Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn một số bện pháp đẩy mạnh phong trào giỏi việc nước, đảm việc nhà ở công đoàn cơ sở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.33 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU.

1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lí luận.
2.2. Thực trạng
2.3. Các giải pháp
2.3.1. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn và cán bộ làm công tác nữ
công
2.3.2. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong đội ngũ nữ CB-GVNV
2.3.3. Xây dựng đội ngũ nữ CBGV – CNV trong nhà trường “Giỏi việc
trường”
2.3.4. Xây dựng đội ngũ nữ CBGV – CNV trong nhà trường “ Đảm việc
nhà”
2.3.5. Duy trì các hoạt động và thường xuyên tổ chức các hội thi, giao lưu
với hình thức và nội dung phong phú, hấp dẫn tạo khí thế thi đua sôi nổi
thực hiện phong trào.
2.3.6.Thường xuyên quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho
nữ CBGV - NV.
2.3.7. Động viên khen thưởng kịp thời và nêu gương các điển hình tiên
tiến trong các phong trào.
2.4. Hiệu quả.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị



Trang
1
2
2
2
2
2
3
3
5
5
5
6
6
8
8
13
14
17
17
18

1


1. MỞ ĐẦU
1. 1.Lí do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết, “Giỏi việc trường - đảm việc nhà” là một trong
những phong trào thi đua trong cán bộ - giáo viên - công nhân viên ngành Giáo

dục. Công đoàn ngành phối hợp chặt chẽ với nhà trường tổ chức chỉ đạo thực
hiện các phong trào, các cuộc vận động nhằm từng bước nâng cao nhận thức cho
CBGV - CNV lao động, phù hợp với các yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất
nước. Trong những năm qua, phong trào đã được triển khai ở các cơ quan đơn vị
trường học và đã được đông đảo chị em phụ nữ ngành giáo dục hưởng ứng. Có
thể nói, phong trào đã thực sự đi vào đời sống của đội ngũ nữ cán bộ giáo viên,
nhân viên, tạo điều kiện cho chị em phấn đấu vươn lên về mọi mặt, quyết tâm
khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cấp trên giao cho. Phong
trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” đã góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi
mới giáo dục và tạo dựng nên phong cách, lối sống chuẩn mực của nữ nhà giáo.
Vì mang tính đặc thù giới sâu sắc nên phong trào đã phát huy được vai trò, tiềm
năng to lớn của nữ cán bộ giáo viên nhân viên ngành giáo dục trong quá trình
công tác cũng như trong xây dựng hạnh phúc gia đình.
Trường Tiểu học nơi tôi công tác, CBGV - NV năm học 2016 - 2017, số
lượng đoàn viên nữ 32/33 chiếm tới 96,9%. Đây là lực lượng quan trọng, lực
lượng chính trong nhà trường. Tôi nhận thấy, nhà trường có hoàn thành được
nhiệm vụ hay không phụ thuộc rất lớn vào lực lượng lao động nữ này. Thế nhưng,
trong số đó, có tới 2/3 số chị em là vợ bộ đội. Vì đặc thù công việc, các anh hay
phải công tác xa nhà, nay đây mai đó. Do nhiệm vụ bảo vệ đất nước, các anh ít có
thời gian hỗ trợ chị em trong công việc gia đình. Thực sự các chị rất vất vả, nhất
là những chị em đang còn trẻ, trong độ tuổi sinh nở, con còn nhỏ, bố mẹ (chồng),
vợ ở xa hoặc đã già yếu. Và chính bản thân tôi cũng có chồng là bộ đội nên tôi
hiểu hơn ai hết nỗi vất vả của các chị. Khó khăn đặt ra là các chị phải giải quyết
sao cho mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu ngày càng cao về chuyên môn với
một bên là thiên chức làm vợ, làm mẹ không ai thay thế được, để vừa “Giỏi việc
trường”, vừa “Đảm việc nhà”. Đa số nữ CBGV thường có không ít đắn đo cân
nhắc giữa gia đình và sự nghiệp, ít có sự phấn đấu trong phong trào chung.Việc
đẩy mạnh được phong trào “ Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” trong đội ngũ
CBGV - NV nhà trường còn gặp trở ngại. Nhưng tôi - một phó hiệu trưởng kiêm
công tác chủ tịch công đoàn, đã sớm ý thức được tầm quan trọng của chị em, của

phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”; Ý thức được rằng để trở
thành người phụ nữ vừa “Giỏi việc trường” vừa “Đảm việc nhà” không phải chỉ
một sớm một chiều mà là cả một quá trình phấn đấu không ngừng, trong đó sự
nhận thức đúng đắn về phong trào là điều cực kì quan trọng.
Với bề dày gần 20 năm trong BCH trong đó 13 năm là Chủ tịch công đoàn, bản
thân tôi đã trăn trở, suy nghĩ nhiều về việc khắc phục những khó khăn trong công
đoàn nhà trường nhằm nâng cao chất lượng phong trào “hai giỏi” của công đoàn
ngành đề ra. Xuất phát từ những lí do trên, đầu năm học 2014 - 2015, tôi đã quyết
tâm chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động công đoàn cơ sở trong phong
trào thi đua “ Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” ở Trường Tiểu học” để đầu tư
nghiên cứu.

2


1.2. Mục đích nghiên cứu.
Từ thực tế công tác chỉ đạo hoạt động phong trào “Giỏi việc trường - Đảm
việc nhà” của công đoàn nhà trường, tôi muốn nghiên cứu để tìm ra những biện
pháp hữu hiệu, cách làm khả quan để nâng cao tầm nhận thức của chị em về bản
chất của phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”, nâng cao chất
lượng công việc của chị ở trường cũng như ở nhà, nâng cao chất lượng của
phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” ở đơn vị mình. Đó là những điều
tôi muốn đạt được trong đề tài này.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu những yêu cầu đề ra của phong trào thi
đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” ; nghiên cứu thực trạng cuộc sống của
chị em, thực trạng công việc của chị em, thực trạng của phong trào thi đua “Giỏi
việc trường - Đảm việc nhà” trong đơn vị mình. Từ đó, tôi nghiên cứu những
điểm mạnh - yếu, những thuận lợi khó khăn, nghiên cứu tâm lí của mỗi đoàn
viên nữ. Đối tượng của tôi còn hướng đến là những việc làm thiết thực nâng cao

chất lượng công tác cũng như đời sống của chị em. Những việc làm ấy còn là để
nâng cao chất lượng phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp khảo sát;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp đối chứng;
- Phương pháp thống kê.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
Để thực hiện tốt phong trào thi đua “ Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”,
trước hết bản thân và mỗi CBGV - CNV trong nhà trường cần hiểu:
* Mục tiêu phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”. Đó là:
- Động viên nữ CBGV - NV trong công đoàn nhà trường phát huy tài năng trí
tuệ, công sức, kinh nghiệm giảng dạy góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược
phát triển giáo dục giai đoạn 2010 - 2020, và đặc biệt là giáo dục của địa phương
trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Xây dựng hình ảnh người phụ nữ trong công đoàn nhà trường theo 5 tiêu
chí: “Yêu nước; Có trình độ chuyên môn vững vàng, năng động, sáng tạo và
hoàn thành tốt công tác được giao; Có sức khỏe; Có lối sống văn hóa và tấm
lòng nhân hậu; Quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng”, giữ vững phẩm chất
đạo đức cách mạng, lối sống trong sáng, giản dị, lành mạnh của nhà giáo.
- Vận động chị em lao động tích cực, tham gia các phong trào, các cuộc vận
động, xây dựng tập thể, xây dựng công đoàn nhả trường đoàn kết, phát triển
vững mạnh. Xây dựng gia đình nhà giáo theo tiêu chí “no ấm, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc”.
* Nội dung phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”
Bản thân giúp chị em trong công đoàn nhà trường hiểu được nội dung của
phong trào. Đó là:


