ phải nói
to, rõ ràng và điều hành được cả lớp trong một số hoạt động như: hô cả lớp đứng
nghiêm, cho cả lớp chơi trò chơi. Gọi 1-2 trẻ mạnh dạn lên trước sau đó khuyến

khích những trẻ khác lên để được thể hiện mình giống bạn.
Ngoài ra tôi còn tạo môi trường chữ viết tiếng Việt ngay trong lớp học:
Đây là biện pháp giúp trẻ làm quen với chữ viết tiếng Việt, làm tiền đề cho việc
phát triển ngôn ngữ tiếng Việt sau này.
- Trong lớp học tôi đã tạo môi trường tiếng việt bằng chữ viết như: Các
góc chơi, các đồ dùng dạy học, các danh sách biểu bảng,… đều có chữ, từ tiếng
việt để trẻ được làm quen.
Ví dụ: Ở các góc đều có tên gọi như góc văn học thì tôi đặt tên là: Bé kể
chuyện sáng tạo.
Góc âm nhạc tôi đặt tên là: Ca sĩ tí hon.
Góc xây dựng tôi đặt tên là: Bé yêu xây dựng,
Góc học tập thì có tên là: Ai thông minh nhanh trí.
Góc nấu ăn tôi đặt tên là: Đầu bếp nhí.,…
Khi cho cháu chơi ở góc nào tôi luôn hỏi cháu là các con đang chơi ở góc
gì? Và cho trẻ phát âm tên góc. Ví dụ: Ca sĩ tí hon, đầu bếp nhí,…
Tất cả những tên của các góc đó tôi đều viết bằng chữ cái in thường để
cho các cháu dễ nhận biết chữ và dễ tiếp xúc hơn trong quá trình học tập.
- Khi sử dụng biện pháp tạo môi trường giao tiếp thường xuyên bằng
tiếng việt như vậy tôi nhận thấy trẻ rất tiến bộ và thích giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng việt hơn. Từ đó vốn từ vựng tiếng Việt của trẻ được tăng lên đáng kể, góp
phần làm phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ.
3.3. Giáo viên chú ý sửa lỗi phát âm và rèn giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng Việt cho trẻ ở mọi thời điểm.
Đây là biện pháp yêu cầu giáo viên luôn luôn phải quan sát và để ý đến
trẻ. Nghĩa là trong mọi hoạt động của trẻ cô giáo đều phải chú ý quan tâm, nhắc
nhở trẻ thường xuyên và rèn cho trẻ có thói quen giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng
Việt, tránh để trẻ giao tiếp lạm dụng bằng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ với nhau. Khi
đó giáo viên có thể sửa sai cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi và ở mọi hoạt động.
Tôi luôn chú ý lắng nghe trẻ phát âm và sửa sai cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Ví dụ: Cháu Bảo Trâm rất hay phát âm sai lỗi và cả phát âm nửa tiếng

Mường nửa tiếng Việt rất khó nghe. Giờ hoạt động góc cháu muốn sang lớp cô
Dung chơi nên cháu đã xin phép tôi và nói bằng tiếng Mường:
- Cháu Bảo Trâm: Cô giào ới con moònh lái lởp cô Dung giốông, cô cho con lái
giốông cô nớ. (Con muốn sang lớp cô Dung chơi, cô cho con sang chơi cô nhé)
- Tôi: Con phải nói theo cô nào: Cô giáo ơi Con muốn sang lớp cô Dung chơi,
cô cho con sang chơi cô nhé. (Cho cháu nói lại nhiều lần).
- Tôi: Con giỏi lắm. Con nhớ cô dặn nào. Khi đến trường con phải nói bằng
tiếng Việt không được nói bằng tiếng Mường con nhé!
- Cháu Bảo Trâm: Con dạ cô!
10


