Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN giải pháp nâng cao nghề cho sinh viên thông qua việc hướng dẫn kiến tập, thực tập tai trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.91 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
MỤC
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
a
b
2.2

NỘI DUNG
MỞ ĐẦU
Lý do chọ đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Hiểu thế nào là kỹ năng, kỹ năng nghề
Thế nào là kỹ năng nghề nghiệp
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

TRANG
2
2
3
3
3


4
4
4
4
6

a

Về mặt nhận thức nghề.

6

b

Công tác kiến tập, thực tập của sinh viên mầm non.
Các giải pháp:
Tạo môi trường kiến tập, thực tập:
Xây dựng các kế hoạch chỉ đạo kiến tập,thực tập.
Tổ chức các hoạt động dạy mẫu:
Nâng cao vai trò tập giảng của giáo sinh trong trường MN.
Tổ chức đánh giá, nhận xét, xếp loại.
Công tác phối kết hợp giữa trường MN với trường SP
Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần chođội ngũ nhà giáo
Hiệu quả của SKKN đối với HĐGD, với bản thân, đồng

6

2.3
a
b

c
d
e
g
h
2.4
3

nghiệp và nhà trường.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:

8
9
10
13
14
14
15
15
15
16, 17

1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Dạy học là một nghề rất đặc biệt mà “Không ai trong xã hội, ngay cả cha mẹ
là bậc vĩ nhân đi nữa cũng không thể thay thế được chức năng của người thầy
giáo”. J.A.Comenxki đã cho rằng, nghề thầy giáo là nghề rất vinh dự mà “dưới ánh
mặt trời không có nghề nghiệp nào cao quý hơn”.

1



Núi n ngi giỏo viờn chỳng ta ngh ngay n trỏch nhim ht sc nng n
song cng y vinh quang. Giỏo viờn l ngi giỏo dc hỡnh thnh nhõn cỏch cho th
h tr, l ngi o to ra nhng con ngi k tc s nghip cỏch mng ca ton ng,
ton dõn ta. Mun hon thnh tt nhim v giỏo dc ú, iu kin u tiờn l Giỏo
viờn phi l nhng ngi cú tõm hn cao thng, cú kin thc cn thit, cú nhõn
cỏch, thit tha yờu ngh, yờu tr, vỡ tng lai ca th h tr m phn u. c bit
trong cụng tỏc chm súc giỏo dc tr mm non, lũng yờu ngh, yờu tr l yờu cu
cn thit, l iu kin tiờn quyt cú th tr thnh ngi giỏo viờn, ngi m th
hai ca tr.
Trong các nhiệm vụ chung của giáo dục, một nhiệm vụ cơ
bản mà nội hàm hoạt động của nó là quá trình dạy và học, với
đối tợng phục vụ chính là thế hệ trẻ. Để làm tốt nhiệm vụ này,
Bác Hồ đã từng nhắc nhở: Dạy trẻ phải Toàn vẹn cái tính vui vẻ
hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ nên làm cho
chúng hoá ra những ngời già sớm. Việc đổi mới giáo dục hiện
nay mà chúng ta đang thực hiện phải chăng là một sự trả lại bản
chất quá trình giáo dục và giảng dạy mà Bác Hồ kính yêu của
chúng ta, Ngời thầy vĩ đại của dân tộc đã đặt ra cách đây rất
lâu. Đối với cô Mẫu giáo Bác đã căn dặn : Làm Mẫu giáo tức là
thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm đợc thế thì trớc hết phải yêu trẻ... Dạy
trẻ nh trồng cây non. Trồng cây non đợc tốt thì sau này cây lên
tốt. Dạy trẻ tốt thì sau này các cháu thành ngời tốt. Cùng với sự
đổi mới chung trong giáo dục, GDMN với mục tiêu phát triển tổng
thể trẻ trong độ tuổi Mầm non cần phải có những đổi mới nhằm
hình thành ở trẻ những năng lực chung, những nền tảng nhân
cách ban đầu.

