1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Như ta đã biết, môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo
bao quanh con người. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại,
phát triển của con người và thiên nhiên. Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt
đối với đời sống con người, sự phát triển kinh tế, văn hóa của nhân loại. Khi môi
trường bị ô nhiễm sẽ gây hại đến sức khỏe con người, sự phát triển của sinh vật
và làm giảm chất lượng cuộc sống. Đặc biệt môi trường có vai trò vô cùng to lớn
đối với sự phát triển của trẻ, bởi giai đoạn này cơ thể trẻ rất non nớt và đang
phát triển mạnh cả về thể lực và tâm lý. Một môi trường tự nhiên sạch đẹp giúp
cho cơ thể trẻ phát triển tốt, một xã hội lành mạnh sẽ giúp cho nhân cách trẻ
được hình thành. Có thể nói rằng môi trường là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường
đang diễn ra liên tục ở tất cả các nước trên thế giới, ô nhiễm môi trường ảnh
hưởng tới toàn cầu như tình trạng ô nhiễm không khí, nguồn nước, hạn hán, lũ
lụt... Ở Việt Nam đang bị ô nhiễm nặng nề do sự bùng nổ dân số cùng với quá
trình đô thị hóa nhà máy, xí nghiệp đã tạo ra nhiều khí thải, lượng rác trong sinh
hoạt ngày càng nhiều nhưng chưa được quan tâm xử lý tốt...
Trong những năm gần đây vấn đề khắc phục ô nhiễm và khủng hoảng môi
trường trên toàn cầu là một mục tiêu lớn của các quốc gia. Sự thiếu hiểu biết của
con người là một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên sự ô nhiễm và suy
thoái môi trường. Con người là yếu tố chính làm cho tình trạng ô nhiễm gia tăng
trầm trọng nhưng chính con người cũng là nhân tố bảo vệ môi trường và cải
thiện môi trường sống. Để có một môi trường sống trong sạch, tiết kiệm chi phí
cho quốc gia thì việc giữ gìn và bảo vệ môi trường là trách nhiệm của tất cả mọi
người, mọi nhà, mọi lứa tuổi. Bảo vệ môi trường là những hoạt động giúp cho
môi trường trong sạch, bảo vệ môi trường sinh thái, ngăn chặn khắc phục hậu
quả xấu do con người, thiên nhiên gây ra, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn
tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, giáo dục bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách và
có tính xã hội sâu sắc cần được giáo dục cho con người ngay từ lứa tuổi còn thơ.
Đây là giai đoạn đặc biệt nhạy cảm của đời người và cũng là giai đoạn đặt nền
móng cho những phẩm chất đạo đức, nhân cách để hình thành cơ sở thái độ
đúng đắn cho trẻ về thế giới xung quanh. Do đó việc giáo dục bảo vệ môi trường
cần phải được tiến hành ngay từ lứa tuổi mầm non, thông qua các hoạt động gần
gũi với trẻ như: Vui chơi, học tập, lao động.
Lứa tuổi mầm non là thời kỳ mà khả năng giao tiếp và hành động của trẻ với
môi trường xung quanh được mở rộng, trẻ bắt đầu hình thành những quan niệm
của mình về thực nghiệm xung quanh, trẻ biết tìm hiểu căn cứ vào sự đánh giá
và hành động của người lớn mà phân biệt điều tốt - xấu, biết bộc lộ được cảm
xúc, điều chỉnh hành động của bản thân để làm theo yêu cầu của người lớn. Giáo
dục bảo vệ môi trường chính là hình thành cho trẻ một số nền nếp, thói quen và
hành vi văn minh, vệ sinh đối với trường lớp, nơi công cộng, gia đình nơi mình
ở... Giúp trẻ hiểu được vai trò của môi trường và tác động của môi trường đối
1
với con người, biết phản ứng với những hành vi sai trái làm ảnh hưởng tới môi
trường.
Dựa vào tình hình thực tế của trường, trẻ của lớp mình chưa đạt được mục tiêu
cơ bản, tỉ lệ trẻ có hành vi, thái độ tham gia bảo vệ môi trường còn rất ít và không
thường xuyên. Tôi đã rất trăn trở, suy nghĩ làm thế nào để nâng cao giáo dục bảo
vệ môi trường cho trẻ đem lại kết quả tốt hơn. Mà việc giáo dục cho trẻ có ý thức
bảo vệ môi trường là một trong các nhiệm vụ quan trọng trong các trường mầm
non mà người đóng vai trò trung tâm để chuyển tải những nội dung đó đến với trẻ
là các cô giáo mầm non. Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề
tài nghiên cứu: “ Một số kinh nghiệm giáo dục trẻ 4 – 5 tuổi lớp B2 bảo vệ môi
trường ở trường mầm non Thiệu Duy - Huyện Thiệu Hóa” là đề tài nghiên cứu
cho mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mầm
non phát triển toàn diện về thể lực, sức khỏe, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, xã
hội.
- Tuyên truyền tới các bậc phụ huynh, cộng đồng nhận thức đúng vai trò,
nhiệm vụ và tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong gia đình và
trường mầm non.
- Nâng cao các nội dung hình thức bảo vệ môi trường, lồng ghép vào các hoạt
động thực hành bảo vệ môi trường để phù hợp và đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện
nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về việc “Giáo dục trẻ 4 – 5 tuổi lớp B2 bảo vệ môi trường ở
trường mầm non Thiệu Duy- Huyện Thiệu Hóa”
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nhằm đạt hiệu
quả cao nhất như:
- Tự học tập tài liệu bồi dưỡng chuyên môn và tạo môi trường hoạt động cho
trẻ.
- Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan minh họa.
- Phương pháp thực hành, trải nghiệm.
- Phương pháp quan sát, trò chuyện.
- Phương pháp dạo chơi, tham quan.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp lồng ghép, tích hợp.
- Phương pháp tuyên dương, khích lệ.
- Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin.
- Phương pháp tuyên truyền phối hợp với phụ huynh, cộng đồng.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2
- Từ thế kỉ XIX một số nước đã đưa ra những đạo luật về môi trường như: Luật
cấm gây ô nhiễm nước sông ở Anh năm 1876, luật về khói than ở Mĩ năm 1896,
luật sông ở Nhật Bản năm 1896.
