Chan- MỤC LỤC
NỘI DUNG
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng về công tác giáo dục học sinh chậm tiến bộ ở trường
Tiểu học Hà Lai.
3. Các giải pháp chỉ đạo công tác giáo dục học sinh chậm tiến bộ ở
trường Tiểu học Hà Lai:
3.1. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp trong công tác giáo dục học
sinh chậm tiến bộ.
3.2. Chỉ đạo bồi dưỡng học sinh chậm tiến bộ xây dựng lại niềm
tin.
3.3. Chỉ đạo nâng cao chất lượng về học tập của học sinh chậm
tiến bộ.
3.4. Hiệu trưởng chỉ đạo để giáo dục học sinh chậm tiến bộ thông
qua hoạt động Đội, sao nhi đồng trong nhà trường.
3.5.Chỉ đạo công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hổi
trong việc giáo dục học sinh chậm tiến bộ.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC CÁC CẤP XẾP LOẠI
TRANG
1
2
2
3
3
3
4
4
5
9
9
11
13
14
15
17
17
17
19
20
21
1
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong nhà trường xã hội chủ nghĩa, giáo dục đạo đức cho học sinh là phát
triển mặt đạo đức của nhân cách, là xây dựng các phẩm chất đạo đức xã hội chủ
nghĩa của cá nhân, là hình thành ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức, hành vi và
thói quen đạo đức của học sinh theo nguyên tắc đạo đức Cộng sản chủ nghĩa.
Trong mọi hoạt động của một nhà trường, chất lượng giáo dục toàn diện học
sinh được tốt hay không, chất lượng dạy và học được nâng lên hay không, phần
lớn là nhờ vào công tác giáo dục đạo đức học sinh.
Giáo dục đạo đức là mặt quan trọng của giáo dục nhân cách xã hội chủ
nghĩa phát triển toàn diện. Hồ Chủ Tịch đã nói “Dạy cũng như học, phải biết chú
trọng cả tài lẫn đức, đức là đạo đức Cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng” [1]
Thấm nhuần lời dạy của người, chúng ta là những nhà giáo dục, phải xác
định được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Nhà trường là nơi cần làm cho học sinh rèn luyện, làm quen với những yêu cầu
quy định, đảm bảo nề nếp, kỷ cương trong mỗi tiết học, mỗi lớp học. Về mặt lý
luận giáo dục nói chung, lý luận giáo dục đạo đức nhân cách nói riêng đặc biệt
là việc giáo dục học sinh chậm tiến bộ là rất cần thiết và quan trọng ở lứa tuổi
Tiểu học, các khái niệm đạo đức được hình thành thông qua việc dạy các môn
học, dạy thái độ ứng xử trong cuộc sống còn mang tính chưa đầy đủ, chưa khái
quát, mới chỉ là những biểu tượng về cái gì tốt, cái gì xấu gắn với những hoàn
cảnh cụ thể. Vì vậy nếu chúng ta chú trọng đến việc giáo dục học sinh chậm tiến
bộ thì kết quả giáo dục toàn diện sẽ được nâng cao.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân bậc Tiểu học là bậc học nền móng đặt
cơ sở ban đầu cho quá trình giáo dục. Mục tiêu chương trình đã nêu rõ “ giúp
học sinh hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về thể
chất, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ,…” [3]. Điều này chứng tỏ mục tiêu hàng đầu của
bậc tiểu học là giúp các em phát triển nhân cách một cách toàn diện. Hơn nữa
trong Công ước Liên Hợp quốc về quyền của trẻ em “ Việc quan tâm giáo dục
tất cả các đối tượng học sinh để các em phát triển một cách toàn diện, đồng đều
là trách nhiệm của mọi người và của xã hội trong đó các thầy, cô giáo những
người trực tiếp giáo dục các em trong môi trường giáo dục là hết sức quan trọng
và cần thiết” [2].
Thực tế cho thấy, hiện nay bên cạnh sự phát triển nhiều mặt của xã hội,
nhiều hiện tượng xã hội đã nảy sinh. Đối với lứa tuổi Tiểu học vẫn còn những
học sinh có biểu hiện giảm sút về năng lực, phẩm chất, ham chơi, tiếp thu bài
chậm, hay nói tục, chửi thề, đánh lộn, vô lễ với thầy cô giáo, vi phạm nội quy
nhà trường và của lớp... Đây chính là vấn đề đặt ra cho các nhà trường.
Ghi chú:
- Ở mục 1: Đoạn “Trong nhà trường xã hội chủ nghĩa……đạo đức học sinh” do tác giả tự viết ra; Đoạn tiếp theo: “Giáo dục
đạo đức.... “Dạy cũng như học….rất quan trọng” tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 1; Đoạn tiếp theo “ Thấm nhuần…
nâng cao” do tác giả tự viết ra; Đoạn tiếp theo“Trong hệ thống giáo dục quốc dân... “ Giúp học sinh…thẩm mỹ” tác giả tham
khảo nguyên văn từ TLTK số 3; Đoạn tiếp theo“ Điều này chứng tỏ … “Việc quan tâm giáo dục….và cần thiết” tác giả tham
khảo nguyên văn từ TLTK số 2.
2
Người Hiệu trưởng, là người đứng đầu trong đơn vị, là người trực tiếp lập
kế hoạch cho mọi hoạt động của nhà trường, là người trực tiếp nắm bắt, chỉ đạo,
điều hành và là người kiểm tra kết quả giáo dục học sinh. Chính vì thế trong
công tác giáo dục học sinh chậm tiến của nhà trường Tiểu học, đồi hỏi người
Hiệu trưởng phải có cách nhìn đúng đắn, có kế hoạch cụ thể và có những biện
pháp hữu hiệu nhằm chỉ đạo công tác này đạt kết quả tốt.
Từ những lý do trên, từ thực tế nơi tôi đang công tác. Với trách nhiệm là
một người quản lý, tôi thấy nhiệm vụ giáo dục học sinh chậm tiến bộ ở bậc Tiểu
học phải được coi trọng và phải thường xuyên, liên tục. Vì vậy tôi đã tập trung
nghiên cứu nội dung; “Hiệu trưởng chỉ đạo công tác giáo dục học sinh chậm
tiến bộ ở trường Tiểu học”. Mặc dù đây là vấn đề khó trong công tác quản lý
giáo dục song nó lại mạng tính cần thiết và cấp bách có giá trị thực tiễn, bởi lẽ
các em cần những tình cảm đạo đức cao cả được xây dựng trên cái nền cơ bản là
tình thương, lòng nhân ái, lòng vị tha,..vì vậy với mong muốn góp phần bé nhỏ
của mình trong việc vận dụng lý luận giáo dục đã học vào thực tiễn công tác
giáo dục học sinh chậm tiến bộ, từ đó rút ra những giải pháp để nâng cao chất
lượng giáo dục năng lực, phẩm chất nói riêng và chất lượng giáo dục toàn diện
cho học sinh nói chung trong nhà trường đạt kết quả cao hơn.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu việc chỉ đạo công tác giáo dục giáo dục học sinh chậm tiến bộ ở
trường Tiểu học Hà Lai nhằm tìm ra những biện pháp giáo dục tích cực giúp các
em từng bước thay đổi nhân cách, kỹ năng sống để các em phát triển một cách
toàn diện đáp ứng yêu cầu giáo dục trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó phần nào
giúp các thầy cô giáo quan tâm hơn về vai trò trách nhiệm của mình đối với
công tác chủ nhiệm cũng như nghề nghiệp của mình.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Việc chỉ đạo công tác giáo dục học sinh chậm tiến bộ ở trường Tiểu học
của người Hiệu trưởng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Khi nghiên cứu thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Sử dụng phương
pháp này giúp tôi nhận thức được đầy đủ tổng hợp và có hệ thống những cơ sở
lý luận phục vụ đề tài. Bằng cách đọc tài liệu có liên quan như: tạp chí, sách
giáo khoa, sách tâm lý,…
- Phương pháp điều tra: Đây là phương pháp chủ đạo mà tôi đã dùng trong
quá trình nghiên cứu, sử dụng phương pháp này nhằm thu thập thông tin chính
xác, thu thập số liệu thực tế về vấn đề trên.
- Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh chậm tiến bộ trong giờ học,
giờ chơi để tìm ra biện pháp giáo dục phù hợp.
- Phương pháp trò chuyện: Trò chuyện, phỏng vấn giáo viên, phụ huynh
học sinh.
3
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Nói đến nhân cách người Việt Nam người ta thường quan niệm đó là sự
thống nhất giữa phẩm chất và năng lực của con người. Từ những năm học gần
đây Bộ Giáo dục và Đào tạo rất chú trọng đến việc hướng vào xem xét đánh giá
nhân cách học sinh. Trong quá trình đánh giá phân loại đó chúng ta thấy có một
số học sinh còn chậm tiến bộ cả về khả năng học tập, khả năng phát triển phẩm
chất và năng lực. Khi xét về những học sinh này ta không chỉ xét ở một mặt hay
một khía cạnh nào đó mà phải xét về nhiều mặt, nhiều khía cạnh. Từ đó mới
thấy được những nguyên nhân dẫn đến học sinh chậm tiến bộ.
Khi bàn về học sinh chậm tiến bộ ở các trường học thì có rất nhiều quan
điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng: “Hiện tượng học sinh chậm tiến bộ là
do các hiện tượng bẩm sinh, di truyền các tính cách, phẩm chất và năng lực
riêng của những trẻ khó dạy” [4]. Với quan điểm này chưa nói đến những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến học sinh chậm tiến bộ.
Có quan điểm lại cho rằng: “Học sinh chậm tiến bộ là do chính các em chịu
ảnh hưởng một cách tự phát những tác động tiêu cực của xã hội là do môi trường
và hoàn cảnh sống không thuận lợi đã dẫn đến sự phát triển không đầy đủ về
mặt trí tuệ, tình cảm, hình thành những thói quen không lành mạnh và có hành
vi cử chỉ không phù hợp với đạo đức xã hội ở mức độ khác nhau” [2]. Hồ Chủ
tịch cho rằng: “ Hiền dữ đâu phải là tính sẵn; Phần nhiều do giáo dục mà nên”
[5]. Theo quan điểm này thì các em không vốn dễ phải là những đứa trẻ chậm
tiến về cả mọi mặt. Chúng chỉ chậm tiến khi không chịu khó tiếp thu những điều
hay lẽ phải mà gia đình, nhà trường, xã hội đem lại. Vì thế trong cùng một môi
trường giáo dục có học sinh tiến bộ nhưng cũng có học sinh chậm tiến bộ do
nhiều nguyên nhân. Có thể một phần là do di truyền mang lại cũng có thể do tác
động một phần của xã hội, nhưng nguyên nhân chính có ảnh hưởng lớn đến đến
sự phát triển nhân cách của các em là yếu tố gia đình và nhà trường. Trong công
tác giáo dục nói chung và giáo dục học sinh chậm tiến bộ nói riêng ở trường
Tiểu học việc nắm vững đối tượng sẽ có vai trò quyết định đến thắng lợi của
người làm công tác giáo dục.
Ở nhà trường Tiểu học vai trò chủ đạo của người Hiệu trưởng nói chung và
người trực tiếp giáo dục học sinh nói riêng là hết sức quan trọng. Người Hiệu
trưởng là người lập kế hoạch cho mọi hoạt động của nhà trường, là người trực
tiếp chỉ đạo tổ chức công tác giáo dục học sinh và cũng là người kiểm tra, đánh
giá, công nhận kết quả giáo dục học sinh nên đòi hỏi người Hiệu trưởng phải có
cái nhìn đúng đắn, có kế hoạch cụ thể và có những biện pháp hữu hiệu nhằm chỉ
đạo công tác này đạt kết quả tốt. Người Hiệu trưởng phải có vốn hiểu biết về
Ghi chú:
- Ở mục 1: Đoạn “Nói đến nhân cách…học sinh chậm tiến bộ” do tác giả tự viết ra; đoạn tiếp theo: “Khi bàn về
học sinh….“Hiện tượng học……trẻ khó dạy” tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 4; Đoạn tiếp theo “ Có
quan điểm lại…..“Học sinh chậm tiến bộ….ở mức độ khác nhau”tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 2;
Đoạn “ Hồ Chủ Tịch… “Hiền dữ…..mà nên” tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 5;
4
tâm lý quản lý, tâm lý lứa tuổi học sinh một cách sâu sắc, phải thường xuyên
quan tâm đến công tác giáo dục học sinh chậm tiến, nắm bắt thông tin kịp thời.
Từ đó có kế hoạch chỉ đạo giáo dục một cách sát xao. Bên cạnh đó phải luôn
luôn tự bồi dưỡng bản thân, tạo ra cho mình một uy tín thực sự trong tập thể
giáo viên và học sinh nhà trường.
2. Thực trạng về công tác giáo dục học sinh chậm tiến bộ ở trường Tiểu
học Hà Lai - Hà Trung- Thanh Hóa
2.1. Sơ lược tình hình đặc điểm của nhà trường:
+ Những thuận lợi, khó khăn:
- Thuận lợi:
Nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ khoẻ, năng động, nhiệt tình. Có trình
độ trên chuẩn chiếm tỷ lệ cao (có 100% đạt chuẩn, trong đó 85,7% trên
chuẩn ),có một tập thể sư phạm đoàn kết, nhất trí cao, tâm huyết với nghề
nghiệp.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có nhận thức chính trị vững
vàng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực sư phạm ngày càng được
nâng cao; đã nỗ lực cố gắng, khắc phục mọi khó khăn để thực hiện tốt nhiệm vụ
được giao, đáp ứng yêu cầu về đổi mới giáo dục.
Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của ngành của các cấp
trong công tác ổn định, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Lãnh đạo địa phương,
chính quyền, nhân dân luôn quan tâm, chăm lo đến sự nghiệp giáo dục đặc biệt
là xây dựng cơ sở, vật chất nhà trường và tạo điều kiện cho nhà trường thực hiện
tốt công tác giáo dục.
Nhà trường có bề day thành tích nhiều năm liền được khen cao có nhiều
giáo viên, học sinh có các thành tích trong các năm học và chiếm tỉ lệ cao so với
mặt bằng chung của Huyện. Sĩ số học sinh luôn được duy trì, đa số học sinh
ngoan, không có học sinh ỏ học giữa chừng.
- Khó khăn:
Nhà trường còn nhiều học sinh khuyết tật nặng và một số học sinh chậm
tiến bộ về mọi mặt nên giáo viên quá vất vả trong việc kèm cặp giúp đỡ học sinh
tiến bộ và ảnh hưởng nhiều đến chất lượng giảng dạy trên lớp.
Đại đa số học sinh là con em các gia đình nông thôn, sống chủ yếu bằng
nghề độc canh cây lúa nước, không có nghề phụ, thu nhập tính theo đầu người
chưa cao. Do vậy việc tạo điều kiện cho con em tham gia học tập, rèn luyện còn
gặp nhiều khó khăn. Điều kiện sống của nhân dân không đồng đều, việc phó
mặc con cái cho ông bà, người thân để đi làm ăn xa còn nhiều ở trong xã. Mặt
khác vị trí địa lý của địa phương còn cách trung tâm huyện nên việc nắm bắt các
thông tin cần thiết cho công tác giáo dục của phụ huynh phần nào còn hạn chế.
Vì vậy việc kèm cặp, giúp đỡ con em và hỗ trợ công tác giáo dục cho nhà trường
chưa được thường xuyên.
5
Mặt trái của cơ chế thị trường có tác động ảnh hưởng đến giáo dục nhân
cách, tư tưởng học sinh.