2



Như vậy thì vai trò của cô giáo Mầm non là hết sức quan trọng đồng nghĩa
với việc đòi hỏi chất lượng đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên Mầm non là
vô cùng cần thiết.
Dười góc độ cách nhìn của một nhà quản lý trường mầm non, đã nhiều năm
trực tiếp chỉ đạo lớp lớp sinh viên khoa MN của trường Đại học Hồng Đức kiến
thực, thực tập. Bản thân tôi cũng rất trăn trở, quan tâm tới chất lượng thực của các
em sinh viên ngành MN. Qua việc nêu một vài giải pháp thực tiễn, nhằm trao đổi
kinh nghiệm của bản thân cùng các trường bạn, kết nối giữa trường MN với khoa
sư phạm MN trường ĐH Hồng Đức, tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Giải pháp nâng
cao kỹ năng nghề cho sinh viên thông qua việc hướng dẫn sinh viên thực tập,
kiến tập tại trường MN nói chung và trường MN Đông Thọ B, thành phố Thanh
Hoá nói riêng” .
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài nhằm nâng cao kỹ năng nghề cho sinh viên ngành giáo dục
mầm non thông qua việc tổ chức chỉ đạo các hoạt động thực tập, kiến tập cho các
em.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng hoạt động thực tập, kiến tập của sinh viên ngành mầm
non trường Đại học Hồng Đức tại trường mầm non Đông Thọ B để đưa ra các giải
pháp nhằm góp phần nâng cao kỹ năng nghề cho cho sinh viên.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
- Phương pháp thu thập thong tin.
- Phương pháp khảo sát thực tế, quan sát, ghi chép.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp thực hành.
3



2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong chúng ta, tương lai nghề nghiệp, hiệu quả công việc của mình còn phụ
thuộc vào những kỹ năng của mỗi bản thân.
a. Hiểu thế nào là kỹ năng, kỹ năng nghề:
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng,tuỳ thuộc vào cách tiếp
cận.Theo từ điển Oxfort “ Kỹ năng” là khả năng để làm tốt một công việc nào đó
thường có được qua đào tạo hoặc kinh nghiệm. Theo đó kỹ năng được hiểu là sự
thành thạo, tinh thông về các thao tác, động tác trong quá trình hình thành một công
việc cụ thể nào đó. Theo Tâm lý học, kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức để
giải quyết một nhiệm vụ. Theo tác giả Đặng Thành Hưng, kỹ năng là dạng hành
động tự giác, được thực hiện có kỹ thuật, dựa vào những điều kiện sinh học, tâm lý
và xã hội ở cá nhân; và có kết quả nhất định đáp ứng mục tiêu hay chuẩn đã được
định trước. Malayxia cho rằng kỹ năng được hiểu là khả năng được học và được
thực hành để thực hiện một nhiệm vụ hay một công việc.
- Như vậy kỹ năng có một số nội dung là những quá trình tâm lý vì nó được
tổ hợp hàng loạt các yếu tố hợp thành như: tri thức,kỹ năng, kỹ xảo, khả năng chú
ý, tư duy…được thể hiện:
- Kỹ năng có tính linh hoạt, tính cụ thể.
- Kỹ năng được hình thành do luyện tập, được hình thành qua quá trình hoạt
động của con người.
b. Thế nào là kỹ năng nghề nghiệp:
Trong hoạt động nghề nghiệp,con người luôn biểu hiện những khả năng nhất
định để thực hiện công việc nào đó. Lúc đó con người cần phải có những tri thức,
kinh nghiệm cần thiết tương ứng với hoạt động. Như vậy kỹ năng nghề nghiệp
được hiểu là khả năng của con người thực hiện công việc nghề nghiệp một cách có
4



