Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ hiệu quả cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại trường mầm non an hoạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ HIỆU QUẢ CHO TRẺ
MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TẠI TRƯỜNG MẦM NON AN HOẠCH

Người thực hiện: Nguyễn Thị Nga
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường MN An Hoạch
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2017
1


1.MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội đặc biệt, tồn tại và phát triển theo sự tồn tại
và phát triển của loài người. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Là
phương tiện nhận thức và giao tiếp hữu hiệu nhất của con người, nhờ có ngôn
ngữ con người mới có phương tiện để nhận thức và thể hiện nhận thức của mình,
để giao tiếp và hợp tác với nhau. Nói đến sự phát triển của loài người không thể
không nói đến vai trò đặc biệt quan trọng của ngôn ngữ.
Ngôn ngữ còn là nét văn hóa đặc trưng của một dân tộc, một quốc gia. Thực
tế cho thấy dù cho xã hội có thay đổi, đất nước có giàu mạnh, con người có thể
tạo ra nhiều máy móc, thiết bị thông tin hiện đại đến mấy thì ngôn ngữ vẫn giữ
vai trò quyết định cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Trường mầm non là nơi tạo điều kiện để trẻ phát triển toàn vẹn nhân cách,


trong đó vai trò của giáo viên và hoạt động tích cực của từng cá nhân trẻ có ảnh
hưởng to lớn đến sự phát triển của trẻ nói chung và phát triển ngôn ngữ của từng
trẻ nói riêng. Nên việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là nhiệm vụ hết sức quan
trọng nó giúp trẻ lĩnh hội cả 3 thành phần của ngôn ngữ: Phát âm, vốn từ, ngôn
ngữ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi mầm non là nói mạch lạc, hiểu từ và rõ
ý, để thực hiện được điều đó thì người giáo viên mầm non có vai trò hết sức quan
trọng trong việc giúp trẻ phát âm đúng bởi khi học nói trẻ đã cần phải nhớ nói
như thế nào. Thông qua ngôn ngữ, lời nói của người lớn, trẻ làm quen với các sự
vật, hiện tượng và hiểu những đặc điểm, tính chất, cấu tạo, công dụng… của
chúng và trẻ học được từ tương ứng (từ và hình ảnh trực quan đi vào nhận thức
của trẻ cùng một lúc). Ngôn ngữ giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung
quanh. Từ ngữ giúp cho việc cũng cố những biểu tượng đã được hình thành.
Thông qua ngôn ngữ, trẻ nhận thức được cái cái đẹp ở thế giới xung quanh, qua
đó làm cho tâm hồn trẻ càng thêm bay bổng, trí tưởng tượng càng phong phú;
đồng thời trẻ càng yêu quý cái đẹp và mong được tạo ra cái đẹp. Do đó nhiệm vụ
của người giáo viên là tổ chức xây dựng môi trường ngôn ngữ, tổ chức hoạt động
để trẻ được nghe, bắt chước và được nói một cách chuẩn mực nhất.
Trong quá trình dạy trẻ tôi nhận thấy được đặc điểm của hoạt động làm
quen với tác phẩm văn học rất phù hợp với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Thông qua ngôn ngữ văn học (thơ, truyện, ca dao, đồng dao,…), trẻ cảm nhận
được cái hay, cái đẹp trong tiếng mẹ đẻ, những hành vi đẹp trong cuộc sống, trẻ
2


biết được những gì nên làm và những gì không nên làm, qua đó rèn luyện những
phẩm chất đạo đức tốt ở trẻ, dần dần hình thành ở trẻ những khái niệm ban đầu
về đạo đức như: ngoan- hư; tốt - xấu; thật thà- không thật thà... Thông qua tác
phẩm văn học giúp trẻ tích lũy được vốn từ ngữ phong phú, đa dạng giúp trẻ nói
rõ ràng, nói chuẩn tiếng Việt, diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc rõ ràng hơn. Chính vì
vậy mà tôi đã đi sâu vào nghiên cứu “Kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ hiệu

quả cho trẻ 5- 6 tuổi ở trường mầm non An Hoạch” để giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ một cách tốt nhất tạo tiền đề cho trẻ bước vào lớp 1.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, rèn luyện khả năng nghe, hiểu ngôn
ngữ, khả năng trình bày lô gic, có trình tự, chính xác.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu về: “Kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ hiệu quả cho trẻ 5- 6
tuổi ở trường mầm non An Hoạch” .
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp sử dụng trong đề tài:
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thực hành trải nghiệm
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp thống kê xử lý số liệu.
- Phương pháp tổng hợp phân tích các tài liệu có liên quan
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở l ý luận
Phát triển ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo
dục mần non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi, ngôn
ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển tâm lí của trẻ. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn
là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện.
Khả năng hoàn chỉnh về phát âm của trẻ được tăng dần theo từng độ tuổi,
trẻ 5-6 tuổi đã định vị được các âm vị có cấu âm đơn giản, những âm vị có cấu
âm phức tạp trẻ dễ mắc lỗi, xong nếu kiên trì tập luyện thì hầu hết trẻ em đều có
khả năng định vị được các âm vị của tiếng mẹ đẻ (trừ các trẻ có khuyết tật về cơ
quan phát âm hoặc cơ quan thính giác).

3



* Đặc điểm vốn từ của trẻ mầm non nói chung và trẻ 5-6 tuổi nói riêng. Trẻ
rất nhạy cảm với ngôn từ, âm điệu, hình tượng của các bài thơ, đồng dao, ca dao,
dân ca sớm đi vào tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích thần thoại đặc biệt hấp
dẫn trẻ chính vì hoạt động cho trẻ tiếp xúc với văn học là con đường phát triển
ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất hiệu quả nhất.
Thông qua việc dạy trẻ đóng kịch giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, óc
tưởng tượng sáng tạo, biết yêu quí cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện,
ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng, mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ
biết bày tỏ ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó....bằng chính
ngôn ngữ của trẻ.
Thông qua việc dạy trẻ tập kể chuyện sẽ giúp trẻ ở lứa tuổi này phát triển
ngôn ngữ mạch lạc hơn, nói rõ ràng và đầy đủ câu hơn, để tạo tiền đề cho trẻ
bước sang tiểu học để trẻ học chữ cái được tốt hơn.
Ở lứa tuổi này sự hình thành của não bộ đang trên đà phát triển mạnh, sự
nhận thức về thế giới xung quanh của trẻ rất đa dạng phong phú chính vì thế việc
cho trẻ tiếp xúc với văn học vào lúc này là thích hợp bởi thế giới xung quanh trẻ
luôn hấp dẫn, luôn mới lạ và đặc biệt là những tác phẩm văn học.
Học thuyết về hệ thống tín hiệu đã khẳng định: Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu
thứ 2, là sự hoạt động đặc biệt của vỏ bán cầu đại não. Học thuyết này đảm bảo
cho phương pháp phát triển ngôn ngữ ở trẻ vì vậy giáo viên cần lựa chọn đúng các
phương pháp trong việc dạy nói cho trẻ, nhấn mạnh hiệu quả của những phương
pháp tích cực: Tích cực nhận thức và tích cực thực hành ngôn ngữ.
Các nhà giải phẫu khẳng định: Trong 3 năm đầu là kết thúc sự trưởng thành
về mặt giải phẫu những vùng não chỉ huy ngôn ngữ. Vì thế cần phải phát triển
ngôn ngữ đúng lúc mới đạt kết quả tốt. Đặc điểm ngữ âm của trẻ 5- 6 tuổi tăng
nhanh từ 1.300- 2000 từ, về ngữ pháp lời nói của trẻ rõ ràng mạch lạc hơn, trẻ biết
sử dụng câu dài hơn, có khả năng kể lại chuyện, kể theo tranh và theo trình tự
trước sau tuy nhiên trẻ dùng từ còn thiếu sự chính xác.
Trường mầm non An Hoạch luôn đề cao đến việc phát triển ngôn ngữ cho