3


- Cần phải thi đua giảng dạy và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với hiệu quả,
chất lượng cao.
- Động viên chị em tích cực học tập, không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn và bản lĩnh chính trị đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục và
hội nhập; chủ động tham gia đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ở tất các
các môn học. Quan tâm và tạo môi trường thuận lợi cho chị em học tập, rèn
luyện phấn đấu trở thành người phụ nữ có tri thức, giàu nghị lực, sẵn sàng phục
vụ sự nghiệp giáo dục phát triển toàn diện.
- Tích cực tham gia công tác quản lý và nghiên cứu khoa học, nhiệt tình trong
công tác đoàn thể, công tác xã hội hóa giáo dục, đoàn kết xây dựng nhà trường,
đơn vị đạt tiêu chuẩn cơ quan văn hóa.
- Tổ chức tốt cuộc sống gia đình, nuôi dạy con ngoan, học giỏi, nghiêm túc thực
hiện pháp lệnh dân số, kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình với chuẩn
mực “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Tích cực tham gia phòng chống
các tệ nạn xã hội và HIV/AIDS.
- Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện, đền ơn đáp nghĩa,
ủng hộ giáo dục ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
2.2. Thực trạng.
Đầu năm học 2014 - 2015, công đoàn trường tôi có 37 đoàn viên.
Trong đó đoàn viên nữ : 37 ( chiếm 100%). Cụ thể;

Đối tượng

SL

ĐH


CBQL
GVVH
GVđặc thù
TV-TB
Kế toán
Tổng

3
24
8
1
1
37

Trình độ
quản lý

Trình độ CM

Đảng
viên



T.C

3
16
2


3
19
6

3
1

2
1
1

21

1
28

4

5

Trình độ
chính trị
Cao
cấp

QLGD

2/3


Tr. cấp


cấp

2

2

0

2

Đang
đi học

1
3

0

4

Kết quả công tác chuyên môn và các phòng trào của công đoàn nhà trường
năm học trước như sau:
GV giỏi

CSTĐ

Trường

4

17

ĐV
xuất
sắc

GVTĐVN

Gia
đình
NGVH

23
62,3%

23
62,3%

34
91,9%

SKKN

Huyện

Tỉnh

2/3


0

Huyện

Học sinh giỏi
Tỉnh

6

4


Kinh tế gia đình
hiếu
Khó
học Giàu Khá
TB
khăn
0

2
5,4%

15
18
40,6% 48,6%

2
5,4%


Huyện

Tỉnh

32

0

Con CBGV
đạt HS giỏi
Trường

Huyện

17/22
=77,2%

3/5
60%

Tỉnh

Đậu
ĐH
2/2
100%

4



2.1.1 Về trình độ, nhận thức.
Đầu năm học 2014 - 2015, công đoàn nhà trường có 28/37 chị em có trình
độ đại học, 9 chị em có trình độ cao đẳng, trung cấp nhưng đang trong thời gian
đi học nâng cao trình độ chuyên môn lên đại học. Xét về chuyên môn thì đại đa
số chị em có trình độ trên chuẩn. Tuy nhiên, do các chị em đang còn có cách
sống bằng lòng với hiện tại: ngày hai buổi đến trường, không tham quan, học
hỏi, trau dồi thêm hiểu biết về cuộc sống. Vì vậy, kiến thức xã hội của các chị
còn hạn hẹp gói gọn trong chương trình đủ để dạy học khối lớp mình đảm
nhiệm, kĩ năng ứng phó với những tình huống trong các tiết dạy còn chưa cao.
Công việc gia đình: một số chị em tổ chức cuộc sống gia đình chưa khoa
học, sắp xếp bố trí thời gian các công việc chưa hợp lý, chưa chú ý tới việc nâng
cao chất lượng cuộc sống cho gia đình cũng như sức khỏe của chính bản thân mình.
Một số chị em kĩ năng giao tiếp ứng xử ngoài xã hội, với đồng nghiệp, với
phụ huynh học sinh và trong gia đình vẫn chưa mang tính sư phạm...Một phần
đó cũng do nhận thức của một bộ phận nhỏ giáo viên và áp lực của công việc.
Một bộ phận đoàn viên có trình độ nhận thức về tư tưởng chính trị, đường
lối của Đảng và Nhà nước còn hạn chế. Từ đó dẫn đến việc chấp hành các nội
quy, quy định của khu phố, thôn xóm nơi mình cư trú còn chưa tốt.
2.2.2. Về chuyên môn.
Thực tế về bằng cấp, đã có trên 2/3 chị em có trình độ đại học. Tuy nhiên,
do quá trình bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, các chị tham gia các
lớp tại chức vừa học, vừa làm nên kết quả kiến thức, kĩ năng và phương pháp chị
em lĩnh hội được chưa cao.
Về kiến thức chuyên môn, nhiều chị em còn chưa thực sự vững chắc.
Trong nhiều kì kiểm tra giáo viên giỏi cấp trường, còn nhiều chị em đạt điểm
chưa cao. Điều đó chứng tỏ kiến thức của chị em còn hạn chế. Đa số, chị em chỉ
nắm được kiến thức của chương trình khối lớp mình dạy chứ chưa có kiến thức
mang tính hệ thống cả cấp học. Nhiều chị em, trong khi dạy còn chưa hiểu được
dụng ý của sách, chưa khai thác triệt để kênh hình, kênh chữ trong sách giáo

khoa cũng như việc liên hệ thực tế trong bài dạy
Về phương pháp, nhiều chị em chưa nắm vững phương pháp, hình thức tổ
chức lớp cho phù hợp. Trong nhiều tiết dạy, chị em mắc lỗi những sơ giản trong
truyền đạt kiến thức, sử dụng phương truyền thống, giáo viên nói, học sinh nghe,
làm thay học sinh, áp đặt kiến thức cho học sinh. Nhiều chị còn lúng túng khi sử
dụng các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính cực của
học sinh.
Kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy
học có những chuyển biến đáng kể nhưng chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong thời kì đổi mới hiện nay. Một số chị chỉ mới biết soạn giáo án
bằng máy tính chứ chưa tiếp cận được với việc soạn giáo án điện tử và sử dụng
máy chiếu đa năng cũng như truy cập Intenet phục vụ công tác giảng dạy cũng
như các nhu cầu cần thiết khác.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.