hiệu quả trong một thời gian thích hợp, với các điều kiện nhất định, dựa vào sự tích
hợp nhuần nhuyễn các kiến thức, kỹ năng, thái độ.
Như vậy phát triển kỹ năng nghề nghiệp tức là quan tâm tới đầu ra ( người
học sau quá trình đào tạo), lấy người học là trung tâm, trú trọng năng lực làm việc
của người lao động.
c. Những kỹ năng nghề nghiệp sư phạm Mầm non:
- Kỹ năng nghề: Múa, hát, kể chuyện, chơi được nhạc cụ cơ bản, làm đồ chơi
cho trẻ….những kỹ năng này đòi hỏi phải thành thạo.
- Kỹ năng giao tiếp với trẻ nhỏ: Giáo viên mầm non giỏi, có trình độ chuyên
môn, yêu nghề sẽ được trẻ em yêu quý. Vì thế việc rèn luyện và hoàn thiện về khả
năng giao tiếp với trẻ nhỏ là vô cùng quan trọng và phải mất rất nhiều thời gian.
Nếu không có kỹ năng này, bạn dễ trở nên vô cảm với trẻ, với nghề nghiệp của
mình.
- Kỹ năng giao tiếp với động nghiệp, với phụ huynh: Khi làm việc trong trường
mầm non, bên cạnh việc giao tiếp với các bé thì chúng ta còn phải tạo dựng và duy
trì mối quan hệ thân thiết với đồng nghiệp vì điều đó rất quan trọng. Tạo dựng được
mối quan hệ tốt đẹp với phụ huynh sẽ giúp bạn biết được tính cách cũng như tâm lý
của mỗi trẻ, từ đó dễ dàng hơn trong việc chăm sóc và quản lý trẻ.
- Kỹ năng soạn giáo án và tổ chức các trò chơi: Việc phải soạn giáo án ttrước
khi đến lớp, có kế hoạch và các hoạt động cụ thể trong từng ngày là một công việc
cần phải thực hiện của cô giáo mầm non. Để thực sự có hiệu quả trong công tác
chăm sóc và giáo dục trẻ thì đòi hỏi cô giáo mầm non phải có sự linh hoạt, sáng
tạo, thường xuyên cập nhật kiến thức, giúp trẻ không nhàm chán, luôn vui vẻ, thích
được đến trường, ham tìm hiểu khám phá.
- Kỹ năng y tế, sơ cấp cứu ban đầu: Cô giáo mầm non hội tụ đủ các yếu tố của
một người nghệ sỹ, một bác sỹ, một giáo viên. Biết dạy cho bé phải làm gì khi gặp
5


tai nạn và bản thân cũng phải biết cần phải làm gì, nắm vững cách sơ cứu ban đầu

cho trẻ nhỏ khi có vấn đề xảy ra.
- Kỹ năng công nghệ thông tin: Là một kỹ năng giúp người giáo viên tiết kiệm
được về thời gian và công sức trong công việc của mình trong quá trình tìm kiếm
thông tin, soạn giáo trình…
- Sự hài hước, dí dỏm: Sự hài hước, dí dỏm sẽ tạo một môi trường vui tươi, thân
thiện, giúp bản thân và những người xung quanh giải toả những áp lực, sự căng
thẳng. Khiến cho trẻ nhỏ yêu mình hơn, đồng nghiệp và phụ huynh quý mến. Khi
gặp áp lực, căng thẳng nếu biết cách sử dụng trí tuệ cảm xúc để áp chế sẽ biến
những khó khăn thành động lực hành động và yêu nghề hơn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
a. Về mặt nhận thức nghề:
Nghề dạy học Mầm non hiện nay đang được rất nhiều các em học sinh quan
tâm và lựa chọn do nhiều nguyên nhân khác nhau:
- Thi đầu vào của ngành mầm non không khó như các ngành khác. Đặc biệt
hệ Trung cấp thì được xét tuyển thông qua học bạ.
- Phù hợp với khả năng, năng lực của nhiều em với suy nghĩ không nhất thiết
phải học giỏi mà chỉ cần biết hát, biết múa một chút là được.
- Hiện nay có nhiều trường MN tư thục mở ra nên sau khi học ra trường có
thể xin được việc làm ngay.
- Chỉ cần yêu trẻ nhỏ là có thể làm cô giáo mầm non.
b. Công tác kiến tập, thực tập của sinh viên mầm non:
+ Đối với giáo sinh:

6


- Về thời gian kiến tập, thực tập tại các cơ sở GDMN còn ngắn, chưa đáp
ứng được nhu cầu tập dạy thực hành một cách toàn diện của sinh viên. Kiến tập chủ
yếu dự giờ, thực tập chỉ thực hành được khoảng 2 hoạt động tập dạy.
- Khả năng và năng lực sư phạm của sinh viên là không đồng đều. Đặc biệt

vị trí địa lý về vùng miền có ảnh hưởng đến tâm sinh lý và ngôn ngữ của các em.
- Các khoá học đào tạo có trình độ khác nhau.
- Đa số các em sinh viên đã được trang bị về năng lực chuyên môn ( kiến
thức về các bộ môn) song năng lực sư phạm và các kỹ năng nghề nghiệp còn hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Các kỹ năng nghề như múa, hát, kể
chuyện, chơi đàn…còn nhiều hạn chế.
- Thường các em khi đi kiến tập thực tập, tâm lý chỉ trú trọng đến kết quả tập
dạy ngay trong nhóm tiếp cận.
- Đôi khi giữa lý thuyết và thực hành không đồng nhất.
- Đa số các em sinh viên lấy giờ dạy mẫu của giáo viên hướng dẫn dạy làm
khuôn mẫu, các em chưa mạnh dạn để thể hiện hết khả năng của mình hoặc chưa
vận dụng hết được những vấn đề đã được học trên lý thuyết vào thực tế giảng dạy.
- Kiến thức tiếp thu được sau quá trình thực tập phụ thuộc chủ yếu vào khả
năng và năng lực, cách thức của người giáo viên hướng dẫn ở các nhà trường.
+ Đối với giáo viên hướng dẫn:
- Khả năng và năng lực của giáo viên hướng dẫn là không đồng đều.
- Giáo viên hướng dẫn chưa phát huy hết vai trò của mình. Trú trọng nhiều
đến việc quản lý con số, ngày giờ, công việc của nhóm sinh viên thực tập. Chưa
thực sự trú trọng đến công tác chuyên môn và năng lực sư phạm thông qua việc dự
giờ để giúp đỡ các em. Còn hạn chế trong việc đưa ra những biện pháp hữu hiệu để

7


kịp thời giúp các em điều chỉnh những yếu điểm và phát huy những ưu điểm trong
quá trình tập giảng.
- Quan điểm đánh giá của giáo viên hướng dẫn chưa có cái nhìn tổng thể,
nặng về việc đánh giá sự chăm chỉ, cần cù và ngoan ngoãn của các em là đủ.
- Trong quá trình giáo viên hướng dẫn đánh giá đôi lúc, đôi chỗ còn mang
nặng cảm tính.

- Giáo viên hướng dẫn còn máy móc, dập khuôn, hướng dẫn các em trong
khuôn mẫu của bản thân mình mà chưa kịp thời khuyến khích sự sáng tạo, cái mới
trong từng em.
+ Đối với trường sư phạm:
- Chưa có sự gắn kết trao đổi giữa giáo viên trường mầm non với trường sư
phạm.
- Nội dung đánh giá kiến tập thực tập chưa toàn diện ở tất cả các hoạt động
tập dạy, chủ yếu giáo sinh được lựa chọn tập dạy theo khả năng sở trường. Thiếu
thực hành bắt buộc về kỹ năng làm đồ dùng đồ chơi.
+ Đối với trường mầm non:
- Chưa trú trọng đến việc xây dựng kế hoạch tổng thể dẫn đến công tác chỉ
đạo, kiểm tra thiếu khoa học, chưa sát thực. Chủ yếu giao phó cho giáo viên chủ
nhiệm ở các nhóm lớp.
- Tổ chức dạy mẫu tập chung còn quá ít, chỉ 1 đến 2 hoạt động.
2.3. Các giải pháp:
Sự chuẩn bị cho các em sinh viên sẵn sàng tâm lý đi vào lao động nghề
nghiệp, một trạng thái tâm lý tích cực trước hoạt động lao động đối với nghề
nghiệp, đặc biệt là nghề mầm non là một việc làm hết sức quan trọng. Khi tiếp cận
với các trường MN, sinh viên có cơ hội được trải nghiệm, thử sức với nghề, được
8


