Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.98 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng dạy và học Lịch sử ở trường TH Lê Mạnh Trinh
2.3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử lớp 5.
2.4. Những kết quả của quá trình thực hiện kinh nghiệm
2.5. Bài học kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 1
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 13
Trang 14
Trang 14
Trang 14
Trang 15


Trang 16

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Đoàn kết và nâng cao tinh thần tự hào dân tộc nhằm tập hợp sức mạnh của
lực lượng toàn dân để tiến hành cách mạng đã được Đảng ta và đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề ra và vận dụng tốt trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước. Để khơi gợi lòng tự hào dân tộc, Bác Hồ kính yêu ngay
từ năm 1942 đã viết bài kêu gọi “Nên biết sử ta" và bài diễn ca “Lịch sử nước
ta”. Bài diễn ca gồm 104 câu thơ lục bát, dễ thuộc, dễ hiểu, phù hợp với dân ta
lúc đó với trên 90% mù chữ, đã góp phần tạo nên sức mạnh thần kỳ: Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã phát huy tinh thần tự hào dân tộc, đoàn kết
đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc; thực hiện thắng lợi 2 cuộc kháng
chiến trường kỳ và giành thắng lợi vĩ đại sau hơn 20 năm đổi mới. “Dân ta phải
biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Câu thơ đầu trong diễn ca
của Bác Hồ là lời kêu gọi, lời răn dạy cho muôn thế hệ con cháu nước ta. Thế
nhưng như nhận định của cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một Diễn đàn về
Sử học: “... Lớp trẻ của chúng ta đã không còn quan tâm tới lịch sử dân tộc...”.
Và kết quả thi tuyển sinh Đại học năm học 2006-2007 môn Lịch sử đã minh
chứng nhận định của Đại tướng và thực sự gây “sốc” đối với xã hội. Tỷ lệ thí
sinh có điểm thi dưới trung bình chiếm hơn 80%, trong đó, hơn 60% có điểm thi
dưới 1. Qua đó cho thấy, kiến thức bộ môn Lịch sử của học sinh, đặc biệt là bậc
trung học phổ thông quá yếu. Tuy nhiên không phải đến năm 2007 kết quả học
tập môn Lịch sử mới xuống cấp mà tình trạng sa sút này đã có từ lâu.
Giờ đây đứng trước thời kì hội nhập kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng của
mạng Internet và văn hóa ngoại bang đã tràn vào nước ta qua nhiều phương tiện
không thể kiểm soát hết, điều đó có tác động không nhỏ đến thế hệ trẻ Việt Nam

làm cho học sinh lơ là trong các môn học phụ, nhất là bộ môn Lịch sử. Một thực
tế cho thấy học sinh “sợ” học môn Lịch sử nhưng rất thích xem các bộ phim lịch
sử Trung Quốc; thuộc vanh vách tên tuổi các nhân vật thuộc về lịch sử Trung
Quốc nhưng khi nói về lịch sử của dân tộc ta thì không biết. Lớp trẻ của chúng
ta đã không còn quan tâm tới lịch sử dân tộc".
Trên lý thuyết và thực tế, môn Lịch sử, đặc biệt là lịch sử dân tộc tức môn
Quốc sử, không chỉ trang bị vốn kiến thức cơ bản rất cần thiết cho thế hệ trẻ mà
còn góp phần hoàn thiện nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam. Nếu không
chú ý, mỗi công dân của chúng ta khi học hết cấp phổ thông, trong đầu óc sẽ
mang những khoảng trống vắng hay mờ nhạt về lịch sử, nghĩa là không hiểu biết
về quá khứ dân tộc, về các giá trị mà ông cha đã đổ máu để giành giữ được thì
thật vô cùng nguy hiểm. Điều đó có nghĩa nếu chúng ta không coi trọng việc
dạy, học môn học này thì sẽ phải trả giá cho kết quả đào tạo trong nhiệm vụ
chuẩn bị cho lớp trẻ vào đời.
Băn khoăn trước thực trạng đó, là một giáo viên dạy Tiểu học có môn
Lịch sử, tôi xin trình bày một số kinh nghiệm của mình về việc dạy học môn
Lịch sử lớp 5 nhằm góp phần giúp học sinh lớp mình nắm vững hơn chương
trình lịch sử của lớp 5. Rất mong các bạn đồng nghiệp chân thành góp ý.
2


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này tôi mong muốn giúp các em học sinh nắm vững
được chương trình Lịch sử lớp 5 tạo tiền đề cho các em học tập ở chương trình
cao hơn trong các cấp học sau này. Đó cũng là góp phần nhỏ bé của mình trong
việc khắc phục tình trạng sa sút hẫng hụt trong kiến thức về lịch sử Việt Nam
trong học sinh hiện nay, giúp học sinh biết các giá trị di sản lịch sử và văn hóa
dân tộc để các con có ý thức gìn giữ bản sắc dân tộc. Ngoài ra còn định hướng
phát triển nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam cho học sinh nhất là khi giao
lưu và đối thoại với các nền văn minh, văn hóa thế giới.