2.2.Tình hình đội ngũ, học sinh năm học 2015-2016
+ Tình hình đội ngũ:
Nhìn chung đội ngũ giáo viên trong nhà trường có tỷ lệ trên chuẩn cao
( 85,6%), có nhiều giáo viên tuổi đời còn trẻ, có năng lực công tác, tích cực tự
học tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Có nhiều giáo viên có thành tích cao trong các năm học và đã được các
cấp khen thưởng.
+ Tình hình học sinh:
Trường Tiểu học Hà Lai năm học 2015-2016 có 10 lớp với tổng số học
sinh là 199 em. Các em sống rải rác ở 8 thôn trong xã, tỷ lệ học sinh sống ngoài
địa phương ít. Nhìn chung các em chăm ngoan, thực hiện tốt nhiệm vụ của
người học sinh, biết giúp đỡ ông bà, bố mẹ và người thân trong gia đình, tham
gia đầy đủ và có chất lượng các hoạt động trong và ngoài nhà trường tổ chức.
2.3. Tình hình về học sinh chậm tiến bộ của nhà trường trong năm học
2015-2016.
Trong cùng một môi trường giáo dục mà nảy sinh nhiều đối tượng học
sinh, nguyên nhân chính là do đâu? Phải chăng là do phương pháp giáo dục của
nhà trường, của gia đình hay xã hội? Đây là một vấn đề đặt ra trong công tác
giáo dục.
Qua điều tra bằng cách trò chuyện trực tiếp và qua nắm bắt ở một số giáo
viên chủ nhiệm lớp, phụ huynh học sinh đầu năm học tôi đã thu thập được tình
hình chung về học sinh chậm tiến bộ của nhà trường đầu năm học 2015-2016 cụ
thể như sau:
Bảng 1: Danh sách học sinh chậm tiến bộ của nhà trường
đầu năm học 2015-2016
STT
Họ và tên
Lớp
Giáo viên chủ nhiệm
1
Mai Tiến Anh
1A
Lê Thị Vẻ
2
Vũ Chung Thanh
3A
Hồ Thị Mận
3
Bùi Trung Quốc
4A
Nguyễn Thị Hạnh
4
Vũ Văn An
5A
Nguyễn Thị Duyên
5
Vũ Văn Mạnh
5B
Khương Thị Hải
* Kết quả của thực trạng:
6
Chỉ trong một thời gian tìm hiểu ngắn ngủi, qua điều tra, trò chuyện, quan
sát học sinh và phỏng vấn ngay trực tiếp giáo viên, phụ huynh học sinh, tôi đã
thu thập được kết quả và một số biểu hiện tình hình học sinh chậm tiến bộ ở
trường Tiểu học Hà Lai-Hà Trung cụ thể như sau:
Những học sinh nêu trên, các em thường có các biểu hiện cụ thể như:
hay nghịch, thường gây gổ đánh nhau, thiếu ý thức kỷ luật trong học tập và sinh
hoạt, không chịu học bài, tiếp thu bài chậm, nói tục, chửi thề, vô lễ với người
lớn tuổi, trèo cây, viết vẽ bậy lên tường, bàn ghế, không chấp hành nội qui nhà
trường, lớp học, hay bỏ học vô lý do ...
Khả năng học tập rèn luyện chưa cao, đa số các em bị hổng kiến thức,
việc tiếp thu kiến thức mới khó khăn không theo kịp bạn bè có các hành vi
không tốt. các em này thường có rất nhiều những biểu hiện khác nhau. Các biểu
hiện đó diến ra qua các hoạt động học tập, qua quá trình giao tiếp, quá trình ứng
xử với thầy cô, bạn bè, người xung quanh và với gia đình.
Bảng 2: Những biểu hiện của học sinh chậm tiến bộ
TT
Biểu hiện
1 Thiếu niềm tin, dễ bị kích động
2 Hay nói chuyện riêng, làm việc riêng
trong lớp
3 Lười học, thiếu sách vở đồ dùng học
tập, hay bỏ học
4 Hay gây gổ đánh nhau, nói tục
5 Hay lấy trộm đồ của bạn
6 Thường hay nói dối bố mẹ, thầy cô
7 Không chấp hành nội quy trường , lớp
8 Tiếp thu bài chậm, hổng kiến thức
Số lượng
5
5
Tỷ lệ
100%
100%
4
80%
3
1
2
5
5
60%
20%
40%
100%
100%
* Nguyên nhân của thực trạng: Nguyên nhân dẫn đến biểu hiện ở trên có
rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cũng bằng phương pháp điều tra, trò chuyện trực
tiếp và qua sát học sinh, tôi thấy có những nguyên nhân cơ bản như sau:
- Có em do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, bẩm sinh di truyền, bệnh lý thần
kinh không ổn định, đối với đối tượng học sinh này thường thích làm nhưng
nhanh chán, một khi không đạt được sự mong muốn của mình thì thường nảy
sinh ý nghĩ và hành động sai, nên các em mặc cảm với bản thân.
- Nguyên nhân từ phía gia đình:
Ảnh hưởng của môi trường giáo dục gia đình. Môi trường sống của gia
đình có ảnh hưởng rất lớn đối với các em, những thái độ, hành vi, cách cư xử
trong gia đình sẽ hình thành cho các em nền móng để các em tiếp xúc ngoài xã
hội. Trong số học sinh nêu trên có em sinh ra trong gia đình cha mẹ bất hoà,
cách cư xử của cha mẹ chưa đúng mực, rượu chè bê bết... đã tạo cho các em một
ấn tượng không tốt nên các em thường lầm lì ít nói từ đó hình thành nên tính
cách cá biệt trong học sinh.
7
Ảnh hưởng do gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Từ những khó
khăn về đời sống kinh tế, cha mẹ phải lao động vất vả, không quan tâm đến việc
học tập của con em, nên các em thường thiếu sách vở, đồ dùng học tập dẫn đến
chán học, hay làm việc riêng trong lớp.
Ảnh hưởng do gia đình chỉ lo làm ăn, không quan tâm đến việc học của
con cái. Có gia đình cả vợ chồng đều đi làm ăn xa, phó mặc con cái cho ông bà
hoặc chị em chăm sóc lẫn nhau, nên học sinh chưa tự giác và thiếu sự quản lí
chặt chẽ của người lớn nên nảy sinh những tư tưởng không lành mạnh, từ đó
ham chơi không thích học.
Có gia đình lại quá nuông chiều con cái nên hay cho con tiền tiêu vặt
không quan tâm đến việc học của các em nên dần dần sẽ hình thành đức tính
không tốt ở các em.
- Nguyên nhân từ phía nhà trường
Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ban Giám hiệu nhà trường với giáo
viên chủ nhiệm và các tổ chức khác trong nhà trường.
Đối giáo viên phụ trách trong quá trình giáo dục học sinh chậm tiến bộ
còn sử dụng tùy tiện các phương pháp không phù hợp và chưa khoa học. Không
xây dựng được quy định riêng cho lớp, xử lý không đến nơi, đến chốn khi học
sinh vi phạm, đôi khi nói mà chưa thực hiện. Việc phối kết hợp với phụ huynh
học sinh chưa kịp thời còn nặng nề về hình thức, thiếu linh hoạt, thiếu mềm dẻo.
Một số giáo viên còn lúng túng chưa tìm ra những giải pháp thích hợp
trong việc quản lý giáo dục học sinh. Chưa quan tâm đúng mức đến những học
sinh có hoàn cảnh đặc biệt ( những học sinh quá đầy đủ về vật chất được chiều
chuộng; ngược lại những học sinh lại có hoàn cảnh khó khăn về vật chất; những
học sinh có hoàn cảnh éo le, những học sinh có cá tính bất thường,…). Chưa tạo
ra môi trường thân thiện khi học sinh đến trường, chưa quan tâm phát hiện và
ngăn chặn kịp thời những lệch lạc của học sinh.
