Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số kinh nghiệm huy động trẻ trong độ tuổi mẫu giáo đến trường ở trường mầm non tân lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.67 KB, 22 trang )

I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Tục ngữ có câu: Dạy con từ thuở còn thơ ...”
Con người khi sinh ra cơ thể còn non yếu, chưa có hiểu biết cần được sự uốn
nắn dạy dỗ của người lớn ngay từ buổi đầu đời, để có thể hình thành và phát triển
nhân cách đúng đắn. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân
cách trẻ đó là gia đình, nhà trường và xã hội.
Gia đình là môi trường đầu tiên của trẻ, mỗi đứa trẻ sinh ra đều được chăm
sóc yêu thương dạy dỗ của bố mẹ ông bà và những người lớn gần gũi trẻ, mỗi một
gia đình là một quan điểm, là một cách sống, nếp sinh hoạt riêng biệt có nhiều gia
đình là môi trường rất tốt để trẻ hình thành nhân cách đúng đắn, nhưng có gia đình
do những quan niệm lạc hậu, hoặc nhận thức chưa đủ, chưa đúng về đặc điểm tâm
sinh của lứa tuổi làm cho nhân cách của trẻ phát triển lệch lạc. Đến trường mầm
non là trường học đầu tiên của trẻ, ở nơi đó trẻ được hoạt động, được trải nghiệm
được chăm sóc, giáo dục. Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống
giáo dục quốc dân có mục tiêu, yêu cầu và chương trình giáo dục hướng đến sự
phát triển toàn diện và tạo cơ hội cho trẻ phát triển
Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ là em phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách chuẩn bị cho
trẻ vào lớp một, hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý,
năng lực, phẩm chất mang tính nền tảng và những kỷ năng sống cần thiết phù hợp
với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, tạo tiền đề cho
việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Ở trường mầm non có
Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và
khả năng, mức độ phát triển của từng độ tuổi một cách khoa học đạt mục tiêu giáo
dục ở cuối tuổi nhà trẻ và ở cuối tuổi mẫu giáo.
Đến trường mầm non là môi trường tốt nhất cho trẻ, làm thế nào để huy động
được số trẻ trong độ tuổi mầm non đến trường để mọi trẻ em đều có quyền được
hưởng nền giáo dục là trách nhiệm của người lớn của những người làm công tác
quản lý trường mầm non
Thực tế tại trường mầm non Tân Lập tỉ lệ huy động trẻ mẫu giáo ra lớp trong


những năm vừa qua không đạt 100% do có cháu trong độ tuổi bị bại liệt không đến
trường được, đến 2 năm gần đây trên địa bàn xã không có cháu khuyết tật nhưng
1


vẫn còn nhưng vẫn còn 1, 2 cháu chưa đến trường, tỷ lệ ra lớp chỉ đạt đạt 98,5%
(trong đó tỉ lệ trẻ năm tuổi ra lớp là 100%) thậm chí đến trường rồi vẫn có 1 cháu
nghỉ học, trong khi nhà trường đã làm tốt công tác tuyên truyền, làm tốt công tác
phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể trong xã, tôi tìm hiểu nguyên nhân, lý do
tại sao và phải làm gì để huy động trẻ đến trường. Có phải do nhận thức của các
bậc phụ huynh không, hay do hoàn cảnh của gia đình trẻ, do chất lượng giáo dục
của nhà trường có thể do điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, có thể là chất
lượng đội ngũ cán bộ giáo viên chưa tạo được niềm tin yêu đối với phụ huynh.
Nhận thức được vai trò và trách nhiệm của nhà trường về vấn đề này trong
nhiều năm qua tôi luôn trăn trở tìm các biện pháp để làm tốt công tác huy động và
duy trì số trẻ đến trường, vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm huy động
trẻ độ tuổi mẫu giáo đến trường giai đoạn 2014-2017 ở trường mầm non Tân
Lập, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa” để viết lên kinh nghiệm trong công tác
quản lý chỉ đạo nhà trường của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm các biện pháp phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để huy
động trẻ trong độ tuổi mẫu giáo đến trường mầm non
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Kinh nghiệm huy động trẻ độ tuổi mẫu giáo đến trường giai đoạn 2014-2017
ở trường mầm non Tân Lập, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra khảo sát.
- Phương pháp thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê toán học.


2


II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình Giáo dục mầm
non theo Thông tư 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 bao gồm
chương trình giáo dục nhà trẻ, chương trình giáo dục mẫu giáo: “ Chương trình
giáo dục mẫu giáo nhằm giúp trẻ từ 3 đến 6 tuổi phát triển hài hòa về các mặt thể
chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, kỹ năng xã hội và thẩm mỹ chuẩn bị cho trẻ
vào học ở tiểu học. ”[1].
Theo yêu cầu về nội dung, về phương pháp, về đánh giá sự phát triển của trẻ
Nội dung giáo dục mầm non phải đảm bảo tính khoa học, theo nguyên tắc đồng tâm
phát triển từ dễ đến khó, đảm bảo tính liên thông giữa các độ tuổi, thống nhất giữa
nội dung giáo dục với cuộc sống hiện thực, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý
của trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục, giúp trẻ phát triển cơ
thể cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn.
Phương pháp giáo dục đối với mẫu giáo trẻ phải được trải nghiệm, tìm tòi, khám
phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình thức, đáp ứng nhu cầu, hứng thú của
trẻ theo phương châm “Chơi mà học, học bằng chơi”. Đổi mới môi trường giáo dục
nhằm kích thích và tạo cơ hội cho trẻ khám phá, thử nghiệm và sáng tạo.
Ở trường mầm non tổ chức đánh giá sự phát triển của trẻ nhằm theo dõi sự phát
triển của trẻ để xây dựng, điều chỉnh kế hoạch giáo dục cho phù hợp với trẻ, với
tình hình thực tế ở địa phương, chỉ có ở trường mầm non mới tổ chức đánh giá
đúng khả năng của trẻ theo yêu cầu lứa tuổi một cách khoa học
Đến trường trẻ được hòa đồng cùng bạn bè khám phá nhiều điều thú vị ở
môi trường tập thể, chỉ có bạn bè cùng lứa tuổi của bé và cô giáo, trẻ được tham gia
các hoạt động của ngày hội, ngày lễ, các hoạt động lao động tự phục vụ trẻ, được
nuôi dưỡng, được chăm sóc sức khỏe và giáo dục để bảo vệ tính mạng. Trẻ đến

trường mầm non trẻ được theo học các lớp phân theo độ tuổi 3-4 tuổi ra lớp được
làm quen với các nề nếp hoạt động ở nhà trường theo lịch sinh hoạt một ngày của
bé, làm quen với các kiến thức cơ bản, sơ đẳng, các thao tác, các hành động chơi
đơn giản hoạt động với đồ vật phong phú đa dạng, tạo điều kiện cho trẻ rèn thành
kỷ năng, kỷ xảo là tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ học ở các lớp tiếp theo,
đến lớp 4-5 tuổi, 5-6 tuổi các kiến thức mà trẻ được lĩnh hội được mở rộng hơn, sâu
3