trẻ thông qua các hoạt động và cụ thể là bộ môn văn học. Đây là một trong
những mục tiêu phát triển toàn diện cho trẻ.
Do vậy là giáo viên dạy trẻ 5-6 tuổi tôi đã nhận thức được rõ tầm quan
trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động. Từ đó tôi đã đi
sâu và nghiên cứu kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi.
4


2.2 Thc trng ngụn ng ca tr 5-6 tui trng, lp
*Thun li:
Trng Mm Non An Hoch l trng cú c s vt cht khang trang, cú
y trang thit b hin i phc v cho vic t chc cỏc hot ng ca tr.
Nm hc 2012- 2013 trng t trng chun Quc Gia mc II. Trng c
s ch o sỏt sao ca PGD v lnh vc chuyờn mụn. Trng l ni ún, v
hng dn nhiu on sinh viờn kin tp, thc tp nờn cú nhiu thun li trong
cụng tỏc giỏo dc tr.
Cỏn b a phng, BGH nh trng, cỏc bc ph huynh quan tõm u t
c s vt cht trang thit b, dựng, chi phc v cho hot ng ca tr.
i ng cỏn b giỏo viờn 100% cú trỡnh chun v trờn chun, 100%
tham gia cỏc lp bi dng chuyờn hố ca trng, mt s giỏo viờn c
tham gia cỏc lp chuyờn , bi dng thng xuyờn hng nm do Phũng Giỏo
Dc, v nh trng t chc.
V hc sinh: Cỏc chỏu nhanh nhn, kho mnh. Tõm sinh lý phỏt trin bỡnh
thng theo ỳng yờu cu tui.
Tụi c ban giỏm hiu nh trng to mi iu kin giỳp tụi xõy dng
mụi trng vn hc phong phỳ v cú ni dung a dng v hỡnh thc, hi ho v
thm m, phự hp vi kh nng nhn thc v c im tõm sinh lý ca tr.
Bn thõn luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao
chuyên môn. thng xuyờn quan sỏt, hc hi ng nghip qua cỏc gi lm
quen vi tỏc phm vn hc v t tỡm hiu qua cỏc loi sỏch bỏo.

* Khú khn
Tr trong lp cựng tui nhng ngụn ng phỏt trin khụng ng u, mt s
tr cũn núi ngng, núi lp mt s tr rt rố, nhỳt nhỏt, thiu t tin nờn khú khn
trong vic la chn phng phỏp phự hp phỏt trin ngụn ng cho tr.
Mt s giỏo viờn cũn núi cha chun ting ph thụng núi ting a phng
nờn khi t chc hot ng lm quen tỏc phm vn hc cũn hn ch cha phỏt huy
c tớnh tớch cc, ch ng sỏng to ca tr, cha lụi cun c tr vo hot ng
Ti liu tham kho v hng dn t chc cỏc hot ng phỏt trin ngụn ng
cho tr cũn cha phong phỳ. Đồ dùng chi phục vụ tiết dạy còn

nghèo nàn, cha phong phỳ, thiếu những hình ảnh đẹp, sinh
động để trẻ quan sát, ch yu dựng ca tr l do chỳng tụi t
lm.
5


Trình độ dân trí, điều kiện của các gia đình không đồng đều đồng đều, đa
số phụ huynh còn nói tiếng địa phương (tiếng làng Nhồi) của các cháu nói
chưa chuẩn tiếng phổ thông.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên và đặc biệt là năm học 2016-2017,
thực hiện chuyên đề “Nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ thông” tôi đã trăn trở tìm
tòi suy nghĩ và quyết định tìm giải pháp phù hợp để giúp trẻ lớp mình phát triển
ngôn ngữ hiệu quả.
Để tìm ra những giải pháp hợp lý, có hiệu quả. T rước khi thực hiện đề tài

này tôi đã khảo sát trẻ xem khả năng phát âm, khả năng diễn đạt ngôn ngữ,
khả năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ trong sinh hoạt, trong các hoạt động và
kết quả được thể hiện dưới bảng thống kê số liệu sau:
Bảng khảo sát tiêu chí đánh giá ngôn ngữ trẻ đầu năm như sau:


T
1
2

3

4
5

6

Lĩnh vực khảo sát

Trẻ phát âm đúng,
to, rõ ràng, mạch lạc
Trẻ sử dụng từ ngữ
linh hoạt, phong phú
trong giáo tiếp
Trẻ thể hiện ngôn
ngữ, giọng điệu
trong kể chuyện
sáng tạo và kể
chuyện theo trí nhớ
Trẻ biết đọc kể diễn
cảm
Trẻ mạnh dạn trẻ lời
câu hỏi của giáo
viên
Trẻ tự tin giao tiếp
với mọi người xung

quanh

Tổng
số trẻ
khảo
sát

Mức độ
Số
liệu

Tỷ
lệ

35

10

35

Tốt

Khá
Số
Tỷ
liệu
lệ

TB
Số Tỷ

liệu lệ

29%

11

31%

10

11

31%

10

29%

35

15

43%

8

35

16


46%

35

13

35

11


Số
liệu

Tỷ
lệ

29%

4

11%

11

31%

3

9%


23%

7

20%

5

14%

8

23%

7

20%

4

11%

37%

10

29%

9


25%

3

9%

31%

14

40%

8

23%

2

6%

6


Qua việc khảo sát trên tôi thấy khả năng ngôn ngữ trên trẻ chưa cao nên tôi
đã nghiên cứu và lựa chọn một số giải pháp phù hợp để phát triển ngôn ngữ trẻ
5- 6 tuổi một cách hiệu quả nhất.
2.3. Các giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi.
2.3.1. Tạo môi trường hoạt động đa dạng phong phú trước khi cho trẻ làm
quen tác phẩm văn học.