- Năm 1972, trong tuyên bố của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về “Môi trường và
con người” họp tại Stockholm đã nêu “Việc giáo dục bảo vệ môi trường cho thế
hệ trẻ cũng như người lớn làm sao họ có được đạo đức, trách nhiệm trong việc
bảo vệ môi trường và cải tạo môi trường”.[1]Ngay sau đó, chương trình môi
trường của Liên Hiệp Quốc (UNEF) cùng với các tổ chức văn hóa, khoa học,
giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã thành lập chương trình giáo dục
môi trường quốc tế (IEEP). Tháng 10/1975 IEEP đã tổ chức Hội thảo Quốc tế
lần thứ nhất về giáo dục bảo vệ môi trường ở Beograde (Cộng Hòa Liên Bang
Nam Tư), kết thúc hội thảo đã đưa ra được một nghị định khung và tuyên bố về
những mục tiêu và những nguyên tắc hướng dẫn giáo dục bảo vệ môi trường.
Trong đó nêu rõ mục tiêu giáo dục môi trường là nhằm nâng cao nhận thức về
vai trò của môi trường và hiểu biết về môi trường, giúp cho mỗi người xác định
được thái độ và lối sống cá nhân tích cực đối với môi trường, có những hành
động cho một môi trường tốt đẹp.
- Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác
bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã đưa
ra những giải pháp cơ bản để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường như:
“Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và phong
trào quần chúng bảo vệ môi trường” và “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường
vào chương trình giáo dục của tất cả các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc
dân”.[2]
- Quyết định số 1363/QĐ - TT ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt đề án “Đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào hệ thống
giáo dục quốc dân”.[3]
- Quyết định 256/QĐ - TT ngày 2/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về chiến
lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
- Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8, đã
ban hành Luật bảo vệ môi trường ngày 29/11/2005 và Luật có hiệu lực ngày
1/7/2006.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Hiện nay, môi trường trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang
bị ô nhiễm nặng nề. Trước thực trạng đó giáo dục bảo vệ môi trường đã trở
thành vấn đề trở lên cấp bách mang tính chiến lược toàn cầu vì vậy chính phủ
đưa ra nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuyên truyền giáo dục
môi trường nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường, vì thế cần
giáo dục con người ngay từ lúc tuổi thơ để trẻ hiểu và nhận thức về môi trường
một cách tổng quát hơn. Đối với các cháu nhỏ đang ở độ tuổi mẫu giáo trong các
trường mầm non đã có một số biện pháp để giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
cho các cháu. Ở một số môn học cũng được lồng ghép chủ đề môi trường vào
3
giảng dạy, góp phần làm sạch hơn môi trường của chúng ta. Tuy nhiên các hoạt
động đó vẫn chưa đem lại hiệu quả lắm vì đa số trẻ nhỏ chưa có ý thức cao trong
việc bảo vệ môi trường, những việc làm của các cháu chưa có tính tự giác, khi
nào giáo viên nhắc nhở, yêu cầu thì các cháu mới làm, nếu có thì chỉ ít cháu làm.
Chính vì thế, trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi đã gặp một số thuận lợi và
khó khăn như sau:
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của phòng giáo dục, hàng năm đã tổ chức chuyên đề
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, giáo viên.
- Thường xuyên được dự các buổi sinh hoạt chuyên môn tại trường để trao
đổi đúc rút kinh nghiệm.
- Dự giờ đồng nghiệp để trau dồi kiến thức nâng cao chất lượng về việc phát
huy tính tích cực giáo dục trẻ có ý thức bảo vệ môi trường.
- Được sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà
trường, UBND xã Thiệu Duy, phụ huynh học sinh trong việc mua sắm trang
thiết bị phục vụ công tác dạy và học.
- Bản thân được đào tạo chính quy, trải qua nhiều năm công tác và hiện tại
tôi đang theo học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên được
xuống trường thực hành nên cũng đã học tập được một số kinh nghiệm trong
phương pháp dạy trẻ bảo vệ môi trường.
* Khó khăn:
- Môi trường thiên nhiên cho trẻ hoạt động chưa đảm bảo, diện tích phòng
học quá chật hẹp ảnh hưởng đến quá trình dạy học của cô và trẻ.
- Cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đồ dùng đồ chơi mẫu mã củ chưa phong
phú.
- Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi này rất hiếu động, khả năng tập trung chú ý
chưa cao, khả năng tri giác và trí tưởng tượng chưa phong phú.
- Một số trẻ 3 tuổi vẫn chưa được ra lớp, nên khả năng tiếp thu của trẻ chưa
đồng đều.
- Công tác tuyên truyền, phối hợp với các bậc phụ huynh của giáo viên
chưa sâu rộng. Một số bậc phụ huynh chưa thực sự gương mẫu trước trẻ, họ
chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của môi trường.
* Bảng khảo sát đầu năm học 2016- 2017 như sau:(Tháng 9-2016)
Trước khi nghiên cứu vấn đề này, đầu năm học tôi tiến hành khảo sát qua 41
trẻ của lớp mình và đã thu được kết quả như sau:
Yêu cầu kỹ năng
1. Trẻ có thói quen sống
Tốt
Khá
Số
trẻ
khảo
sát
Số
trẻ
Tỷ lệ
%
Số
trẻ
41
12
29,27
19
Tỷ lệ
%
Chưa đạt
Số
trẻ
Tỷ lệ
10
24,39
%
4
gọn gàng, ngăn nắp, vệ
46,34
sinh cá nhân, vệ sinh môi
trường sạch sẽ
2. Tích cực tham gia các
hoạt động gần gũi, bảo vệ
41
11 26,82 18
43,9
12 29,27
môi trường, lớp học.
3. Biết chia sẻ và hợp tác
với bạn bè và người xung
41
10 24,39 19
46,34
12 29,27
quanh.
4. Có phản ứng với hành
vi của con người làm bẩn
41
12 29,27 18
43,9
11 26,82
và phá hoại môi trường.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Từ bảng khảo sát đầu năm như trên, tôi đã thấy khả năn tiếp nhận giáo dục môi
trường của trẻ là đạt chưa cao so với nhu cầu cần được có của trẻ. Để trẻ có thể
tự tin mạnh dạn và có ý thức cao hơn trong giáo dục môi trường thì rất cần sự cố
gắng của bản thân tôi, bởi vậy mà tôi luôn luôn cố gắng tìm tòi những kinh
nghiệm mới, phương pháp mới phù hợp với khả năng vốn có của trẻ.
Giải pháp 1: Xây dựng môi trường lớp học.