5


2.3.1. Xấy dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn và cán bộ làm công
tác nữ công.
Để chỉ đạo tốt phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” nói riêng
cũng như các phong trào thi đua trong nữ CBGV - NV nói chung nhằm đáp ứng
được với các chuẩn mực của người phụ nữ ngành giáo dục trong thời kì CNH,
HĐH đất nước, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ công đoàn năng động, nhiệt
tình, có chuyên môn và có sức khỏe tốt. Vì vậy, ngay từ Đại hội công đoàn
nhiệm kì 2013 - 2018, công đoàn nhà trường đã lựa chọn những người có năng
lực, tâm huyết, gương mẫu và có uy tín cao để bầu vào BCH công đoàn và sau
đó lựa chọn những nữ CBGV - NV có uy tín với đồng nghiệp, biết tranh thủ sự
ủng hộ, biết lắng nghe và nắm bắt tâm tư nguyện vọng của chị em... để bầu vào
ban nữ công, các tổ trưởng, tổ phó công đoàn.

Để làm tốt được công tác nữ trong nhà trường, bản thân tôi xin ý kiến chỉ
đạo của chi ủy, chi bộ nhà trường mở các buổi tập huấn, bồi dưỡng cho chị em
trong Ban nữ công để chị em nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phương
pháp tổ chức các hoạt động nữ công... Đồng thời giúp họ hiểu rõ về nội dung
phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”, nắm vững các tiêu chuẩn
thi đua, các chuẩn mực của người phụ nữ ngành giáo dục trong thời kì CNH,
HĐH đất nước với tổng số 04 buổi. Sau khi tập huấn, nhận thức của chị em đã
được nâng lên, chị em đã hiểu được nội dung và làm việc tốt hơn. Sau đó, tôi chỉ
đạo Ban nữ công xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể, phù hợp theo
từng năm học, từng học kì; tổ chức triển khai cho đội ngũ CBGV - CNV trong
nhà trường cách tổ chức thực hiện các phong trào sao cho có hiệu quả.
Ngoài ra, căn cứ vào chương trình công tác của Công đoàn Giáo dục huyện
và đặc điểm tình hình đơn vị, tôi cùng với BCH Công đoàn chỉ đạo Ban nữ công
phối hợp với Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ tổ chức thực hiện phong trào “Giỏi việc
trường - Đảm việc nhà” lồng ghép với các phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao
động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức,
tự học và sáng tạo”. Qua đó, chị em hiểu rõ về mối quan hệ giữa các phong trào,
các cuộc vận động nhằm thực hiện tốt hoạt động công đoàn nhà trường.
Để đội ngũ BCH làm tốt công tác công đoàn trong nhà trường, bản thân đã
chủ động trích kinh phí mua thêm các tài liệu liên quan đến hoạt động công đoàn
và công tác nữ công để cán bộ công đoàn, ban nữ công bổ sung thêm kiến thức,
giúp họ tổ chức tốt các phong trào thi đua trong nhà trường.
2.3.2. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong đội ngũ nữ cán bộ giáo
viên nhân viên.
Để giúp chị em hiểu, thực hiện tốt phong trào “Giỏi việc trường - đảm việc
nhà” và các phong trào, các cuộc vận động khác nhằm mục đích xây dựng các
chuẩn mực của người phụ nữ trong thời kì đổi mới, trước hết, bản thân phải làm
tốt công tác tuyên truyền để mỗi CBGV - NV hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa, nội
dung và tác dụng của các phong trào, các cuộc vận động cũng như các chuẩn

mực của người phụ nữ. Tôi đã chỉ đạo cho Ban nữ công quán triệt nội dung, các
tiêu chuẩn thi đua đối với tập thể, cá nhân, các chuẩn mực của người phụ nữ

6


ngành giáo dục đến từng CBGV - NV. Từ đó mỗi cá nhân xác định rõ hơn nhiệm
vụ của mình và có ý thức trách nhiệm cao trong việc thực hiện.
Đồng thời cùng với BCH công đoàn, tổ chức triển khai cho chị em học tập
nghị quyết của công đoàn cấp trên, nghị quyết của đại hội phụ nữ về các nội
dung có liên quan đến lao động nữ, CBVC, lao động của ngành. Tuyên truyền,
phổ biến các văn bản pháp lệnh hướng dẫn thực hiện Bộ Luật Lao động sửa đổi,
bổ sung, Luật Giáo dục và các văn bản có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ
của lao động nữ trong tình hình mới, luật Bình đẳng giới, luật phòng chống bạo
lực gia đình, nội dung pháp lệnh dân số, các chuẩn mực xây dựng gia đình ấm
no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững; chuẩn mực của người phụ nữ
Việt Nam “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam yêu nước, có tri thức, có sức khoẻ,
năng động sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu, quan tâm đến lợi ích
xã hội và cộng đồng”....dưới nhiều hình thức như triển khai trong các cuộc họp
công đoàn , trong các buổi sinh hoạt nữ công ...
Tuyên truyền phòng chống tệ nạn xã hội cho nữ CBGV-NV như phối hợp
với Hội phụ nữ Thị trấn tổ chức mít tinh, nói chuyện về phòng chống ma tuý,
HIV/AIDS.
Bản thân tôi thường xuyên động viên nữ CBGV - NV gương mẫu và tích cực
vận động tuyên truyền thực hiện pháp lệnh dân số, kế hoạch hoá gia đình, xây
dựng gia đình nhà giáo văn hoá. Chủ động thực hiện và khéo léo vận động gia
đình thực hiện đúng chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước và các quy định của địa phương như: công tác đóng góp, tham gia các hoạt
động ở khu dân cư, tham gia công tác xã hội hóa, ủng hộ để nâng cấp các công
trình đường, trường, trạm...CBGV cần gương mẫu trong các hoạt động này. Ngoài

ra, bản thân động viên chị em cần xây dựng mối quan hệ đoàn kết thân ái, giúp đỡ
bà con hàng xóm láng giềng; xây dựng cuộc sống ấm no, vươn lên làm giàu chính
đáng, quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái chăm ngoan, học giỏi.
Để thực hiện các phong trào có hiệu quả, đầu các năm học tôi cùng với
BCH công đoàn, Ban nữ công tổ chức cho nữ CBGV - NV đăng kí các danh
hiệu thi đua như “Đoàn viên xuất sắc”, “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”,“Gia
đình nhà giáo văn hoá”. Đồng thời mỗi CBGV - NV làm một bản cam kết về
việc chấp hành và thực hiện tốt pháp lệnh dân số cũng như đăng kí việc sinh đẻ
theo đúng kế hoạch (với đoàn viên chỉ mới một con hoặc đoàn viên chưa có con
mới lập gia đình)...để chị em phấn đấu.
2.3.3. Xây dựng đội ngũ nữ CBGV - NV “ Giỏi việc trường”.
Trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong tiến trình hội
nhập và toàn cầu hoá, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới nâng cao chất lượng
giáo dục đòi hỏi phải nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
đội ngũ CBGV mà con đường hiệu quả nhất là đẩy mạnh phong trào tự học, tự
bồi dưỡng. Đây cũng là một nội dung quan trọng của phong trào “Giỏi việc
trường - Đảm việc nhà”. Vì vậy để làm tốt nội dung này, tôi đã phối hợp với
chuyên môn nhà trường xây dựng kế hoạch, động viên, tạo điều kiện, bố trí sắp
xếp thời gian, chuyên môn để chị em được tham gia các lớp Đại học tại chức,
Trung cấp chính trị, Quản lý giáo dục...để nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận
chính trị...cho nữ CBGV - NV. Động viên các chị em dạy thay, giúp đỡ việc gia