Để giúp trẻ nâng cao khả năng cảm thụ văn học thì việc tạo cơ hội cho trẻ
làm quen với các tác phẩm văn học phải thường xuyên. Ngay từ đầu năm học tôi
đã chú ý xây dựng “Góc văn học” ở đây trẻ được xem tranh truyện, tạp chí, họa
báo, các hình ảnh của các nhân vật trong truyện mà trẻ yêu thích. Khi xây dựng
“Góc văn học” thì mục đích chính của tôi là từ “Góc văn học” tôi muốn giới
thiệu thêm thật nhiều các tác phẩm văn học trong chương trình và ngoài chương
trình giáo dục để giới thiệu đến trẻ, bởi trong tiết học thì việc cho trẻ được tiếp
xúc với các tác phẩm văn học cũng có nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu ham học
hỏi của trẻ ở lứa tuổi này.
Qua “Góc văn học” tôi tổ chức các hoạt động đọc thơ, kể chuyện, cho trẻ tập
đóng kịch để trẻ được nói những ngôn ngữ của các nhân vật trong truyện để từ
đó trẻ làm giàu vốn từ của bản thân. Để gây được sự hứng thú của trẻ khi tham
gia vào các hoạt động đó thì việc tạo không gian mang đậm tính văn học là rất
cần thiết, ngay từ đầu năm học tôi đã vận động phụ huynh đóng góp tranh thơ,
truyện tranh ngoài chương trình để kể cho trẻ nghe vào các hoạt động chiều và
cho trẻ chơi trong các giờ hoạt động góc.
Bản thân tôi luôn tìm tòi, sưu tầm sách truyện, các họa báo, tạp chí cũ, tìm
tòi cách làm rối từ các nguyên liệu bỏ đi như vỏ chai, lõi cuộn chỉ, các mảnh vải
vụn làm rối tay để làm các nhân vật trong truyện phục vụ cho tiết học.
Để tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động văn học thì việc tạo môi
trường với các nhân vật ngộ nghĩnh cho trẻ được làm quen là rất cần thiết. Tôi đã
sử dụng những chiếc môi nhựa trắng để làm khuôn mặt của cô gái, dùng những
sợi len tết thành những bím tóc .....

7


Hình ảnh Đồ chơi tự làm
Để thu hút trẻ tham gia vào các hoạt động kể chuyện và tập đóng kịch
ngay từ đầu năm học tôi dùng 1 mảng tường để trang trí thành 1 sân khấu mi ni

chỉ với 1 mảnh vải làm khung sân khấu đằng sau là 1 bảng nhám dính để tôi có
thể dễ dàng trang trí khung cảnh sao cho phù hợp với từng cảnh trong truyện.

Hình ảnh : Sân khấu ở góc văn học
8


Qua việc tạo môi trường cho trẻ làm quen với văn học như vậy tôi thấy được
trẻ rất hào hứng tham gia các hoạt động đọc thơ, kể chuyện để từ đó ngôn ngữ
của trẻ được phát triển một cách tự nhiện mà có hiệu quả cao nhất.
2.3.2. Ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Dạy trẻ kể lại truyện là một nội dung của chương trình làm quen văn học ở
trường mầm non. Đây là hoạt động cơ bản giúp trẻ rèn luyện, thực hành, trải
nghiệm nghệ thuật nó có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển nhân cách, và chuẩn
bị cho trẻ bước vào trường tiểu học.
Để giúp trẻ kể lại và nhớ nội dung truyện một cách tốt nhất, ngoài việc đọc
kể cho trẻ nghe, tôi còn ứng dụng thêm công nghệ thông tin vào trong giảng dạy
để mang lại kết quả tốt nhất.
VD: Câu chuyện “Cáo, Thỏ và Gà trống” tôi đã xây dựng đoạn phim hoạt hình
về nội dung câu chuyện ngoài ra tôi còn làm đoạn phim về các con vật kết hợp với
nhạc đệm rất hứng thú làm cho trẻ nhớ lời thoại của các nhân vật trong truyện.
Mục đích của tôi khi sử dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy là để
trẻ được trực tiếp xem các hành động, cử chỉ của các nhân vật và qua đấy trẻ
được tiếp xúc với giọng kể hay với ngôn từ phong phú và đúng với tính cách
nhân vật. Qua cách làm quen như vậy, trẻ biết nhận xét, đánh giá về đặc điểm
tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình. Bên cạnh việc kể
chuyện cho trẻ nghe và cho trẻ xem băng truyện, tôi còn chú ý đến việc giúp trẻ
ghi nhớ cốt truyện với nội dung và các tình tiết chính, các nhân vật chính của câu
chuyện thông qua hệ thống câu hỏi, nhắc trẻ nhớ trình tự theo logic của câu
chuyện, mối quan hệ và tác động của các nhân vật.

Ngoài việc sử dụng các hình ảnh sống động trên máy vi tính tôi còn tận
dụng chức năng ghi âm của chiếc máy điện thoại để ghi lại giọng kể của trẻ khi
trẻ kể chuyện. Sau đó tôi dùng dây kết nối giữa điện thoại với loa thùng để bật
lại cho trẻ nghe khiến trẻ thấy thích thú và tự hào, từ đó khuyến khích những trẻ
khác tham gia học tập một cách tích cực. Ngoài việc ghi âm giọng kể của trẻ
bằng điện thoại tôi còn tận dụng chức năng quay phim để quay lại những vở kịch
mà các cháu đã đóng. Qua việc sử dụng chiếc điện thoại để quay phim và ghi âm
giọng kể của trẻ tôi thấy được hiệu quả rõ ràng trẻ hào hứng tham gia được tập
kể chuyện và đóng kịch hơn, trẻ biết chau chuốt lời nói của nhân vật và nhập vai
tốt hơn. Sau khi trẻ xem các vở kịch mà trẻ đóng tôi cho trẻ nhận xét đánh giá
giọng kể của các bạn trong lớp
9