hơn, các hành động chơi, các thao tác trong mọi hoạt động phức tạp hơn, phong
phú hơn, các đồ dùng, đồ chơi đa dạng hơn, thời gian tổ chức hoạt động chính tăng
lên tập cho trẻ thích nghi với hoạt động học tập. Đến trường từ tuổi nhà trẻ hoặc
đầu tuổi mẫu giáo sẽ dễ hình thành những tính cách, những chuẩn mực về thái độ
trong giao tiếp trong cuộc sống hơn, dễ uốn nắn những hành vi lệch lạc hơn để
chuẩn bị cho trẻ tâm thế tốt, một tâm lý vững vàng khi vào lớp một.
Trẻ đến trường cha mẹ trẻ yên tâm và có thời gian để đi làm, tăng gia sản
xuất tăng thêm thu nhập cho nhà đình, góp phần phát triển kính tế gia đình và xây
dựng nông thôn mới ở địa phương.
Bên cạnh đó quan điểm chỉ đạo của Đảng “… Thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để đạt được mặt bằng
chung. Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học
suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện chính
sách”[2]
Vì vậy chúng ta cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho trẻ được đến trường để
có cơ hội được chăm sóc, được hưởng nền giáo dục mà trong nền giáo dục ấy trẻ có
thể lớn lên và phát triển tốt nhất.
2.2. Thực trạng :
* Tình hình chung:
Trường mầm non Tân Lập huyện Bá Thước nằm trên địa bàn xã Tân Lập.
Xã Tân Lập có 8 thôn bản nằm chủ yếu ven sông mã, có diện tích đất tự nhiên

1,331 ha, dân số toàn xã có 663 hộ với 2733 nhân khẩu, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
là 0.9%. Bao gồm 3 dân tộc chủ yếu sinh sống như:
Dân tộc Thái có 110 khẩu chiếm gần 4%
Dân tộc Mường có 1339 khẩu chiếm 49%
Dân tộc Kinh có 1284 khẩu chiếm 47%
Nhìn chung chất lượng cuộc sống của người dân đã được nâng lên, nghề nghiệp có
97% làm nông nghiệp thu nhập của một số thôn còn phụ thuộc vào thiên nhiên, tỉ lệ
hộ nghèo theo tiêu chí mới hiện nay là 6,35 %.
* Thuận lợi:
Xã Tân Lập là nơi có truyền thống hiếu học, các cấp ủy đảng chính quyền
địa phương cũng như người dân luôn quan tâm và chăm lo đến sự nghiệp giáo dục
có 2/3 trường trong xã đạt trường chuẩn quốc gia, hệ thống đài truyền thanh của xã
4


hoạt động rất tốt, xã có đường giao thông liên thôn đi lại thuận tiện là 7/8 thôn bản.
Xã đang xây dựng và chuẩn bị về đích nông thôn mới vào cuối năm 2017.
Trường mầm non Tân Lập nằm ngay trung tâm của xã và chỉ có một điểm
trường rất thuận lợi cho việc đưa đón trẻ và quản lý.
Nhà trường đã đạt Trường mầm non đạt Chuẩn Quốc gia và đã được công
nhận Đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục cấp độ 3.
Đội ngũ giáo viên đạt trình độ chuẩn là 100% và trong đó trên chuẩn 78,6%.
Nhà trường được sự quan tâm và tạo mọi điều kiện của chính quyền địa phương,
Ban đại diện Cha mẹ học sinh của nhà trường hoạt động rất tích cực có nhiều hoạt
động ủng hộ và đóng góp nhiệt tình, để phục vụ bán trú tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho trẻ khi đến trường.
*Khó khăn :
Trong công tác quản lý còn thiếu kinh nghiệm về công tác điều tra, khảo sát
trẻ trong độ tuổi, chưa nắm bắt được số trẻ sẽ đến trường, chưa chủ động trong việc
lập danh sách các lớp ngay từ đầu năm học. Không nắm bắt được tình hình, hoàn

cảnh của trẻ.
Về cơ sở vật chất : Nhà trường còn thiếu phòng học, cơ sở hạ tầng một số
hạng mục đã xuống cấp, các đồ dùng dạy học, đồ chơi đồ dùng bán trú chưa được
chuẩn hóa theo hướng tiên tiến, hiện đại ( như tủ hấp cơm, máy lọc nước cả nóng
và lạnh, máy chiếu, bình nước nóng lạnh, máy điều hòa, máy hấp khăn, hấp bát…).
Nhà trường chưa đủ điều kiện để đón trẻ dưới 24 tháng tuổi
Nhà trường còn thiếu 2 giáo viên so với chỉ tiêu kế hoạch được giao. Chất
lượng đội ngũ còn nhiều hạn chế.
Một số trẻ đến lớp còn nhút nhát chưa tích cực tham gia các hoạt động, sợ cô
giáo, sợ bạn bè và sợ chỗ đông người.
Khi đến lớp có nhiều cháu chưa thạo tiếng việt, nói tiếng việt nhưng dùng từ
của tiếng mẹ đẻ, nên hay bị các bạn trêu trọc làm cho trẻ ít giao tiếp, ít phát biểu ý
kiến, ít tham gia các trò chơi tập thể đặc biệt là ở tuổi mẫu giáo 3- 4 tuổi.
Còn có một số gia đình nhận thức còn mơ hồ về việc chăm sóc giáo dục trẻ
mầm non, chưa thật sự tin tưởng vào sự chăm sóc của giáo viên và nhà trường,
cũng như nhận thức của một bộ phận nhỏ phụ huynh còn nghĩ trẻ con đến trường
để chơi thôi nên không cho con đến trường mầm non.
* Khảo sát thực trạng số liệu trẻ:
5


Số trẻ điều tra
Độ tuổi

Tổng
số trẻ

Số trẻ ra lớp

Trẻ DTTS

Tổng
số

Số nữ

Tổng
số

Trẻ dân tộc thiểu số
Tỷ lệ

Số trẻ

Tỷ lệ

Số trẻ
nữ

Tỷ lệ

NĂM HỌC 2014-2015

3 tuổi
4 tuổi
5 tuổi

41
37
44


31
23
26

22
24
19

39
36
44

95,1%
97,3%
100%

29
22
26

93,5%
95,6%
100%

20
24
19

91%
100%

100%

3-5 tuổi

122

80

65

119

97,5%

77

96,3%

63

97%

NĂM HỌC 2015-2016
3 tuổi
4 tuổi
5 tuổi

59
41
37


33
31
23

18
22
24

57
41
37

96,6%
100%
100

32
31
23

96,9%
100%
100%

17
22
24

94,4%

100%
100%

3-5 tuổi

137

87

64

135

98,5%

100

99%

57

98,5%

ĐẦU NĂM HỌC 2016-2017 (Tháng 8/2016 )
3 tuổi
4 tuổi
5 tuổi

51
59

41

37
33
31

18
18
22

51
57
41

100%
96,6%
100%

37
32
31

100%
96,9%
100%

18
17
22


100%
94,4%
100%

3-5 tuổi

151

101

58

149

98,6%

100

99%

57

98,2%

2.3. Các giải pháp:
2.3.1.Biện pháp 1 : Điều tra số liệu trẻ từ 0- 5 tuổi ngay đầu năm học
Điều tra số liệu là việc làm của mỗi nhà trường vào đầu năm học mới, để nắm
bắt số liệu trẻ từ 0-5 tuổi trên địa bàn xã từ đó dự kiến số trẻ của các nhóm lớp và
chuẩn bị cho công tác tuyển sinh trẻ mới và làm cơ sở để xây dựng kế hoạch phát
triển cho năm học sau. Làm tốt công tác điều tra, công tác tuyển sinh nhà trường sẽ

chủ động được trong việc lập danh sách trẻ của các nhóm, lớp giao cho giáo viên để
ổn định sĩ số học sinh và đưa trẻ vào nề nếp ngay từ đầu năm học. Với công tác này
tôi đã làm các bước sau
+ Phân công giáo viên điều tra độ tuổi từ 0 – 5 tuổi trên toàn xã, phân công
giáo viên điều tra 1 thôn xuyên suốt trong nhiều năm.
6