Với những lí do và mục đích nêu trên tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một vài
biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử lớp 5” qua nghiên cứu sách
giáo khoa và thực tiễn giảng dạy.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Chương trình và sách giáo khoa Lịch sử - Lớp 5.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Đọc sách và các tài liệu tham khảo để nắm được cơ sở khoa học của việc
dạy học lịch sử cho học sinh.
- Dạy thực nghiệm.
- Trao đổi với các đồng nghiệp.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Ở Tiểu học môn Tự nhiên Xã hội cung cấp cho học sinh những hiểu biết
cơ bản và ban đầu về các sự vật, sự kiện, hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng
trong tự nhiên, con người và xã hội, về cách vận dụng kiến thức đó trong đời
sống và sản xuất. Cùng với môn Tiếng việt và Toán, môn Tự nhiên Xã hội là ba
môn quan trọng nhất trong chương trình Tiểu học. Ở lớp 5 môn Tự nhiên Xã hội
được chia thành 2 phân môn là Lịch sử và Địa lí.
Như chúng ta đã biết, Lịch sử là một môn học đặc thù. Kiến thức lịch sử
là kiến thức về quá khứ. Có những sự kiện đã diễn ra cách ngày nay hàng trăm,
hàng ngàn năm thậm chí lâu hơn. Yêu cầu bộ môn đòi hỏi khi nhận thức học
sinh phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động như đang
diễn ra trước mắt mình. Bên cạnh đó, khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn
hạn chế nên việc giáo viên dạy như thế nào để giúp học sinh tái hiện lại được
những gì thuộc về quá khứ là một điều khó trong dạy học lịch sử. Trong lúc đó,
các phương tiện trực quan phục vụ dạy học lịch sử hiện nay còn nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu và thiếu đồng
bộ, chưa kể đến phim tài liệu thì hầu như không có. So với yêu cầu đặt ra của bộ
môn và định hướng đổi mới phương pháp trong giai đoạn hiện nay thì có thể nói
rằng: những phương tiện dạy học không đáp ứng được yêu cầu và không thể tạo

nên hứng thú học tập cho học sinh.
Mặt khác, chương trình lịch sử lớp 5 giúp học sinh:

3


- Lĩnh hội được một số tri thức ban đầu và thiết thực về xã hội. Đó là các
sự kiện, hiện tượng và nhân vật lịch sử tiêu biểu trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Từ đó hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng quan
sát, mô tả, phân tích, so sánh, đánh giá mối quan hệ giữa các sự kiện trong xã
hội, đồng thời vận dụng các tri thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Qua đó khơi
dậy và bồi dưỡng tình yêu đất nước, hình thành thái độ đúng đắn đối với bản
thân, gia đình, cộng đồng, kích thích hiểu biết khoa học của học sinh. Để từ đó
các em có lòng tự hào dân tộc phát huy mọi khả năng để xây dựng một tương lai
xứng đáng với lịch sử của dân tộc.
- Bên cạnh đó bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng:
+ Quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các
nguồn khác nhau.
+ Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin
để giải đáp.
+ Phân tích, so sánh, đánh giá các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử.
+ Thông báo những kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ
đồ,...
+ Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
- Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen:
+ Ham học hỏi, ham hiểu biết thế giới xung quanh.
+ Yêu thiên nhiên, con người, thiên nhiên, đất nước.
+ Có ý thức và hành động bảo vệ thiên nhiên và các di sản văn hoá.
Chính vì lẽ đó, việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, cũng như mọi
môn học khác, giúp học sinh tự mình khám phá ra kiến thức (dưới sự hướng dẫn

của giáo viên), thì học sinh phải được tiếp xúc với các tư liệu lịch sử: tranh ảnh,
bản đồ lịch sử, các di vật, câu chuyện lịch sử được ghi lại thành lời văn dưới dự
định hướng và kết luận của giáo viên để học sinh tự hình thành các biểu tượng
lịch sử thì mới khắc sâu được kiến thức cho học sinh và mới kích thích được sự
ham học sử ở các em.
2.2 Thực trạng dạy và học Lịch sử ở trường Tiểu học Lê Mạnh Trinh.
a. Khảo sát học sinh
Thực tế qua mấy năm dạy lớp 5 tôi thấy với nội dung kiến thức như vậy là
vừa tầm với học sinh ở lứa tuổi lớp 5. Tuy nhiên, thực tế cho thấy học sinh học
môn lịch sử thường tiếp thu một cách thụ động. Chính vì vậy học sinh không
hứng thú trong các giờ lịch sử và đặc biệt không hình dung được sinh động về
các sự kiện lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa. Từ đó dễ tạo cho các em có
thói quen ỷ lại, thụ động, dễ quên và trì trệ trong tư duy. Chính vì vậy ngay từ
đầu năm học 2016 - 2017 ngay khi nhận lớp tôi đã khảo sát học sinh và kết quả
như sau:
Sĩ số Số HS thích học môn Lịch sử Số HS không thích học môn Lịch sử
33