- Ngay từ đầu năm học theo kế hoạch và sự chỉ đạo của nhà trường, tôi xây
dựng môi trường lớp học thân thiện đối với trẻ. Xây dựng kế hoạch lao động vệ
sinh, bảo quản đồ dùng, đồ chơi, giá tủ, thiết bị vệ sinh như thùng rác, xô, chậu,
bồn cầu luôn được giữ gìn sạch sẽ. Đồ dùng, đồ chơi được sắp xếp gọn gàng,
ngăn nắp, từng góc riêng biệt tôi đều làm mới, để hấp dẫn trẻ, tạo cảm giác hứng
thú luôn mong muốn được sắp xếp ngăn nắp.
- Để tạo cảnh quan sân trường, trước giờ học tôi thường cho trẻ nhặt lá cây,
nhặt rác để tạo môi trường sạch đẹp. Còn đối với các góc đồ chơi, đầu tuần tôi
thường tổ chức trẻ thi đua lau dọn, sắp xếp đồ chơi gọn gàng.
- Đặc biệt xây dựng góc thiên nhiên của lớp tạo điều kiện cho trẻ được hoạt
động, được trải nghiệm. Góc thiên nhiên là nơi dành cho các hoạt động chăm
sóc cây cối như: Nhặt cỏ, bắt sâu, tưới nước, lau lá... Khi chăm sóc cây, ở trẻ sẽ
nảy sinh những kĩ năng cũng như tình cảm yêu mến, bảo vệ cây.
Tôi chuẩn bị những chai lọ bỏ đi, thùng xốp bỏ đất vào cho trẻ gieo hạt, hàng
ngày trẻ thay nhau chăm sóc và quan sát sự nảy mầm sinh trưởng của cây.
Xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh như: Cây nha đam, hoa mười giờ,
cây hoa bỏng...
- Dạy trẻ tạo ra những sản phẩm tạo hình. Từ đó giáo dục trẻ lòng yêu thiên
nhiên, biết chăm sóc và bảo quản, giữ gìn môi trường thiên nhiên mà trẻ đang
sống.
- Tôi đã sưu tầm những bài thơ, câu truyện, câu đố, ca dao – đồng dao...có nội
dung phù hợp với trẻ về việc bảo vệ môi trường đưa vào các tiết dạy học, hoạt
động dạy trẻ mọi lúa mọi nơi nhằm cho trẻ khắc sâu hơn tầm quan trọng của môi
trường mà chúng ta cần phải bảo vệ.
5
Giải pháp 2: Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động
trong ngày.
* Đón trẻ.
- Mỗi ngày tôi thường đến sớm, mở cửa thông thoáng phòng nhóm lớp.
- Quan sát nhắc nhở trẻ cất đồ dùng cá nhân, không vứt rác bừa bãi, nhặt rác
bỏ vào đúng nơi quy định.
- Cô trò chuyện với trẻ: Hôm nay ai đưa con đi học ? (Bố mẹ...)
Khi được bố mẹ đưa đi học các con nhìn thấy hai bên đường có gì ? (Cây
xanh).
Các con có biết cây xanh còn có tác dụng làm giảm ô nhiễm môi trường, giảm
bụi, che nắng, giúp cho người đi trên đường cảm thấy mát mẻ, dễ chịu hơn.
Ngoài ra cây xanh còn tạo ra ô xi giúp cho con người khỏe mạnh và cảnh quan
thêm đẹp.
* Thể dục sáng.
- Giờ thể dục sáng trẻ nhẹ nhàng ra sân xếp hàng theo tổ, không nô đùa, không
xô đẩy nhau, không nói to. Sau khi trẻ tập thể dục sáng xong, tôi tổ chức trò chơi
“khám tay”[4], cho trẻ ngửa những bàn tay ra cô quan sát tuyên dương những
trẻ có bàn tay sạch sẽ, nhắc nhở các cháu tay còn bẩn lần sau phải rửa tay sạch
trước khi đến lớp. Những trẻ móng tay để quá dài, cô nhắc các con về nhà bảo
bố mẹ cắt móng tay. Nếu các con để móng tay dài thì bụi bẩn, vi khuẩn sẽ dính
vào đó rất là mất vệ sinh...
* Hoạt động chung.
- Hoạt động học là một trong các hoạt động cơ bản của trẻ ở trường. Trong
giờ học dưới sự hướng dẫn của cô, trẻ tích cực lĩnh hội các tri thức đơn giản
dưới các biểu tượng về các sự vật hiện tượng xung quanh. Hoạt động học giúp
cho việc củng cố và hệ thống hóa các kiến thức mà trẻ tích lũy được trong cuộc
sống hàng ngày. Vì vậy, có thể sử dụng hoạt động này để thực hiện lồng ghép,
tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ môi trường một cách hiệu quả. Ở đây, trẻ
được tham gia nhiều hoạt động học khác nhau. Phát triển thể chất, khám khá
khoa học, âm nhạc, tạo hình, làm quen với tác phẩm văn học...
Ví dụ: Trong giờ hoạt học có chủ đích làm quen với tác phẩm văn học, dạy trẻ
bài thơ: “Hoa kết trái”[4] của tác giả Thu Hà. Khi trò chuyện với trẻ về nội
dung bài thơ, tôi đặt ra câu hỏi trẻ:
Hoa có tác dụng gì đối với con người ?
Từ đó, cô giáo dục trẻ cần phải biết bảo vệ, chăm sóc thì cây mới cho con
người nhiều hoa thơm quả ngọt.
* Hoạt động ngoài trời:
- Cho trẻ lao động tập thể: Trẻ nhặt lá trong bồn hoa.
Tôi cho trẻ quan sát bồn hoa trong sân trường. Phát hiện trong bồn hoa có một
số vỏ hộp sữa khi đó hỏi trẻ:
Trong bồn hoa có những gì ?
Điều gì sẽ xảy ra nếu trong bồn hoa ngày càng có nhiều thêm các vỏ hộp sữa ?
Vỏ hộp sữa phải để ở đâu ?
6
Sau đó, cô cùng trẻ nhặt vỏ hộp sữa trong bồn hoa bỏ vào thùng rác.
- Cho trẻ dạo chơi quan sát cây xanh. Cô nêu tác dụng của cây là cho bóng mát
để chúng mình vui chơi những ngày nắng nóng, cây giúp điều hòa không khí.
Qua đó, giáo dục trẻ không được hái lá, bẻ cành, leo trèo cây, mà phải thường
xuyên chăm sóc, tưới nước, nhổ cỏ...cho cây.