- Nguyên nhân về phía môi trường xã hội
Ngoài môi trường gia đình và nhà trường ra, học sinh còn phụ thuộc rất
lớn vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát
triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình văn hoá
khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Các loại hình
dịch vụ như Internet, các hình ảnh bạo lực, phim bạo lực... làm cho các em dễ
dàng bắt trước dần dần làm cho các em trở thành học sinh hư.
- Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em
Do lứa tuổi các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt
chước, thích giao lưu, đua đòi, thích tự khẳng định mình… trong khi kiến thức
về gia đình, xã hội, sự hiểu biết còn hạn chế nên các em có một số biểu hiện
không tốt.
Từ việc nghiên cứu các dạng học sinh chậm tiến bộ và những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng ấy, tôi tìm ra những giải pháp để từng bước giáo dục các
8
em tiến bộ. Sau đây là một vài kinh nghiệm của bản thân trong công tác giáo dục
học sinh chậm tiến bộ mà tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp qua đề tài này.
3. Các giải pháp chỉ đạo công tác giáo dục học sinh chậm tiến bộ ở
trường Tiểu học Hà Lai:
Như chúng ta đã biết, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh chậm
tiến bộ, do bản thân các em, do gia đình, nhà trường và xã hội. Nó tác động đến
học sinh một các đan xen, song hành. Những năm trước đây công tác giáo dục
học sinh chậm tiến bộ đã có sự chỉ đạo của Ban Giám hiệu nhà trường nhưng
chưa được sát sao, còn phó mặc cho giáo viên chủ nhiệm có học sinh chậm tiến
bộ. Rút kinh nghiệm những năm học trước, ngay từ đầu năm học 2015-2016,
Ban Giám hiệu nhà trường đã có kế hoạch chỉ đạo cụ thể đến từng giáo viên chủ
nhiệm, Tổng phụ trách Đội và kết hợp với từng phụ huynh có học sinh chậm tiến
bộ để tìm hiểu kỹ nguyên nhân và các biểu hiện của từng em. Đặc biệt bản thân
là Hiệu trưởng nhà trường không nhìn đơn tuyến, phiến diện từ một nguyên
nhân đến một hiệu quả mà giúp giáo viên tìm ra những giải pháp, biện pháp
đồng bộ để tháo gỡ những nguyên nhân. Tôi xin đưa ra một số giải pháp chỉ đạo
công tác giáo dục học sinh chậm tiến bộ ở trường Tiểu học Hà Lai để đáp ứng
mục tiêu giáo dục ở bậc Tiểu học.
3.1. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp trong công tác giáo dục học sinh
chậm tiến bộ:
+ Xác định nhiệm vụ vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp:
Việc chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp thấy được vai trò, nhiệm vụ của
mình trong công giáo dục học sinh nhất là học sinh chậm tiến bộ là điều rất quan
trọng và cần thiết. Chính vì vậy tôi đã tập trung giúp giáo viên xác định nhiệm
vụ, vai trò đó là:
- Giảng dạy các môn học, tổ chức giáo dục, rèn luyện học sinh.
- Học tập và nâng cao sự hiểu biết bản thân.
- Nêu cao các phẩm chất khi giáo dục học sinh: Có ý thức trách nhiệm,
khắc phục khó khăn, tận tuỵ, sáng tạo,..;gần gũi, thương yêu, tôn trọng và đối xử
công bằng với học sinh; gắn bó mật thiết với tập thể; Sống giản dị, bao dung, cởi
mở, có tác phong mẫu mực, luôn nâng cao trình độ, rèn luyện nhân cách.
+ Chỉ đạo việc lập kế hoạch cho công tác chủ nhiệm lớp và thực hiện kế hoạch:
Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp dạy chữ, dạy người, hình thành
cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học
các lớp trên. Là người quyết định chất lượng giáo dục của lớp khi và chỉ khi
giáo viên chủ nhiệm có sự định hướng, tư vấn chia sẻ kịp thời trong quá trình
rèn luyện của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cần hiểu rõ vai trò, vị trí, tầm quan
trọng việc lập kế hoạch chủ nhiệm lớp nhằm xác định một cách chính xác cái
đích cần đi đến và cần phải làm gì, làm như thế nào để đạt được điều đó. Trong
quá trình thực hiện cần vận dụng, điều chỉnh một cách linh hoạt, sáng tạo, khéo
9
léo các biện pháp giáo dục sao cho phù hợp với tình hình thực tế để công tác chủ
nhiệm cũng như giáo dục học sinh chậm tiến bộ đạt hiệu quả cao.
+ Thường xuyên bồi dưỡng phương pháp giáo dục học sinh chậm tiến bộ:
- Giúp giáo viên nắm bắt những biểu hiện, nguyên nhân dẫn đến học sinh
chậm tiến để từ đó có phương pháp giáo dục phù hợp. Phải thường xuyên theo
dõi, giám sát mọi hoạt động của các em. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em
phấn đấu, rèn luyện trong điều kiện có thể. Phải gần gũi, kiên trì, mềm dẻo và
tin tưởng các em.
- Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý: Phải tìm hiểu học sinh để giúp nhận biết và
phân loại học sinh ngay từ đầu năm học. Bên cạnh đó bằng quan sát trực tiếp
trong các hoạt động giáo dục, lao động và sinh hoạt hằng ngày của các em nắm
bắt các hành vi, thái độ học sinh từ đó tìm ra những nét cá tính của từng học sinh
để xếp chỗ ngồi cho phù hợp.
Ví dụ: Học sinh chậm tiến bộ không cho tuỳ tiện chọn chỗ ngồi vì
những học sinh này thường hay ham chơi hay nói chuyện, làm việc riêng trong
lớp thường thích ngồi gần những bạn hay nghịch. Phải bố trí ngồi gần những học
sinh ngoan, chăm chỉ, học tốt để bạn kèm cặp, giúp đỡ.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp:
Tôi đã chỉ đạo giáo viên lựa chọn đội ngũ cán bộ lớp là những học sinh có
nhận thức đúng đắn, trung thực chăm chỉ, có uy tín, trách nhiệm, nhiệt tình, có
năng lực tổ chức, vận động,… để từ đó giúp giáo viên chủ nhiệm trong việc kèm
cặp, giúp đỡ các bạn chậm tiến bộ trong lớp tiến bộ.
+ Phát huy năng lực tự học, tự quản của học sinh:
Giáo viên phải biết cách tạo cho các em sự tự tin vào khả năng của mình
và tạo điều kiện để các em thể hiện khả năng của mình trong công việc của tập
thể, phải hướng dẫn, chỉ bảo các em, giúp đỡ các em từ thấp đến cao, từ dễ đến
khó để các em tự giải quyết công việc từ đơn giản đến phức tạp. Giải pháp trong
giai đoạn đầu là cầm tay chỉ việc sau đó để học sinh từng bước tự giải quyết
công việc cụ thể.
+ Giáo dục học sinh thực hiện nội quy, nề nếp:
Đối với học sinh chậm tiến bộ điều này rất quan trọng và cần thiết.Việc
thực hiện tốt nội quy nề nếp sẽ góp phần giúp các em tiến bộ nhanh nếu các em
ý thức được vấn đề này. Do vậy cần giáo dục các em tự giác thực hiện nội quy,
nề nếp của trường của lớp đề ra đặc biệt là nội quy lớp học.
Ví dụ:
Đưa ra một số nội quy của lớp:
- Đi học đúng giờ
- Ra vào lớp phải xếp hàng.
- Học bài và làm bài đầy đủ.
10
- Thực hiện tốt việc vệ sinh cá nhân, vệ sinh trường lớp sạch sẽ.
- Không nói tục, chửi bậy.
- Có ý thức học tập, không làm việc riêng trong lớp.
- Đoàn kết, giúp đỡ bạn bè.
- Nghỉ học phải có lý do.
- …..
Giáo viên sẽ xây dựng thang điểm thi đua của lớp hàng tuần ứng với
những nội quy học sinh nào thực hiện tốt các nội quy sẽ được biểu dương và
phát cờ đỏ, học sinh nào vi phạm sẽ nhắc nhở bằng biện pháp phù hợp.