+ Nhà trường thiết kế mẫu phiếu riêng để nắm bắt thêm thông tin của trẻ, gia
đình trẻ, trong đó có thông tin trẻ sẽ đi học ở trường nào
+ Tổng hợp và lập dự kiến trẻ đến trường theo từng độ tuổi
+ Lập kế hoạch báo cáo với UBND xã về việc tuyển sinh trẻ mới đi học. Phối
hợp với Ban lãnh đạo Thôn thông báo, tuyên truyền trên loa đài của các thôn thời
gian tuyển sinh và các loại giấy tờ cần thiết, địa điểm nhận hồ sơ. Đấu mối với cán
bộ tư pháp xã để tạo điều kiện chứng thực các loại giấy tờ. Ở trường đăng trên bản
tin quy trình đăng ký, làm và nộp hồ sơ, các phòng làm việc, người phụ trách cho
phụ huynh dễ liên hệ. Khi phụ huynh đến đăng ký cho con học, kiểm tra trên danh
sách dự kiến trẻ đến trường.
+ Tổng hợp kết quả tuyển sinh, lập danh sách trẻ của các nhóm lớp cho giáo
viên phụ trách các lớp, danh sách cháu chưa đăng ký đi học để có kế hoạch huy
động trẻ ra lớp trước ngày tựu trường, cách làm này được Cán bộ tư pháp xã và các
bậc phụ huynh rất đồng tình, nhanh gọn thuận lợi và tạo niềm tin cho các bậc phụ
huynh khi đăng ký cho con đi học.
Sau kết thúc công tác điều tra và tuyển sinh trẻ mới tôi đã có số liệu trẻ ra lớp
khá chuẩn chủ động thuận tiện cho việc phân lớp, phân công giáo viên
* Kết quả điều tra đầu năm học 2016-2017 (Tháng 8/2016) :
- Tỉ lệ huy động trẻ mẫu giáo : 149/151 cháu đạt 98,6% ;
- Tỉ lệ trẻ Dân tộc thiểu số đến trường : 100/101 cháu chiếm tỷ lệ 99% ;
- Tỉ lệ trẻ DTTS là nữ đến trường : 57/58 cháu đạt 98,2%
+ 5 tuổi : 41/41 cháu đạt 100% ; Trẻ dân tộc thiểu số : 31/31 cháu đạt 100%

+ 4 tuổi : 59/59 cháu đạt 100% ; Trẻ dân tộc thiểu số : 33/33 cháu đạt 100%
+ 3 tuổi : 49/51 cháu đạt 96% ; Trẻ dân tộc thiểu số : 36/37 cháu đạt 94,4%,
Như vậy tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo chưa đến trường là 1,4%.
Và kết quả điều tra nhà trường có danh sách 2 cháu 4 tuổi chưa đăng ký đi
học là: Cháu Bùi Phương Hoài ở thôn Mòn và cháu Lê Hải Anh ở thôn Anh Vân.
2.3.2. Biện pháp 2 : Nắm bắt tình hình và tìm hiểu nguyên nhân trẻ chưa đến
trường
Trong những năm vừa qua thực hiện Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ năm
tuổi, tỷ lệ trẻ từ 3-5 tuổi đến trường của nhà trường đạt rất cao từ 95-98,5% đây là
kết quả đáng khích lệ, biểu hiện về sự nhận thức của các bậc phụ huynh đã thấy
được vai trò của giáo dục mầm non và vị trí của trường mầm non đối với sự phát
7


triển của trẻ, song tại sao vẫn còn hai cháu chưa đến lớp, ngay đầu năm học kết hợp
với Ban đại diện Cha mẹ học sinh của năm học trước và Chi hội trưởng chi hội
khuyến học của thôn và giáo viên điều tra phổ cập ở thôn đó, BGH đã tiến hành tìm
hiểu nguyên nhân lý do trẻ chưa đến lớp
Để làm tốt việc này, BGH cần phải khéo léo và kết hợp chặt chẽ với các tổ
chức liên quan nắm bắt trước tình hình, hoàn cảnh của trẻ, lường trước các tình
huống, chuẩn bị tốt các phương án để trao đổi, tuyên truyền vận động sao cho thấu
tình, đạt lý và đạt kết quả để phụ huynh thấy yên tâm tin tưởng và trẻ thích đi học
Trường hợp thứ nhất: Cháu Bùi Phương Hoài (là trẻ người dân tộc thiểu số):
Không được đi học do ông bà nhận thức chưa đúng về giáo dục mầm non. Chúng
tôi đã đưa hình ảnh trẻ học, trẻ chơi, trẻ tập thể dục, trẻ ngồi ăn, trẻ ngủ đến gia
đình cho bố mẹ ông bà cháu xem, cũng giải thích cách chăm sóc, giáo dục cháu ở
lớp, trẻ được đối sử công bằng như nhau, được tham gia các hoạt động như nhau.
Về đóng góp chúng tôi phân tích về sự thuận lợi và không thuận lợi khi cho trẻ đến
trường và đồng thời trao đổi với gia đình nếu không cho cháu đi học lớp mấu giáo
nhỡ đến năm học sau cho cháu học lớp mẫu giáo lớn sẽ rất khó khăn cho cháu vì ở

mỗi độ tuổi có chương trình chăm sóc giáo dục khác nhau. Sau đó gia đình đã nhất
trí cho cháu đi học.
Trường hợp thứ hai: Cháu Lê Hải Anh (là người dân tộc kinh): Cháu Hải Anh
bị tổn thương da chân khi mới sinh, lớn lên da chân của cháu rất mỏng, gia đình
cho đi học sợ va chạm cháu sẽ bị trầy xước và chảy máu. Chúng tôi mời bố mẹ đến
lớp xem các bạn học, chơi xem có đảm bảo an toàn cho cháu không, nhà trường sẽ
sắp xếp cô giáo quen cháu về phụ với giáo viên chủ nhiệm, có cô giáo quen biết để
gần gũi trẻ hơn, trẻ có cảm giác yên tâm hơn, gia đình đã quyết định cho cháu đi
học. hiện nay cháu hòa nhập với bạn bè rất tốt, cháu rất vui vẻ thoải mái khi đến
lớp với các bạn và cô giáo, không còn e dè đã có thói quen nề nếp khi tham gia các
hoạt động ở lớp.
Huy động trẻ ra lớp đạt 100% đã khó, duy trì số trẻ cũng là vấn đề khó khăn.
Khi huy động trẻ ra lớp đạt được đúng kế hoạch, có một phụ huynh trao đổi với tôi
có một cháu nghi bị nhiễm HIV vì mẹ của cháu bị nhiễm rồi nếu không cho cháu
đó nghỉ học thì cả lớp này sẽ nghỉ vì sợ bị lây, cháu trai này là cháu của một vị
trưởng thôn là người có uy tín với xã và với thôn bản, lý do để bảo cháu nghỉ thì
không có vì cháu đến lớp rất ngoan và lễ phép, nếu để cháu tiếp tục học thì bạn
8