- Cô tổ chức cho trẻ dạo chơi, tham quan vườn rau của các cô cấp dưỡng. Khi trẻ
quan sát vườn rau, trò chuyện với trẻ về đặc điểm các loại rau, cách chăm sóc
bảo vệ chúng. Qua đó nhắc nhở những trẻ hàng ngày lười ăn rau, ăn canh phải
thường xuyên ăn nhiều rau canh mới đủ chất để cơ thể phát triển khỏe mạnh.
Hình ảnh cô tổ chức cho trẻ nhặt lá ở sân trường
* Hoạt động góc.
- Đây là một hoạt động mà trẻ được thể hiện sự hiểu biết và thể hiện kỹ năng
của mình, vì thế tôi luôn luôn chú ý tổ chức tốt hoạt động này, đặc biệt chú ý
lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ, tạo cho trẻ có nhiều góc mở để
các con được thể hiện hết khả năng của mình. Đây cũng là thời cơ để tôi quan
sát những hành vi mà trẻ thể hiện trong khi chơi, từ đó uốn nắn cũng như khích
lệ trẻ kịp thời.
- Tùy vào từng chủ đề mà cô chuẩn bị các góc chơi cho phù hợp, trong khi chơi
cô nhập vai chơi cùng trẻ giúp cho trẻ biết vai mình đang chơi, việc mình đang
làm, động viên trẻ giao lưu với các góc chơi giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn, biết
chia sẻ hợp tác với bạn bè.
Vào những buổi hoạt động chiều tôi hướng dẫn trẻ cách chơi ở các góc, đồng
thời nhắc trẻ khi chơi không nói to, không quăng ném đồ chơi, không tranh
7
giành đồ chơi của bạn. Vì nói to sẽ làm ảnh hưởng tới các bạn khác, ném đồ
chơi sẽ làm đồ chơi nhanh hỏng...
+ Góc phân vai.
Trẻ đóng vai người làm công việc bảo vệ môi trường ở trường mầm non, quét
dọn sân trường, thu gom rác thải, chăm sóc cây, bồn hoa, nhổ cỏ, bắt sâu, tưới
nước...
Cho trẻ đóng vai “Bé tập làm nội trợ” dạy trẻ sử dụng các dụng cụ nấu ăn
cẩn thận, khéo léo, dọn dẹp, vệ sinh cất giữ các dụng cụ sau khi sử dụng thật
ngăn nắp, gọn gàng, có ý thức tiết kiệm nước và các nguyên liệu.
+ Góc học tập. Cho trẻ xem sách tranh và phân biệt hành vi làm ô nhiễm môi
trường như (không vặn vòi nước khi dùng xong, ném rác xuống ao hồ, bẻ hoa
ngắt cành...), và những hành vi tốt như (lau bàn ghế, chăm sóc cây, vứt rác đúng
nơi quy định...). Yêu cầu trẻ tô màu những hành vi đúng, gạch chéo những hành
vi sai.
+ Góc tạo hình. Cô cho trẻ xé dán vườn hoa. Ngoài việc khuyến khích trẻ xé
dán được bức tranh đẹp, thì trẻ cần phải biết sắp xếp - cất dọn đồ dùng (hồ dán,
giấy màu...) . Sau khi trẻ hoạt động xong giấy vụn rơi vãi ở lớp rất nhiều, cô yêu
cầu trẻ nhặt để vào thùng rác đúng nơi quy định.
* Vệ sinh - ăn trưa.
- Đây là hoạt động nhằm hình thành một số nề nếp, thói quen trong sinh hoạt,
giúp đáp ứng nhu cầu sinh lí của trẻ, tạo cho trẻ trạng thái thoải mái, vui vẻ.
- Tập cho trẻ thói quen rửa
tay bằng xà phòng trước khi
ăn, sau khi đi vệ sinh. Các
con rửa tay không được té
nước vào người nhau, nhắc
trẻ biết tiết kiệm nước,
không vặn vòi nước quá to,
dùng xong vặn vòi lại.
- Giúp cô kê bàn ghế, chia
thìa, chia cơm, gấp khăn,
phơi khăn... Trước khi ăn
mời cô, mời bạn. Khuyến
khích trẻ ăn hết suất, ăn ngon
miệng, cơm rơi vãi nhặt để
gọn gàng vào đĩa, không
ngậm lâu trong miệng, không
nói chuyện khi ăn, ăn phải
nhai từ tốn. Ăn xong bát thìa
để nhẹ nhàng không phát ra
tiếng kêu, đúng nơi quy định.
Biết cách lau miệng tuần tự
Hình ảnh cô tổ chức giờ ăn trưa cho trẻ
sạch sẽ.
8
* Giờ ngủ trưa.
- Trẻ lên giường ngủ, cô cho trẻ đọc bài thơ “Giờ ngủ”[4]. Trẻ ngủ đúng giờ,
ngủ sâu, ngủ đủ giấc, khi ngủ không được đùa nghịch, nói chuyện riêng, nằm
đúng tư thế. Ngủ dậy giúp cô cất chiếu, chăn gối gọn gàng, biết dội nước sau khi
đi vệ sinh.
* Hoạt động chiều.
- Cho trẻ ôn lại nội dung bài học buổi sáng hoặc cung cấp kiến thức mới, cô đọc
câu đố về các loại quả cho trẻ đoán. Qua đó giáo dục trẻ trước khi muốn ăn quả
thì phải rửa sạch, gọt vỏ, bỏ hạt đúng nơi quy định.
- Trẻ cùng cô gọn vệ sinh trong và ngoài lớp học, lau bàn ghế, lau đồ chơi. Tôi
chia trẻ thành 3 tổ làm việc theo hình thức thi đua, phân công công việc cho
từng tổ và động viên trẻ hoàn thành.
Hình ảnh trẻ đang vệ sinh trong và ngoài lớp
* Trả trẻ.
- Cô bao quát mọi trẻ mặt mũi, đầu tóc, quần áo, trang phục sạch sẽ, gọn gàng.
Tạo cho trẻ có thói quen giữ gìn vệ sinh thân thể.
- Trước khi về chào cô, chào bạn, về nhà chào ông bà, bố mẹ, đi đường gặp
người lớn phải chào... hình thành thói quen lễ giáo hàng ngày cho trẻ.
Giải pháp 3: Giáo dục trẻ bảo vệ môi trường lồng ghép thông qua các
chủ đề.
Khi dạy trẻ ở các chủ đề tôi đã trú trọng đến nội dung lồng ghép tích hợp
các kiến thức bảo vệ môi trường vào nội dung bài học.