thực hành lao động để kiểm chứng sở thích, khả năng, năng lực của bản thân đối
với nghề, cũng như củng cố lý thuyết đã được học. Từ đó nâng cao chất lượng giáo
dục đào tạo, lý thuyết đi đôi với thực hành, nhà trường gắn liền với thực tế xã hội.
Trong giai đoạn kinh tế và xã hội ngày càng phát triển, nghề giáo dục đang
được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt đó là giáo dục mầm non bởi nó là quá trình đầu đời
của mỗi đứa trẻ khi bước chân đến trường. Vậy nên, tại nhiều trường sư phạm hiện
nay đang có chương trình tuyển sinh trung cấp MN ( Xét học bạ, không phải thi) để
cho các em sinh viên yêu trẻ nhỏ có cơ hội được làm công việc yêu thích của mình.

Làm nghề này đòi hỏi bạn phải có sự kiên trì, có lòng nhiệt huyết với nghề nghiệp.
Công việc dạy trẻ tưởng đơn giản nhưng lại vô cùng khó khăn và phức tạp. Nhiệm
vụ của mỗi cô giáo là giúp đỡ các em nhỏ có nhận thức cho riêng mình, truyền đạt
những kiến thức sơ khai để trẻ biết yêu thương, gắn bó, đoàn kết với bạn bè, và đặc
biệt cô giáo mầm non phải là những người rất yêu trẻ nhỏ. Bởi chỉ khi chúng ta yêu
trẻ, chúng ta mới thực sự muốn truyền cảm hứng cho trẻ để chúng tiếp thu bài học
nhanh hơn và sâu sắc hơn.
a. Tạo môi trường kiến tập, thực tập:
Một môi trường thân thiện, lành mạnh, nề nếp chính là sự chào đón đầu tiên
đối với các em sinh viên. Thường thì khi mới bước vào giai đoạn kiến tập, thực tập
ban đầu cảm giác của các em sinh viên là vô cùng phấn chấn, nhiệt huyết với công
việc làm quen của mình. Sau thời gian thực tập, nhiều em có những biểu hiện chán
nản với công việc, chán nghề là do sự nhận thức về nghề chưa đúng. Chính trong
những thời điểm này, các cô giáo, những đàn chị đi trước có vai trò truyền cảm
hứng và nhiệt huyết với nghề cho các em.
Cái nghề cái nghiệp được gắn liền với cuộc sống của mỗi con người. Nhà
trường, đội ngũ CBGV, NV nơi các em về thực tế phải coi các em như những thành
viên chính trong ngôi nhà chung của mình. Bởi đây là nơi các em học viên được đặt
bước chân đầu tiên với nghề mình đã chọn. Sự thành công hay thất bại, niềm yêu
thích nghề hay chán nghề …phần lớn khởi nguồn từ thời điểm này. Các cô, các chị
9


đi trước phải thực sự là tấm gương sáng về mọi mặt từ phong cách ăn mặc, đi đứng,
hành động, nói năng… để các em sinh viên học tập, trau dồi phẩm chất nghề
nghiệp của giáo viên mầm non và nâng cao lòng yêu nghề mến trẻ.
b. Xây dựng các kế hoạch chỉ đạo kiến tập,thực tập.
Việc xây dựng kế hoạch là một trong những khâu hết sức quan trọng để giáo
viên hướng dẫn và giáo sinh có cơ sở xây dựng kế hoạch của cá nhân và phối hợp
làm việc một cách khoa học, hợp lý. Kế hoạch cần đảm bảo đầy đủ các yếu tố:

- Đảm bảo hợp lý, đầy đủ về mặt thời gian, thời lượng, nội dung các hoạt
động do trường Đại học đào tạo yêu cầu. BGH nhà trường xây dựng kế hoạch toàn
đợt ( Biểu số 1) và kế hoạch tuần ( Biểu số 2). Giáo viên trực tiếp hướng dẫn xây
dựng kế hoạch chi tiết cho từng cá nhân trong nhóm hướng dẫn.
- Cần tạo điều kiện để giáo sinh có thời gian làm quen với nhóm lớp trước
khi tập giảng.
- Đối với đoàn kiến tập lần 1, tuỳ thuộc vào việc giáo sinh đã được học lý
thuyết bộ môn phương pháp nào thì cho các em đăng ký tập giảng bộ môn đó.
- Tuỳ thuộc vào thời gian kiến thực tập để có kế hoạch đổi nhóm.

10


11


12


c. Tổ chức các hoạt động dạy mẫu:
- Hoạt động dạy mẫu tập chung cần phải được chuẩn bị tốt nhất về
mọi mặt cả về hình thức và nội dung: Giáo án, đồ dùng trực quan, trang
phục, tâm thế, môi trường lớp…
- Hoạt động dạy mẫu nên mang tính toàn diện: ở các hoạt động mà trẻ
được làm quen và các độ tuổi khác nhau. Mỗi đợt kiến tập,thực tập khoảng
từ 5 đến 6 hoạt động mẫu.
Ví dụ: Nhà trường tổ chức hoạt động dạy mẫu dự tập trung cho đoàn
kiến tập lần 2 trung cấp sư phạm mầm non K29 trường Đại học Hồng Đức
gồm các hoạt động:
1. Độ tuổi nhà trẻ 25- 36 tháng: PTVĐ: Đi theo đường hẹp.

2. Độ tuổi MGB: LQVH: Truyện “Đôi bạn tốt”
3. Độ tuổi MGN: LQVT: Số 4 ( tiết 1)
4. Độ tuổi MGN: Tổ chức hoạt động góc chủ đề “ Thế giới thực vật”
5. Độ tuổi MGL: Âm nhạc tổng hợp: “Chị ong nâu và em bé”
6. Độ tuổi MGL: LQ với chữ cái U, Ư.
Thực chất các hoạt động dạy mẫu tập trung đã được nhà trường duyệt,
góp ý xây dựng; vì vậy chất lượng giờ dạy sẽ chất lượng hơn so với các giờ
dự theo nhóm. Chính vì vậy việc giáo sinh được dự tập trung các hoạt động
làm quen ở tất cả các môn học trong đợt kiến tập hay thực tập là một cơ hội
tốt cho học viên :
+ Khắc sâu kiến thức đã được học, phương pháp cơ bản các bộ môn
một cách toàn diện hơn.
+ Làm quen với nhiều phong cách sư phạm khác nhau của các cô
giáo.
+ Tìm hiểu thực tế giảng dạy ở tất cả các độ tuổi của trẻ.

13


- Tổ chức rút kinh nghiệm, đóng góp ý kiến, giảng giải, giải thích
những thắc mắc của giáo sinh sau khi dự giờ tập trung. Từ đó giúp các em
yên tâm, tự tin hơn.
d. Nâng cao vai trò tập giảng của giáo sinh trong trường MN.
- Tăng thời lượng kiến tập, thực tập ( Thực hành) tại các trường MN.
Sư phạm mầm non không quá quan trọng về bằng cấp nhưng nó đòi hỏi cao
về kĩ năng: như kĩ năng truyền cảm hứng cho trẻ, kỹ năng dạy trẻ những
kiến thức về xã hội, tự nhiên, đòi hỏi bạn phải là người hết sức kiên nhẫn và
đầy nhiệt huyết cùng tình yêu với trẻ nhỏ. Việc cần phải hình thành, bồi
dưỡng, giáo dục lòng yêu nghề, mến trẻ cho sinh viên SPMN phải ngay từ
những ngày đầu bước chân vào giảng đường đại học là rất cần thiết. Khi các