7

26

4


- Vì vậy hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức môn lịch sử như thế nào để
học sinh hứng thứ học và tiếp thu bài tốt là một điều mà tôi và các đồng nghiệp
rất quan tâm.
b. Những thuận lợi:
- Được sự chỉ đạo sâu sát của Ban Giám hiệu nhà trường về đổi mới

phương pháp dạy học
- Ban Giám hiệu mua nhiều phương tiện dạy học hiện đại để giáo viên sử
dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
- Nhà trường lắp mạng wifi nên các giáo viên có thể tìm kiếm tư liệu
giảng dạy để cung cấp cho học sinh ngay trong giờ học.
c. Những khó khăn
- Một số học sinh và phụ huynh quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng
của môn lịch sử ở Tiểu học.
- Do ảnh hưởng của thời kì hội nhập, của phim truyện nước ngoài, của
mạng Internet, của các trò chơi điện tử… đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều
học sinh ở lớp thiếu động cơ thái độ học tập, sao nhãng việc học hành nhất là bộ
môn lịch sử.
2.3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử lớp 5.
2.3.1 Biện pháp thứ nhất: Dạy học theo các dạng bài.
Kiến thức lịch sử ở Tiểu học không được trình bày theo một hệ thống chặt
chẽ mà chỉ chọn ra những sự kiện, hiện tượng nhân vật lịch sử tiêu biểu cho một
giai đoạn lịch sử nhất định đưa vào chương trình phân môn Lịch sử. Tuy vậy,
những kiến thức trong phân môn Lịch sử vẫn đảm bảo tính hệ thống và tính
logic của lịch sử ở mức độ nhất định.
Phân môn Lịch sử ở lớp 5 cũng không nằm ngoài cơ sở trên gồm 32 tiết
(trong đó có 29 tiết học với sách giáo khoa với các nhân vật lịch sử và sự kiện và
3 tiết lịch sử địa phương) Để học sinh dễ hiểu và nhớ lâu giáo viên cần dạy học
theo các dạng bài sau:
a. Bài học về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
Bài: Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Vượt qua tình thế thế hiểm nghèo.
Hậu phương những năm sau chiến dịch Biên giới.
Nước nhà bị chia cắt.
Hoàn thành thống nhất đất nước.
Để dạy tốt dạng bài này, GV cần thực hiện trình tự bài giảng theo các ý cơ

bản sau:
+ Phải mô tả được tình hình nước ta cuối thời kì hay sau thời kì đó như
thế nào? (hoàn cảnh đất nước, chính quyền, cuộc sống của nhân dân như thế
nào…?)
+ Trong hoàn cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã
làm gì, làm như thế nào?
+ Kết quả của những việc làm đó?
Chẳng hạn đối với bài 12: Vượt qua tình thế hiểm nghèo
5


Giáo viên phải giúp học sinh nắm được:
- Hoàn cảnh nước ta sau Cách mạng tháng 8 như thế nào? (khó khăn
chồng chất: Đế quốc và các thế lực phản động bao vây; nạn đói, nạn dốt…)
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gì để giải quyết nạn đói, nạn khó khăn về
tài chính, nạn dốt và giặc ngoại xâm? (lập hũ gạo cứu đói; tổ chức “ngày đồng
tâm”, kêu gọi tăng gia sản xuất, phát động “Tuần lễ vàng”; phát động phong trào
xóa nạn mù chữ; ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo…)
- Kết quả của những biện pháp đó? (từng bước đẩy lùi giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm.)
b. Bài học về sự kiện lịch sử
Bài: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập.
Lễ kí Hiệp định Pa-ri.
Để dạy tốt dạng bài này, GV cần thực hiện trình tự bài giảng theo các ý cơ
bản sau:
+ Phải nêu được hoàn cảnh lịch sử (lí do) diễn ra sự kiện lịch sử đó.
+ Diễn biến chính của sự kiện lịch sử đó (thời gian, địa điểm, diễn biến
các sự kiện lịch sử).
+ Kết quả, ý nghĩa.

Khi dạy các bài này giáo viên có thể sử dụng phương pháp truyền đạt, kể
chuyện, thảo luận, dùng sơ đồ tranh ảnh giúp học sinh khắc sâu các sự kiện lịch
sử. Việc sưu tầm tranh ảnh tư liệu là rất quan trọng để các em dễ hình dung, dễ
nhớ, nhớ lâu các sự kiện đó. Chính vì vậy học sinh phải sưu tầm tranh ảnh ở
nhà, đọc trước sách giáo khoa kết hợp với những tư liệu sưu tầm được hoặc do
giáo viên cung cấp để nắm vững được nội dung bài.
Chẳng hạn đối với bài 10: Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập
Bài giảng cần tiến hành theo trình tự sau:
- GV nêu lí do vì sao Bác đọc Tuyên ngôn độc lập (Hơn 20 vạn quân
Tưởng đang rập rình ở biên giới phía Bắc chuẩn bị tiến vào miền Bắc nhằm
đánh tan Việt Minh, giúp bọn phản động lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ
để thành lập Chính phủ bù nhìn. Ở miền Nam, quân viễn chinh Anh mượn cớ
tước khí giới quân đội Nhật, giúp Pháp sẽ tràn vào.)
- Quang cảnh HN ngày 2- 9- 1945: Giáo viên dùng tranh ảnh, băng hình
(Hà Nội tưng bừng cờ, hoa, tất cả mọi người tập trung về Quảng trường Ba Đình
nghe Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập).
- Diễn biến buổi lễ tuyên bố độc lập (dùng tranh ảnh yêu cầu Học sinh sắp
xếp theo diễn biến)
+ Buổi lễ bắt đầu lúc mấy giờ? (14 giờ)
+ Trong buổi lễ diễn ra sự việc chính nào? (Bác Hồ cùng các vị
trong Chính phủ lâm thời bước lên lễ đài chào nhân dân; Bác đọc Tuyên ngôn
Độc lập; Lễ ra mắt và tuyên thệ của các thành viên Chính phủ lâm thời).
+ Buổi lễ kết thúc khi nào? (Đến chiều buổi lễ kết thúc)

6


- Nội dung của bản Tuyên ngôn Độc lập: Cho Học sinh nghe băng (Khẳng
định quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Toàn thể dân tộc
Việt Nam sẽ quyết tâm giữ vững quyền tự do độc lập ấy).