9
Ví dụ 1: “Chủ đề trường mầm non” [5] ngoài việc cung cấp kiến thức cho
trẻ về chủ đề, tôi còn giáo dục trẻ có ý thức giữ gìn trường lớp sạch sẽ, không
hái hoa bẻ cành cây xung quanh trường lớp...Tổ chức cho trẻ chơi trò chơi
“chọn những hành vi đúng – sai”. Cô làm tranh về việc giữ gìn bảo vệ môi
trường của một bạn nhỏ như: bé vứt rác vào thùng, vứt rác bừa bãi, bé ngồi lên
bàn, bé tranh giành đồ chơi... Sau đó chia trẻ thành hai đội, mỗi đội có một bức
tranh yêu cầu trẻ phải bật qua các vòng và yêu cầu một đội khoanh tròn những
hành vi đúng, một đội khoanh tròn các hành vi sai. Thời gian được tính sau một
bản nhạc, đội nào khoanh được nhiều kết quả đúng yêu cầu là đội thắng cuộc.
Ví dụ 2: “Chủ đề bản thân” [5] giáo dục trẻ biết lợi ích của việc giữ gìn vệ
sinh thân thể, vệ sinh môi trường đối với sức khỏe con người. Trẻ có hành vi và
thói quen tốt trong ăn uống. Mời cô, mời bạn, không ăn quà vặt ngoài đường...
Cho trẻ khám phá thực hành trải nghiệm 5 giác quan và qua đó giáo dục trẻ biết
chăm sóc giữ gìn đôi mắt như. Không dụi tay bẩn lên mắt, rửa mặt hàng ngày
bằng nước và khăn sạch, biết đội mũ, đi ô khi ra nắng, trời mưa, thường xuyên
đánh răng trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy...
Ví dụ 3: “Chủ đề gia đình”[5] trẻ thấy được sự thay đổi của môi trường xung
quanh nhà của mình. Biết quý trọng giữ gìn đồ dùng trong gia đình, lau rửa đồ
dùng bàn ghế, quét nhà, không vẽ lên tường nhà, không khạc nhổ bừa bãi... có ý
thức về những việc nên làm như: khóa vòi nước khi không sử dụng, tắt điện khi
ra khỏi phòng...
Tiết khám phá khoa học “Một số đồ dùng sử dụng điện trong gia đình
bé”. Trẻ biết được một số đồ dùng sử dụng điện trong gia đình như: Bóng điện
thắp sáng, ti vi, tủ lạnh, bàn là, quạt, nồi cơm điện... Cô giáo dục trẻ những kĩ
năng sử dụng đồ dùng bằng điện đúng cách vừa tiết kiệm điện lại có thể bảo
quản đồ dùng, tránh được những vấn đề gây cháy nổ nguy hiểm từ điện. Cô đưa
ra những tình huống nhằm lồng ghép nội dung “sử dụng năng lượng điện tiết
kiệm, hiệu quả”. Bằng việc đưa ra những câu hỏi: Khi không xem ti vi, không
ngồi quạt nữa...thì các con phải làm gì ?
Ví dụ 4: “Chủ đề thế giới thực vật”.[5]
Qua giờ khám phá khoa học “ Vai trò của cây xanh đối với môi trường
sống”, cô giáo đàm thoại: Cây xanh có lợi ích như thế nào ?
Từ đó, cô giáo dục trẻ không được ngắt lá bẻ cành, mà phải chăm sóc bảo
vệ cây xan để cây cho ta nhiều lợi ích.
Tôi cần cung cấp cho trẻ những nội dung giáo dục bảo vệ môi trường như:
Trẻ biết được cây cần ánh sáng, đất, nước, không khí...
Cây cần có sự chăm sóc của con người.
Trẻ biết cây làm cảnh, cây cho bóng mát, cây có tác dụng điều hòa và làm
sạch không khí, cây còn giúp cho đất không bị trôi khi mùa mưa bão.
Cây còn là nơi ở của động vật.
Cây làm giảm ô nhiễm môi trường, giảm bụi, tiếng ồn, chất độc hại, giảm
nhiệt độ ngày hè.
Trẻ biết những nguy hiểm khi rừng bị tàn phá, con vật không có nơi ở,
10
không có thức ăn, nhiều động vật quý hiếm bị diệt chủng, lũ lụt hạn hán xảy ra
thường xuyên, không còn những cây thuốc quý...
Tổ chức sưu tầm bài hát, bài thơ, câu truyện, hò vè, ca dao - tục ngữ về các
loài cây để trẻ biết được ích lợi của cây đối với con người qua đó trẻ có thái độ
yêu quý, chăm sóc bảo vệ cây xanh.
Ví dụ 5: “Chủ đề thế giới động vật”[5]. Ngoài việc cung cấp cho trẻ kiến
thức về đặc điểm, những con vật có ích, có hại đối với con người, cô còn giáo
dục trẻ yêu quý các con vật nuôi, mong muốn và thực hiện những hành vi tốt để
chăm sóc bảo vệ vật nuôi gần gũi.
Những động vật sống dưới nước rất đa dạng như: Tôm, cá, cua... các con vật
này đang có nguy cơ cạn kiệt do thiếu ý thức của con người, khai thác bừa bãi,
dùng bom mìn để đánh bắt.
Hay những con vật sống trong rừng cũng ngày càng khan kiếm. Đặc biệt là
những động vật quý hiếm như: Voi, hổ, báo, tê giác... con người săn bắn tùy tiện.
Trước nguy cơ đó, để bảo vệ các con vật thì chúng mình cần phải làm gì ?
Ví dụ 6: “Chủ đề giao thông”[5]. Nước ta đang trên đường hội nhập kinh tế,
hàng loạt công trình, nhà máy, xí nghiệp mọc lên, nhu cầu phương tiện xe cộ đi
lại của người dân ngày một gia tăng. Lượng khí thải do các phương tiện giao
thông ô tô, xe máy, tàu hỏa... thải khói bụi vào không khí rất là độc hại.
Cho trẻ chơi trò chơi: “Tìm những hành vi đúng, hành vi sai”. Cô cho trẻ xem
những hình ảnh: Người đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, ngồi trên xe thò đầu
giơ tay ra cửa sổ, người ngồi sau đứng lên xe máy, xe đạp, người đi bộ đi trên
vỉa hè, đi đúng luật lệ giao thông, trẻ em đá bóng dưới lòng đường.... Cô yêu cầu
trẻ chọn những hành vi đúng, hành vi sai.