+ Giáo dục thông qua giờ sinh hoạt lớp :
Ngoài việc giáo dục học sinh thông qua giờ sinh hoạt trường, giờ sinh
hoạt lớp cũng rất quan trọng trong. Bởi vì thông qua giờ sinh hoạt lớp, giáo viên
chủ nhiệm lớp cũng như cán bộ lớp kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết điểm
của học sinh khi bị vi phạm, lấy tình cảm bạn bè, lấy nghĩa thầy trò làm cho các
em thấy được khuyết điểm của mình. Đồng thời với sự chân thành của giáo viên
chủ nhiệm, học sinh khi vi phạm sẽ sớm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa chữa .
Trong giờ sinh hoạt lớp các tuần, tôi yêu cầu giáo viên chủ nhiệm nếu học
sinh nêu trên mắc câc khuyết điểm thì giấo viên chủ nhiệm không nên nặng về
kiểm điểm, phê bình, mà phải tìm ra và xác định đúng nguyên nhân đã tác động
đến các em làm cho các em mắc sai lầm, vi phạm, vận dụng những điều khoản
trong nội qui, trong qui định của lớp của trường, làm cho các em thấy được
phạm vi vi phạm ở mức độ nào và nêu ra hướng cho các em khắc phục và phải
để tự các em mắc lỗi đưa ra các lỗi của mình đã vi phạm trong tuần. Bên cạnh
đó, giáo viên chủ nhiệm cũng nên nêu những việc làm tốt, những cố gắng nổ lực
của các em để khen các em và nêu những gương tốt trong lớp để các em học tập.
+ Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên phối hợp tổng hợp, báo cáo
từng tuần kết quả học tập và rèn luyện của các em với Ban Giám hiệu nhà
trường để từ đó Ban Giám hiệu nắm bắt và có những giải pháp chỉ đạo tiếp theo
hỗ trợ cùng giáo viên trong việc rèn luyện giúp đỡ các em tiến bộ.
3.2. Chỉ đạo bồi dưỡng học sinh chậm tiến bộ xây dựng lại niềm tin
Học sinh chậm tiến bộ biểu hiện trong các em là sự mất niềm tin ở cha
mẹ, mặc cảm với bạn bè,…do vậy tôi đã chỉ đạo giáo viên trước hết phải nắm
vững các biểu hiện và nguyên nhân dẫ đến sự mất niềm tin của các em. Từ đó
phải gần gũi, chăm sóc, giúp đỡ các em và đặc biệt là chỉ đạo dùng các lời khen
để giúp các em xây dựng lại niềm tin, qua giáo viên chủ nhiệm, tôi được biết:
Học sinh Mai Tiến Anh
- lớp 1A
Học sinh Bùi Trung Quốc
- lớp 4A
Học sinh Vũ Văn Mạnh
- lớp 5B
…
11
Trong một số giờ học khi kiểm tra, các em không có sách vở để học dẫn
đến các em chán và lười học, ngại học chỉ thích làm việc riêng hay nói chuyện
trong lớp nhưng khi hỏi các em thì các em rất lì lợm, không trả lời. Tôi đã trực
tiếp gặp các em, gần gũi, trò chuyện với các em, hỏi han các em, kể chuyện về
gương người tốt, việc tốt cho các em nghe và đôi khi khen các em về làm được
việc tốt dù rất nhỏ,…và cứ như vậy tôi đã chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm gần
gũi các em nhiều hơn. quan tâm đến mọi hành động của các em, động viên,
khích lệ các em kịp thời và sau một thời gian đã giúp các em mạnh dạn, tự tin
hơn trong giao tiếp, ham học hơn.
Hơn thế nữa, như chúng ta đã biết, quan hệ thầy trò vốn là mối quan hệ
tách biệt từ ngàn xưa. Trong nền giáo dục hiện tại, quan hệ đó đã được thay đổi,
thầy trò ngày nay có tình cảm thân mật gắn bó hơn, có như vậy thì chúng ta mới
thực hiện tốt được nhiệm vụ giáo dục toàn diện được. Bởi có quan hệ gần gũi thì
mới biết được những tâm tư nguyện vọng của các em chúng ta mới có những
biện pháp giáo dục thích hợp được.
Đối với học sinh chậm tiến bộ việc gần gũi với các em quả là một vần đề
không đơn giản, nếu chúng ta thiếu tế nhị một chút thì khó mà có thể gần gũi với
các em được, chẳng hạn thường xuyên phê bình, dùng nhiều lới xúc phạm đến
các em ... đều có thể làm tổn thương đến mối quan hệ này. Hơn nữa vì các em
thường xuyên vi phạm nên các em càng lẩn tránh tiếp xúc với giáo viên nhất là
giáo viên chủ nhiệm lớp.
Để thấy được hết cá tính của học sinh, giáo viên chủ nhiệm cần tạo đựơc
mối quan hệ gần gũi với các em, thật sự là chỗ dựa đáng tin cậy nhất sau cha mẹ
của các em. Chú ý khi giao tiếp với các em chúng ta phải luôn cởi mở, chân tình,
vui vẻ dễ cảm hóa được các em, khi có được mối quan hệ tốt các em sẽ thổ lộ
những tâm tư tình cảm mà không một chút ngần ngại. Những lời khuyên răn dạy
bảo của chúng ta sẽ có tác dụng lớn đối với các em.
Ví dụ: Học sinh Bùi Trung Quốc-lớp 4A em là một học sinh học yếu qua
tìm hiểu tôi biết được gia đình em ấy rất khó khăn, em thường không chú ý đến
học tập, kết quả thấp thường xuyên không thuộc bài hay bị cô giáo nhắc nhở làm
em không màng đến học tập. Tôi đã chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phải kịp thời
động viên em học tập không thể trùn bước trước hoàn cảnh khó khăn, phải có
quyết tâm và nghị lực vươn lên phải cố gắng mới có được thành công. Bên cạnh
đó tôi đã giúp giáo viên chủ nhiệm liên hệ thực tế một số tấm gương học tốt có
hoàn cảnh không hơn gì em. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng có hoàn
cảnh tốt đẹp, bản thân em có điều kiện không bằng bạn thì em cần phải cố gắng
nhiều hơn bạn để rèn luyện ý chí nghị lực của mình vươn lên từ trong gian khó,
ngoài ra tôi còn chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp tạo điều kiện thuận lợi trong
học tập cho em bằng cách khuyến khích tinh thần học tập, gọi em trả lời những
câu hỏi dễ, biểu dương sự tiến bộ của em trước lớp. từ đó trở đi giáo viên chủ
nhiệm thường xuyên động viên em học tâp. Kết quả cho thấy em có sự tiến bộ,
có sự cố gắng trong học tập.
Chứng tỏ rằng khi chúng ta biết khơi dậy niềm tin cho các em thì bản thân
12
các em sẽ thấy tự tin hơn, phấn chấn và vươn lên trong học tập, rèn luyện, mạnh
dạn trong giao tiếp và ngược lại nếu chúng ta không khích lệ, động viên học sinh
thì đương nhiên nó sẽ thui chột ý chí phấn đấu, vươn lên của bản thân các em.