- Ý nghĩa (Khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà).
c. Bài học viết về hoạt động của nhân vật lịch sử
Bài: Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định.
Nguyễn Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước.
Phan Bội Châu và phong trào Đông Du.
Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước.
Giáo viên cần lưu ý một số điểm cơ bản sau khi giảng dạy:
- Phải cho biết nhân vật lịch sử đó là người như thế nào? (Sinh ra khi nào?
Ở đâu? Làm gì? Có đặc điểm, tính cách gì nổi bật? Đời sống nội tâm, tư tưởng
tình cảm thế nào? Tài năng, đức độ ra sao?...)
- Phải tường thuật hay kể lại những hoạt động của họ để làm cơ sở cho
việc đánh giá khách quan công lao của các nhân vật đối với lịch sử. Khi kể lại
các hoạt động đó, giáo viên có thể kết hợp phân tích để học sinh hiểu sâu hơn
nội dung, bản chất sự kiện.
Trên cơ sở khai thác những nội dung đó, giáo viên tiến hành giáo dục tư
tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng
đối với nhân vật lịch sử một cách tự nhiên, có hiệu quả.
Thông thường với bài dạy này phương pháp chủ đạo là kể chuyện, miêu
tả, tường thuật kết hợp với đàm thoại để khắc sâu hình ảnh nhân vật trong tâm trí
học sinh.
Bên cạnh đó giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm tranh ảnh hoặc tư liệu về
cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử đó. Kết hợp với đọc sách giáo khoa
trước ở nhà để nắm được nội dung của bài mới về cuộc sống và sự nghiệp của
nhân vật lịch sử trước khi đến lớp. Những bài học lịch sử trong đó các nhân vật
có những lời đối thoại đắt giá thể hiện phẩm chất cao quí của nhân vật, học sinh
có thể tự đóng vai để diễn lại.
Ví dụ bài: Phan Bội Châu và phong trào Đông Du.
GV cần tiến hành theo các bước sau:
- Vài nét về Phan Bội Châu (Sinh năm 1867 trong một gia đình nhà nho
nghèo tại làng Đan Nhiệm nay là xã Xuân Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

- Phong trào Đông Du (Khởi xướng năm 1905 do Phan Bội Châu lãnh
đạo; mục đích là cử người sang Nhật học tập để đào tạo nhân tài cứu nước…)
- Kết quả (Phong trào Đông Du thất bại)
- Ý nghĩa (Đã cổ vũ, khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân ta)
d. Bài học về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng, chiến
dịch, phản công, tiến công.
Bài: Cuộc phản công ở kinh thành Huế.
Xô Viết – Nghệ Tĩnh.
Cách mạnh mùa thu.
Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước.
7


Thu - đông 1947, Việt Bắc "mồ chôn giặc Pháp".
Chiến thắng Biên giới thu – đông 1950.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Bến Tre đồng khởi.
Sấm sét đêm giao thừa.
Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không.
Tiến vào Dinh Độc Lập.
Dạng bài này chiếm tỉ lệ khá nhiều trong chương trình lịch sử tiểu học.
Với dạng bài này, giáo viên phải cho học sinh nắm được những vấn đề cơ bản
sau:
- Nguyên nhân (hoàn cảnh) dẫn đến cuộc khởi nghĩa (kháng chiến, chiến
dịch…)
- Diễn biến cuộc khởi nghĩa.
- Kết quả và ý nghĩa.
Hầu hết các bài này đều có lược đồ, bản đồ, giáo viên phải hướng dẫn học
sinh xác định và mô tả được vị trí, khu vực, địa bàn nơi diễn ra cuộc khởi
nghĩa… Đặc biệt là phải nêu được một số sự kiện chính của cuộc khởi nghĩa