2.3.3. Chú trọng hình thức dạy học “Lấy trẻ làm trung tâm” khi cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học.
Hiện nay hầu hết giáo viên thường dạy cho trẻ những gì mà cô biết, và cứ
thế áp đặt cho trẻ chứ không phát huy nhu cầu hứng thú của trẻ. Chính vì vậy
phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm là truyền đạt kiến thức cho trẻ bằng
cách tạo ra các điều kiện, các cơ hội cho mọi đứa trẻ được chủ động, sáng tạo,
tích cực, tự chiếm lĩnh kiến thức, kinh nghiệm.
Chính vì vậy tôi đã sử dụng đa dạng các hình thức để dạy trẻ làm quen với
tác phẩm văn học nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Kể lại chuyện theo tranh
Trước khi cho trẻ kể lại chuyện theo tranh tôi cho trẻ làm quen với câu
chuyện qua các hoạt động góc, hoạt động chiều, tôi kể cho trẻ nghe chuyện bằng
những quyển truyện tranh to với những hình ảnh của các nhân vật rõ ràng, sống
động, đẹp mắt, nội dung câu chuyện rõ ràng, ngắn gọn. Ngoài ra, tôi còn cho trẻ
xem băng truyện trước giờ trả trẻ với mục đích giúp trẻ ghi nhớ nội dung truyện,
nhớ nhân vật truyện và lời thoại của các nhân vật trong truyện để về nhà trẻ có

thể kể lại cho ông bà, bố mẹ trẻ nghe.
VD: Câu chuyện “Chuyện của dê con”
- Hình thức tổ chức: Hoạt động góc
- Chuẩn bị: Bàn nhỏ, truyện tranh to
- Tiến hành: Tôi cho trẻ ngồi ở góc văn học, trước khi tổ chức cho trẻ kể
lại câu chuyện “Chuyện của dê con” tôi kể cho trẻ nghe và cho trẻ xem băng
truyện ở hoạt động chiều trước khi trả trẻ. Mục đích để trẻ nhớ nội dung và các
nhân vật trong truyện. Trước khi tiến hành cho trẻ kể lại truyện, tôi đàm thoại với
trẻ về các nhân vật và tính cách của các nhân vật trong truyện.
VD:
+ Các con thấy chú Dê con trong câu chuyện như thế nào?
+ Dê mẹ bị làm sao?
+ Dê mẹ dặn Dê con điều gì?
+ Khi mẹ dặn, Dê con đã làm gì?
+ Khi Dê con vào rừng, Dê con đã gặp ai?...
Sau khi đàm thoại xong, trẻ đã nhớ lại nội dung truyện, tôi tổ chức cho trẻ
lên kể lại theo các hình ảnh có trong truyện tranh, dạy trẻ khi kể đến nhân vật
10


nào thì dùng que chỉ vào từng hình ảnh trong truyện sao cho phù hợp với nội
dung truyện. Khi trẻ kể xong truyện, tôi cho các bạn trong nhóm nhận xét bạn kể.
Kể truyện theo tranh tổ chức ở hoạt động góc thì trẻ được thay nhau kể, trẻ được
thoải mái thể hiện giọng kể của mình, sử dụng ngôn ngữ sáng tạo trong khi kể
không bị gò bó như ở trong tiết học. Qua hoạt động ở góc văn học, trẻ được đàm
thoại, tranh luận trực tiếp với nhau để từ đó ngôn ngữ của trẻ được sử dụng linh
hoạt hơn trong cuộc sống
- Kể lại truyện theo rối tay
Việc sử dụng rối trong tiết học gây được sự chú ý, tò mò của trẻ, tạo điều
kiện cho trẻ tiếp cận với nghệ thuật múa rối. Ngoài ra, việc sử dụng rối tay khi

cho trẻ kể lại truyện không chỉ phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua việc kể chuyện
mà còn giúp trẻ biết thể hiện các cử chỉ, điệu bộ trong giao tiếp để tăng tính linh
hoạt, sáng tạo, hiệu quả trong giao tiếp.
VD: Với câu chuyện “Chú thỏ thông minh”, tôi sử dụng mô hình sân khấu
là một đầm lầy nhỏ, có hoa, cỏ, cây....nhân vật trong truyện được cách điệu đầu
chú thỏ là một quả bóng nhỏ, tôi dùng len móc thành chiếc váy cho chú thỏ
thêm ngộ nghĩnh. Khi dạy trẻ kể chuyện bằng rối, trước tiên tôi cũng cung cấp
nội dung câu chuyện cho trẻ nghe vào hoạt động chiều, hoạt động góc. Bên cạnh
việc cung cấp nội dung truyện cho trẻ, tôi còn hướng dẫn trẻ cách sử dung rối
tay, tôi dạy trẻ dùng cánh tay lồng vào con rối, điều khiển con rối bằng 3 ngón
tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) sao cho những cử chỉ phù hợp với lời thoại
trong truyện.
Thời gian đầu khi mới làm quen với rối tay, trẻ rất lóng ngóng, khó thực
hiện được các động tác theo ý muốn. Để khắc phục được điều này, tôi đã làm
thật nhiều những con rối tay đặt ở góc văn học, sắp xếp sao cho trẻ thấy dễ dàng.
Khi hoạt động ở góc văn học, trẻ thoải mái sử dụng rối tay. Ban đầu, trẻ sử dụng
rối tay theo ý thích của mình, có khi là dùng rối tay để nói chuyện với bạn, từ đó
việc sử dụng rối tay với trẻ trở nên dễ dàng hơn, dần dần, tôi yêu cầu trẻ sử dụng
rối tay vào từng câu chuyện.
Nhờ việc sử dụng rối tay trong tiết học mà số trẻ có khả năng cảm thụ văn
học đạt cao, đa số trẻ nhớ nội dung truyện, lời thoại của các nhân vật và qua đó,
trẻ biết dùng ngôn ngữ của mình để nhận xét đánh giá tính cách của nhân vật
trong truyện như: Ai là người xấu, ai là người tốt.
11


Hình ảnh: Trẻ tập kể chuyện bằng rối tay
-Trò chơi đóng kịch
Là hoạt động giúp trẻ phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể.
Qua hoạt động đóng kịch, trẻ truyền đạt lại nội dung câu chuyện làm sống động

lại tâm trạng, hành động, ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện, đồng
thời thể hiện tình cảm và đánh giá các nhân vật trong truyện. Khi đóng kịch, trẻ
dễ dàng nắm được nội dung, ý nghĩa tác phẩm, nắm được tính liên tục của câu
chuyện, điều này góp phần đẩy mạnh phát triển tư duy, cảm thụ các tác phẩm văn
học một cách sâu sắc ở trẻ. Để đạt được điều đó thì trước khi cho trẻ đóng kịch,
tôi cho trẻ ôn luyện lại nội dung câu chuyện, đàm thoại về các nhân vật trong
truyện để từ đó trẻ biết thể hiện những sắc thái khác nhau về ngữ điệu, tính cách,
tâm trạng của các nhân vật trong truyện. Muốn trẻ nhớ được ngôn ngữ, lời thoại
của các nhân vật trong truyện để đóng kịch thì trước hết cho trẻ nhớ lời thoại của
nhân vật sau đó cho trẻ đóng vai theo tổ hoặc nhóm. VD: trong truyện “Chú dê
đen”, tôi cho tổ 1 làm dê trắng, tổ 2 làm dê den, tổ 3 làm chó sói để trẻ tự thể
hiện hành động điệu bộ của nhân vật cho quen, thành thạo. Sau đó cho trẻ nhắc
lại lời thoại của các nhân vật trong truyện mà trẻ sẽ đóng. Nhiệm vụ của cô giáo
lúc này là người dẫn chuyện và trẻ diễn theo nội dung câu tuyện. Khi diễn xong
tôi cho trẻ tự nhận xét vai chơi của mình, từ đó trẻ xác định được thái độ của
nhân vật trong truyện là yêu hay ghét.
12