7


đình cho những chị em đi học để họ yên tâm học tập. Đồng thời tham mưu với
nhà trường hỗ trợ một phần kinh phí mua tài liệu để chị em có điều kiện học tập
tốt hơn.
Để giúp chị em nâng cao về mặt kiến thức và tham dự tốt các kì thao giảng
giáo viên giỏi, tôi đã tổ chức cho chị em tự học giải Toán, Tiếng Việt nâng cao

theo các chuyên đề. Các chị em đều có vở tự học và dành thời gian để học thực
sự. Trong quá trình học vấn đề gì chưa hiểu có thể trao đổi hoặc đưa ra các buổi
sinh hoạt chuyên môn cùng nhau thảo luận giải quyết những vướng mắc góp
phần nâng cao kiến thức cho chị em.
Ngoài việc tạo điều kiện để giáo viên được tham gia các lớp học nâng cao
trình độ, động viên các chị tự học, tự bồi dưỡng, để đảm bảo chất lượng giáo
dục của nhà trường, tôi đã cùng chuyên môn nhà trường chỉ đạo cho nữ CBGV
tham gia đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ở tất cả các môn, các khối
lớp.Với những bài dạy khó, chúng tôi tổ chức dạy thử nghiệm để chị em được
dự giờ học hỏi lẫn nhau. Sau những tiết dạy đó chúng tôi tổ chức rút kinh
nghiệm, phân tích cho chị em thấy dạy như thế nào là hiệu quả để chị em có thể
áp dụng vào thực tế giảng dạy của mình. Trong quá trình giảng dạy cũng có
những chị em còn lúng túng khi sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học hoặc sử dụng đồ dùng dạy học chưa hợp lý, chưa đúng lúc, đúng chỗ,
quản lý học sinh chưa tốt ...tôi đã trực tiếp góp ý đến từng giáo viên. Tôi chủ
động phối hợp với chuyên môn thường xuyên kiểm tra, dự giờ, thăm lớp để
đánh giá đúng những ưu khuyết điểm của họ, từ đó giúp giáo viên thực hiện giờ
dạy được chất lượng, hiệu quả hơn.
Hằng năm phối hợp với chuyên môn đẩy mạnh phong trào thi đua dạy giỏi,
tổ chức tốt hội thi giáo viên giỏi cấp trường với đủ 2 vòng thi lý thuyết và giờ dạy,
để chị em tích cực phấn đấu đồng thời nâng cao tay nghề cho đội ngũ giáo viên.
Cũng qua phong trào này, nhiều chị em đã chủ động đăng kí tham gia thi giáo
viên giỏi cấp huyện và khi dự thi các chị đều rất tự tin và đạt kết quả cao.
Mặt khác công đoàn cũng phối hợp với chuyên môn tổ chức các hội thảo về
kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh ở các câu lạc bộ, học sinh giao lưu giải Toán,
Tiếng Anh trên mạng, về đổi mới phương pháp giảng dạy, về rèn kĩ năng giao
tiếp, mạnh dạn tự tin cho học sinh, về công tác chủ nhiệm, công tác viết sáng
kiến kinh nghiệm...và tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng để
chị em được trao đổi học hỏi lẫn nhau.
Đối với những chị em được giao nhiệm vụ khác như hành chính, kế toán...

tôi thường xuyên trao đổi, động viên để các chị em làm tốt công việc theo đúng
nghiệp vụ của mình, góp ý để các chị đổi mới, sáng tạo trong công việc đồng thời
tạo mọi điều kiện để các chị hoàn thành tốt nhiệm vụ theo đặc thù công việc.
Thường xuyên động viên nữ CBGV - NV tích cực, nhiệt tình trong công
tác đoàn thể, công tác xã hội hoá giáo dục, công tác nhân đạo từ thiện, trong các
phong trào thi đua khác như “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”, xây dựng cơ quan văn hoá...
Với những việc làm trên đã giúp nhận thức giáo viên được nâng lên, tỉ lệ
giáo viên giỏi các cấp của nhà trường năm sau đã cao hơn năm trước. Chất
lượng đại trà và mũi nhọn của học sinh cũng đã có chuyển biến rõ rệt. Công tác

8


chuyên môn của công đoàn nhà trường luôn được đánh giá tốp đầu công đoàn
ngành giáo dục huyện nhà.
2.3.4. Xây dựng đội ngũ nữ CBGV - NV “ Đảm việc nhà ”.
Gia đình có đàm ấm, hạnh phúc hay không, trách nhiệm người mẹ rất quan
trọng, là người giữ “lửa” trong mỗi gia đình. Chính vì thế bản thân tôi luôn
động viên chị em ngoài việc làm tốt công tác ở nhà trường, các chị phải là người
vợ, người mẹ, người dâu thảo trong gia đình. Để làm tốt được việc nhà, tôi luôn
nhắc nhở chị em cần lên “thời gian biểu” cụ thể, biết cách sắp xếp công việc hợp
lí trong ngày đảm bảo khi làm công việc không bị chồng chéo.
Tôi luôn động viên chị em cần phải biết “nuôi con khỏe - dạy con ngoan”
bằng cách tiếp thu những kiến thức nuôi dạy con khoa học để con cái lớn lên bắt
kịp với thời đại. Với những chị em sinh con đã hết thời gian nghỉ sản, để đảm bảo
tốt công tác chuyên môn ở trường mà con cái vẫn được chăm sóc bằng nguồn sữa
mẹ, tôi đã động viên chị em tham gia chương trình “Hành trình sữa mẹ xuyên
Việt”. Tại chương trình này, chị em đã nắm bắt được những kiến thức, kinh
nghiệm trong việc duy trì nguồn sữa mẹ lâu dài cho con khi mẹ đi làm trở lại.