trên lược đồ.
Phương pháp chủ đạo khi giảng dạy dạng bài này là giáo viên (hoặc học
sinh) tiến hành miêu tả, tường thuật kết hợp với đồ dùng trực quan để làm sống
dậy diễn biến của cuộc khởi nghĩa.
Ví dụ: Chiến thắng Biên giới thu – đông 1950
Giáo viên phải giúp học sinh nắm được:
- Căn cứ địa Việt Bắc trên bản đồ.
- Lí do ta quyết định mở chiến dịch Biên giới thu- đông 1950 (nhằm giải
phóng một phần biên giới, củng cố và mở rộng Căn cứ địa Việt Bắc, khai thông
đường liên lạc quốc tế)
- Diễn biến của chiến dịch Biên giới thu – đông (chỉ trên lược đồ)
+ Sáng 16 – 9 – 1950, ta nổ sung tấn công cụm cứ điểm Đông Khê.
+ Đến sáng 18 – 9 – 1950, quân ta chiếm cứ điểm Đông Khê.
+ Mất Đông Khê quân Pháp ở Cao Bằng rút quân theo đường số 4,
đồng thời chúng đem lực lượng tiến lên chiếm lại Đông Khê. Sau nhiều ngày
đêm giao chiến quân Pháp đóng quân trên đường số 4 phải rút chạy.
- Kết quả: Giải phóng một số thị xã và thị trấn; làm chủ 750km trên giải
biên giới Việt Trung; căn cứ địa Việt Bắc được củng cố và mở rộng.
- Ý nghĩa: Căn cứ địa Việt Bắc được củng cố và mở rộng; từ đây ta nắm
quyền chủ động trên chiến trường.
e. Bài học viết về thành tựu xây dựng đất nước
Bài: Nhà máy hiện đại đầu tiên của nước ta
Đường Trường Sơn
Hoàn thành thống nhất đất nước
Xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình

8


Nội dung kiến thức của mỗi bài khác nhau song về cơ bản chúng ta có thể

tiến hành giảng dạy theo một cấu trúc chung như sau:
- Vì sao nhà nước (Đảng, Chính phủ) phải tiến hành hoạt động xây dựng
đó? Hoạt động đó nhằm mục đích gì?
- Mô tả hoạt động (quá trình đó diễn ra như thế nào?)
- Kết quả (thành tựu, vai trò, ý nghĩa của hoạt động đó đối với đất nước.)
Phương pháp chủ đạo khi giảng dạy dạng bài này là giáo viên truyền đạt
hoặc thảo luận, hỏi đáp.
Ví dụ bài 21: Nhà máy hiện đại đầu tiên của nước ta các ý chính cần
được khắc họa cho học sinh đó là:
+ Vì sao Đảng - Chính phủ quyết định xây dựng nhà máy cơ khí Hà Nội?
(miền Bắc bước vào thời kì xây dựng CNXH và trở thành hậu phương lớn cho
miền Nam; cần trang bị máy móc cho sản xuất ở miền Bắc…)
+ Quá trình xây dựng nhà máy diễn ra như thế nào? (thời gian thi công,
địa điểm xây dựng, thời gian khánh thành, quy mô…)
+ Thành tựu, vai trò, ý nghĩa của nhà máy đối với công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc? (nhiều sản phẩm máy phay, máy tiện, máy khoan, tên lửa… ra
đời, góp phần quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc).
g. Các dạng bài ôn tập, tổng kết.
Loại bài này không phải là loại bài cung cấp kiến thức mới mà là loại bài
học nhằm hệ thống hóa và củng cố lại những kiến thức đã học cho học sinh sau
mỗi thời kì (các giai đoạn lịch sử), giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản,
nhận thức lịch sử một cách sâu sắc, toàn diện hơn, đồng thời chuẩn bị tốt cho
kiểm tra, thi cử.
Để dạy tốt các bài này, mở đầu bài học Giáo viên nêu nhiệm vụ cần phải
giải quyết của bài rồi tiến hành tổ chức cho học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn
của giáo viên. Trong tiến trình bài học, giáo viên phải thu hút tất cả học sinh vào
công việc, phát huy cao nhất tính tích cực của học sinh trong việc trao đổi những
câu hỏi mà giáo viên đặt ra, thực hiện các công việc như vẽ sơ đồ, lập bảng niên
biểu, thống kê, tìm các dẫn chứng… Đây là yêu cầu quan trọng để phát triển tư
duy, rèn luyện kĩ năng thực hành bộ môn.

Thông thường đối với dạng bài này, giáo viên vận dụng tổng hợp nhiều
phương pháp (phân tích, tổng hợp, khái quát hóa) kết hợp với vấn đáp, tìm tòi,
tổ chức làm việc theo nhóm học sinh. Tùy từng nội dung cụ thể trong bài mà
giáo viên lựa chọn phương pháp cho phù hợp.
2.3.2. Biện pháp thứ hai: Tích cực hóa hoạt động của học sinh trong
dạy học.
Với nội dung kiến thức lịch sử như vậy là vừa tầm với học sinh ở lứa tuổi
lớp 5. Tuy nhiên, thực tế cho thấy học sinh học môn Lịch sử thường tiếp thu một
cách thụ động do đa số giáo viên chỉ dùng một phương pháp đã cũ là thuyết
trình cốt sao cho học sinh chỉ cần nhớ tên nhân vật và sự kiện lịch sử là đủ.
Chính vì vậy học sinh không hứng thú trong các giờ lịch sử và đặc biệt không
hình dung được sinh động về các sự kiện lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa.
9


Từ đó dễ tạo cho các em có thói quen ỷ lại, thụ động, dễ quên và trì trệ trong tư
duy. Vì vậy khi hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức môn lịch sử như thế nào
để phát huy được tính tích cực của học sinh là một điều mà tôi và các đồng
nghiệp rất quan tâm.
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong phân môn lịch sử lớp 5 thì
việc lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là rất quan
trọng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp với từng bài, với
từng đối tượng học sinh sao cho học sinh phải tự khám phá ra kiến thức (dưới sự
hướng dẫn của Giáo viên) vì hoạt động của trò là quá trình tự giác, tích cực, tự
vận động, nhận thức và phát triển nhưng phải được sự điều khiển của Giáo viên.
Tích cực hóa hoạt động của học sinh trong dạy học có thể theo các bước sau:
a. Yêu cầu Học sinh chuẩn bị sưu tầm tư liệu, tranh ảnh, bản đồ, lịch sử:
Như trên đã trình bày, một trong những phương pháp dạy học không thể
thiếu được khi dạy phân môn Lịch sử là phương pháp trực quan. Những phương
tiện trực quan được sử dụng nhiều để dạy môn lịch sử là:

Tranh ảnh; Bản đồ lịch sử; Các phương tiện nghe nhìn; Di tích lịch sử;
Nhà bảo tàng lịch sử và một số nhà bảo tàng khác.
Giáo viên cần đối chiếu với những phương tiện mà nhà trường đã trang bị
để giáo viên và học sinh chủ động trong bài dạy, cùng phối kết hợp với học sinh
trong việc sưu tầm, đóng góp cho nhà trường. Việc học sinh sưu tầm các tranh
ảnh, tư liệu lịch sử bước đầu giúp các em nắm được những kiến thức sơ giản có
liên quan đến bài học.
Ví dụ khi dạy bài: Chiến thắng Biên giới thu đông 1950, tôi yêu cầu
học sinh chuẩn bị sưu tầm tranh ảnh, bài viết liên quan đến chiến dịch Biên giới
theo các mảng:
Tổ 1: Những hình ảnh về Bác Hồ trong chiến dịch.
Tổ 2: Hình ảnh bộ đội, dân công tham gia chiến dịch.
Tổ 3: Những tấm gương của quân, dân ta trong chiến dịch.
Tổ 4: Hình ảnh về tù binh địch và lòng nhân đạo của bộ đội ta.
b. Dạy học theo nhóm.
Công cuộc cải cách phương pháp dạy học đã được tiến hành từ rất lâu ở
nước ta, với những phương pháp mới mẻ trong quá trình dạy học, trong đó có
một phương pháp dạy học hiện đại đã và đang được thực hiện phổ biến trên thực
tế, đó là dạy học theo nhóm. Hoạt động học tập theo nhóm, cùng lúc học sinh
phải tiến hành 3 nhóm hoạt động học tập là: học tập, tổ chức và giao tiếp. Vì
vậy, trong hoạt động học tập theo nhóm, học sinh có thể đạt được nhiều mục tiêu
cùng một lúc. Ngoài kết quả về học tập, học sinh còn hình thành năng lực hoạt
động thực tiễn, năng lực hoạt động hợp tác, đời sống tình cảm của học sinh cũng
được phát triển trên cơ sở sự chia sẻ, đồng cảm, giúp đỡ nhau trong học tập.
Chính vì vậy, việc dạy học hợp tác theo nhóm là hết sức cần thiết đối với phân
môn lịch sử, nó giúp học sinh nhớ bài lâu, các em có thể cung cấp thông tin của
mình cho các bạn trong nhóm cùng biết.
Việc dạy học chia nhóm được chia làm ba bước sau:
10



+ Bước 1: Giáo viên dựa trên nội dung các kiến thức cần truyền thụ cho
học sinh, đề ra nhiệm vụ nghiên cứu, giải quyết vấn đề, có thể là câu hỏi hoặc
yêu cầu hoạt động. Các chỉ dẫn cần thiết được đưa ra phù hợp với trình độ nhận
thức của học sinh.
+ Bước 2: Thảo luận theo nhóm để giải quyết vấn đề. Việc thảo luận này
phải đạt được mục đích là mọi thành viên trong nhóm đều phải hiểu được vấn đề
và biết giải quyết vấn đề, sao cho khi giáo viên kiểm tra, hoặc nhóm khác kiểm
tra mọi thành viên đều phải trả lời được, trong quá trình thảo luận, các nhóm có
thể trao đổi với nhau, với giáo viên.
+ Bước 3: Kiểm tra, đánh giá, thể thức hoá các tri thức thu nhận. Đây là
công việc của giáo viên. Trong bước này các học sinh trong lớp có thể đặt ra các
vấn đề để cùng nhau giải quyết. Cuối buổi học giáo viên có những nhận định,
đánh giá về thái độ làm việc, kết quả thu được, và kết luận về những kiến thức.
Ví dụ khi dạy bài: Nước nhà bị chia cắt
Để biết vì sao đất nước ta, nhân dân ta phải đau nỗi đau chia cắt:
- Bước 1: Giáo viên yêu cầu Học sinh đọc sách giáo khoa thảo luận theo
nhóm 4 theo 3 câu hỏi:
+ Sau khi Hiệp định Giơ – ne – vơ được kí kết, Mĩ có âm mưu gì?
+ Nêu dẫn chứng về việc đế quốc Mĩ cố tình phá hoại hiệp định Giơ–nevơ?
+ Những việc làm của đế quốc Mĩ đã gây ra hậu quả gì cho dân tộc ta?
- Bước 2: HS thảo luận nhóm
- Bước 3: Đại diện các nhóm trình bày, nhóm khác bổ sung kết quả.
Giáo viên chốt ý đúng.
2.3.3. Biện pháp thứ ba: Đưa công nghệ thông tin vào dạy học lịch sử.
Như chúng ta đã biết năm học 2008 – 2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
xác định chủ đề năm học là “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới
quản lí tài chính và triển khai phong trào xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, các trường đã
triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở tất cả các môn. Đối