em được thực tế tại các trường MN qua đợt kiến tập, thực tập thì chính môi
trường mầm non là nơi thắp thêm lửa yêu nghề cho các em, nhận thức đúng
đắn về nghề nghiệp để tự mỗi bản thân soi mình, nhìn nhận, rèn luyện và
hoàn thiện. Như vậy thời lượng kiến thực tập càng nhiều sẽ giúp sinh viên
càng có nhiều cơ hội để trải nghiệm thực tế và một lần nữa cũng để xác định
rõ định hướng gắn bó nghề nghiệp của các em trong tương lai.
- Để các em sinh viên có cơ hội được trải nghiệm tất cả các hoạt động
một cách nghiêm túc trong trường MN. Tránh tình trạng lý thuyết suông,
hoạt động thực tế thì hời hợt. Như vậy cả quyền lợi và nghĩa vụ của các em
được nâng lên.
- Mỗi đợt tập giảng các em được đổi nhóm, nhiều giáo viên hướng
dẫn. Sinh viên có cơ hội được tiếp cận với nhiều phong cách khác nhau, chắt
lọc được nhiều kinh nghiệm từ giáo viên trực tiếp hướng dẫn ở từng độ tuổi
trẻ.
e. Tổ chức đánh giá, nhận xét, xếp loại.

14


Góp ý, rút kinh nghiệm qua mỗi giờ tập giảng của giáo sinh cũng là
một khâu hết sức quan trọng, đòi hỏi giáo viên hướng dẫn phải thực sự
nghiêm túc.
Nghiêm túc trong khâu nhận xét, đánh giá thực lực của sinh viên.
Giáo viên hướng dẫn cần chỉ rõ những ưu nhược của các em để đánh giá
chính xác chất lượng thực tập, kiến tập. Đánh giá thông qua các kỹ năng
( Kỹ năng thực hành hoạt động GD trẻ, kỹ năng thực hành VSCS trẻ, kỹ
năng chuyên biệt: Hát, múa, vẽ, đàn…., kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quản lý
học sinh….). Để làm tốt khâu này đòi hỏi GV hướng dẫn phải có đầy đủ
năng lực chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp. Có lòng nhiệt thành, biết
giúp đỡ, biết truyền cảm hứng, ý chí nghề nghiệp cho các em sinh viên.

g. Công tác phối kết hợp giữa trường mầm non với trường sư
phạm.
Duy trì và làm tốt việc phối hợp giữa các nhà quản lý trường MN với
trường sư phạm ( Khoa MN), tổ chức các buổi hội thảo, nói chuyện chuyên
đề, trao đổi giao lưu với sinh viên của khoa để trang bị thêm những kiến
thức nghề thực tế cho các em. Kịp thời cập nhật được những vấn đề đổi mới
trong GDMN.
Tham gia viết tập san chuyên đề, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế.
h. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ nhà giáo.
Tiếp tục quan tâm đến chế độ chính sách của GVMN ( cả về vật chất
và tinh thần): Về chế độ chính sách của GVMN hiện nay còn nhiều bất cập.
Mức thu nhập thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của đội ngũ giáo viên
các nhà trường và cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, tâm lý chung
của sinh viên MN đang ngồi trên ghế nhà trường.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
15


- Sáng kiến kinh nghiệm đã đề ra một số giải pháp mang tính hiệu quả
trong việc nâng cao kỹ năng nghề cho sinh viên ngành giáo dục mầm non
thông qua hoạt động chỉ đạo thực tập, kiến tập tại trường mầm non Đông
Thọ B nói riêng và các trường MN nói chung.
- Góp phần nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa trường mầm non với
trường sư phạm trong việc đào tạo nghề cho giáo sinh.
- Thông qua sáng kiến kinh nghiệm giúp bản thân cũng như những
đồng nghiệp với vai trò là những nhà quản lý giáo dục, xác định nghiêm túc
trách nhiệm trong công tác chỉ đạo kiến tập, thực tập. Từ đó xây dựng quy
trình KẾ - TỔ - ĐẠO - KIỂM khoa học và hiệu quả nhất, góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ tương lai cho ngành học.