Bản thân luôn khuyến khích chị em tích cực sản xuất, kinh doanh phát triển
kinh tế gia đình như trồng rau sạch, nuôi gia súc, gia cầm tại nhà ngoài mục đích
phục vụ gia đình còn mục đích giữ gìn sức khỏe trước các nguy cơ về thực phẩm
bẩn trôi nổi trên thị trường. Vận động chị em thực hiện tiết kiệm chi tiêu trong gia
đình hợp lí. Đồng thời biết làm kinh tế giỏi để đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh
phúc. Vận động chị em biết kết hợp lao động và nghỉ ngơi, ăn uống sao cho hợp
lý, điều độ để đảm bảo sức khỏe; động viên chồng, con và người thân cùng chia
sẻ công việc gia đình để các chị yên tâm công tác ở nhà cũng như ở trường.
Để giúp chị em có thêm những hiểu biết, những kiến thức về xây dựng gia
đình “ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”, tôi cũng thường
xuyên tổ chức các buổi hội thảo nhỏ. Trong các buổi hội thảo này, chị em có
thêm điều kiện trao đổi học tập lẫn nhau về các vấn đề như “Bí quyết để giữ gìn
hạnh phúc gia đình”, “Nuôi dạy con như thế nào là đúng cách? ”, hoặc về các
chủ đề như “Mẹ chồng - nàng dâu”, “An toàn thực phẩm”, “chăm sóc sức khoẻ
gia đình”, các kiến thức làm vợ, làm mẹ, các kỹ năng giao tiếp ứng xử trong gia
đình, trong tập thể và cộng đồng...
Cùng với BCH công đoàn phối hợp Hội phụ nữ Thị trấn để chị em cũng
được tham gia các chương trình hoạt động do Thị trấn tổ chức. Nhằm giúp chị
em có thêm điều kiện trao đổi học tập lấn nhau. Động viên chị em nhiều tuổi có
tính bảo thủ, tự ti, bằng lòng với chính mình, ngại va chạm cuộc sống tham gia,
giúp họ cởi bỏ những rụt rè trao đổi và chia sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm
trong các lĩnh vực cuộc sống.
2.3.5. Duy trì các hoạt động và thường xuyên tổ chức các hội thi, giao lưu
với hình thức và nội dung phong phú, hấp dẫn tạo khí thế thi đua sôi nổi
trong việc thực hiện phong trào .
Vào các ngày lễ lớn hàng năm như: kỉ niệm ngày Thành lập Hội LHPN
Việt Nam 20-10, ngày Quốc tế phụ nữ 8-3…tôi đều chỉ đạo cho BCH công
đoàn cùng với Ban nữ công tổ chức các buổi toạ đàm, giúp chị em ôn lại truyền
thống của phụ nữ Việt Nam, ôn lại lịch sử Khởi nghĩa Hai Bà Trưng và lịch sử


9


ngày 8-3. Đồng thời cũng là dịp biểu dương thành tích của nữ CBGV - NV nhà
trường và phát động các phong trào thi đua... Để tạo không khí thi đua sôi nổi,
biểu dương tài năng và sự khéo léo của nữ CBGV - NV, đồng thời tạo điều kiện
cho nữ CBGV - NV giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về mọi mặt, tôi đã
cùng với BCH công đoàn, Ban nữ công thường xuyên tổ chức nhiều hội thi với
nội dung phong phú hấp dẫn và được chị em hưởng ứng tham gia một cách tích
cực, hào hứng, phấn khởi.
Có những hội thi được tôi đổi mới, sáng tạo và sử dụng công nghệ thông tin
như hội thi “Phụ nữ với hạnh phúc gia đình”được công đoàn tổ chức nhân ngày
Quốc tế phụ nữ 20/10/2014; “Phụ nữ thông minh, nhanh trí” lấy thành tích chào
mừng ngày 8/3/2015. Trong các hội thi này, chị em được trang bị thêm những
kiến thức về cuộc sống như cách đối nhân xử thế, giữ gìn hạnh phúc gia đình,
cũng như thể hiện được sự thông minh, kĩ năng diễn đạt, suy luận và sự am
hiểu, thông cảm, sẻ chia trong đời sống hàng ngày.

Tọa đàm gặp mặt dâu rể, tổ chức hội thi phụ nữ thông minh - nhanh trí,
kỉ niệm ngày 8/3/2015
Hội thi “Phụ nữ đảm đang” được tổ chức vào dịp 8/3/ 2017 chị em đã thể
hiện sự khéo léo trong việc chế biến, trưng bày các món ăn, thuận tiện sử dụng
vào các dịp lễ tết, liên hoan,… tại gia đình. Chị em đã mang đến hội thi những
món ăn với nhiều chủ đề khác nhau, các món ăn mang đậm đà bản sắc dân tộc,
vùng miền. Qua đó giúp chị em trao đổi kinh nghiệm về văn hoá ẩm thực và
khẳng định mình: không những giỏi giang, tháo vát trong công việc mà còn đảm
đang, khéo léo trong gia đình.

Hội thi phụ nữ đảm đang kỉ niệm ngày 8/3/2017
Ngoài việc tổ chức các hội thi, Tôi cùng BGH công đoàn, tổ chức nhiều

các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao nhằm giải trí và rèn sức khỏe
cho chị em như: “Liên hoan tiếng hát người giáo viên nhân dân”, thi “ kéo co”,
thành lập “Câu lạc bộ Cầu lông” “Câu lạc bộ bóng chuyền hơi” hoạt động đều
đặn vào cuối mỗi buổi học. Nhân các ngày lế lớn trong năm như 20/10; 20/11;
8/3... tôi đã cùng BCH công đoàn tổ chức cho chị em tham gia thi giữa các tổ
công đoàn, giao lưu với các khu trong Thị trấn, với các xã lân cận, các trường
trong huyện vào các ngày nghỉ thứ 7 hoặc chủ nhật.Từ đó kích thích lòng yêu
thể thao trong tất cả chị em.

10


Hội thi “bóng chuyền hơi”, “cầu lông” nhân các ngày lễ năm 2016

Hội thi văng nghệ chào mừng ngày phụ nữ Việt Nam
Chính vì duy trì được phong trào như thế nên các giải thi đấu do Công
đoàn ngành, Hội phụ nữ hay Đại hội TDTT cấp huyện tổ chức, bản thân tôi cũng
như một số chị em trong công đoàn nhà trường đều được mời tham gia và mỗi
lần tham gia đều đạt giải. Đặc biệt là đầu năm học 2016 - 2017, Liên đoàn Lao
động huyện tổ chức giải “ Cầu lộng - Bóng bàn”, công đoàn nhà trường đã có 2
đoàn viên ( tôi và 1 đồng chí nữa ) tham gia và đã đạt giải Nhất đôi nữ cầu lông.
Rất vinh dự chúng tôi được chọn dự Hội thao nhân dịp 70 năm ngày thành lập
công đoàn Thanh Hóa ( 10/10/1946 - 10/10/2016 ) do LĐLĐ Tỉnh tổ chức và
chúng tôi đã đạt giải Ba.
Đoàn viên công đoàn tham gia hội thao cấp huyện, tỉnh
Có thể nói, các hoạt động của công đoàn nhà trường luôn được coi trọng,
tổ chức thường xuyên. Bản thân không áp đặt mà khuyến khích chị em lựa chọn
cho mình một môn thể thao phù hợp để rèn luyện. Những chị tuổi đã cao, hay
đau khớp, mệt mỏi tôi động viên cho các chị đi bộ thời gian từ 17h đến 18h hằng
ngày. Tôi đã mời Hội trưởng Hội người cao tuổi ở địa phương đến hướng dẫn