Giáo dục trẻ khi đi trên đường phải đi cùng người lớn, đi bên phía tay phải,
không được chơi dưới lòng đường, đội mũ bảo hiểm để tránh tai nạn, khi ngồi
trên tàu xe phải ngồi im không được thò đầu, giơ tay ra cửa sổ.
Ví dụ 7: “Chủ đề các hiện tượng tự nhiên”[5]. Giúp trẻ biết về các hiện tượng
tự nhiên như: Gió, mây, mưa, sấm chớp, lũ lụt, hạn hán...
Qua đó trẻ biết phân biệt được đặc điểm của nước, nước sạch, nước bẩn,
lợi ích của nước như: con người cần nước để uống, tắm rửa, giặt quần áo, lau
nhà, nấu ăn. Con vật, cây xanh cần nước để sống và phát triển, nước giúp điều
hòa không khí và tạo ra vẻ đẹp cho môi trường. Công viên nước, đài phun nước,
hồ nước... Nguyên nhân làm cho nước bị ô nhiễm do đổ các chất bẩn, rác thải
trong sinh hoạt, nước thải chưa được xử lí, các hóa chất trong quá trình sản
xuất, xác chết của động vật, thực vật, cần phải tiết kiệm nước sạch trong sinh
hoạt, không vứt rác và thải chất bẩn xuống nước.
Tác hại do một số hiện tượng tự nhiên mang lại: Bão lụt làm cho nhà cửa
bị sập, cầu cống đường xá đi lại khó khăn, cây cối đổ, cây hoa màu vùi ngập
trong nước. Hạn hán kéo dài đồng ruộng nứt nẻ, cây trồng thiếu nước chết khô
héo ảnh hưởng rất lớn đến mùa màng, đời sống của người nông dân. Đặc biệt do
hiện tượng biến đổi khí hậu, nhiệt độ trái đất tăng. Nguyên nhân của các hiện
11
tượng thời tiết đó là do con người chặt phá rừng, đốt rừng bừa bãi. Đứng trước
nguy cơ đó, chúng ta cần phải dang tay chung sức để bảo vệ môi trường.
Ví dụ 8: “Chủ đề Quê hương – Đất nước”[5]. Cô cho trẻ tìm hiểu về đất nước
Việt Nam, các danh lam thắng cảnh: Văn Miếu Quốc Tử Giám, Chùa Một Cột,
Hồ Gươm...là những di sản văn hóa được thế giới công nhận. Cô trò chuyện với
trẻ về quê hương, làng xóm, các địa danh nơi trẻ đang sinh sống như: Cầu Hàm
Rồng, tượng đài Lê Lợi... Giáo dục trẻ biết xây dựng và giữ gìn những cảnh
quan đó, tự hào về đất nước Việt Nam xanh, sạch, đẹp và trẻ càng yêu quý quê
hương mình. Từ đó, giáo dục trẻ có ý thức giữ gìn và bảo tồn danh lam thắng
cảnh của địa phương.
Cô cho trẻ đi tham quan tượng đài liệt sĩ ở uỷ ban nhân dân xã. Cô nhắc
nhở trẻ không được chạy nhảy, cười đùa ồn ào, không sờ nghịch, vẽ lên tượng
đài; trẻ không được ăn uống và vứt rác bừa bãi ra nơi tham quan, không hái hoa,
bẻ cành… Nếu trẻ có nhu cầu đi vệ sinh, cô hướng dẫn trẻ đi vệ sinh đúng nơi
quy định.
Yêu cầu trẻ nhận xét về vệ sinh môi trường ở tại nơi này và tìm ra cách
khắc phục bảo vệ môi trường. Thông qua hoạt động đi dạo trẻ được quan sát
trực tiếp với môi trường tự nhiên, các địa danh xung quanh trường, lớp để trẻ
cảm nhận về vẻ đẹp của môi trường quanh trẻ và có ý thức giữ gìn và bảo vệ.
Như vậy việc lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ thông qua các
chủ đề khác nhau, quả thật rất phong phú, đa dạng giúp trẻ có những kiến thức
hiểu biết về chăm sóc bản thân, về môi trường xung quanh gần gũi với con
người, biết sử dụng và giữ gìn đồ dùng sạch sẽ, gọn gàng... biết bảo vệ và giữ
gìn môi trường, có thái độ đúng với môi trường một cách tích cực và hiệu quả.
Giải pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin.
Trong giai đoạn hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác
giảng dạy là vô cùng hữu ích. Sử dụng công nghệ thông tin giúp cho trẻ có tư
duy trực tiếp để phát huy tính tích cực, trẻ hứng thú bao nhiêu thì kết quả đạt
được càng tốt bấy nhiêu. Cách sử dụng biện pháp này giúp trẻ hứng thú hơn, tư
duy phát triển mạnh, sự ghi nhớ các hình ảnh được dễ dàng. Trẻ xem các hình
ảnh, đoạn videoclip, băng hình, trò chơi có nội dung giáo dục bảo vệ môi
trường. Ngoài ra có thể sưu tầm những tài liệu về môi trường và sử dụng trên đĩa
hình đưa vào máy tính những giờ đón, trả trẻ thường xuyên mở trên máy tính
cho trẻ xem các hình ảnh như: Tệ nạn chặt phá rừng, đốt phá rừng lấy củi, lũ lụt,
thiên tai, nguồn nước bẩn làm cá, tôm... chết. Những hình ảnh trẻ em tắm nước
bẩn, phóng uế bừa bãi... qua những hình ảnh đó có thể tiến hành ứng dụng dạy
trẻ trên tiết học hoặc trong các hoạt động để khắc sâu kiến thức giáo dục môi
trường.
Giải pháp 5: Tái sử dụng các nguyên vật liệu, phế thải làm một số đồ
dùng đồ chơi.
- Bên cạnh những biện pháp trên, tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn những
nguyên vật liệu, phế thải bỏ đi để hướng dẫn trẻ cùng thực hiện. Khi trẻ làm tôi
giải thích cho các con hiểu: Làm đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu phế thải là
12
việc làm có ý nghĩa bảo vệ môi trường. Vì cô và các con đã tiết kiệm được
nguyên liệu và góp phần giảm bớt đi lượng rác thải rất lớn đang thải ra môi
trường. Trẻ hiểu được từng việc làm của mình sẽ là động cơ để trẻ hình thành
những hành vi giúp cô tham gia bảo vệ môi trường. Tạo hứng thú cho trẻ khi
được khám phá các nguyên vật liệu tự tay mình làm những thứ đồ chơi thích thú
đó. Tôi cho rằng làm tốt công tác này thì hiệu quả giờ học được tăng cao.