- Với những cháu khác cũng vậy, khi nghe các cháu phát âm chưa đúng
thì tôi đều chú ý lắng nghe và sửa sai cho trẻ ngay lập tức. Từ đó các cháu được
sửa sai và học được thêm từ mới.
- Các cháu vùng dân tộc thiểu số phát âm và giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng Mường rất là hồn nhiên và bột phát, chính vì vậy ở mọi hoạt động các cháu
thích giao tiếp với nhau cho dễ hiểu và dễ chơi với nhau hơn và dần dần trở
thành thói quen ngay cả khi các cháu đang ngồi trong lớp học, đang chơi với
nhau ngoài xã hội. Vì vậy giáo viên cần phải quan tâm để ý đến các cháu học
sinh của mình ở mọi lúc mọi nơi, luôn phải nhắc nhở trẻ một cách kịp thời trong
mọi tình huống, sửa sai và hướng dẫn cho trẻ dần dần trẻ sẽ nhận thức được và
trở thành thói quen tốt trong việc giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt..
Khi vốn từ tiếng Việt của trẻ được tăng lên thì tôi dùng biện pháp hình
thức thi đua ở mọi lúc mọi nơi. Lứa tuổi của trẻ đang còn rất ngây thơ và trong
sáng, nhưng trẻ lại rất thích được thể hiện mình trước các bạn và các cô, chính vì
thế tôi luôn tạo ra môi trường thi đua cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi để cho trẻ thể
hiện khả năng của mình. Trên yêu cầu của cô là phải giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng Việt.
Ví dụ: Giờ tập làm lớp trưởng: Tôi cho cả lớp thi đua nhau ai hô tốt, nhớ

trò chơi nhất thì được thưởng điểm 10, thưởng kẹo, …. Các cháu rất hào hứng
và ai cũng muốn được thưởng nên các cháu lên thể hiện mình rất tốt. Ớ các giờ
hoạt động khác cũng vậy, như giờ học bài: Tôi khuyến khích trẻ giơ tay phát
biểu ý kiến, khi đúng lên phát biểu ý kiến thì phải nói to, rõ ràng và nói đầy đủ
câu,… ai làm được như vậy thì tôi sẽ thưởng đồ chơi, hoa bé ngoan, bánh, kẹo,
… các cháu rất thích và thi đua nhau phát biểu để nhận thưởng.
- Ở trẻ dân tộc thiểu số, nhiều khi các cháu chưa hiểu hết tiếng Việt và khi
nói chuyện với nhau hoặc nói chuyện với cô giáo bằng tiếng Việt nhưng vẫn nói
lộn cả tiếng mẹ đẻ (Tiếng Mường) vào câu chuyện. Chính vì thế là một giáo viên
tôi luôn luôn chú ý và sửa lỗi sai và dạy tiếng Việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Khi nào nghe cháu nói sai, nói chưa đúng là tôi sửa ngay cho trẻ.
Ví dụ 1: Trong giờ chơi hoạt động góc tôi đã nghe hai cháu Thu Uyên và
Trường Giang nói chuyện với nhau, các cháu nói chuyện rất hồn nhiên nhưng
còn nói lẫn cả tiếng Mường và tiếng Việt. Khi các cháu trao đổi tôi đã kịp sửa lỗi
cho các cháu. Cụ thể như:
- Thu Uyên: Trường Giang ơi! Lấy cái nồi đây cho Uyên nào!
- Trường Giang: Lấy cái nồi làm gì?
- Thu Uyên: Lấy để nấu Xôm Xôm (Lấy để nấu Tôm)
- Trường Giang: này, bỏ Xôm Xôm vào!(Bỏ Tôm vào)
- Tôi: Các con đang nấu món gì đấy!
- Cả hai: Nấu Xôm Xôm ạ! (Tôm ạ)
- Tôi: À các con ơi con Xôm Xôm là gọi bằng tiếng Mường, còn tiếng Việt
gọi bằng con “Tôm” đấy các con nhớ chưa. Bây giờ các con phát âm cùng cô
nào “Con Tôm”3 lần
11


- Tôi: Giỏi lắm, các con nhớ chưa nào! Bây giờ từng bạn nói lại cho cô
nào!
- Thu Uyên: Con Tôm ạ!