cho các chị cách đi bộ sao cho đúng, tốc độ nhanh, chậm như thế nào để đảm
bảo sức dẻo dai và độ bền khi đi bộ nhằm nâng cao sức khỏe cho các chị.
Để các phong trào, các hội thi được thành công, tôi đã chuẩn bị thật chu
đáo từ khâu lên kế hoạch, thời gian tổ chức, địa điểm, thành phần tham gia, kinh
phí tổ chức, cơ cấu các giải thưởng. Phân công nhiệm vụ cho các thành viên
trong BCH cụ thể. Các hội thi đã thể hiện rõ tài năng, thể hiện rõ sức mạnh đoàn
kết của chị em, làm cho chị em gần gũi nhau hơn, hiểu nhau hơn, giúp cho chị
em luôn cảm thấy vui vẻ, phấn khởi mỗi khi đến trường. Từ đó tạo nên khí thế
thi đua sôi nổi trong toàn trường, làm cho mỗi CBGV - NV thêm yêu trường,
yêu nghề và tâm huyết hơn với học sinh, với công việc của mình hơn. Để các
hoạt động được duy trì nhằm khích lệ được đoàn viên tham gia đạt hiệu quả, sau
mỗi hội thi, giao lưu tôi đều tổ chức rút kinh nghiệm từ BCH đến công đoàn nhà
trường để các lần tiếp theo tổ chức được tốt hơn.
Ngoài ra, công đoàn nhà trường đã động viên đoàn viên tham gia các phong
trào tương thân tương ái do ngành phát động như “Mái ấm công đoàn”, “Ủng hộ
đồng bào bị lũ lụt”, “Tết vì người nghèo" quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, quỹ
“khuyến học” ….100% chị em tham gia với tinh thần tích cực nhiệt tình. Tổ
chức cho đoàn viên tham gia hoạt động nhân đạo trực tiếp như hiến máu tình
nguyện, thăm tặng quà gia đình học sinh khó khăn, học sinh khuyết tật tại địa
phương, tổ chức quyên góp sách vở, quần áo cho học sinh nghèo vượt khó;...

11


ủng hộ các đồng nghiệp còn khó khăn để họ phát triển kinh tế gia đình ( cho họ
vay số tiền quỹ du lịch CĐ ). Chính những hoạt động có tính chất từ thiện
“uống nước nhớ nguồn” đã làm ngời sáng nét văn hóa, giúp cho CBGV - NV ý
thức được lương tâm, trách nhiệm cao, luôn hướng đến phương châm sống
“Mình vì mọi người’’.


Đoàn viên công đoàn nhà trường tham gia quyên góp ủng hộ từ thiện
2.3.6. Thường xuyên quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho
nữ CBGV-NV.
Bản thân cùng với BCH công đoàn thường xuyên chăm lo bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp chính đáng của nữ CBGV - NV, kiểm tra giám sát việc thi hành
các chế độ, chính sách đối với nữ CBGV - NV để mọi chế độ tiền lương, tiền
thưởng, phụ cấp... đều được đảm bảo đầy đủ, kịp thời và đúng quy định làm cho
chị em phấn khởi, yên tâm công tác.
Luôn quan tâm lắng nghe, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
chị em để đề xuất với BGH nhà trường tạo điều kiện tốt nhất cho chị em làm
việc nhất là những chị em có hoàn cảnh khó khăn hoặc phối hợp với các đoàn
thể giải quyết kịp thời, thoả đáng những vấn đề mà chị em còn chưa hiểu, còn
băn khoăn ...
Tổ chức xây dựng quỹ thăm hỏi 50.000đ/1người/1 tháng để có thêm kinh
phí thăm hỏi khi chị em ốm đau, hoạn nạn hoặc có việc hiếu hỉ. Có chị bố mẹ
mất, gia đình ở xa, bản thân tôi vẫn đến tận nơi để chia buồn, động viên gia đình
và chị em. Ngoài ra còn động viên các nhóm chị em chơi hội lương để giúp đỡ
nhau làm nhà, mua sắm các phương tiện thiết bị sinh hoạt gia đình, mua máy
tính, máy in phục vụ công tác giảng dạy, nuôi con học đại học...
Tổ chức xây dựng quỹ du lịch 150.000đ/1 người/1 tháng và hàng năm tổ
chức cho chị em cùng gia đình đi tham quan du lịch, đi nghỉ mát, đi lễ hội đầu
xuân để chị em được tham quan học hỏi tăng thêm hiểu biết thực tế, ứng dụng
vào giảng dạy và tạo tinh thần thoải mái, vui vẻ trong tập thể.
Hằng năm tổ chức Tết thiếu nhi, Đêm hội Trung thu tại trường cho con
CBGV - NV và tặng quà cho các cháu đạt học sinh giỏi các cấp, các cháu đậu
Đại học... để động viên các cháu chăm ngoan, học giỏi và để chị em phấn khởi
nuôi dạy con cái tốt hơn.
Cùng với BCH Công đoàn tổ chức các buổi liên hoan gặp mặt với hội dâu
- rể và toàn thể gia đình CBGV - NV nhân ngày 8/3 hàng năm để cho các gia
đình được giao lưu, gần gũi nhau hơn và quan tâm tạo điều kiện cho chị em

công tác.
Phối hợp với y tế địa phương kiểm tra sức khoẻ cho chị em ( 2 lần/ năm )
và tư vấn hỗ trợ để giúp chị em thực hiện tốt pháp lệnh dân số. Đối với những
chị em sinh con một bề là gái, bị áp lực từ phía gia đình, tôi đã chủ động đến
chơi, tâm sự với chồng, bố mẹ chồng để vận động, giải toả tâm lý cho họ, giúp
chị em yên tâm công tác...

12


Là chủ tịch công đoàn, hơn ai hết tôi phải gần gũi với chị em; qua trao đổi,
tâm sự trực tiếp để hiểu rõ hoàn cảnh gia đình của từng đoàn viên, những thuận
lợi và khó khăn cụ thể. Từ đó mới có thể giúp chị em trong công đoàn mạnh dạn
chia sẻ vui buồn với nhau, tạo nên một tập thể gần gũi, thân thiết như ruột thịt.
Những gia đình GV - NV có việc hiếu, hỉ... tôi cùng chị em công đoàn luôn kịp
thời đến chia sẻ, động viên. Chị em phân công nhau đến giúp đỡ gia đình những
công việc cần thiết. Vì thế, tình cảm chị em, tình cảm đồng nghiệp rất gần gũi và
sống với nhau chân tình hơn.
2.3.7. Động viên khen thưởng kịp thời và luôn nêu gương các điển hình tiên
tiến trong các phong trào.
Để khơi dậy ý thức trách nhiệm, lòng ham mê công việc, tinh thần tham
gia các hoạt động các phong trào, bản thân tôi rất trân trọng sự cống hiên, tinh
thần trách nhiệm của chị em, động viên, khen ngợi kịp thời. Vì thế chị em rất vui
vẻ phấn khởi sau mỗi đợt tổ chức các hoạt động nhân các ngày lế trong năm.
Tôi cùng BCH Công đoàn luôn quan tâm phát hiện, giới thiệu những đoàn
viên xuất sắc đề nghị kết nạp vào Đảng. Đồng thời bố trí những đoàn viên có
năng lực vào các vị trí then chốt của chuyên môn cũng như các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường để chị em phát huy được trí tuệ của mình góp phần thực hiện
nhiệm vụ chung đạt kết quả cao.
Với những tấm gương điển hình ở gia đình về các mặt như làm kinh tế giỏi;