- Ngoài ra, tôi sưu tầm thêm các mẫu đồ chơi trên mạng Internet, sách báo, tập
chí... để làm phong phú thêm ngân hàng đồ chơi tại lớp phục vụ cho việc dạy
học của cô và trẻ.
Ví dụ: Góc phân vai: sưu tầm chai, lọ, vỏ bánh kẹo, hộp sữa chua làm bàn
ghế, lọ sữa su su làm bát, chén; vải vụn may quần áo cho búp bê, hay sử dụng
lon bia và những thìa ăn sữa chua tạo ra quả dứa gai, làm củ cải, cà rốt...
Góc xây dựng: sử dụng các cành cây khô, lá vàng, cắt những sợi len thật nhỏ
để tạo thành những thảm cỏ; xốp làm cây xanh, hoa lá; những que kem tạo thành
hàng rạo, vỏ ngao, sò, sỏi, đá, cát... để trẻ tạo ra những sản phẩm đưa vào công
trình của mình.
Ví dụ: Chủ đề phương tiện giao thông. Cô giới thiệu cho trẻ biết về các loại
phương tiện giao thông. Tôi sử dụng can nước rửa bát làm thuyền buồm –
phương tiện giao thông đường thủy. Những lọ dầu nhớt bỏ đi làm đoàn tàu –
phương tiện giao thông đường sắt. Chai nước tẩy rửa làm máy bay – phương
tiện giao thông hàng không. Từ những ống hút, đĩa CD, thìa trong hộp sữa có
thể làm xe đạp – phương tiện giao thông đường bộ...
Giải pháp 6: Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua hoạt động ngày
hội, ngày lễ.
Hoạt động lễ hội có vị trí quan trọng trong việc giáo dục trẻ bảo vệ môi
trường. Thông qua việc tổ chức lễ hội, hình thành ở trẻ những kỹ năng, thái độ,
hành vi tích cực về các địa danh và môi trường, trẻ biết bảo vệ giữ gìn môi
trường và các địa danh nơi diễn ra lễ hội.
Ví dụ: Ngày tết cần phải tiết kiệm: Không bỏ phí bánh kẹo, hoa quả và các thức
ăn khác.
Không hái lộc đầu xuân bằng việc hái lá, bẻ cành.
Ngày tết Nguyên Đán cô phát động trẻ phong trào “tết trồng cây”, cô và trẻ
sưu tầm cây xanh, cây cảnh về trồng, cùng nhau chăm sóc cây.
Tết trung thu: Cô tổ chức cho trẻ đón tết trung thu ở trường. Trò chuyện
cùng
trẻ về ý nghĩa của tết trung thu, về các loại quả trên mâm ngũ quả, bánh kẹo.
Khi ăn xong hoa quả, bánh kẹo thì vỏ các con để ở đâu ? Có được vứt bừa bãi
ra lớp, ra sân trường không ?
Ngày hội bé đến trường và bế giảng năm học: Bố mẹ, người thân mua
bóng bay, cờ, bánh kẹo, bim bim cho trẻ đến trường. Các con không được vứt
cán cờ, cán bóng, vỏ kẹo bánh ra sân trường...
Trẻ tự hào về về một số điệu múa, bài hát, truyện cổ tích, món ăn truyền
thống của từng vùng ở từng ngày lễ. Trẻ biết yêu quý, bảo vệ và duy trì các nghề
13
truyền thống ở địa phương. Trẻ biết phong tục, lối sống của một số dân tộc, ảnh
hưởng của văn hóa đối với môi trường thiên nhiên và cuộc sống của con người.
Giải pháp 7: Phối kết hợp với phụ huynh, cộng đồng.
Tôi nhận thấy việc đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường đến với trẻ
ngoài việc giáo viên triển khai tốt ở lớp cần phải có sự phối kết hợp của phụ
huynh ở gia đình và toàn xã hội. Phụ huynh là nguồn động viên khích lệ và luôn
sát cánh cùng với nhà trường, những hoạt động của nhà trường muốn thành công
cần có sự đồng lòng, hưởng ứng, góp sức của các bậc phụ huynh.
Trường tôi tổ chức họp phụ huynh định kỳ 2 lần / năm học. Trong các
buổi họp cha mẹ học sinh, tôi phổ biến rõ nề nếp và những quy định chung của
trường về chăm sóc giáo dục trẻ. Tôi đã nói rõ ý nghĩa và tầm quan trọng về môi
trường cho phụ huynh được biết.
Lập kế hoạch phối hợp với phụ huynh theo từng chủ đề. Thể hiện tốt vai
trò liên kết giữa gia đình và nhà trường, mà từ đó tôi có kế hoạch điều chỉnh,
giáo dục trẻ cho phù hợp.
Trao đổi thông tin cần thiết với phụ huynh trong giờ đón và trả trẻ, phụ
huynh ở nhà thường xuyên giáo dục trẻ có ý thức bảo vệ môi trường. Bên cạnh
đó, bố mẹ luôn là tấm gương để trẻ bắt chước làm theo, gia đình thường xuyên
rèn nề nếp, thói quen cho trẻ ở nhà như: Cùng bố mẹ tham gia chăm sóc bảo vệ
cây trồng, vật nuôi trong gia đình, giữ gìn vệ sinh nhà cửa sạch sẽ, tích cực diệt
duồi, muỗi, nhán...
Các bậc phụ huynh cũng là những tuyên truyền viên đóng vai trò quan
trọng, hãy tuyên truyền sâu rộng đến tất cả những người thân, bà con hàng xóm,
cộng đồng nơi mình sinh sống về lợi ích của việc bảo vệ môi trường.
Hoặc có thể phối kết hợp với phụ huynh về việc gom góp nguyên vật liệu,
phế thải để làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho dạy học của cô và trẻ. Đó cũng là
cách bảo vệ môi trường.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
* Đối với hoạt động giáo dục.
Qua một năm ứng dụng các biện pháp trên vào công tác giáo dục trẻ, tôi
thấy các cháu lớp tôi có những chuyển biến tích cực cả về nội dung lẫn hình
thức. Cuối năm học tôi tiến hành khảo sát đối chứng kết quả để so sánh với đầu
năm thì thấy như sau:
Bảng khảo sát trẻ tháng 4/2017
Tốt
Khá
Yêu cầu kỹ năng
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Số trẻ
SốTrẻ
%
%
1. Trẻ có thói quen sống
gọn gàng, ngăn nắp, vệ
35
85,36
6
14,63
sinh cá nhân, vệ sinh môi
trường sạch sẽ.