Trò chơi đóng kịch thực sự giúp trẻ cảm nhận tác phẩm văn học và phát triển
ngôn ngữ một cách sâu sắc và để đạt được điều đó thì việc trang trí sân khấu và
hóa trang cho trẻ rất quan trọng, với câu truyện “Tích chu” tôi làm sân khấu có
màn che, rồi trang trí cảnh phù hợp. Bên cạnh việc làm mô hình sân khấu thì việc
hóa trang cho trẻ đóng kịch cũng rất cần thiết với nhân vật người bà trong câu
truyện “Tích chu” tôi cho trẻ quấn khăn mặc quần áo nâu...Việc hóa trang và bố
trí sân khấu phù hợp, trang phục đẹp sẽ giúp trẻ tự tin nhập vai tạo cho trẻ hứng
thú với từng vai diễn.
Việc xác định giọng nói của các nhân vật trong truyện có vai trò quan trọng
trong việc dạy trẻ tập đóng kịch, trẻ xác định được giọng của nhân vật thì trẻ sẽ
nhập được vào vai chơi một cách tốt nhất.

Ví dụ: Trong truyện “Tích chu”.
+ Tôi hỏi trẻ: giọng của bà khi ốm như thế nào?( run run)
+ Giọng của cháu lúc ham chơi thì như thế nào? (Thái độ không vâng lời)
sau khi nhận ra lỗi của mình thì giọng của cậu bé như thế nào?(giọng trầm hối hận )
+ Giọng bà tiên như thế nào? (vang, trong, sáng)
Thông qua việc tổ chức cho trẻ tập đóng kịch tôi thấy khả năng thể hiện
ngôn ngữ của trẻ trong giao tiếp tiến bộ rất nhiều trẻ tự nhiên, thoải mái hơn
trong giao tiếp bởi trong quá trình trẻ đóng kịch trẻ được trực tiếp giao lưu, đối
thoại trực tiếp với bạn diễn từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển một cách linh hoạt
và khéo léo.
2.3.4. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các bài thơ tự sáng tác theo các
chủ đề và qua các bài ca dao, đồng dao.
Vì có năng khiếu làm thơ, bản thân có thể sáng tác được thơ phù hợp với tất
cả các chủ đề có lồng các nội dung giáo dục, giúp cho trẻ thích thú học tập, mặt
khác vì những bài thơ ngắn nên trẻ dễ thuộc dễ ghi nhớ đồng thời đây cũng là
cách giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên, hứng thú..
VD: Chủ đề trường Mầm non
Trường mầm non thân yêu
Ngày nào con bẽn lẽn
Đang trên đà đổi mới
Nay đã thích bé ngoan
Những nụ cười phơi phới
Như quyển vở sang trang
Chào đón ánh bình minh
Thành con ngoan trò giỏi
Những khuôn mặt xinh xinh.
Hỏi cháu học trường nào
Thông minh và nhanh nhẹn
Trường mầm non An Hoạch
13



Hoặc bài thơ: Lớp em
Mỗi ngày đến lớp
Bé yêu chăm chỉ
Gặp cô giáo hiền
Đoàn kết cùng nhau
Đẹp như cô tiên
Rửa mặt chải đầu
Em yêu em quý
Vệ sinh sạch sẽ
Muốn cô đồng ý
Giúp bé khoẻ mạnh
Xin phép dơ tay
Da dẻ hồng hào
Ngồi học thẳng ngay
Gặp ai cũng chào
Được cô yêu quý
Bé yêu ngoan quá.
Để trẻ hạnh phúc vui vẻ khi được nhắc đến tên mình trong các bào thơ tôi tự
sáng tác, tôi đã gắn cho mỗi trẻ một đặc điểm riêng trong bài thơ.
VD: Bài thơ “Học mà chơi”
Phương Linh đang viết chữ O
Hạnh, Thuý thủ thỉ làm thơ
Ngọc Ánh tập vẽ con cò bay la
Bạn Khánh làm mẹ, bạn Thảo đóng bà
Bảo Nhi tập viết chữ bà
Bạn Minh tô màu bông hoa
Xuân Huy đang vẽ món quà tặng cô
Bạn Giang xây một ngôi nhà thật xinh

Huyền Phương tập viết chữ Ô
Quang Đạt học rất thong minh
Việt Anh đang vẽ ô tô chở hàng
An Khánh tốt bụng, bạn Huệ rất hiền
Ngọc, Mai múa hát rộn rang
Bạn Duy phát biểu hồn nhiên
Thư, An kể chuyện nai vàng ngủ mơ
Lớp học như một thiên đường tuổi thơ
Thực tế qua những bài thơ như vậy không những giúp cho tôi nhớ tên và đặc
điểm của từng trẻ mà còn giúp trẻ nhớ tên các bạn trong lớp, trẻ đọc thuộc thơ và
rất thích những bài thơ tôi sáng tác. Với các chủ đề khác trong mọi hoạt động tôi
thường sáng tác những bài thơ phù hợp để cho trẻ đọc ở mọi lúc mọi nơi nhằm
phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Và tương tự như vậy ca dao đồng dao như một bức
như một bức tranh với nhiều màu sắc thể hiện sự phong phú, đa dạng của cuộc
sống, từ đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần, tình cảm của con người, nó có
giá trị về mặt trí tuệ, tình cảm và ngôn ngữ, ảnh hưởng rất lớn đến việc hình
thành, phát triển nhân cách trẻ.
Các bài đồng dao có 2, 3, 4, 6 chữ... có vần, với lối ngắt nhịp 1-1, 2-2,...
thường có lối kết cấu vòng tròn, trùng điệp. Ngôn ngữ trong đồng dao, ca dao là
ngôn ngữ hát, kể, giàu tính nhạc, giàu hình ảnh, có sức tạo hình. Nó rất phù hợp
với việc rèn cho trẻ phát âm, tích lũy vốn từ, hiểu nghĩa từ, nắm ngữ pháp, lối
nói trôi chảy, uyển chuyển.
14