- Trường giang: Con Tôm ạ!
Trong mọi tình huống, tôi luôn chú ý quan sát và để ý đến trẻ, thấy trẻ nói
sai tôi liền sửa sai và nhắc nhở trẻ.
Ví dụ 2: Thấy cháu Nam bị xước ở đầu gối, tôi gọi cháu đến và hỏi:
- Tôi: Đầu gối của con bị làm sao đây?
- Cháu Nam: Con chắn lanh bí lở (Con chạy nhanh bị ngã)
- Tôi: Thế à. Nhưng con ơi. Con chắn lanh bí lở, là nói bằng tiếng Mường
đấy. Nhưng nói bằng tiếng Việt là (Con chạy nhanh bị ngã). Vì vậy con phải nói
bằng tiếng Việt nhé.
- Tôi: Con nói lại cùng cô nào: (Con chạy nhanh bị ngã) 3 lần
Ở bất cứ thời điểm nào tôi cũng đều tạo hình thức thi đua để cho trẻ thi
đua nhau, biện pháp này áp dụng rất tốt giúp trẻ có khả năng giao tiếp bằng ngôn
ngữ tiếng việt một cách có hiệu quả.
-> Khi giáo viên luôn chú ý sửa lỗi phát âm và rèn giao tiếp bằng ngôn
ngữ tiếng Việt cho trẻ ở mọi thời điểm đối với các cháu lớp tôi, tôi nhận thấy nó
có ý nghĩa sát thực và các cháu có tiến bộ rõ rệt trong việc giao tiếp bằng ngôn
ngữ tiếng Việt.
3.4. Tạo sự hứng thú và tự tin khi học tiếng Việt cho trẻ thông qua cách
sử dụng trò chơi để phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ.
Trẻ mầm non học qua chơi vì trò chơi luôn mang lại hứng thú cho trẻ.
Nên việc tổ chức cho trẻ chơi trò chơi để trẻ học tiếng Việt cũng là một biện
pháp rất cần thiết. Cô giáo cần lựa chọn các trò chơi trong các quyển tuyển tập
trò chơi và câu đố theo lứa tuổi để dạy cho trẻ chơi. Để tạo được sự hứng thú và
tự tin cho trẻ khi chơi các trò chơi cô giáo cũng cần lựa chọn các trò chơi có các
câu đơn giản, câu ngắn có nội dung gần gũi, dễ hiểu, gắn liền với kinh nghiệm
sống hàng ngày của trẻ. Khi trẻ được chơi các trò chơi trẻ sẽ hóa thân vào vai
chơi và thực hiện nhiệm vụ của mình trẻ sẽ dễ dàng tiếp cận với ngôn ngữ tiếng
Việt hơn. [3]
Ví dụ 1: Cho trẻ chơi trò chơi “Truyền tin”. [4]
Cách chơi là trẻ được chia thành 2-3 nhóm, sau đó mỗi nhóm sẽ cử 1 bạn

lên nhận tin từ cô giáo, tin đó là câu “Con chim chích”, Sau khi trẻ lên nghe
được lệnh truyền tin thì trẻ đó sẽ về đội của mình và nói thầm vào tai bạn bên
cạnh từ “Con chim chích” và bạn vừa được nghe từ đó lại đến bên bạn tiếp theo
nói thầm vào tai bạn từ đó, cứ thế cho đến bạn cuối cùng trong nhóm sẽ chạy lên
và nói thật to từ mà cô giáo truyền tin cho nhóm mình. Trẻ nói được đúng từ mà
cô giáo truyền tin sẽ nhận được 1 phần quà do cô giáo chuẩn bị.
Ghi chú (Giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở trang này):
- Trong mục 3.4: Đoạn từ: ”Trẻ mầm non ............. tiếng Việt hơn” được tác giả tham khảo từ nguồn tài liệu số 3.
- Tương tự, ở các ví dụ 1: Trò chơi ”Truyền tin’’ được tham khảo ở nguồn tài liệu số 4