nuôi dạy con ngoan học giỏi; những chị em ở với bố mẹ chồng nhưng được bố
mẹ chồng coi như con đẻ, tình cảm gia đình luôn đầm ấm, vui vẻ... tôi luôn luôn
khuyến khích động viên họ đồng thời giới thiệu để chị em khác cùng học tập. Vì
đây là những tấm gương “Người thật - việc thật” nên chị em rất hứng thú học
tập kinh nghiệm và noi theo.
Hàng năm, bản thân tôi đều tổ chức tổng kết việc thực hiện phong trào để
ghi nhận, biểu dương kịp thời những chị em có thành tích, tiêu biểu trong phong
trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” đồng thời rút kinh nghiệm để tổ chức
phong trào hiệu quả hơn.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Qua quá trình chỉ đạo tiếp tục thực hiện và phát triển phong trào “Giỏi việc
trường - Đảm việc nhà” trong Công đoàn nhà trường, được sự quan tâm chỉ đạo
của Phòng Giáo dục, Công đoàn Giáo dục, Chi uỷ chi bộ nhà trường, sự phối
hợp chặt chẽ Ban giám hiệu nhà trường và sự nỗ lực cố gắng của bản thân, của
Ban chấp hành công đoàn, của Ban nữ công, sự hưởng ứng nhiệt tình của đội
ngũ nữ CBGV -NV nhà trường, Đến hết năm học 2016 - 2017 kết quả đạt được
như sau:

SL
CBQL
GVVH
GVđặc thù
TV-TB

3
21
7
1

Đảng

viên
3
16
4

Trình độ
chuyên môn
ĐH



TC

3
21
7

Trình độ
quản lý
QLGD

2/3

Trình độ
chính trị
Cao
cấp

T. Cấp


2/3


cấp

Đang
đi
học
1

1

13


Kế toán
Tổng

1
33

23

1
32

0

1


1

]
Năm học

GV giỏi

CSTĐ
Trường

Huyện

Tỉnh
1/1
ATGT

2014-2015

5

20/32
= 62,5%

2/3 =66.6 %
dự thi

2015-2016

3


2016- 2017

4

21/30
= 70%
21/28
= 75%

2/2=100%
dự thi
không tổ
chức thi

N.H

1/1
VH

HS giỏi

Huyện
6

Tỉnh

Huyện

4


32
( TDTT)

6

5

60
( TDTT)
41
Toán, T.A

5

Tỉnh

1

Kết quả
các phong trào
ĐVXS

201
4201
5
201
5201
6
201
6201

7

SKKN

Con nữ ĐV đạt thành Gia
Kinh tế gia đình
Thực
tích trong học tập
đình
hiện
GVT

Cấp
Cấp
Cấp Đại hiếu
Giàu Khá T.B KK PLDS
ĐVN NGVH trường huyện tỉnh học học

27/3
7
72,9
%
28/3
5
80%

27/37 37
72,9 100%
%


18/19

3/3

1/2

2/2

2

3

19

14

1

37/37
=100%

29/35 35/35
82,8 100%
%

20/20

3/3

2/2


3/3

3

3

20

12

0

35/35
=100%

28/3
3
84,4
%

29/33 33/33
87,8 100%
%

22/22

2/2

1/1


3

4

19

10

0

33/33
=100%

Có thể nói, sau gần 3 năm tổ chức thực hiện, các phong trào các hoạt động
trong Công đoàn nhà trường chuyển biến rõ rệt, được chị em đồng tình hưởng
ứng tham gia. Các chị không những hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở trường mà
còn làm tốt công việc trong gia đình, xứng đáng là người phụ nữ “Giỏi việc
trường - Đảm việc nhà” trong thời kì đổi mới.
Phong trào tự học tự bồi dưỡng trong đội ngũ nữ CBGV - NV cũng đã có
sự tiến bộ vượt bậc bắt kịp với thời buổi hiện đại. Trình độ chuyên môn của đội
ngũ nữ CBGV được nâng lên. Năm học 2014 - 2015, trình độ trên chuẩn của
CBGV - NV là 86,5% thì đến hết năm học 2016 - 2017 là 96,9% ( tăng 10,4% ).
Bằng những biện pháp thiết thực đã giúp giáo viên nâng lên cả về kiến thức và
phương pháp giảng dạy. Hằng năm, tỉ lệ giáo viên đạt giáo viên giỏi cấp trường
năm sau tăng hơn năm trước ( tăng 12,5% ); Giáo viên giỏi cấp huyện, Tỉnh vẫn
được duy trì ( đều có GV đạt giải sau mỗi năm Sở Giáo dục tổ chức thi ). Công
tác bồi dưỡng học sinh ở các câu lạc bộ, giao lưu giải Toán, Tiếng Anh trên
Intenet cũng luôn được chị em đầu tư công sức, trí tuệ. Chính vì vậy, kết quả học
sỉnh đạt thành tích xuất sắc trong học tập và rèn luyện, học sinh đạt giải cấp huyện

khi giao lưu môn TDTT năm sau đã tăng hơn so với năm trước cả về số lượng và
chất lượng. Điều đó phần nào chứng tỏ sự cố gắng tâm huyết với nghề, tất cả vì
học sinh thân yêu của đội ngũ nữ cán bộ giáo viên. Các chị luôn tích cực tham gia
nghiên cứu khoa học, được Hội đồng khoa học huyện, tỉnh ghi nhận ( trong năm

14


2014 - 2015 và 2015 - 2016 có 12 sáng kiến kinh nghiệm đạt giải cấp huyện.
Trong đó có 9 sáng kiến được xếp loại cấp tỉnh). Hiện tại, 100% CBGV - NV sử
dụng thành thạo máy tính, máy chiếu đa năng và soạn giảng được giáo án điện tử.
Các phần mềm cập nhật sổ theo dõi đánh giá chất lượng giáo dục Tiểu học hay
phần mềm phổ cập giáo dục pcgd.moet đều được triển khai đến các giáo viên và
các đồng chí đều sử dụng, cập nhật trực tuyến thành thạo.
Hoạt động của Ban nữ công cũng đã có nhiều hình thức đổi mới, sáng tạo
với nhiều hoạt động sôi nổi, thiết thực, tạo cơ hội cho chị em tham gia và để thể
hiện mình, giúp chị em trao đổi, học hỏi lẫn nhau trong việc thu xếp công việc
gia đình hay cách nuôi dạy con cái trưởng thành, làm kinh tế giỏi, cách chi tiêu
hợp lý...Chị em đã mạnh dạn, tự tin, năng động sáng tạo hơn trong công việc.
Bên cạnh đó, chị em cũng đã biết chăm lo cho sức khỏe của mình. Nhiều chị em
tham gia vào các câu lạc bộ đi bộ, chơi cầu lông, bóng chuyền hơi, thể dục thẩm
mĩ. Nhiều chị đã tham gia các giải thể dục thể thao phong trào của huyện và đạt
thành tích cao.
Công tác từ thiện, nhân đạo cũng được chị em hưởng ứng nhiệt tình ( Tính
đến hết năm học 2016 - 2017 đã ủng hộ được 37 565 000đ cho các quỹ “ Mái
ấm công đoàn”, “ Ủng hộ bão lụt miền Trung” “ Vì người nghèo”, “ Chia khó
với vùng cao” , Quỹ Khuyến học...). Các chị cũng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ của mình trong các phong trào, hoạt động của công đoàn. Thể hiện ở tỉ lệ nữ
CBGV - NV đạt “ GVT - ĐVN”, “ Gia đình nhà giáo văn hóa”... năm học sau
đều cao hơn năm học trước. Các chị đã góp phần rất lớn trong việc xây dựng tập