Để phát huy tính tích cực của ngôn ngữ qua các bài đồng dao, ca dao đối với
sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thì việc tổ chức các hoạt động cho trẻ đọc thuộc
đồng dao, ca dao là rất quan trọng. Hiện nay, hoạt động dạy trẻ đọc đồng dao, ca
dao chưa có ở các hoạt động chung, chính vì vậy mà tôi lồng ghép hoạt động đọc
đồng dao, ca dao cho trẻ vào các hoạt động chơi trò chơi dân gian được tổ chức ở

hoạt động ngoài trời, hoạt động đón và trả trẻ, hoạt động sau khi ngủ dậy. Bên
cạnh việc dạy trẻ đọc thuộc những bài đồng dao, ca dao thì tôi luôn tìm tòi những
bài đồng dao, ca dao có nội dung của các chủ điểm mà trẻ đang học.
VD: Chủ điểm gia đình : Dạy trẻ đọc bài ca dao:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
- Chủ điểm: Thế giới động vật dạy trẻ đọc bài đồng dao “con vỏi con
voi”. Chủ điểm thế giới thực vật: Dạy trẻ đọc bài “lúa ngô là cô đậu nành”
- Tổ chức đọc đồng dao, ca dao cho trẻ ở hoạt động ngoài trời.
Sau mỗi giờ học ở trong trường mầm non là là hoạt động ngọài trời. Hoạt
động ngoài trời thường kéo dài từ 30- 35 phút chính vì vậy tôi đã tận dụng hoạt
động ngoài trời để phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc cho trẻ đọc đồng
dao, ca dao. Bên cạnh việc dạy trẻ đọc đồng dao ca dao tôi lồng ghép các bài
đồng dao vào các trò chơi dân gian để tạo hứng thú cho trẻ khi đọc nhằm phát
triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất.
VD: Bài “Dung dăng dung dẻ”
Dung dăng / dung dẻ
Cho dê/đi học
Dắt trẻ / đi chơi
Cho cóc/ ở nhà
Đến ngõ / nhà trời
Cho gà/ bới bếp
Lạy cậu / lạy mợ
Xì xà/xì xụp.
Cho cháu / về quê
Ngồi thụp/ xuống đây
- Tôi dạy trẻ đọc theo nhịp 2-2
- Cách chơi: Trẻ nắm tay nhau, vừa đi vừa đọc và tay vung theo nhịp của

bài đồng dao. Đến câu “Ngồi thụp xuống đây” trẻ nắm tay nhau ngồi thụp xuống
sau đó đứng dậy lại đi tiếp.
- Tổ chức đọc đồng dao, ca dao cho trẻ trong giờ đón, trả trẻ
15


Khi dạy trẻ đọc thuộc đồng dao, ca dao tôi thường đọc đi đọc lại nhiều lần
để trẻ ghi nhớ, học thuộc sau đó tôi yêu cầu trẻ đọc nhanh dần lên, tổ chức thi
đua đọc nhanh giữa các tổ với nhau. Đó là cách làm cho trẻ rèn luyện bộ máy
phát âm, trau dồi ngôn ngữ, sự nhạy bén, linh hoạt của tư duy. VD: Bài “Lúa ngô
là cô đậu nành”, “Chim ri là dì sáo sậu”, “Con kiến mà leo cành đa” là những
câu hát đồng dao mà trẻ rất thích đọc vì nó đem lại tiếng cười vui vẻ, tạo không
khí thi đua tự nhiên, cởi mở.
Ngoài những bài lựa chọn để giúp trẻ học đọc theo chủ đề, chủ điểm, tôi
còn khích lệ trẻ thi đua đọc ra những câu đồng dao, ca dao trẻ đã thuộc từ cha
mẹ, anh chị, bạn bè trong xóm. Hình thức thi đua là động lực lôi cuốn, thúc đẩy
trẻ cố gắng nỗ lực, tích cực học tập. việc thi đua có thể kéo dài 1 tuần, sau 1 tuần
tôi kiểm tra số lượng bài trẻ thuộc, có tuyên dương, khen thưởng để khuyến
khích trẻ trong học tập.
- Tổ chức cho trẻ đọc đồng dao, ca dao sau khi trẻ ngủ dậy
Sau khi ngủ dậy, trẻ thường rất mệt mỏi, uể oải vì còn ngái ngủ nên tôi
thường cho trẻ đọc các bài đồng dao, ca dao quen thuộc để trẻ lấy lại tinh thần
sảng khoái, đầu óc thỏai mái để bước vào giờ học buổi chiều đồng thời, giúp trẻ
phát triển thêm khả năng ngôn ngữ.
VD: Bài “Nu na nu nống”
Cái trống nằm trong
Con cóc nhảy ra
Con ong nằm ngoài
Bà mụ thổi xôi
Củ khoai chấm mật

Nhà tôi nấu chè
Bụt ngồi bụt khóc
Tè he chân rụt

16


Hình ảnh trẻ chơi trò chơi “nu na nu nống” sau khi ngủ dậy
*Cách chơi: Trẻ ngồi bệt, cùng chiều với nhau, sát cạnh nhau, 2 chân duỗi
thẳng, vừa đọc bài đồng dao, vừa lấy tay đập vào từng cẳng chân, mỗi từ trong
bài đồng dao được đập nhẹ vào một chân theo thứ tự từ đầu đến cuối rồi lại
ngược lại cho đến chữ “rút” chân ai gặp từ “ rút” thì co chân lại cứ như thế cho
đến khi các chân co lại hết thì chơi lại từ đầu
Qua đó tôi thấy được hiệu quả rõ ràng, trẻ hào hứng tham gia trò chơi đọc đồng
dao, ca dao và nhớ bài lâu hơn.
2.3.5. Phát triển ngôn ngữ thông qua việc dạy trẻ đọc kể diễn cảm
Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ là một nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu
ở các lứa tuổi, nó đặc biệt quan trọng trong quá trình tổ chức hoạt động dạy trẻ
đọc thơ diễn cảm cho trẻ em ở lứa tuổi mầm non. Đó là một trong những phương
17


pháp rèn luyện phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ. Khi đọc thuộc lòng thơ trẻ sẽ làm
cho ngôn ngữ của mình thêm sinh động, uyển chuyển, biểu cảm giúp trẻ thể hiện
tình cảm, suy nghĩ của tác giả. Nhận thấy rõ được tầm quan trọng của việc phát
triển ngôn ngữ thông qua việc dạy trẻ đọc thơ diễn cảm tôi luôn tìm tòi những
phương pháp biện pháp tốt nhất để trẻ phát âm và diễn đạt được mạch lạc.
Với lứa tuổi này tôi chọn các bài thơ có sắc thái khác nhau: êm dịu, nhẹ
nhàng, vui vẻ hóm hỉnh... nhằm giúp trẻ cảm nhận cái hay, cái đẹp trong ngôn
ngữ tiếng việt và trong cuộc sống, giúp trẻ phát triển đời sống tình cảm. Để trẻ