12


Ví dụ 2: Cho trẻ chơi trò chơi Tiếng con vật gì?[4]
Trò chơi này tôi chuẩn bị một mô hình bằng bìa, một số con vật bằng đồ
chơi. Tôi đặt mô hình ngôi nhà trước mặt trẻ và các con vật để sau ngôi nhà. Tôi
đứng nấp sau ngôi nhà, giả tiếng kêu của con vật rồi hỏi trẻ: Con gì kêu? Khi trẻ
nói được tên con vật đó tôi đưa con vật đó ra trước ngôi nhà cho trẻ quan sát và
kiểm tra xem trẻ đó nói có đúng không. Ví dụ: Tôi giả tiếng kêu “Meo meo
meo” trẻ phải nói được “Con mèo kêu”
Tôi phát âm “Ò ó o” trẻ phải nói “Tiếng gà gáy”
Tôi nói “Gâu gâu gâu” trẻ nói “Tiếng chó sủa”
Ví dụ 3: Trò chơi Nu na nu nống [4]
Cho trẻ ngồi duỗi thẳng chân, cô cho trẻ đếm chân mình, chân của bạn.
Cô hỏi trẻ: Phía bên phải (trái) của con có bao nhiêu chân?Con ngồi cạnh bạn
nào? Ngồi giữa những bạn nào?,…. Sau đó cô vừa hát “Nu na nu nống” vừa vỗ
tay vào từng chân trẻ, từ cuối cùng của bài đồng dao (Từ đánh trống) dừng lại ở
chân trẻ nào thì trẻ đó co chân đó lại. Trò chơi cứ tiếp tục như thế cho đến khi tất
cả các chân đều co lại hết. Những lần chơi sau cô để trẻ tự chơi với nhau và tự
đọc lời của bài đồng dao:

Lời 1
Lời 2
Nu na nu nống
Nu na nu nống
Cái bống nằm trong
Đánh trống phất cờ
Con ong nằm ngoài
Mở cuộc thi đua
Củ khoai chấm mật
Chân ai sạch sẽ
Phật ngồi phật khóc
Gót đỏ hồng hào
Con cóc nhảy ra
Không bản tí nào
Con gà ú ụ
Được vào đánh trống.
Nhà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tay xòe chân rụt.
Khi chơi trò chơi này trẻ sẽ học được các từ mới, giúp trẻ lĩnh hội được
thêm vốn từ vựng làm tăng khả năng phát âm tiếng Việt.
-> Tạo sự hứng thú và tự tin khi học tiếng việt cho trẻ thông qua cách sử
dụng trò chơi để phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ là một biện pháp rất tốt,
gây được sự hứng thú cho trẻ trong giao tiếp, trẻ lĩnh hội được nhiều từ mới giúp
trẻ phát triển ngôn ngữ tiếng Việt một cách rõ rệt.

_________________________________
Ghi chú (Giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở trang này):
- Ở ví dụ 2: Tên trò chơi ”Tiếng con vật gì” được tác giả tham khảo trong nguồn tài liệu số 4.
- Ở ví dụ 3: Tên trò chơi ”Nu na nu nống” được tác giả tham khảo trong tài liệu tham khảo số 4.


13


3.5. Biện pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để giúp trẻ
giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc chuẩn
bị tiếng Việt cho trẻ sẽ giúp trẻ được thường xuyên giao tiếp bằng tiếng Việt và
có thêm được nhiều cơ hội để sử dụng tiếng Việt vì tiếng Việt là mối quan tâm
hàng đầu cho trẻ, không chỉ riêng cho một gia đình hoặc một nhà trường đơn lẻ
mà là mối quan tâm cho toàn cộng đồng xã hội. Hiện nay cộng đồng trên toàn xã
hội đã và đang quan tâm rất nhiều đến vấn đề phát triển ngôn ngữ tiếng Việt phổ
thông cho trẻ em, đặc biệt là cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Chính vì thế sự
phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội là rất cần thiết và quan
trọng để phát triển một cách toàn diện cho trẻ nói chung và phát triển ngôn ngữ
tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số nói riêng. [6]
- Đây là ba môi trường hoạt động của trẻ diễn ra hàng ngày.Khi ở trường
thì cô giáo quan tâm, rèn luyện, cung cấp cho trẻ những kiến thức, trẻ tiếp thu
lĩnh hội và phản ánh lại ở mọi hoạt động. Chính vì thế cô giáo phải phối hợp với
gia đình, với phụ huynh để phụ huynh nắm được những gì trẻ đã học được và
khi về nhà có thể củng cố lại cho trẻ, và cũng giúp gia đình hiểu rõ việc nâng
cao chất lượng giao tiếp cho trẻ bằng ngôn ngữ tiếng Việt là rất cần thiết. Để khi
ra xã hội đây là một môi trường để trẻ trải nghiệm rõ rệt nhất kiến thức mà mình
được học.
- Muốn làm tốt biện pháp này mỗi giáo viên mầm non phải làm tốt được
công tác xã hội hóa giáo dục, phải thông qua nhiều hình thức như: Tôi xây dựng
góc tuyên truyền với phụ huynh về những nội dung, kiến thức cần chăm sóc giáo
dục trẻ để dễ trao đổi và phối hợp một cách kịp thời giúp cho trẻ ngày càng phát
triển.
Ví dụ: Ở trên lớp tôi đã làm một góc “phụ huynh cần biết” trong đó tôi có