thể nhà trường đạt danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc, cơ quan Văn hoá cấp
huyện và Công đoàn vững mạnh xuất sắc.
Trong quá trình thực hiện phong trào, chị em còn tự khẳng định mình qua
việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Nhiều
chị em đã biết cách sắp xếp việc trường - việc nhà hợp lí. không những thế các
chị còn khéo động viên cả chồng con hỗ trợ. Vì thế đã tạo điều kiện cho các chị
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. 100% các chị em đều có nhà cửa, kinh tế ổn định,
có tiện nghi thiết yếu phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày, nhiều chị vươn lên
làm giàu chính đáng. (Số hộ khá và giàu tăng nhanh, không còn hộ khó khăn).
100% gia đình thực hiện nghiêm túc mọi chủ trương đường lối chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước cũng như quy định của địa phương. 100% các gia
đình thực hiện tốt pháp lệnh dân số. Trong những năm qua, Công đoàn nhà
trường không có chị em nào sinh con thứ 3. Nhờ sự giáo dục, dạy dỗ của các chị
mà đại đa số các gia đình mọi người đều được tôn trọng, bình đẳng, 100% con
cái các gia đình không mắc tệ nạn xã hội, không vi phạm pháp luật. Với tấm
lòng nhân hậu, chịu thương chịu khó của mình các chị không những hoàn thành
tốt nhiệm vụ ở trường mà còn làm tròn bổn phận của người mẹ hiền, người vợ
đảm đang trong gia đình. Các chị đều dành sự quan tâm chăm sóc giáo dục con
em. Thực tế cho thấy con em của các chị đều chăm ngoan học giỏi và đạt thành
tích cao trong học tập. Trong gần 3 năm đã có 60 lượt cháu đạt thành tích xuất
sắc trong học tập và rèn luyện, 8 cháu có thành tích cấp huyện, 4 cháu cấp Tỉnh
và 5 cháu đậu đại học.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.

15


3.1. Kết luận.
Có thể khẳng định phong trào thi đua “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” là
phong trào thi đua mang tính đặc trưng riêng của lao động nữ ngành giáo dục, là

phong trào có sức sống mạnh mẽ ở Công đoàn cơ sở, thúc đẩy các hoạt động của
công đoàn và nhà trường, phát huy được tiềm năng to lớn của đội ngũ nữ
CBGV-NV trong việc đóng góp cho sự nghiệp giáo dục và xây dựng hạnh phúc
gia đình.
Phong trào đã được lồng ghép triển khai thực hiện nhằm xây dựng Công
đoàn cơ sở vững mạnh, tạo hình ảnh đẹp cho nữ CBGV - NV với nét đẹp toàn
diện trong thời kì đổi mới. Qua thực tiễn chỉ đạo phong trào, tôi rút ra một số
bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất: Phải xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác công đoàn có năng
lực, tâm huyết, nhiệt tình, gương mẫu, chủ động sáng tạo, có kĩ năng hoạt động
và tổ chức phong trào.
Thứ hai: Phải làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục và vận động nữ CBGV NV để mọi người hiểu đầy đủ sâu sắc về mục tiêu, nội dung, ý nghĩa của phong
trào “ Giỏi việc trường - đảm việc nhà”
Thứ ba: Chi ủy chi bộ, chính quyền, công đoàn, cần phải có sự chỉ đạo sát
sao, quan tâm tạo điều kiện và sự phối kết hợp chặt chẽ với các ban ngành đoàn
thể trong việc triển khai thực hiện phong trào.
Thứ tư: Luôn luôn đổi mới hình thức công tác nữ công, tăng cường tổ chức
các hội thảo, hội thi các cuộc giao lưu với nội dung phong phú, hấp dẫn để lôi
cuốn chị em tham gia. Lồng ghép phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà”
với các phong trào thi đua khác nhằm tạo điều kiện cho chị em cống hiến,
trưởng thành và tự khẳng định mình trong quá trình công tác.
Thứ năm: Phải quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện cho chị em trong công tác
chuyên môn cũng như việc sắp xếp bố trí khoa học công việc nhà để họ thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao, để mỗi CBGV - NV trong nhà trường xứng đáng là người
phụ nữ “Giỏi việc trường - đảm việc nhà” trong thời kì CNH, HĐH đất nước.
Thứ sáu: Cần theo dõi sát sao để phát hiện và bồi dưỡng nhân rộng các điển
hình tiên tiến và kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm, biểu dương, động viên, khen
thưởng để đẩy mạnh phong trào.
3.2. Kiến nghị.
Từ thực tế chỉ đạo triển khai phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc

nhà” tại công đoàn nhà trường, tôi nhận thấy rằng đây là một trong các phong
trào rất quan trọng ở các nhà trường và khó thành công nếu không có biện pháp
chỉ đạo đúng đắn và những bước đi phù hợp. Để phong trào luôn được duy trì và
phát triển đồng bộ, có chất lượng tôi đề xuất một số vấn đề sau:
- Phải xây dựng kế hoạch cụ thể các hoạt động, các phong trào và có sự thống
nhất cao trong việc thực hiện kế hoạch và triển khai phong trào.
- Công đoàn cấp trên cần mở các lớp tập huấn để bồi dưỡng cho cán bộ làm
công tác công đoàn, công tác nứ công trong trường học.

16


- Công đoàn ngành phải chỉ đạo điểm, nhân điển hình những đơn vị thực hiện tốt
các phong trào để các đơn vị khác học tập.
- Các cấp các ngành cần quan tâm tạo điều kiện về kinh phí, hỗ trợ các phong
trào để công đoàn hoạt động đạt hiệu quả, chất lượng hơn.
Trên đây là những suy nghĩ và việc làm của tôi trong quá trình chỉ đạo
hoạt động Công đoàn nhà trường nhằm đẩy mạnh phong trào “Giỏi việc trường
- đảm việc nhà”, góp phần xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh. Mặc dù kinh
nghiệm chưa phải là nhiều song bản thân cũng xin mạnh dạn trình bày để mong
được Phòng Giáo dục, Công đoàn ngành, Ban giám hiệu, Ban chấp hành công
đoàn góp ý, giúp tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2017
(Tôi xin cam đoan trên đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội dung
của người khác )

Người viết

Nguyễn Thị Quang

17



×