cảm thụ tốt ngôn ngữ của câu thơ, điều quan trọng nhất là phải đọc diễn cảm, thể
hiện nhịp điệu, âm điệu và sắc thái của bài thơ. Tôi tập đọc diễn cảm và thuộc
bài thơ trước khi đọc cho trẻ nghe.
Để trẻ cảm thụ tốt bài thơ, nên trò chuyện với trẻ về nội dung bài thơ, giải
thích nghĩa của một số từ, ý của các câu thơ, vẻ đẹp của các câu thơ mô tả, kết
hợp với tranh minh họa hoặc làm các động tác minh họa. Tôi đọc cho trẻ nghe
nhiều lần, đọc thơ theo cá nhân, theo nhóm, luyện tập cách đọc diễn cảm.
Để thu hút trẻ đọc thơ hơn thì việc chuẩn bị đồ dùng trực quuan trong dạy
học để gây hứng thú cho trẻ cũng rất quan trọng, trong quá trình dạy trẻ đọc thơ
diễn cảm tôi sử dụng các bức tranh thơ, sa bàn, con rối, vật thật.
Để thu hút lôi cuốn trẻ vào giờ học tôi lựa chọn các hình thức tổ chức phù
hợp, hấp dẫn như qua tổ chức hội thi “Bé yêu thơ”, câu đố, tham quan và đặc
biệt là chọn những hình ảnh đẹp và nhân vật ngộ nghĩnh sáng tạo đưa vào công
nghệ thông tin để trẻ hòa nhập và hóa thân vào từng nhân vật.
Ví dụ : Dạy trẻ đọc thơ bài “Tình bạn”
- Hoạt động 1: Cô cùng trẻ hát bài bát “Lớp chúng mình” trò chuyện với trẻ
về bài hát, giới thiệu cho trẻ bài thơ “Tình bạn”
- Hoạt động 2: Đàm thoại với trẻ về nội dung bài thơ:
+ Bài thơ tên là gì?
+ Các bạn đến lớp thấy vắng ai?
+ Bạn Gấu trả lời như thế nào?
+ Bạn Thỏ bị làm sao?
+ Các bạn rủ nhau đi đâu?........
Sau mỗi câu hỏi tôi đọc những câu thơ trích dẫn cho trẻ để trẻ nhớ được nội
dung bài thơ

18


- Hoạt động 3: Trẻ đọc thơ, cô hướng dẫn trẻ đọc sao cho đúng từ thể hiện

được nhịp điệu của bài thơ.
Khi dạy trẻ đọc thơ giọng của cô phải chuẩn xác, diễn đạt trôi chảy phù hợp
với từng bài, cô phát âm không ngọng. Và chú ý nghe trẻ đọc để phát hiện ra trẻ
nói ngọng, đọc sai để sửa cho trẻ cụ thể như: Tôi đọc lại để cho trẻ đọc theo
nhiều lần và động viên trẻ “Con đọc gần giỏi rồi” thi đua giữa các tổ với nhau để
phát hiện tổ nào đọc tốt hơn để kích thích trẻ hứng thú đọc nhiều. Dạy trẻ nói đủ
câu, tôi nói trước trẻ nhắc lại nhiều lần hoặc cho trẻ khác giúp đỡ các bạn. Trong
giờ học tôi luôn chú ý bao quát chung để tìm hiểu đặc điểm của từng trẻ để gần
gũi động viên trẻ giúp đỡ những trẻ còn yếu kém, đưa trẻ vào hoạt động với các
bạn có nề nếp hơn, hứng thú hơn.
2.3.6. Làm tốt công tác tuyên truyền và kết hợp với phụ huynh trong việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Như chúng ta đã thấy môi trường giao tiếp ngôn ngữ của trẻ chủ yếu là gia
đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một
biện pháp không thể thiếu để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trong cuộc họp đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển ngôn
ngữ cho trẻ đặc biệt là thông qua hoạt động dạy trẻ đọc ca dao đồng dao, đọc thơ,
kể truyện. Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh về các câu chuyện sáng tạo của
cô và trẻ. Qua đó phụ huynh thấy ngôn ngữ của trẻ được phát triển như thế nào và
có biện pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình.
Tôi sử dụng 1 mảng tường ở ngoài cửa lớp để làm bảng tuyên truyền với
phụ huynh về chương trình dạy trẻ theo chủ đề và thay tin hàng tuần để phụ
huynh biết và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm ở nhà.
Ví dụ: Tôi cung cấp một số bài đồng dao để các bậc phụ huynh cùng học
với trẻ để trẻ được đọc từ chính xác không bị nói ngọng.
Tôi trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện bài thơ trẻ được học ở
trường, yêu cầu phụ huynh về nhà cùng đọc với trẻ và cho trẻ kể lại câu chuyện
đó hoặc kích thích trẻ kể lại câu chuyện. Như vậy ngôn ngữ của trẻ phát triển
một cách phong phú và đa dạng.
Trong năm học tôi đã tổ chức 3 lần họp phụ huynh.

+ Lần thứ 2 tôi tổ chức 1 hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ để phụ
huynh được trực tiếp xem các cháu học. Qua cuộc họp đó tôi trao đổi với phụ
huynh những cháu nói ngọng như cháu Nhất Duy, cháu Bảo Minh, cháu Tấn
19


Phong....Để phối hợp cùng với gia đình giúp cháu phát âm chuẩn hơn bên cạnh
những cháu phát âm còn ngọng thì tôi cũng nêu ra những cháu mạnh dạn năng
động trong các hoạt động như kể chuyện, đọc thơ như : Cháu Mai Phương Linh,
cháu Tiến Duy, cháu Minh Giang để phát huy tính tích cực của các cháu.
=> Bằng cách đó cô giáo và phụ huynh luôn có được thông tin hai chiều của
trẻ ở nhà cũng như ở trường, trẻ lớp tôi được học và việc phát triển ngôn ngữ của
trẻ cũng được củng cố và mở rộng hơn.
2.4. Hiệu quả của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các
hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
Qua thời gian nghiên cứu tìm tòi và thực hiện các giải pháp trên tôi thấy
kết quả của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua tác phẩm văn học trên trẻ
lớp mình phụ trách có hiệu quả rõ rệt. Cụ thể:
Kết quả khảo sát tiêu chí đánh giá chất lượng trẻ cuối năm học :

Lĩnh vực khảo sát
1

2

3
4
5
6


Trẻ phát âm đúng, to,
rõ ràng, mạch lạc.
Trẻ sử dụng từ ngữ
linh hoạt, phong phú
trong giao tiếp.
Trẻ biết thể hiện ngôn
ngữ, giọng điệu trong
kể chuyện sáng tạo và
kể chuyện theo trí nhớ
Trẻ biết đọc kể diễn
cảm

Trẻ mạnh dạn trả lời
câu hỏi của giáo viên.
Trẻ tự tin trong giao
tiếp với mọi người
xung quanh