ghi mọi thông tin của trẻ, các chuyên đề cần trao đổi, thay đổi các chủ đề để phụ
huynh tiện thể nắm bắt được. Hàng ngày thông qua giờ đón trẻ, trả trẻ tôi cũng
thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ, tuyên truyền với phụ
huynh về việc nâng cao chất lượng giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ.
Hạn chế việc trao đổi bằng tiếng Mường khi đến trường, ra xã hội và ngay cả
trong sinh hoạt gia đình.
Ngoài ra tôi còn tổ chức các giờ dạy và mời phụ huynh đến dự để phụ
huynh có kiến thức về cách dạy trẻ giao tiếp bằng tiếng Việt ở gia đình. Những
buổi hoạt động ngoại khóa của lớp, của trường như các ngày tổ chức văn nghệ,
tọa đàm tôi cũng đều mời phụ hynh đến dự.
___________________
Ghi chú (Cho việc trích dẫn TLTK ở trang này)
- Trong mục 3.5: Đoạn từ ”Sự phối hợp ....... nói riêng” được tác giả tham khảo từ nguồn tài liệu tham khảo số 6

14


Không những thế tôi luôn tranh thủ cơ hội được gặp gỡ trao đổi với phụ
huynh qua các giờ đón, trả trẻ, tuyên truyền với phụ huynh khi ở gia đình phải
thường xuyên giao tiếp với các cháu bằng ngôn ngữ tiếng Việt để các cháu có
thói quen sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong các tình huống giao tiếp và các hoạt
động hàng ngày.
Ví dụ: Phụ huynh trò chuyện với trẻ bằng tiếng Việt trong các bữa ăn
hàng ngày ở nhà, các giờ chơi và đi chơi cùng gia đình,…
Khi đến lớp các cô nhắc trẻ chào bố mẹ ông bà,... bằng tiếng việt trước khi vào
lớp và chào cô giáo trước khi về. Luôn nhắc nhở và trao đổi với phụ huynh nên
trò chuyện thật nhiều với trẻ bằng tiếng Việt để các cháu có thói quen nói tiếng
Việt ở mọi nơi.
-> Tôi nhận thấy sự phối hợp này rất là tốt, phụ huynh cũng rất sẵn sàng
giúp đỡ và tạo điều kiện giúp con em mình học tập và hạn chế được nhiều hình