khác sẽ nghỉ hết, bản thân tôi rất thương cháu và không cho phép mình làm điều gì
sai đối với cháu. Thực hư vấn đề này là thế nào, nếu không thận trọng hậu quả sẽ
rất khó lường thật sự là nan giải, tôi đã chủ động trao đổi với ông của cháu nêu rõ
sự nghi vấn và mong ông thông cảm chia sẽ cho biết tình trạng sức khỏe của cháu
để cùng có biện pháp chăm sóc cháu cho phù hợp, cháu chưa đi xét nghiệm nên
không biết tình trạng sức khỏe, tôi đã động viên gia đình đưa cháu đi xét nghiệm
kết quả là cháu âm tính, gia đình phấn khởi và cảm ơn nhà trường đã phân tích cho
gia đình hiểu và quyết tâm đưa trẻ đi xét nghiệm dù kết quả thế nào.
Với trường hợp những cháu bị khuyết tật có khả năng đến lớp động viên gia
đình đưa cháu đến trường có biện pháp giáo dục riêng cho cháu và đồng thời tư vấn

cho gia đình làm chế độ khuyết tật cho trẻ theo chính sách của nhà nước
Với trường hợp những cháu không đủ tiêu chuẩn để đến trường như bại liệt
nằm một chỗ, mắc bệnh lây nhiễm không thể đến trường, BGH nhà trường xây
dựng kế hoạch kết hợp với Trạm y tế xã, tư vấn và hỗ trợ cho cha mẹ trẻ chăm sóc
và dạy trẻ tại nhà, phân công bố trí cán bộ, giáo viên sắp xếp thời gian đến kiểm tra
sự tiến bộ của trẻ.
Về vấn đề này người quản lý phải thật am hiểu phong tục tập quán của địa
phương và hoàn cảnh của trẻ để có cách giải quyết phù hợp, phải tâm huyết với
nghề và yêu trẻ, biết phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể đúng lúc, đúng việc
và biết lắng nghe, tôn trọng các ý kiến đóng góp của các bậc phụ huynh, có sự phối
hợp chặt chẽ với phụ huynh thì chúng ta mới nhận được sự tin tưởng của phụ
huynh.
2.3.3. Biện pháp 3: Đổi mới công tác quản lý trong tổ chức bán trú
Đổi mới trong công tác quản lý bán trú là vấn đề mà mỗi người Hiệu trưởng
luôn mong muốn và có ý thức tìm kiếm đổi mới để phát triển nhà trường, để tạo uy
tín, tạo niềm tin cho các cấp lãnh đạo, cho các bậc phụ huynh, có những vấn đề
chúng ta thay đổi, đổi mới có thể phát triển, nhưng có những vấn đề đổi mới lại
không phát triển được vì thiếu đi sự phù hợp, có những vấn đề đổi mới phù hợp với
nơi này, với trường này nhưng lại không phù hợp với nơi khác hoặc trường khác vì
vậy phải lựa chọn sự đổi mới sao cho phù hợp, hiệu quả với trường mầm non Tân
Lập tôi đã lựa chọn như sau
Thay việc thu tiền ăn bằng bán phiếu ăn. Để phù hợp với điều kiện ở địa
phương là thuần nông, các phụ huynh rất chắt chiu dành dụm cho con ăn bán trú tại
9


trường, nhà trường thu tiền ăn theo tuần và thiết kế phiếu ăn theo mẫu riêng của
nhà trường, trong đó có thông tin tên, lớp học của trẻ, tiền nộp, tiền thừa, số buổi đi
học của trẻ, cuối tuần phụ huynh cầm phiếu biết con mình đã ăn hết bao nhiêu còn
bao nhiêu để mua tiếp cho tuần sau. Trường mầm non Tân Lập là trường bán phiếu

ăn đầu tiên ở huyện Bá Thước, được các phụ huynh đồng tình, tạo điều kiện rất
thuận tiện cho phụ huynh khi đăng ký cho con ăn và theo dõi tiền ăn của con. Nhà
trường thì chủ động trong việc mua lương thực, thực phẩm và thanh toán.
Phối hợp với Ban đại diện Cha mẹ học sinh của nhà trường, kiểm tra định kỳ
các điều kiện phục vụ nuôi dưỡng, chăm sóc để bổ sung, tu sửa thường xuyên các
đồ dùng phục vụ, kiểm tra chất lượng lương thực, thực phẩm giải quyết kịp thời
các vấn đề khó khăn trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
Tổ chức Hội thảo gồm BGH, tổ trưởng tổ chuyên môn, kế toán thủ quỹ, cấp
dưỡng tìm các biện pháp tối ưu nhất cho việc tổ chức nuôi dưỡng trẻ để đảm bảo số
lượng, chất lượng bữa ăn, an toàn vệ sinh thực phẩm, quản lý tốt quy trình hợp
đồng lương thực, thực phẩm, đi chợ, kiểm tra, giám sát, chế biến, chia cơm, chia
thức ăn và thanh toán tiền ăn.
Lựa chọn người có bằng trung cấp sư phạm mầm non và người biết nấu ăn
ngon, đảm bảo sức khỏe, vệ sinh sạch sẽ để làm cấp dưỡng cho nhà trường.
2.3.4. Biện pháp 4: Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học
Nhà trường thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ, mỗi
nhà trường căn cứ vào tình hình thực tế, điều kiện của địa phương xây dựng kế
hoạch tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học, đồ chơi đảm bảo
thực hiện tốt nhiệm vụ, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới hiện nay, nhu cầu về cơ sở
vật chất, trang thiết bị đồ dùng không phải chỉ “Có đủ” mà phải đáp ứng được theo
hướng “Chuẩn và hiện đại”.
Giai đoạn này là giai đoạn hết sức khó khăn nguồn kinh phí hạn chế, ở huyện
tập trung nguồn cho các trường xây dựng trường chuẩn Quốc gia, ở xã đang tập
trung xây dựng xã đạt Nông thôn mới.
Vì thế nhà trường đề ra phương châm “Mỗi năm học sẽ làm một công trình
và mua đồ dùng cần thiết nhất, bất kể từ nguồn nào”. Có hạch toán phát triển cho
giai đoạn cho từng năm. Năm 2013 nhà trường đã tích cực tham mưu và được Sở
Giáo dục đầu tư 4 bộ đồ chơi ngoài trời và tu sửa cổng biển trường, trang trí văn
phòng, năm 2014 nhà trường làm nhà để xe cho giáo viên và ngăn phòng chia cơm
10