Mức độ
Khá

Tổng
số trẻ
khảo
sát

Số
liệu

Tỷ

lệ

Số
liệu

Tỷ
lệ

Số
liệu

Tỷ lệ

35

20

57%

9

26%

6

17%

35

19


54%

10

29%

6

17%

35

21

60%

9

26%

5

14%

35

22

63%


9

26%

4

11%

35

20

57%

8

23%

7

20%

35

19

54%

10


29%

6

17%

Tốt

TB


Số
liệu

20

Tỷ
lệ


Kết quả khảo sát cuối năm đối chiếu với kết quả khảo sát đầu năm tôi nhận
thấy đa số trẻ đã phát âm to, rõ ràng, mạch lạc trẻ trở nên nhanh nhẹn, chủ động
trong mọi hoạt động, biết sử dụng từ ngữ linh hoạt phong phú trong giao tiếp.
Đến gần cuối năm học các cháu trở nên mạnh dạn và tự tin hơn trong giao tiếp,
hoạt bát hơn và không còn rụt rè nhút nhát như lúc đầu năm học, hơn thế nữa
nhận thức của các cháu về thế giới xung quanh cũng phát triển rõ rệt, cháu chăm
học hơn và luôn chủ động trong mọi hoạt động. Đó là niềm vui không chỉ dành
cho các bậc cha mẹ mà còn là niền vui lớn của cô giáo mầm non, của những người
làm công tác giáo dục.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được tôi đã rút ra một số kết luận sau:
* Đối với bản thân
- Việc rèn luyện ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là cả một quá trình cùng với sự
sáng tạo không ngừng và đặc biệt là phải kiên trì nhẫn nại áp dụng đa dạng các
hình thức tổ chức hoạt động, thường xuyên lồng ghép các nội dung giáo dục
ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt hàng
ngày “giờ nào việc ấy”
- Bản thân luôn gương mẫu trong việc nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ
thông, làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh trong việc tạo môi trường học
tập vui chơi lành mạnh cho trẻ và đặc biệt động viên cha mẹ trẻ thường xuyên
nói chuyện thân thiện với trẻ. Bản thân cần nâng cao trình độ, ngôn ngữ của
mình, coi phát triển ngôn ngữ là một phương pháp giáo dục chủ đạo và phải tích
cực sưu tầm tranh ảnh, các đồ dùng, đồ chơi đẹp, đảm bảo tính thẩm mỹ và khoa
học, thu hút được trẻ vào tiết học.
- Làm tốt công tác tham mưu với hiệu trưởng và chuyên môn nhà trường để
đáp ứng về cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi hỗ trợ cho việc tổ chức các hoạt động.
* Đối với trẻ
- Luôn yêu thương, tôn trọng sự khác biệt của trẻ, thân thiện gần gũi với trẻ,
tạo môi trường học tập và chơi thuận lợi, tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm
thực tế giúp trẻ mạnh dạn hơn khi giao tiếp trong mọi hoạt động.
* Đối với đồng nghiệp
- Tích cực tự tin khi trao đổi kinh nghiệm và học hỏi qua dự giờ đồng
nghiệp để tích luỹ cho bản thân những phương pháp, cách thức tổ chức hoạt
21


động hiệu quả phổ biến những ý kiến hay, những bài thơ phù hợp với đồng
nghiệp để giáo viên, học sinh toàn trưòng có cơ hội học tập lẫn nhau.

* Đối với phụ huynh
- Thưòng xuyên trao đổi để phụ huynh nắm bắt được khả năng của con em
họ, và tôi đã nhận được sự hỗ trợ giúp đỡ
3.2 Kiến nghị:
* Đối với phòng giáo dục:
+ Tôi kính mong phòng giáo dục sẽ tổ chức cho chúng tôi nhiều những buổi
dự giờ thăm quan các trường bạn trong thành phố để chúng tôi được học hỏi
những cái mới cái hay của các trường từ đó kiến thức chuyên môn nghiệp vụ của
chúng tôi được nâng cao, để nâng cao chất lượng giáo dục tốt hơn. Bên cạnh đó
tôi cũng xin kính mong phòng giáo dục sẽ hỗ trợ quan tâm hơn nữa tới việc đầu
tư các trang thiết bị dạy học cho trường chúng tôi.
* Đối với ban giám hiệu nhà trường:
- Nâng cấp thêm tranh ảnh, lô tô, sách báo, thơ truyện, ca dao, đồng dao...
- Tổ chuyên môn của nhà trường xây dựng và tổ chức nhiều hơn nữa các
tiết hoạt động hay, có nội dung phát triển ngôn ngữ để chị em giáo viên trong
trường được giao lưu học hỏi lẫn nhau.
Trên đây là kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ hiệu quả cho trẻ 5-6 tuổi tôi đã
áp dụng thành công trên trẻ lớp tôi phụ trách. Trong quá trình thực hiện đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng
khoa học để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
An Hoạch ngày 25 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

NGƯT. Mai Thị Xoan

Nguyễn Thị Nga


22


MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2

NỘI DUNG
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận của sáng kiến
Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2-3
2-3
3-5
6 -16
16 -17
17
17-18
18

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lã Thị Bắc Lý
“ Văn học thiếu nhi với giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non”
Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
2. Đinh Hồng Thái
“ Phương pháp phát triển lời nói trẻ em”
Nhà xuất bản Đại học sư phạm

3. Nguyễn Ánh Tuyết chủ biên – Nguyễn Như Mai – Đinh Kim Thoa
“Tâm lý học trẻ em”
NXB giáo dục 1983
4. Bùi Kim Tuyến ( Chủ biên) Nguyễn Thị Cẩm Bích – Lưu Thị Lan
24


Vũ Thị Hồng Tâm – Đặng Thu Quỳnh
“ Các hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non”
( Theo chương trình giáo dục mầm non mới)
NXB giáo dục Việt Nam
5. PGS.TS.Hà Nguyễn Kim Giang
“ Phương pháp tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG

ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PGDĐT, CẤP SGDĐT VÀ CÁC CẤP CAO
HƠN XẾP TỪ LOẠI C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Nga
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên – Trường Mầm non An Hoạch
TT Tên đề tài sáng kiến kinh nghiệm

1

2

3

Cấp đánh giá

XL

Một số biện pháp hướng dẫn trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi làm đồ dùng,
PGD & ĐT
đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu
tỉnh Thanh Hóa
sẵn có ở địa phương nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động
Một số biện pháp giáo dục bảo
PGD & ĐT
vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo
huyện Đông
lớn 5 – 6 tuổi tại trường mầm
Sơn
non An Hoạch
Một số biện pháp nâng cao chất
PGD & ĐT
lượng hoạt động ngoài trời cho
Thành phố
trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non

Kết quả
đánh giá
XL

Năm học

Loại B


2013 - 2014

Loại B

2015 - 2015

Loại A

2015 - 2016
25


×