thức giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, thay vào đó sự giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng
Việt của trẻ ngày một phát triển.
4. Hiệu quả của một số biện pháp phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho
trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi xây dựng được một số biện pháp phát triển ngôn ngữ tiếng Việt
cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số như trên, tôi đã tiến hành thực
nghiệm một số biện pháp đó trên trẻ lớp mẫu giáo 3-4 tuổi C1 mà tôi phụ trách.
Bản thân tôi vô cùng vui sướng và lấy làm hạnh phúc trước kết quả đáng ngờ.
Tuy gặp phải rất nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu và áp dụng những
biện pháp này trên trẻ nhưng kết quả mong đợi đã đem lại niềm vui cho tôi và
làm cho tôi có một hướng phấn đấu, niềm tin vào tương lai và hoàn toàn yên tâm
trong sự nghiệp “Trồng người”.
Đối với giáo viên: Giao tiếp dễ dàng với học sinh để truyền tải kiến thức
cho trẻ một cách đầy đủ nhất. Rút ngắn khoảng cách đối với trẻ. Giúp trẻ có
nhiều kỹ năng tốt trong giao tiếp tiếng Việt. Tạo được niềm tin cho phụ huynh
yên tâm gửi con em mình.
Đối với phụ huynh: Tin tưởng tuyệt đối với các cô và nhà trường, giúp các
cô yên tâm công tác. Có một cái nhìn mới đối với cách sử dụng ngôn ngữ tiếng
Việt trong giao tiếp khi giao tiếp trong gia đình. Nhiều phụ huynh đã có hướng
tích cực trong việc dạy con em mình nói tiếng Việt trong giao tiếp. Giao tiếp cởi
mở hơn với giáo viên trong việc dạy dỗ con cái học tập, không còn tự ti và ngại
giao tiếp trao đổi với giáo viên.
Đối với trẻ: Các cháu mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Biết sử dụng
bằng ngôn ngữ tiếng Việt trong giao tiếp cũng như trong học tập và vui chơi.
Các cháu không còn nhút nhát thiếu tự tin, sẵn sàng phát âm chuẩn ngôn ngữ
tiếng Việt. Kết quả cụ thể như sau:

15



Nội dung

Số trẻ
khảo
sát

Đạt
Số
trẻ

Tỷ
lệ

Chưa đạt
Số
trẻ

Tỷ
lệ

Đạt
Số
trẻ

Tỷ
lệ

Chưa
đạt

Số Tỷ
trẻ lệ

- Nghe hiểu các từ chỉ người,
hành động, tên gọi đồ vật, sự
vật hiện tượng quen thuộc và
25
16 64
9
36 25 100
công dụng, đặc điểm của đồ
vật bằng tiếng Việt.
- Nghe hiểu và làm theo 2 yêu
25
15 60 10 40 24 96
1
4
cầu liên tiếp bằng tiếng Việt.
- Phát âm rõ tiếng Việt. Biết sử
dụng các từ chỉ đồ vật, con
vật, sự vật, hành động quen
25
17 68
8
32 25 100
thuộc trong giao tiếp bằng
tiếng Việt.
- Trả lời và đặt các câu hỏi :
Tại sao? Như thế nào? Để làm
gì? Làm bằng gì? Có gì khác

25
15 60 10 40 24 96
1
4
nhau? Bằng ngôn ngữ tiếng
Việt.
* Bài học kinh nghiệm:
Từ những kết quả đạt được như trên bản thân tôi đã rút ra được những bài
học kinh nghiệm như sau:
Để giúp trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số tại trường mầm non
Ngọc Sơn trước tiên giáo viên cần phải hiểu được ngôn ngữ thứ nhất (Tiếng
mường) của trẻ để dạy trẻ học ngôn ngữ tiếng Việt. Sau đó giáo viên phải biết
tạo môi trường giao tiếp thường xuyên bằng tiếng Việt để giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ tiếng Việt một cách nhanh chóng. Giáo viên cũng cần phải chú ý sửa
sai lỗi phát âm và rèn giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ ở mọi lúc mọi
nơi, mọi thời điểm để giúp trẻ có cơ hội phát triển ngôn ngữ tiếng Việt. Bên
cạnh đó một bài học kinh nghiệm vô cùng quan trọng nữa đó là giáo viên luôn
luôn phải tạo được sự hứng thú tự tin khi cho trẻ học tiếng Việt thông qua cách
sử dụng các trò chơi để phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ và cuối cùng là
phải có biện pháp phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong
việc dạy trẻ học ngôn ngữ tiếng Việt. Từ đó việc giúp trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi
người dân tộc thiểu số tại trường mầm non Ngọc Sơn đã đạt được kết quả rất
cao.
Đó là những bài học kinh nghiệm bổ ích mà tôi đã rút ra sau khi áp dụng
thành công “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ tiếng việt cho trẻ mẫu giáo 34 tuổi người dân tộc thiểu số tại trường mầm non Ngọc Sơn”.
16