3.3. Chỉ đạo nâng cao chất lượng về học tập của học sinh chậm tiến bộ
Việc nâng cao chất lượng trong học tập của học sinh chậm tiến là rất quan
trọng. Vì vậy với những học sinh này tôi đã chỉ đạo giáo viên dạy phải dựa vào
khả năng của từng học sinh mà có các biện pháp giáo dục khác nhau:
Chẳng hạn như đối với học sinh Vũ Chung Thanh - Lớp 3A do hoàn cảnh
gia đình khó khăn, bố mẹ lo làm ăn không quan tâm nhắc nhở em trong việc học
tập vì vậy em có sa sút trong học tập nên giáo viên phải luôn quan tâm, gần gũi,
hỏi han, động viên em và đến nhà gặp gỡ phụ huynh của em nhắc nhở gia đình
phối hợp tạo mọi điều kiện và cần quan tâm để giúp em có điều kiện học tập tốt
nhất giúp em tiến bộ. Ở trên lớp giáo viên phát động phong trào “ Đôi bạn cùng
tiến” để học sinh học tốt hơn giúp học sinh này tiến bộ. Ngoài ra để giúp đỡ gia
đình giảm bớt đi phần nào khó khăn, bản thân là một Chi hội trưởng Chi hội
Chữ thập đỏ nhà trường, tôi đã xây dựng kế hoạch phát động đến các hội viên
Chữ thập đỏ nhà trường chia sẻ ủng hộ các đối tượng học sinh có gia đình đặc
biệt khó khăn mua nhưng cuốn sách, cây bút, quần áo, hỗ trợ và miễn cho các
em các khoản chi phí đóng góp theo quy đnh đầu năm học. Sự gần gũi, chân
thành, nhẹ nhàng của giáo viên của nhà trường đã giúp cho các em vui vẻ, bớt
mặc cảm mà sẽ thay đổi cố gắng hơn trong học tập.
Hay những học sinh chậm tiến bộ do hổng kiến thức cơ bản như những
học sinh đã nêu ở trên thì giáo viên không được quát mắng, la phạt các em mà
phải vừa giảng giải bài mới vừa phải ôn lại kiến thức cũ cho các em, giảng giải
lại những phần học sinh chưa hiểu, khơi lại trí nhớ của học sinh. Sau mỗi bài
học phải hỏi học sinh đã hiểu bài chưa, nếu còn lúng túng thì giáo viên phải
giảng giải lại và đặc biệt phải gọi các em thực hành để các em nắm bài chắc hơn
và tôi yêu cầu những lớp có các đối tượng học sinh này giáo viên phải sắp xếp
thời gian phù hợp để kèm cặp, phụ đạo thêm cho các em như: các tiết học tăng
buổi, tăng thêm tiết cuối buổi,…giúp các em nắm kiến thức cơ bản của chương
trình học tập. Bên cạnh đó phải tuyên dương học sinh đó trước lớp nếu thấy các
em tiến bộ.
Đối với những học sinh chậm tiến học yếu do ham chơi, không chịu khó học
như học sinh Vũ Văn An- lớp 5A, học sinh Mai Tiến Anh -lớp 1A,…tôi đã chỉ đạo
giáo viên phải kiểm tra bài thường xuyên, hàng ngày. Truy bài, kiểm tra bài của các
em. Bên cạnh đó giáo viên động viên các em bằng cách sau giờ học hay chuyển tiết
nên tổ chức các trò chơi và để học sinh đó lên hướng dẫn trò chơi cho cả lớp. Khi
hướng dẫn trò chơi cho cả lớp xong giáo viên nên tuyên dương, dần dần các em đã
có chuyển biến tích cực, gần gũi thân thiện hơn với thầy cô và các bạn, vì các em đã
tự thấy rằng mỗi ngày đi học là một ngày vui, không cảm thấy bị căng thẳng, áp lực
trong học tập mà sẽ ý thức, tự giác trong học tập.
Đối với những học sinh chậm tiến bộ học yếu do nhút nhát, rụt rè hay với
những em do cha mẹ ly hôn ở với ông bà như học sinh Bùi Trung Quốc-lớp 4A,
13
học sinh Vũ Văn Mạnh lớp 4A giáo viên phải hướng dẫn các em tham gia các
hoạt động như: sinh hoạt sao nhi đồng, tham gia nhiều các hoạt động tập thể thể
dục, thể thao, trò chơi,…hàng ngày, hàng tháng mượn các loại sách báo thiếu
nhi, nhi đồng ở thư viện nhà trường và giáo viên lên lịch cụ thể cho học sinh đó
đọc nhằm giúp các em gần gũi bạn bè, thầy cô để các em thấy tự tin hơn ở bản
thân mình. Bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm phải quan tâm tìm hiểu về tâm tư,
nguyện vọng của các em và vào tiết sinh hoạt lớp giáo viên cần dành thời gian
ghi chép những suy nghĩ, tình cảm, những điều các em thấy thay đổi trong hoàn
cảnh sống của bản thân, các em cần nói, cần hỏi theo chủ đề của từng tuần mà
giáo viên đưa ra.
Ví dụ: Tuần 1: Tình cảm của em đối với ông bà, cha mẹ.
Tuần 2: Những suy nghĩ và những ước mơ của em.
Tuần: Em thích đọc các loại sách nào, thích tham gia các loại trò
chơi nào, vì sao?…
Từ đó giáo viên sẽ hiểu được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em
để phân tích và hướng dẫn các em đi theo hướng tốt.
Giáo viên chủ nhiệm kể những tấm gương phấn đấu vươn lên trong học
tập, rèn luyện để các em noi theo. Giáo dục ý thức cầu tiến trong mỗi học sinh,
có như vậy học sinh mới có động cơ phấn đấu, mục đích cần phấn đấu và phấn
đấu để đạt cái đích nhất định trong từng em học sinh tuỳ theo sức học và điều
kiện của em đó.
Bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm cần phải phát động các phong trào thi đua
học tập theo từng chủ đề như: Thi đua hoa điểm 10”, “ Đôi bạn cùng tiến”, “ Tuần
học tốt”,…sau mỗi đợt thi đua có nhận xét đánh giá và động viên các em để các em
có tinh thần tự giác nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng bài học,
đồng thời dành nhiều thời gian cho các nội dung bài học mà mình học sa sút.
Tóm lại: Người giáo viên chủ nhiệm lớp ngoài chức năng, nhiệm vụ vai
trò của mình thì phải là người quản lý toàn bộ hoạt động giáo dục của lớp mình.
Ngoài việc chăm lo hình thành nhân cách cho học sinh giáo viên còn phải dạy
kiến thức để các em chậm tiến bộ về học tập có cơ hội vươn lên bằng những em
khác. Để đạt được mục tiêu đó, giáo viên chủ nhiệm cần tạo một không khí học
tập thân thiện, cởi mở, hoà đồng. Trong môi trường đó mọi học sinh ở mọi hoàn
cảnh khác nhau, mọi trình độ nhận thức khác nhau, các em được tự do bày tỏ ý
kiến của mình mà không e dè, không sợ mình chưa bằng bạn. Học sinh tự do
bày tỏ ý kiến của mình về môi trường học tập, giao tiếp với bạn.
3.4. Hiệu trưởng chỉ đạo để giáo dục học sinh chậm tiến bộ thông qua
hoạt động Đội, sao nhi đồng trong nhà trường.
Trong trường Tiểu học hoạt động Đội, sao là hoạt động không thể thiếu
được, nó góp phần vào việc giáo dục và phát triển một cách toàn diện nhân cách
của học sinh. Vì vậy tôi đã yêu cầu thực hiện một số nội dung sau:
+ Đối với đội Cờ đỏ các lớp: yêu cầu các em hằng buổi, hằng ngày, hằng
14
tuần các em phải theo dõi và ghi lại tên của tất cả những bạn vi phạm. Có như
vậy thì mới kịp thời có được thông tin và xử lý dứt điểm những vi phạm mà các
em mắc phải.
+ Đối với các em trong Ban chỉ huy Liên chi đội: phải thường xuyên theo
dõi và cung cấp những cá nhân điển hình của các lớp đưa vào các bản tin hằng
ngày để tuyên dương khen ngợi, khích lệ tinh thần các em để cho các bạn khác
học tập.