ở nhà bếp, chặt tỉa cây xây bồn hoa, năm 2015 nhà trường xây nhà bảo vệ, vẽ tường
ngoài của lớp học, năm 2016 Cha mẹ học sinh đã đóng góp 80.576.000đ để mua đồ
dùng và phục vụ công tác bán trú , về cơ sở vật chất nhà trường mua thêm bàn ghế
trị giá: 32.000.000đ, nhà trường tu đổ bê tông sân trường tổng 140.000.000đ, đổ bê
tông 2 bên cổng trường bên ngoài làm nơi để xe cho phụ huynh khi đón trẻ kinh phí
là:10,918.000đ về phòng học nhà trường đang được xây dựng 2 phòng học có
nguồn vốn từ trái phiếu chính phủ với giá trị 2,3 tỷ đồng. Với sự linh hoạt nếu có
nguồn của cấp huyện, cấp tỉnh đầu tư thì giảm bớt nguồn của địa phương, nếu năm
nào không có nguồn của tỉnh của huyện thì nhà trường tích cực tham mưu với địa
phương để kích cầu được đầu tư thực hiện đúng như phương châm “Mỗi năm học
sẽ làm một công trình và mua đồ dùng cần thiết nhất, bất kể từ nguồn nào”. Bên
cạnh đó trang thiết bị đồ dùng học tập được nhà trường tiết kiệm chi hoạt động để
mua sắm và tích cực tham mưu với cha mẹ học sinh để được mua sắm đồ dùng bán
trú.
Bằng công tác tham mưu với lãnh đạo địa phương, Phòng giáo dục, UBND
huyện, tích cực phối hợp với Ban đại diện Cha mẹ học sinh đến nay về cơ sở vật
chất, trang thiết bị đồ dùng nhà trường đã và đang từng bước thay đổi đáp ứng được
yêu cầu phục vụ công tác nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ, từng bước thay thế
theo hướng phát triển “Chuẩn và hiện đại”
2.3.5. Biện pháp 5: Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Chất lượng đội ngũ giáo viên bao gồm trình độ chuyên môn, nghiệp vụ khả
năng, năng lực của giáo viên thể hiện ở kết quả thực hiện nhiệm vụ đối với bậc học
mầm non bé đến trường cô giáo là người mẹ thứ hai của trẻ, là người trực tiếp chăm
sóc và giáo dục trẻ, thời gian bé ở bên cô giáo là cả ngày vì vậy cô giáo phải như
mẹ hiền, phải thật sự yêu thương tôn trọng trẻ, chăm sóc cháu chu đáo, cô giáo là
người ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ nhiều nhất. Nhận biết được điều đó kết hợp
với tổ chức công đoàn luôn chú ý bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhà giáo thông qua
các cuộc họp những vấn đề còn hạn chế mà giáo viên gặp phải, thông tin lại những

vấn đề nóng về các vụ việc bạo lực với học sinh, các tai nạn còn sảy ra ở các trường
mầm non để nhắc nhở, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho chị em giáo viên. Bên
cạnh đó luôn quan tâm đến bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên
Về việc bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn nhà trường sắp xếp công
việc tạo điều kiện cho giáo viên đi học để nâng cao bằng, đến nay nhà trường đã
11


có13/15 cô đạt 78,6% có trình độ trên chuẩn, nhà trường luôn quan tâm đến việc
bồi dưỡng chuyên môn, thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, nhà
trường mua sắm ti vi cho tất cả các lớp, nối mạng đến các lớp, quy định 50% giáo
viên soạn giáo án bằng máy tính, nhà trường mời giáo viên có giờ dạy giỏi cấp tỉnh
về dạy lại tiết đó, đó là cô Phạm Thị Dung Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh năm 2012
trường mầm non Thiết Kế dạy lại tiết dạy bằng trình chiếu trên ti vi và hướng dẫn
một số cách sử dụng, cách thiết kế bài dạy, lý do tôi chọn Cô Phạm Thị Dung bởi
cô giáo xứng đáng là tấm gương thực tế nhất cô bận con nhỏ, dạy ở vùng trên, xa
trung tâm huyện mà sử dụng máy tính rất thành thạo và đã đạt giáo viên giỏi cấp
tỉnh, từ đó là động lực khích lệ chị em giáo viên trong trường tích cực học tập, từ
năm 2012 đến nay mỗi đợt thi giáo viên giỏi cấp huyện nhà trường đều có 2-3 giáo
viên đạt GVG cấp huyện, năm học 2014-2015 nhà trường có một SKKN của giáo
viên đạt giải C cấp tỉnh, năm học 2015-2016 nhà trường có đồ dùng dạy học môn
âm nhạc tự làm đạt giải Ba ở Hội thi cấp Tỉnh, năm học 2016 – 2017 nhà trường đã
có một Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh.
Mỗi năm học nhà trường tổ chức kiểm tra hoạt động sư phạm giáo viên 1 lần
kiểm tra việc thực hiện theo lịch hoạt động một ngày của bé, kiểm tra trang trí
nhóm lớp, kiểm tra việc sử dụng tài liệu của trẻ, dự giờ và kiểm tra hồ sơ sổ sách để
đánh giá những ưu điểm và hạn chế, những thuận lợi và khó khăn của giáo viên
trong việc thực hiện nhiệm vụ từ đó chỉnh sửa bổ sung những hạn chế, khắc phục
khó khăn và rút kinh nghiệm cho năm học sau
Để nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên chú đến rèn luyện cô giáo là

tấm gương về đạo đức cho học sinh noi theo, tạo mọi điều kiện cho giáo viên bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp, nắm bắt đúng khả năng, năng lực và điều kiện hoàn
cảnh của giáo viên để phân công nhiệm vụ hợp lý, phải tổ chức tốt phong trào thi
đua, trong đánh giá xếp loại phải công bằng, công khai, dân chủ, phải xây dựng kế
hoạch đào tạo bồi dưỡng giáo viên nòng cốt, nguồn cán bộ kế cận để tạo động lực
cho giáo viên phấn đấu. Có cô giáo yêu trẻ, tâm huyết với nghề, dạy giỏi sẽ thu hút
được trẻ đến lớp.
2.3.6. Biện pháp 6: Nâng cáo chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục toàn
diện cho trẻ
Nhằm nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ nhà trường
chú trọng đến việc đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ, nâng cao chất lượng bữa ăn,
12


xây dựng bữa ăn đảm bảo chất dinh dưỡng mời Ban đại diện Cha mẹ học sinh kiểm
tra từ việc xem các hợp đồng mua lương thực, thực phẩm, xem bảng lên thực đơn,
sổ nhận thực phẩm, sổ giao chế biến, sổ chia cơm và xem trẻ ăn, để các thành viên
đánh giá, nhận xét và đồng thời là tuyên truyền viên của nhà trường cho các phụ
huynh khác. Bếp ăn của nhà trường luôn sạch sẽ, có nề nếp tốt, đảm bảo an toàn về
vệ sinh thực phẩm. Tỷ lệ trẻ mẫu giáo ăn bán trú tại trường đạt 100%
Nhà trường phối hợp với Trạm y tế xã khám sức khỏe định kỳ 2 lần/ năm
cho trẻ đang học tại trường, kiểm tra theo dõi việc cân đo chấm kênh và cập nhật
thông tin vào sổ theo dõi sức khỏe trẻ một năm 4 lần ( Vào ngày 15 tháng 8, tháng
11, tháng 2 và tháng 5) để phát hiện trẻ suy dinh dưỡng về cân nặng chiều cao và có
biện pháp khắc phục, cho trẻ uống thuốc tẩy giun. Nhà trường luôn cập nhật các
thông tin về các bệnh theo mùa, thời tiết để trao đổi nhắc nhở với phụ huynh. Tỷ lệ
trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân còn dưới 8%, trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi còn
100%
Về trí tuệ ngoài việc chỉ đạo thực hiện nghiêm túc theo quy chế chuyên
môn, nhà trường tổ chức thi “Bé khỏe mầm non” theo chuyên đề vận động, thi “Bé