Chưa đạt
Số
Tỷ lệ
Trẻ
%
0
0
14
2. Tích cực tham gia các
hoạt động gần gũi, bảo vệ
môi trường, lớp học.
37
90,25
4
9,75
0
0
3. Biết chia sẻ và hợp tác
với bạn bè và người xung
quanh.
32
78
9
22
0
0
4. Có phản ứng với hành
vi của con người làm bẩn
và phá hoại môi trường.
33
80,5
8
19,5
0
0
Nhìn vào bảng trên cho ta thấy việc áp dụng các biện pháp như đã trình bày ở
trên đã mang lại kết quả thật rõ rệt, các cháu có thói quen bảo vệ môi trường
ngăn nắp biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường sạch sẽ, tích cực tham
gia vào hoạt động tập thể để góp phần bảo vệ môi trường, kể cả những cháu nhút
nhát nhất đã biết chia sẻ hợp tác với bạn bè, biết bộc lộ cảm xúc, phản ứng với
những hành vi làm ô nhiễm hay phá hoại môi trường. Chơi với bạn biết đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau. Trẻ không hái hoa, ngắt lá, bẻ cành, biết bỏ rác đúng quy định
mà cô không cần nhắc nhở. Điều này chứng tỏ rằng kiến thức cô dạy đã ăn sâu
vào tiềm thức của trẻ.
* Đối với bản thân.
Với vai trò là người giáo viên, là người hướng dẫn trẻ nên bản thân phải
nắm chắc nội dung bảo vệ môi trường. Để từ đó tìm ra những phương hướng,
biện pháp tích cực vận dụng các phương pháp phù hợp gắn với cuộc sống thực
tế của trẻ. Hình thành cho trẻ những hành vi thái độ bảo vệ môi trường thường
xuyên và liên tục.
Luôn luôn nhận thức được bảo vệ môi trường và hướng mọi người bảo vệ
môi trường là vấn đề cấp bách.
Nhận thức đúng việc sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả,
hợp lí
Luôn tìm tòi và khám phá sử dụng và tái chế các nguyên vật liệu, phế thải
làm đồ dùng dạy học.
* Đối với đồng nghiệp.
Từ những phương pháp bảo vệ môi trường tôi đưa vào thực hiện trẻ của
lớp đạt hiệu quả khá khả quan, nên chị em đồng nghiệp cũng đã áp dụng đưa vào
thực hiện ở lớp mình.
* Đối với nhà trường.
Nhà trường khuyến khích mọi giáo viên hãy phát huy hơn nữa, tích cực
nghiên cứu tìm tòi nhiều biện pháp hay để đưa vào công tác giảng dạy trong nhà
trường giáo dục trẻ bảo vệ môi trường đạt hiệu quả.
15
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
* Kết luận.
Để giáo dục trẻ có ý thức bảo vệ môi trường được tốt, thì cô giáo phải
luôn làm tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Bên cạnh đó cô còn là những tuyên
truyền viên giỏi đối với các bậc phụ huynh về các nội dung giáo dục trẻ.
Trong lớp các góc hoạt động được sắp đặt gọn gàng, đẹp mắt, khoa học,
luôn tạo ra một môi trường giáo dục phong phú giúp trẻ tích cực hoạt động.
Cô giáo phải luôn yêu nghề, kiên trì, nhiệt tình, chịu khó linh hoạt sáng
tạo trong việc tổ chức các hoạt động cho trẻ, biết lồng ghép nội dung giáo dục
bảo vệ môi trường phù hợp với từng hoàn cảnh, từng hoạt động thì mới hiệu quả
và đặc biệt là phải có hình thức giáo dục trẻ cá biệt.
Cô giáo mầm non còn là người phải khéo tay, biết tận dụng những nguyên
liệu, vật liệu phế thải làm đồ dùng dạy học thì hiệu quả của việc giáo dục mới
cao. Biết khai thác những ưu thế trong hoạt động hàng ngày, truyền tải những
nội dung cần giáo dục tới trẻ một cách nhẹ nhàng mà hiệu quả.
Phải có sự ủng hộ, phối kết hợp của phụ huynh, bởi vì gia đình thật sự là
mái ấm của trẻ và phụ huynh phải là tấm gương sáng cho trẻ noi theo.
* Kiến nghị.
Trang bị đầy đủ các tài liệu cho giáo viên tham khảo, học tập.
Trên đây là “Một số kinh nghiệm giáo dục trẻ 4 – 5 tuổi lớp B2 bảo vệ
môi trường ở trường mầm non Thiệu Duy”. Vậy kính mong hội đồng khoa
học các cấp góp ý, bổ sung để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện
hơn và được đưa vào thực hiện rộng rãi cho những năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hiệu trưởng
Thanh Hóa, ngày 24 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến
Trần Thị Thúy
Lê Thị Hằng
16
Tài liệu tham khảo
[1]: Hội nghị Liên Hợp Quốc về “môi trường và con người’’ năm 1972 họp tại
stockholm.
[2]: Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ chính trị
[3]: QĐ số 1363/QĐ- TT ngày 17/10/2001 của Thủ tướng chính phủ
[4]: Tuyển chọn Trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố trẻ 4-5 tuổi theo chủ đề
Tác giả: Lê Thu Hương ( chủ biên) nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
[5]: Hướng dẫn tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục trong trường mầm non
theo chủ đề trẻ 4-5 tuổi ( theo chương trình giáo dục mầm non mới)
Tác giả: Lê Thu Hương( chủ biên) nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
17
Mục lục
NỘI DUNG
1. Mở đầu
TRANG
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1
2
2
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2
2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Giải pháp 1: Xây dựng môi trường lớp học.
Giải pháp 2: Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các
hoạt động trong ngày.
Giải pháp 3: Giáo dục trẻ bảo vệ môi trường lồng ghép
thông qua các chủ đề.
Giải pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin.
Giải pháp 5: Tái sử dụng các nguyên vật liệu, phế thải làm
một số đồ dùng đồ chơi.
Giải pháp 6: Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua hoạt
động ngày hội, ngày lễ.
Giải pháp 7: Phối kết hợp với phụ huynh, cộng đồng.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
3
5
5
6
12
12
1. Kết luận
2. Kiến nghị
16
16
9
13
14
14
16
Tài liệu tham khảo
18