+ Đối với Tổng phụ trách Đội: Tôi yêu cầu cần phối hợp với các giáo viên
chủ nhiệm, với Ban Giám hiệu nhà trường để nắm bắt các học sinh chậm tiến bộ
ngay từ đầu năm học và từ đó xây dựng kế hoạch phối hợp để giáo dục các học
sinh tiến bộ và đặc biệt là giáo viên Tổng phụ trách Đội phải xây dựng được kế
hoạch sinh hoạt tập thể trong năm học như: thi văn nghệ nhân kỷ niệm ngày Nhà
giáo Việt Nam; thi hái hoa dân chủ nhân dịp ngày thành lập Đoàn Thanh niên, tổ
chức các câu lạc bộ, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, thể dục thể
thao…để từ đó sẽ yêu cầu các em tham gia vào hoạt động tập thể, gây niềm vui
cho các em, đưa các em vào bầu không khí trong lành của tập thể để các em biết
cách ứng xử đạo đức, biết cách xưng hô đối xử với bạn bè .
Trong các hoạt động của lớp cũng như sinh hoạt tập thể, tôi yêu cầu giáo
viên chủ nhiệm hay giáo viên Tổng phụ trách Đội cho các em nêu trên tham gia
hoặc phân công, giao cho các em phụ trách một nội dung nào đó:
Ví dụ:
Học sinh Vũ Văn An được giao phụ trách một nội dung nhỏ ở câu lạc bộ Toán
Học sinh Vũ Chung Chanh được giao phụ trách một nội dung nhỏ ở câu
lạc bộ Tiếng Việt.
Học sinh Bùi Trung Quốc được giao phụ trách mảng tổ chức thi văn nghệ
Học sinh Vũ Văn Mạnh được giao phụ trách mảng thể dục thể thao
Học sinh Mai Tiến Anh được giao phụ trách bảo vệ, chăm sóc cây
Sau mỗi lần tổ chức giáo viên Tổng phụ trách Đội phối hợp với giáo viên
chủ nhiệm lớp đánh gía lại kết quả đã đạt được đặc biệt là đánh giá vai trò của
những thành viên được giao nhiệm vụ nêu trên.
Với việc phân công các em phụ trách từng mảng công việc như vậy, mặc
dù trong các lần thực hiện đầu các em còn nhiều bỡ ngỡ, rụt rè chưa mạnh dạn
những sau một thời gian các em quen dần, bạo dạn hơn và hứng thú với công
việc được giao.
3.5.Chỉ đạo công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hổi
trong việc giáo dục học sinh chậm tiến bộ.
Để giáo dục học sinh chậm tiến bộ chúng ta cần phối hợp kịp thời, linh
hoạt giữa nhà trường, gia đình và xã hội, giữa giáo viên với học sinh, trong đó
giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò như chiếc cầu nối là mắt xích của sự kết hợp
được thể hiện qua các mối quan hệ
15
Có thể trao đổi qua các cuộc họp phụ huynh học sinh chung của lớp, giáo
viên chủ nhiệm báo cáo kết quả rèn luyện của từng em và đó chính là biện pháp
không thể tách rời người giáo viên trong quá trình làm công tác chủ nhiệm về
con em họ. Riêng những em chậm tiến bộ có thể mời phụ huynh các đối tượng
này ở lại để trao đổi riêng, không đưa ra trước buổi họp phụ huynh của lớp tránh
sự mặc cảm của phụ huynh.
Có thể trao đổi qua việc đến thăm gia đình học sinh. Thường học sinh
chậm tiến bộ thì phụ huynh một là không quan tâm đến việc học của con em,
hoặc không dám đối diện với sự thật về những sai phạm của con mình...thường
những phụ huynh này ít tham gia vào các cuộc họp chung kể cả những lúc có
giấy mời riêng cùng không đến. Đối với đối tượng này giáo viên chủ nhiệm lớp
cần nhiệt tình hơn, có thể đến thăm gia đình để tìm hiểu điều kiện sinh hoạt của
gia đình và nắm được tình hình của các em ở nhà, thường những đối tượng này
họ ngại nói những điều sai của con em họ vì thế giáo viên chủ nhiệm tổng hợp
những điểm tốt mà các em có được dù đó chỉ là một việc không đáng kể để khen
ngợi các em, sau đó tôi lồng một vài khuyết điểm của các em; tránh nêu hoàn
toàn hoặc một loạt khuyết điểm thì phụ huynh sẽ có sự mặc cảm, hoặc nảy sinh
sự tiêu cực, buông xuôi, ngại nói ra những điều mà ta cần tìm hiểu, trao đổi.
Có thể trao đổi bằng sổ liên lạc giữa phụ huynh học sinh và giáo viên chủ
nhiệm lớp. Hằng tuần có việc cần thiết liên hệ với phụ huynh, giáo viên chủ
nhiệm sẽ ghi vào sổ để các em đem về trình với phụ huynh vào ngày thứ bảy và
nộp lại cho giáo viên chủ nhiệm vào thứ hai. Cách làm này cũng có thể thường
xuyên trao đổi với phụ huynh và kịp thời giáo dục, chấn chỉnh những sai phạm
của các em.
Lập danh sách theo dõi quá trình tiến bộ của các em, nhằm đạt hiệu quả
giáo dục cao và sử dụng biện pháp cho phù hợp với mức độ tiến bộ của học sinh
đồng thời cũng cho giáo viên chủ nhiệm năm sau dễ dàng nắm bắt tình hình học
sinh của lớp mình vừa tiếp nhận.
Các đoàn thể xã hội đặc biệt là tổ chức Đoàn thanh niên địa phương cùng
phối hớp tốt với nhà trường và gia đình, thống nhất nội dung, mục đích, biện
pháp giáo dục học sinh trong nhà trường và cụm dân cư. Đưa các em vào các
hoạt động thực tiễn như hoạt động tập thể trong và ngoài nhà trường, vui chơi,…
qua đó hiểu thêm học sinh, gắn bó học sinh với tập thể, các em có nhiều cơ hội
được thể hiện mình trước tập thể. Từ đó sẽ xây dựng được nếp sống văn minh,
văn hoá, lịch sự, xây dựng tình thương yêu, đoàn kết.
Ví dụ: Tham gia biểu diến văn nghệ nhân các ngày Lễ, Tết trung thu ở địa
phương để các em có cơ họi tham gia.
Bên cạnh đó yêu cầu giáo viên chủ nhiệm lớp thường xuyên kiểm tra mức
độ tiến bộ của học sinh để kịp thời chỉ đạo việc phối hợp giáo dục giữa gia đình,
nhà trường và xã hội. Từ đó giúp giáo viên chủ nhiệm điều chỉnh phương pháp giáo
dục cho phù hợp. Tăng cường, khuyết khích động viên các em phấn đấu, rèn luyện,
giúp các em tự kiểm tra, tự dánh giá kết quả hoạt động của mình. Đồng thời phải có
các yêu cầu đối với các em, giúp các em có hướng đi lên về mọi mặt.
16
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Với sự chỉ đạo của bản thân đối với các giáo viên nhà trường đặc biệt đối
với giáo viên chủ nhiệm có học sinh chậm tiến bộ, trong một thời gian (đến thời
điểm cuối năm học 2015-2016) đã thu được kết quả rất khả quan đó là:
+ Về phía học sinh chậm tiến bộ:
Bảng 3:
TT
Biểu hiện
1 Thiếu niềm tin, dễ bị kích động
2 Hay nói chuyện riêng, làm việc riêng
trong lớp
3 Lười học, thiếu sách vở đồ dùng học
tập, hay bỏ học
4 Hay gây gổ đánh nhau, nói tục
5 Hay lấy trộm đồ của bạn
6 Thường hay nói dối bố mẹ, thầy cô
7 Không chấp hành nội quy trường , lớp
8 Tiếp thu bài chậm, hổng kiến thức
Số lượng
1
1
Tỷ lệ %
20
20
1
20
0
0
0
1
2
0
0
0
20
20
So sánh giữa (bảng 2) và (bảng 3) chúng ta thấy rõ rằng việc sử dụng các
giải pháp nêu trên đã thu được hiệu quả tương đối tốt:
Học sinh chậm tiến bộ đã có niềm tin vào các thầy cô giáo và bạn bè, ít
nói chuyện riêng, làm việc riêng trong lớp. Không còn tình trạng gây gỗ đánh
nhau, đã có ý thức kỷ luật trong học tập và sinh hoạt, chịu khó học bài, tiếp thu
bài tiến bộ hơn, không nói tục, không bỏ học vô lý do và đã chấp hành tương đối
tốt nội qui nhà trường, lớp học đề ra.