với phân môn Lịch sử có nhiều ưu thế và sở trường trong việc ứng dụng công
nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả của bài học. Giáo viên có thể ứng dụng
công nghệ thông tin trong quá trình dạy lịch sử như sau:
a. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc kiểm tra kiến thức bài cũ.
b. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy bài mới.
c. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc củng cố bài.
Đặc trưng cơ bản của môn lịch sử là tái hiện lại những gì đã diễn ra trong
quá khứ. Chính vì vậy khi học lịch sử học sinh phải có được những biểu tượng,
hình ảnh về sự kiện, con người trong quá khứ. Với sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin, giáo viên có thể thiết kế, trình chiếu các loại kênh hình (tranh ảnh,
video, đoạn tư liệu, lược đồ…) có liên quan đến bài học giúp học sinh nắm vững
các kiến thức đã học.
Ví dụ khi dạy bài: Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập
11


Phần bài mới :
Hoạt động 1: Để tái hiện lại quang cảnh ngày 2 – 9- 1945 ở Hà Nội tôi
cho học sinh xem đoạn băng về quang cảnh buổi lễ và 4 bức ảnh về quang cảnh
buổi lễ. Từ đó Học sinh có thể hình dung ra và nêu lại được quang cảnh Hà Nội
ngày 2 – 9- 1945

Quang cảnh: Hà Nội từng bừng màu đỏ, cờ, hoa và biểu ngữ
Dòng người từ khắp các ngả tập trung về Quảng trường Ba Đình
Đội danh dự đứng nghiêm trang xung quanh lễ đài mới dựng
Hoạt động 2: Lễ tuyên bố độc lập
Giáo viên đưa ra các bức ảnh yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa để
sắp xếp lại các bức ảnh theo diễn biến của buổi lễ. Kết quả sắp xếp:
Đúng 14 giờ buổi lễ bắt đầu.
Bác Hồ cùng các thành viên Chính phủ bước lên lễ đài chào nhân dân.

Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập.
Lễ ra mắt và tuyên thệ của các thành viên Chính phủ lâm thời trước quốc
dân đồng bào.
Đến chiều buổi lễ kết thúc.

12


Hoạt động 3: Nội dung của Bản Tuyên ngôn độc lập.
Cho Học sinh nghe lại Bác Hồ đọc 2 đoạn trích của Bản Tuyên ngôn
độc lập
Đoạn 1: “Hỡi đồng bào cả nước,…….hạnh phúc”.
Đoạn 2: “Nước Việt Nam,…….độc lập ấy”.
và hỏi nội dung:
Bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định điều gì?
Phần củng cố:
Để giúp Học sinh khắc sâu hơn về bài học và những địa điểm có liên
quan đến sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập tôi đưa ra các bức ảnh và
các câu hỏi sau:

13


Bạn hãy cho biết bức ảnh này nói tới địa danh nào? Ở đâu? Có liên quan tới sự
kiện gì?
2.4. Những kết quả của quá trình thực hiện kinh nghiệm:
a. Kết quả về điểm số:
Qua số liệu thống kê thì lớp 5A sau một thời gian thực hiện kinh nghiệm
trong giảng dạy, chất lượng của học sinh so với đầu năm học về môn Lịch sử
hiện nay đã tiến bộ rõ rệt. Các bài kiểm tra đột xuất hay báo trước điểm của các

em đều đạt từ 8 trở lên. Cụ thể điểm thi môn Lịch sử - Địa lí của các con học kì I
như sau:
Sĩ số

Điểm 9;10

Điểm 7; 8

Điểm 5; 6

Điểm 3; 4

33

28

5

0

0

b. Kết quả về tình cảm với bộ môn:
Trước đây, lớp tôi các em rất sợ khi đến giờ Lịch sử và không thích học.
Còn bây giờ các em chờ đón được học một tiết sử hiếm hoi trong tuần với tất cả
lòng nhiệt tình và hào hứng của mình. Cụ thể:

14



Sĩ số
33

Số HS thích học môn Lịch sử Số HS không thích học môn Lịch sử
33

0

2.5. Bài học kinh nghiệm:
Học sử không phải để nhồi nhét vào trí nhớ một cách vô cảm những sự
kiện, con số, ngày tháng, mà học sử để sống và rung động với sự kiện lịch sử.
Học sử để rút ra những bài học về nhân văn, về lòng yêu nước, theo phương
châm học để hiểu và hành. Học để đáp ứng những yêu cầu cuộc sống hiện tại và
tương lai. Tôi thiết nghĩ chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm về đổi mới dạy - học
môn Lịch sử ở các trường. Những kinh nghiệm này cần tiếp tục được tập hợp,
phổ biến và nhân rộng như: Tiếp tục sử dụng hợp lí các phương pháp dạy học
Lịch sử, đảm bảo đặc trưng bộ môn và gây hứng thú cho học sinh; gây xúc cảm
và giáo dục tư tưởng cho học sinh qua từng tiết học Lịch sử.
Mặt khác người giáo viên cần nắm vững chương trình; nắm vững đặc
trưng phương pháp bộ môn. Mỗi tiết học giáo viên cần sưu tầm tư liệu, tranh
ảnh để minh họa, chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc dạy học. Có như vậy thì thầy
cũng nhàn mà học sinh cũng hứng thú, tạo hiệu quả cao trong những tiết Lịch
sử.
Bên cạnh đó việc đảm bảo sự cân đối giữa hoạt động của giáo viên và học
sinh trong giờ học trong đó đặc biệt coi trọng việc thiết kế các hoạt động nhận
thức độc lập của học sinh. Tiếp tục phấn đấu theo hướng giảm phần thuyết trình
của giáo viên để học sinh được hoạt động nhiều hơn; tiếp tục làm phong phú
những kinh nghiệm rèn kĩ năng học tập bộ môn cho học sinh, kinh nghiệm tổ
chức những tiết ôn tập. Đồng thời cũng cần phổ biến rộng rãi những kinh
nghiệm biên soạn và dạy giờ học Lịch sử địa phương, dạy học qua ứng dụng

công nghệ thông tin…
Nếu làm được như vậy thì chúng ta sẽ gặt hái được kết quả đáng kể hơn
trong việc dạy và học, đặc biệt đối với môn Lịch sử - Địa lí phần Lịch sử, môn
học góp phần hình thành phẩm chất con người Việt Nam theo 5 điều Bác Hồ dạy
đối với thiếu nhi.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Bậc tiểu học là bậc quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành
và phát triển nhân cách của học sinh, trên cơ sở cung cấp tri thức ban đầu về tự
nhiên, xã hội trong cuộc sống thông qua các môn học. Thầy và trò chúng ta là
những lớp hậu sinh trong lịch sử. Người thầy phải khơi dậy và truyền lửa cho
học sinh đảm bảo sự kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc và làm nổi bật
được những đặc trưng riêng của phân môn lịch sử mà những môn học khác
không có được.

15


Để có được những lớp thanh niên trưởng thành đầy đủ nhân cách. Người
giáo viên phải không ngừng trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo
đức. Vì "Cây tốt sẽ sinh trái tốt". Nhu cầu phát triển của xã hội nói chung,
nghành giáo dục nói riêng đòi hỏi chúng ta không ngừng học tập, vươn lên nâng
cao tri thức để xứng đáng với sứ mệnh cao cả “trồng người” của đất nước mai
sau.
Xem thường việc nghiên cứu và giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ chắc chắn
là một sai lầm nghiêm trọng, mà tai họa của nó sẽ không sao lường hết được.
Phải có sự thay đổi mang tính cách mạng về quan niệm đối với môn Lịch sử.
Phải có quan niệm đúng về bộ môn Lịch sử từ các cấp quản lý giáo dục đến cha
mẹ học sinh và toàn xã hội. Không có quan niệm đúng về môn học thì tất cả
những đề xuất về đổi mới nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy

học bộ môn đều không thể thực hiện được.
3.2. Kiến nghị:
Tôi thấy rằng đồ dùng dạy học cho môn Lịch sử là rất cần thiết. Vì vậy Sở
và Bộ cần tạo điều kiện trang bị cho nhà trường các bộ tranh ảnh lịch sử dạng
dùng cho tiểu học, có các loại lược đồ, băng hình, tư liệu…. giúp cho học sinh
học tốt hơn môn lịch sử vì đây là môn học giúp học sinh “Tìm về cội nguồn dân
tộc”.
Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được trong nhiều năm
giảng dạy môn Lịch sử lớp 5, phần nào đã đáp ứng được yêu cầu của bộ môn Tự
nhiên Xã hội nói chung và phân môn Lịch sử nói riêng. Song những kết quả đạt
được chỉ là bước đầu. Tôi rất mong được sự góp ý của các ban ngành và các
đồng nghiệp để sao cho việc dạy học môn Lịch sử ngày càng hoàn thiện, góp
phần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo trong trường Tiểu học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoằng Lộc, ngày 20 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Phương

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Lịch sử - Địa lí lớp 5

2. Sách GV Lịch sử - Địa lí lớp 5

17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Phương
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Lê Mạnh Trinh Hoằng Lộc - Hoằng Hóa - Thanh Hóa

TT
1
2
3
4
5
6
7
8

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp dạy Luyện từ và
câu ở lớp 4
Dạy học sinh lớp 5 viết bài Tập làm
văn đạt kết quả tốt
Rèn luyện khả năng kể chuyện cho
học sinh lớp 4

Kinh nghiệm dạy giải toán tính
phần trăm cho học sinh lớp 5"
Thiết kế trò chơi trong dạy chính
tả ở tiểu học
Kinh nghiệm dạy cảm thụ văn học
ở tiểu học
Một số biện pháp giúp HS lớp 5
phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa
Một số biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học phân môn Tập làm
văn lớp 5 - thể loại văn miêu tả

Cấp
đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

B

2006 - 2007

C


2007 - 2008

C

2008 - 2009

C

2009 - 2010

B

2010 - 2011

A

2011 - 2012

Phòng
GD&ĐT

A

2012 - 2013

Phòng
GD&ĐT

A


2014 - 2015

Sở
GD&ĐT
Sở
GD&ĐT
Sở
GD&ĐT
Sở
GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT

18



×