thi vẽ tranh” các lớp rất tích cực tham gia và được các phụ huynh rất ủng hộ và
quan tâm đến việc học của con nhiều hơn.
Hàng năm nhà trường thực hiện đánh giá sự phát triển của trẻ 2 lần/1 năm.
Lớp mẫu giáo A1 đánh giá theo Bộ chuẩn 5 tuổi của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định, các lớp còn lại nhà trường tổ chức đánh giá theo bài khảo sát của Phòng giáo
dục gợi ý cụ thể hóa cho phù hợp với khả năng trẻ, thực tế ở trường, kết quả cuối
năm học tỷ lệ trẻ đạt yêu cầu là 95%, trẻ chưa đạt yêu cầu là 5%. cuối Năm học tổ
chức Ngày hội phát thưởng cho trẻ đạt “ Bé chăm ngoan, học giỏi” hoặc “ Bé chăm
ngoan” để khuyến khích động viên trẻ.
Bên cạnh đó nhà trường xây dựng tiết mẫu dạy sử dụng trình chiếu trên màn
hình ti vi, tiết Chuyện kể ở lớp mẫu giáo lớn và tổ chức dạy vào đầu buổi của Hội
nghị phụ huynh đầu năm học để toàn thể phụ huynh được dự và phụ huynh thấy
được việc tổ chức tiết học cho trẻ không đơn giản và cách cho trẻ làm quen với
chuyện thơ cần nhiều đồ dùng dạy học để trẻ hứng thú học và học có hiệu quả. Từ
đó công tác phối kết hợp với phụ huynh thuận lợi hơn rất nhiều, hàng năm chỉ đạo
cho giáo viên kết hợp với Phụ huynh sưu tầm các nguyên vật liệu phế thải để tận
dụng làm đồ chơi và có một số phụ huynh đã trao đổi, cùng làm đồ dùng dạy học,
13


đồ chơi với chơi với giáo viên thu hút sự tham gia rất lớn của phụ huynh trong công
tác chăm sóc giáo dục trẻ. Chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục toàn diện
cũng từ đó được nâng lên rõ rệt.
2.3.7. Biện pháp 7: Chăm sóc giáo dục trẻ dân tộc thiểu số và trẻ có hoàn cảnh
khó khăn
Mỗi người trong số chúng ta đều khác nhau, đều có điểm mạnh và điểm yếu
của mình, chỉ khi nào chúng ta tôn trọng sự khác biệt của chính mình, chúng ta sẽ
tôn trọng sự khác biệt của đứa trẻ và gia đình của các em. Khi chúng ta tôn trọng sự
khác biệt đó thì các mục tiêu học tập và phát triển của trẻ em được dễ dàng hơn.
Ở trường mầm non Tân Lập có sự phát âm ngôn ngữ của các em dân tộc thiểu số và

một số em mồ côi cha, có em trí tuệ phát triển chậm và vận động
Vấn đề sự khác biệt ngôn ngữ ở trường tôi chủ yếu là giữa cháu dân tộc thiểu
số và dân tộc kinh. Khi tham gia các hoạt động học tập và vui chơi trẻ nói tiếng việt
nhưng lại dùng từ của tiếng mẹ đẻ như cái bút sáp màu đen trẻ nói màu dầm, hòn
đá trẻ nói hòn phụ, màu xanh màu xênh, từ cháu lại nói là chấu.
Trước vấn đề này điều đầu tiên cô giáo phải chào đón và chấp nhận trẻ và gia đình
trẻ dân tộc thiểu số bị thiếu hụt về ngôn ngữ, không nên hạn chế việc sử dụng tiếng
mẹ đẻ của trẻ ở trường tôi đã chọn giáo viên nói thạo tiếng dân tộc thiểu số dạy lớp
3-4 tuổi vì độ tuổi này thường mắc lỗi sử dụng từ nhất, việc sử dụng tiếng mẹ đẻ
của trẻ sẽ hỗ trợ cho sự phát triển tiếng việt duy trì ngôn ngữ thứ nhất không ảnh
hưởng đến việc học ngôn ngữ thứ hai, cô giải thích các từ của tiếng việt mà trẻ
chưa hiểu thì cô dùng tiếng mẹ đẻ của trẻ để giải thích và dạy trẻ cách dùng từ cho
phù hợp khi nói tiếng chung, khi cần thiết giáo viên phải sử dụng hình ảnh thật
hoặc tranh để dạy cho trẻ không nên bắt trẻ, ép trẻ phải nói đúng ngay, luôn quan
tâm chú ý động viên trẻ, gần gũi tươi cười với trẻ nếu trẻ chưa sửa được để trẻ
không quá sợ, thích giao tiếp với cô và dần trẻ sẽ thích giao tiếp với bạn bè và trẻ
sẽ tích cực tham gia các hoạt động. Đồng thời giáo viên trao đổi với các bậc phụ
huynh về lỗi phát âm, lỗi sử dụng từ cụ thể từ mà trẻ thường nói sai và dặn các bậc
phụ huynh nhắc nhở và chú ý sửa cho trẻ. Lên lớp mẫu giáo 4-5 tuổi yêu cầu giáo
viên hạn chế sử dụng tiếng mẹ đẻ của trẻ mà chủ yếu giải thích bằng tiếng việt, tích
cực giao tiếp với trẻ và tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động giao tiếp có ý
nghĩa với cô, với bạn bằng tiếng việt để trẻ sử dụng thành thạo tiếng việt khi lên lớp
5-6 tuổi trẻ trẻ hòa nhập được với các bạn và phát triển tốt . Để giáo viên duy trì và
14


thực hiện theo đúng sự chỉ đạo đầu năm học tôi giao nhiệm vụ và đưa ra các biện
pháp cho tổ chuyên môn triển khai cho các giáo viên thực hiện, các buổi sinh
hoạt chuyên môn của trường tôi luôn tham gia đầy đủ để nắm bắt tình hình.
Bên cạnh đó huy động sự tham gia của cộng đồng khi thực hiện các hoạt động như

vận động trẻ đi học, lao động vệ sinh khuân viên trường lớp, mua đồ dùng bán trú,
đồ dùng học tập cho trẻ để thêm sự gắn kết giữa cha mẹ trẻ với nhà trường, thông
qua các buổi lao động để tuyên truyền về việc chăm sóc giáo dục trẻ với cha mẹ trẻ
Đối với các cháu có hoàn cảnh khó khăn khi đã nắm bắt được số cháu có
hoàn cảnh éo le, thu hút được các cháu đến trường, nhà trường sẵn sàng đón nhận
trẻ và gia đình trẻ, bản thân tôi tin tưởng trẻ có thể học được và phải tạo mọi cơ hội
để trẻ có quyền được học như các trẻ em khác, Hiệu trưởng phải là người làm
gương trong việc ứng sử bình đẳng, tránh định kiến miệt thị trẻ và gia đình trẻ. Về
việc thực hiện các chế độ chính sách, có đầy đủ hồ sơ nhà trường quan tâm làm chế
độ cho trẻ, không thuộc diện có hồ sơ nhà trường lập danh sách tham mưu cho Ban
đại diện CMHS của nhà trường xin giảm 50% các khoản đóng góp cho trẻ. Phối
hợp với các Hội người tàn tật, trẻ mồ côi của xã để hỗ trợ cho các cháu, các giáo
viên trong nhà trường gần gũi động viên, tư vấn cho gia đình những nhu cầu của
trẻ, đến thăm hỏi gia đình vào dịp lễ tết, các đợt trẻ bị ốm, động viên Cha mẹ hoặc
ông bà của trẻ tham gia các hoạt động ở nhà trường để tạo sự thân thiện hơn.
Với giáo viên ở lớp dạy trẻ, tôi luôn quan tâm chia sẻ, nếu cô giáo gặp khó
khăn việc giải quyết của cháu tôi đều giúp đỡ có cách giải quyết kịp thời, nhắc nhở
các bạn trong lớp phải thương yêu giúp đỡ bạn, những bạn mồ côi cha các con rất
hay ngồi một mình, ít tham gia với bạn tính tình trầm hẳn cô giáo luôn động viên
trò chuyện cùng trẻ, trao đổi với trẻ những việc không nên làm tạo các tình huống
để trẻ hoạt động giao lưu với bạn bè, động viên khích lệ nêu gương trẻ kịp thời khi
trẻ làm được việc tốt giúp cô, giúp bạn, luôn quan tâm tới trẻ khi trẻ mặc áo mới, đi
dép, hoặc có gì đẹp cô đều khen và gợi ý cho các bạn chú ý tới trẻ và khen trẻ.
Với trẻ chậm phát triển về vận động giáo viên thường theo dõi trẻ trong suốt
thời gian trẻ ở trường để giúp đỡ trẻ, tâm lý của trẻ này rất hay lo sợ khi trẻ làm sai
vì vậy giáo viên phải nhẹ nhàng nhắc trẻ, có những việc nhờ bạn khác giúp trẻ để
các bạn có sự chia sẻ thương trẻ không trêu trọc bạn, trẻ phát âm chưa đúng cô
dùng tranh cho trẻ xem hỏi trẻ để trẻ trả lời cô chú ý sửa sai cho trẻ, đồng thời trao
đổi với bố mẹ của trẻ về sự tiến bộ của trẻ và cách phát huy sự tiến bộ đó để bố mẹ
15