Khả năng học tập rèn luyện của các em đã biến chuyển tốt, quan hệ thầy
trò, bạn bè ngày càng được thắt chặt.
+ Về phía giáo viên:
Giáo viên đã biết sử dụng linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp và khoa học các
phương pháp giáo dục học sinh chậm tiến bộ. Nói đã đi đôi với làm, xử lý tương
đối dứt điểm, đến nơi đến chốn khi có học sinh vi phạm. Phối kết hợp kịp thời
với phụ huynh học sinh và nhà trường.
Giáo viên đã tìm ra các giải pháp thích hợp trong việc quản lý giáo dục
học sinh. Quan tâm đúng mức đến những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn. Tạo ra môi trường thân thiện khi học sinh đến trường.
Uy tín nhà giáo được nâng cao, tạo được niềm tin trong phụ huynh học
sinh và nhân dân.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Nhân cách học sinh Tiểu học là nhân cách đang được hình thành và phát
triển. Sự biểu hiện về phát triển nhân cách của các em rất đa dạng ở mọi lứa
17
tuổi, các em dễ bị kích động, dễ bị tập nhiễm các yếu tố xấu từ xã hội. Các em
học sinh chậm tiến bộ đó là những em học sinh chưa chịu khó học tập, chưa
hoàn thiện năng lực, phẩm chất,…đây chính là vấn đề đặt ra cho các nhà giáo
nói riêng và cho xã hội nói chung trong thời kỳ hiện nay.
Bản thân là một nhà quản lý trong trường Tiểu học, tôi thấy nhiệm vụ giáo
dục học sinh chậm tiến bộ trong các nhà trường phải được coi trong và thường
xuyên, liên tục. Phải có sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Sự phối
hợp này là yếu tố giữ vai trò quyết định đến chất lượng của quá trình giảng dạy
và giáo dục, giúp các em có những định hướng đúng đắn, phấn đấu học tập để
sau này trở thành người con có ích cho xã hội, hiếu thảo với ông bà cha mẹ và
chính những em học sinh này sẽ là những tấm gương sáng cho các em học sinh
khác noi theo.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và dựa trên thực tế sử dụng một số giải pháp cụ
thể về giáo dục học sinh chậm tiến bộ ở nhà trường. Tôi rút ra bài học kinh
nghiệm sau:
Trước hết mỗi một thành viên trong tập thể sư phạm nhà trường phải là
những tấm gương sáng cho học sinh noi theo vì ảnh hưởng nhân cách của nhà
giáo tới tâm hồn trẻ là một sức mạnh giáo dục mà không một sách giáo khoa
nào, một châm ngôn nào, một hệ thống trừng phạt, khuyến khích nào có thể thay
thế được.
Người giáo viên phải nắm rõ hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng của học
sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp. Phải thường xuyên trao đổi, gặp gỡ phụ
huynh học sinh để giáo dục, giúp đỡ học sinh cùng tiến bộ. Cần có biện pháp
giáo dục riêng cho từng đối tượng học sinh, không giáo dục chung mà phải vận
dụng các biện pháp giáo dục học sinh chậm tiến bộ một cách khéo léo, tế nhị.
Người Hiệu trưởng phải có biện pháp chỉ đạo đúng đắn, nắm vững những
thông tin chính xác về biểu hiện và nguyên nhân dẫn đến học sinh chậm tiến bộ.
Từ đó có các biện pháp cụ thể để giúp đỡ trực tiếp những học sinh này đồng thời
chỉ đạo giáo viên nắm vững phương pháp giáo dục học sinh chậm tién bộ, xây
dựng lại niềm tin cho các em, kết hợp chặt chẽ với gia đình, nhà trường và xã
hội đây là yếu tố chính ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách cho
học sinh. Tuy nhiên những yếu tố này không thể tách rời mà phải được đồng
thời tác động đến học sinh theo cùng một hướng, những quan điểm giáo dục
đúng đắn và thống nhất thì giáo dục học sinh chậm tiến bộ sẽ có hiệu quả cao.
Việc giáo dục học sinh chậm tiến bộ phải thường xuyên, liên tục và bản
thân người quản lý và giáo viên phải đồng tâm, giàu tình nhân ái, yêu thương,
quý mến học sinh và tìm mọi biện pháp thích hợp để làm tốt công tác giáo dục
và giáo dục lại học sinh góp phần đào tạo thế hệ trẻ có đủ đức, đủ tài, năng
động, sáng tạo và tự tin để chủ động cuộc sống sau này, góp phần nhanh chóng
xây dựng đất nước ta ngày càng giàu đẹp và văn minh.
18
2. Kiến nghị;
2.1. Đối với nhà trường:
Cần tổ chức nhiều hơn các hoạt động vui chơi, giải trí cho học sinh để các
em có được sân chơi lành mạnh, bổ ích.
Cần tăng cường hơn nữa công tác giáo dục kỹ năng sống cho các em, để
các em hiểu thêm về vai trò, trách nhiệm của lứa tuổi học đường.
Cần tiếp tục thực hiện tốt công tác phối hợp nhất là việc thông báo kết quả
học tập và rèn luyện của học sinh cho phụ huynh nắm bắt đặc biệt là học sinh
chậm tiến bộ.
2.2. Đối với gia đình phụ huynh học sinh:
Thường xuyên phối kết hợp với nhà trường để tìm hiểu về tình hình học
tập, rèn luyện của con cái, tạo điều kiện tốt nhất cho con cái học tập và rèn
luyện.
Nắm bắt đặc điểm tâm lý con cái để có phương pháp giáo dục phù hợp.
2.3. Đối với địa phương:
Tiếp tục chăm lo đầy đủ cơ sở vật chất cho nhà trường thực hiện công tác
giáo dục một cách thuận lợi nhất.
Quan tâm tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí cho học sinh tham gia
nhân các ngày Lễ Tết và dịp hè.
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
PHÓ HIỆU TRƯỞNG
Hà Lai, ngày 31 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Trần Thị Thuận
Tạ Thị Chân
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài nói chuyện tại đại học Sư phạm Hà Nội ngày 21-10-1964 - Hồ Chí Minh
toàn tập - Nhà xuất bản Chính trị Quóc gia.
2. Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em phê chuẩn ngày 20-02-1990.
3. Giáo dục Tiểu học - Lê Tất Thành -Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học.
4. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học Sư phạm- Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Trích trong bài thơ “Nửa đêm” - Nhật ký Trong tù - Hồ Chí Minh.
20
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Tạ Thị Chân
Chức vụ và đơn vị công tác: Hiệu trưởng - Trường Tiểu học Hà Lai - Hà Trung Thanh Hóa.
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
1
Thực trạng sử dụng một số
biện pháp xây dựng đội ngũ
nhà trường của người Hiệu
trưởng trường Tiểu học
2
3
4
5
6
Phòng
GD&ĐT
C
2005-2006
Hiệu trưởng với công tác
quản lý bồi dưỡng chuyên
môn cho đội ngũ giáo viên
Phòng
GD&ĐT
B
2006-2007
Một số biện pháp chỉ đạo, tổ
chức bồi dưỡng học sinh giỏi
ở trường Tiểu học Hà Bình,
Hà Trung
Phòng
GD&ĐT
A
2010-2011
Một số biện pháp chỉ đạo, tổ
chức bồi dưỡng học sinh giỏi Sở GD&ĐT
ở trường Tiểu học Hà Bình,
Hà Trung
C
2010-2011
Hiệu trưởng với công tác
kiểm tra nội bộ trường học
nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục
A
2013-2014
B
2013-2014
Phòng
GD&ĐT
Hiệu trưởng với công tác
kiểm tra nội bộ trường học Sở GD&ĐT
nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục
21