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:

Ở lứa tuổi mầm non là thời kì phát cảm ngôn ngữ và giao tiếp, đây là giai
đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ và các kĩ năng
đọc viết ban đầu của trẻ. Ở lĩnh vực này trẻ đạt được những thành tích vĩ đại mà
ở các giai đoạn sớm hay muộn hơn không thể có được, Trẻ học nghĩa và cấu trúc
của từ, cách sử dụng từ ngữ để chuyển tải suy nghĩ và cảm xúc của bản thân,
hiểu mục đích và cách thức con người sử dụng chữ viết. Cùng với quá trình lĩnh
hội ngôn ngữ, trẻ còn lĩnh hội và phát triển các năng lực tư duy như xây dựng và
biểu đạt ý tưởng, chia sẻ thông tin với người khác và tiếp nhận, đáp lại ý tưởng,
thông tin của người khác.
Việc phát triển ngôn ngữ và giao tiếp phải được tiến hành một cách tích
hợp và tự nhiên bắt đầu từ những ý tưởng, kinh nghiệm gần gũi và có ý nghĩa
đối với trẻ. Những kinh nghiệm của trẻ được biểu đạt trong một ngữ cảnh có nội
dung. Trẻ cần được làm quen với ngôn ngữ nói chữ viết trong ngữ cảnh cụ thể
và thông qua các loại hình hoạt động phong phú như nghe, đọc, kể chuyện, đọc
thơ, tham quan, dạo chơi, quan sát các kí hiệu chữ viết, bảng biểu trong phòng
nhóm, vui chơi, giao tiếp và các hoạt động khác trong học tập và sinh hoạt hàng
ngày.
Cha mẹ, giáo viên mầm non và người lớn xung quanh trẻ đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo dựng môi trường ngôn ngữ phong phú, tương tác va
giao tiếp cũng như các cơ hội cho sự phát triển ngôn ngữ và giao tiếp của trẻ.
Bên cạnh đó người giáo viên mầm non muốn đạt được những kết quả như
mong muốn thì cần: Phải phát âm thật chuẩn tiếng Việt, trang bị cho mình những
kiến thức về Tiếng Việt thực hành, những lí luận cơ bản, hiện đại, hệ thống và
thiết thực về những thành tựu cơ bản, hiện đại về phát triển ngôn ngữ của trẻ. Cô
giáo cần có lòng nhiệt tình, thương yêu luôn quan tâm và gần gũi với trẻ. Cần
phát huy, sáng tạo các nội dung để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Luôn học hỏi,
nghiên cứu các tài liệu về phát triển ngôn ngữ cho trẻ để có một kiến thức thiết
thực nhất nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
2. Kiến nghị:
- Đề nghị BGH nhà trường tích cực tham mưu với Phòng Giáo dục và các

cấp lãnh đạo trang cấp đồ dùng, đồ chơi trong lớp và đồ chơi ngoài trời để nhà
trường vơi bớt những khó khăn trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.
- Tổ chức hội thảo sáng kiến kinh nghiệm và chọn những sáng kiến kinh
nghiệm hay đã được vận dụng vào thực tế để giáo viên các trường được học hỏi
kinh nghiệm lẫn nhau.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân về “Một số biện pháp
phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi lớp C1 người dân tộc
thiểu số tại trường Mầm non Ngọc Sơn”. Vì thời gian và kinh nghiệm còn ít nên
tôi chỉ đưa ra được một vài biện pháp như vậy. Trong quy trình thực hiện đề tài
17


năm học 2016 - 2017 với tinh thần trao đổi kinh nghiệm và học hỏi đồng nghiệp.
Tôi rất mong nhận được sự quan tâm của các cấp quản lý và đồng nghiệp góp ý
cho sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn, tham gia một phần nhỏ
bé vào sự nghiệp giáo dục trẻ thơ của huyện nhà.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Ngọc Sơn, ngày10 tháng 02 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Người thực hiện

Phạm Thúy Vân

18




×