tận dụng cơ hội phát huy cho trẻ, trao đổi những lỗi trẻ mắc nhưng vẫn chưa sửa
được, tư vấn cho bố mẹ cách tập, cách trẻ tự bảo vệ mình để bố mẹ cùng kết hợp để
sửa cho trẻ
2.3.8. Biện pháp 8: Công tác Phối kết hợp với Trạm y tế, với các ban ngành đoàn
thể trong xã
* Phối hợp với trạm Y tế xã: Nhà trường phối hợp chặt chẽ với Trạm y tế xã để
khám sức khỏe định kỳ 2 lần/ năm cho trẻ đang học tại trường, kiểm tra theo dõi
việc cân đo chấm kênh và cập nhật thông tin vào sổ theo dõi sức khỏe trẻ một năm
4 lần để phát hiện trẻ suy dinh dưỡng về cân nặng chiều cao và có biện pháp khắc
phục. Kết hợp tổ chức cho trẻ uống thuốc tẩy giun 2 lần/ 1 năm học vào tháng 12
và 1/6. Qua khám sức khỏe cho trẻ kết quả có nhiều cháu bị sâu răng, nhà trường
đã kết hợp với trạm viết bài tuyên truyền về bệnh răng miệng ở trẻ và mời Bác sĩ là
Trưởng trạm trực tiếp tuyên truyền với phụ huynh vào kỳ họp phụ huynh đầu năm
học sau.
* Phối hợp với Ban Tư pháp xã: Để tạo điều kiện thuận lợi cho các bậc phụ
huynh làm hồ sơ đăng ký học cho trẻ vào đầu năm học, nhà trường đấu mối thống
nhất thời gian nạp hồ sơ với Ban tư pháp để Ban tư pháp xắp xếp tạo mọi điều kiện
cho phụ huynh xin bản sao giấy khai sinh và chứng thực các loại giấy tờ, tránh
phiền hà mất thời gian của phụ huynh.
* Phối hợp với Ban chính sách xã: Nhà trường đấu mối với Ban chính sách
nắm bắt số cháu thuộc đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo đang học ở trường để
nhắc nhở các phụ huynh nộp quyết định làm chế độ cho chính xác, đủ và đúng đối
tượng trẻ được hưởng, đấu mối để Ban chính sách cấp Quyết định để làm chế độ
kịp thời cho các cháu đúng với thời gian quy định của Phòng Giáo dục.
* Phối hợp với Hội phụ nữ xã: Nhà trường gắn chặt với Hội phụ nữ xã trong
công tác tuyên truyền vận động trẻ đến trường và tuyên truyền cách phối hợp giữa
gia đình và nhà trường để chăm sóc trẻ sao cho có hiệu quả, để nâng cao nhận thức
cho các bậc cha mẹ sự cần thiết phải phối hợp cùng với nhà trường trong công tác

nuôi dưỡng-chăm sóc-giáo dục trẻ, từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm của Cha
mẹ trẻ trong công tác phối kết hợp. Bằng các hình thức tham dự các buổi họp tổng
kết công tác Hội phụ nữ của thôn, buổi họp giao ban phụ nữ hàng tháng ở xã, buổi
sinh hoạt Câu lạc bộ liên thế hệ ở các thôn, Hiệu trưởng lựa chọn các nội dung phù

16


hợp để tuyên truyền trong nhiều năm qua nhà trường nhận được sự quan tâm, nhiệt
tình ủng hộ của các bậc phụ huynh.
* Phối hợp với Hội người tàn tật, trẻ mồ côi của xã: Nhà trường tham gia
cùng với Hội tổ chức tặng quà cho các cháu mồ côi ( Nhà trường có 3 cháu mồ côi
cha do tai nạn lao động và bệnh tật), nhân dịp tết trung thu, ngày 1/6 tết thiếu nhi).
* Phối hợp với Ban lãnh đạo thôn bản: Phối hợp với các thôn bản trong việc
điều tra phổ cập, trong việc huy động trẻ ra lớp, duy trì số trẻ, chất lượng giáo dục
những vấn đề liên quan đến gia đình trẻ làm ảnh hưởng đến việc học của trẻ, của
lớp Hiệu trưởng tìm hiểu trao đổi trực tiếp với lãnh đạo thôn để có cách giải quyết
phù hợp và thông tin đến các bậc phụ huynh các nội dung thông báo của nhà trường
trên loa phát thanh của thôn.
Nhà trường luôn coi trọng công tác phối kết hợp với các cơ quan ban ngành
đóng trên địa bàn xã để làm tốt công tác tuyên truyền về các hoạt động của nhà
trường để các ban ngành đoàn thể hiểu về những nhiệm vụ mà nhà trường đang
đảm nhiệm và các hoạt động đang diễn ra trong trường mầm non sau đó chia sẻ và
giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho nhà trường. Đồng thời ghi nhận kết quả mà nhà
trường đã đạt được.
2.4. Hiệu quả .
Số trẻ điều tra
Độ tuổi