- Từ việc nghiêm túc thực hiện công tác chỉ đạo kiến tập, thực tập đã
góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm trong tập thể, giúp đội ngũ nhà trường
có phong cách làm việc tự giác, nghiêm túc. Luôn có ý thức học tập, rèn
luyện nâng cao năng lực về mọi mặt để xứng đáng là những đàn chị đi trước,
là tấm gương sáng cho các em giáo sinh học tập.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
GDMN bậc đặt nền móng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Cô giáo
MN với vai trò là người mẹ hiền thứ hai của trẻ. Để chất lượng GDMN thực
sự có hiệu quả thì điều kiện cơ bản tiên quyết đầu tiên phụ thuộc vào đội ngũ
giáo viên. Nâng cao kỹ năng nghề cho sinh viên là một việc làm cần thiết và
cấp bách bước đầu nhằm rèn luyện ý thức, đạo đức nghề nghiệp, nâng cao
năng lực thực hành, kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên ngành GDMN. Hy
vọng trong sự quan tâm trăn trở của lãnh đạo khoa MN trường ĐH Hồng
Đức, sự nhiệt tâm của các thầy cô giáo, sự gắn kết chặt chẽ của các nhà
trường MN và sự cố gắng nỗ lực học tập, rèn luyện của các em sinh viên
16


ngành GDMN sẽ đào tạo được lớp lớp giáo viên vừa hồng, vừa chuyên cho
bậc học MN nói riêng và cho hệ thống giáo dục nước nhà nói chung.
3.2. Kiến nghị:
Trong thời gian và phạm vi nghiên cứu đề tài có hạn, vì vậy những
giải pháp về nâng cao kỹ năng nghề cho sinh viên sư phạm mầm non thông
qua hoạt động kiến tập, thực tập sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết,
kính mong hội đồng xét duyệt SKKN các cấp đóng góp ý kiến để bản SK
được hoàn thiện hơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


NGƯỜI VIẾT
Thanh hóa, ngày 10 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người làm sáng kiến kinh nghiệm

Lê Thị Lan Anh

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Thành Hưng ( 2016), “ Vai trò của kỹ năng trong sự phát triển
con người”. Tạp chí khoa học số 31, tháng 4/2016.
2. Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha, (2016), Đào tạo nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị
trường, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
3. Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo,
( 2001). Từ điển giáo dục học, NXB từ điển Bách khoa - Hà Nội.
4. Vũ Xuân Hùng (2011). Dạy học hiện đại và nâng cao năng lực dạy
học cho giáo viên, NXB lao động xã hội Hà Nội.

18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Lan Anh

Chức vụ và đơn vị công tác: Trường mầm non Đông Thọ B

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

1.
2.

Biện pháp dạy trẻ LQ với toán
Biện pháp chỉ đạo chuyên đề nâng cao

Sở GD&ĐT
Sở GD&ĐT

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
B
C

Sở GD&ĐT


C

2008-2009

4.

khoa học
BP chỉ đạo nâng cao hiệu quả tổ chức

Sở GD&ĐT

C

2010-2011

5.

HĐVC cho trẻ MG ở trường MN
Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác

PGD&ĐT

B

2012-2013

6.

XHHGD ở trường MN
Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác


Sở GD&ĐT

C

2013-2014

7.

XHHGD ở trường MN
Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác

PGD&ĐT

A

2014-2015

8.

XHHGD ở trường MN
Thực trạng việc thực hiện dân chủ ở

PGD&ĐT

A

2015-2016

Năm học

đánh giá
xếp loại
2000-2001
2005-2006

chất lượng cho trẻ LQVH &CV lứa
3.

tuổi MGL
Nâng cao hiệu quả dạy và học thông
qua việc hướng dẫn trẻ khám phá

trường mầm non.

19



×