Tổng

số trẻ

Số trẻ ra lớp

Trẻ DTTS
Tổng
số

Số nữ

Tổng
số

Trẻ dân tộc thiểu số
Tỷ lệ

Số trẻ

Tỷ lệ

Số trẻ
nữ

Tỷ lệ

NĂM HỌC 2014-2015

3 tuổi
4 tuổi
5 tuổi


41
37
44

31
23
26

22
24
19

39
36
44

95,1%
97,3%
100%

29
22
26

93,5%
95,6%
100%

20

24
19

91%
100%
100%

3-5 tuổi

122

80

65

119

97,5%

77

96,3%

63

97%

32
31
23


96,9%
100%
100%

17
22
24

94,4%
100%
100%

NĂM HỌC 2015-2016

3 tuổi
4 tuổi
5 tuổi

59
41
37

33
31
23

18
22
24


57
41
37

96,6%
100%
100

17


3-5 tuổi

137

87

64

135

98,5%

100

99%

57


98,5%

CUỐI NĂM HỌC 2016-2017

3 tuổi
4 tuổi
5 tuổi

51
59
41

37
33
31

18
18
22

51
59
41

100%
100%
100%

37
33

31

100%
100%
100%

18
18
22

100%
100%
100%

3-5 tuổi

151

101

58

149

100%

100

100%


58

100%

- Năm học 2014-2015 tỷ lệ huy động trẻ lớp đạt: 97,5%
- Năm học 2015-2016 tỷ lệ huy động trẻ lớp đạt: 98,5%
- Năm học 2016-2017 tỷ lệ huy động trẻ lớp đạt: 100%
Chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục được nâng lên, tất cả trẻ có thói
quen nề nếp học tập, vui chơi và tham gia các hoạt động ngay từ mẫu giáo bé
- Tạo được uy tín đối với phụ huynh trong việc đăng ký cho con đi học, cách
làm hồ sơ khoa học, không kéo dài thời gian tuyển sinh trẻ mới nhưng cũng không
gây phiền hà cho phụ huynh, tạo cho phụ huynh có thói quen đăng ký cho con đi
học đúng thời gian quy định và ý thức thực hiện nề nếp nội quy, quy định khác của
nhà trường. Tạo uy tín với các bộ phận các ban ngành ở xã trong công tác phối hợp
chăm sóc, giáo dục trẻ
- Tạo niềm tin sự yên tâm của phụ huynh khi gửi con cho cô giáo, cho nhà
truờng, xây dựng mối quan hệ thân thiết gần gũi với cha mẹ học sinh, các bậc cha
mẹ học sinh nhiệt tình ủng hộ ngày công lao động làm khuân viên nhà trường luôn
xanh, sạch đẹp, tình nguyện đóng góp tạo mọi điều kiện thuận lợi để mua sắm trang
thiết bị, đồ dùng, đồ chơi trong nhà trường.
- Là động lực để giáo viên tích cực phấn đấu, nhiệt tình trong công tác, phát
huy năng lực của bản thân, tích cực học nâng cao trình độ chuyên môn và bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
- Bản thân tích lũy cho mình một kinh nghiệm quản lý chỉ đạo có khoa học
hơn, hiệu quả hơn và đối với bậc học mầm non và trường mầm non cần phải có
định hướng, mục tiêu phù hợp với thực tế nhưng trên cơ sở đáp ứng với sự đổi mới
và kiên trì phấn đấu, nghiêm túc chỉ đạo thực hiện sẽ đạt kết quả.
III. KẾT LUẬN
18



Trong công tác quản lý giáo dục, ngoài việc thực hiện tốt chủ trương đường
lối của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, thực hiện tốt sự chỉ đạo của các
cấp lãnh đạo.
Người quản lý trường học phải luôn trau dồi đạo đức, rèn luyện phẩm chất
chính trị, cũng như chuyên môn, nghiệp vụ quản lý để giáo viên noi theo. Luôn
nâng cao ý thức học hỏi đúc rút kinh nghiệm, đổi mới các biện pháp quản lý, chỉ
đạo, nghiêm túc chỉ đạo thực hiện các hoạt động của nhà trường. Làm tốt công tác
phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể trong xã. Thân thiện gần gũi với các bậc
phụ huynh, thấu hiểu chia sẻ cảm thông với các hoàn cảnh khó khăn, các gia đình
còn tư tưởng nhận thức lạc hậu cổ hủ, lắng nghe tôn trọng các ý kiến đóng góp xây
dựng phát triển nhà trường, phát huy vai trò của Hội cha mẹ học sinh trong nhà
trường. Nắm bắt tình hình tâm tư nguyện vọng và các ý kiến của cán bộ, giáo viên,
nhân viên trong nhà trường. Thực hiện tốt dân chủ trong cơ quan, công tác kiểm tra,
theo dõi, đánh giá nhận xét công bằng, công khai thì công tác quản lý mới đạt hiệu
quả cao.
Người quản lý phải nắm chắc các chỉ số cơ bản như tỷ lệ huy động trẻ ra lớp
hàng năm, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng hàng năm, tỷ lệ trẻ đạt khá giỏi hàng năm, tỉ lệ
trẻ bị mắc các bệnh thông thường, trong đó bệnh nào có tỷ lệ cao nhất, để đề ra các
biện pháp khắc phục xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện. Hiệu trưởng phải có
cái nhìn tổng quan mọi vấn đề về chất lượng về khả năng đáp ứng về tiềm năng có
thể khai thác ở trường mình, địa phương mình, có như vậy mới đánh giá được sự
phát triển của nhà trường và xây dựng nhà trường phát triển
Người quản lý trường học nói chung, trường mầm non nói riêng phải thật sự
tâm huyết với nghề nghiệp và luôn có tâm, có tầm, có khả năng xây dựng kế hoạch
tốt, có năng chỉ đạo nhà trường mới phát triển vững mạnh. Phải tư duy không có
biện pháp nào là hữu hiệu và mãi mãi, mà theo từng năm học nó được cải tiến, sửa
đổi bổ xung cho phù hợp với tình hình ở từng địa phương, từng thời điểm, phù hợp
với yêu cầu đổi mới cho nên người quản lý phải luôn tự học hỏi tích lũy kinh
nghiệm, phải nhạy bén với tình hình mới, với việc nắm bắt các thông tin, sáng tạo,

linh hoạt giải quyết các tình huống để giữ vững nề nếp, phong trào của nhà trường
và xây dựng nhà trường ngày càng phát triển vững mạnh

19


Các biện pháp trên tôi đã áp dụng rất hiệu quả ở Trường mầm non Tân Lập khi
sử dụng các biện pháp không nên chỉ coi trọng một biện pháp mà phải kết hợp đồng
bộ tất cả các biện pháp. Với các biện pháp trên tôi thiết nghĩ có thể phù hợp với
một số trường mầm non ở huyện miền núi. Song công tác quản lý còn là một lĩnh
vực nghệ thuật ở đó có mỗi một tác phẩm, tác giả đều có ý tưởng riêng cho mình,
bản thân tôi là một Hiệu trưởng ở một đơn vị trường không tránh khỏi những hạn
chế rất mong sự đóng góp ý kiến của Đồng nghiệp, của các đồng chí cán bộ quản lý
để một số kinh nghiệm của tôi được hoàn hảo hơn.
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Tân Lập, ngày 24 tháng 3 năm 2017
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Thị Sang

TÀI LIỆU THAM KHẢO
20


1. Chương trình Giáo dục mầm non của Bộ giáo dục và Đào tạo của nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam.
2. Văn kiện Đại hội XII của Đảng

DANH MỤC


21


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Sang
Chức vụ và đơn vị công tác: Hiệu trưởng - Trường Mầm non Tân Lập

TT
1.

2.

3.

4.

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp rèn luyện
kỹ năng phát âm chuẩn tiếng
phổ thông cho trẻ mẫu giáo
Xây dựng tập thể sư phạm
trường mầm non vững mạnh

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại

xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

C

2002 - 2003

Phòng
GD&ĐT
Bá Thước

B

2007 - 2008

C

2013 - 2014

A


2016 - 2017

Kinh nghiệm chỉ đạo giảm
Sở GD&ĐT
SDD thể thấp còi của Hiệu
Thanh Hóa
trưởng trường MN Tân Lập
Một số biện pháp huy động
Phòng
trẻ độ tuổi mẫu giáo đến
GD&ĐT
trường giai đoạn 2012-2017 ở
Bá Thước
trường MN Tân Lập

----------------------------------------------------

22



×