Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số biện pháp sử dụng tính tích hợp có hiệu quả khi dạy bài luyện tập tả cảnh tiết 5 TLV lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.48 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng dạy – học bài: Luyện tập tả cảnh (Tiết 5) Tập làm văn lớp 5
a. Đối với học sinh
b. Đối với giáo viên
c. Đối với gia đình
3 . Các giải pháp, biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
a. Giải pháp thực hiện
b. Biện pháp thực hiện
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
1
1
1
1
1
2
2
3


3
3
4
4
4
4
11
13
13
13
15

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tập làm văn là một phân môn quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở
bậc tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng. Dạy tốt phân môn này không những
rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh mà còn giúp học sinh có được
kĩ năng làm văn, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, biết cảm nhận yêu quý
cái đẹp, yêu thiên nhiên đất nước, con người, hình thành nhân cách của học sinh.
Như vậy ta có thể khẳng định: Tập làm văn là một môn học rất quan trọng
đòi hỏi học sinh phải vận dụng toàn bộ kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng Tiếng
Việt cũng như tư tưởng tình cảm của mình vào bài làm. Chính vì vậy Tập làm
văn là một thước đo năng lực của học sinh.
Để giúp học sinh học tốt môn học không phải là đơn giản, và đặc biệt là
văn tả cảnh có thể nói là một thể loại văn khó đối với học sinh. Trong thực tế
giảng dạy tôi thường gặp những bài văn tả cảnh ý nghèo nàn, lời lẽ khô khan,
cứng nhắc thiếu sự lôi cuốn, .... nhiều em còn sao chép văn mẫu nội dung không

phù hợp với cảnh, thiếu tự nhiên, thiếu sáng tạo. Giờ học tập làm văn trở nên
khô khan, nặng nề, học sinh thụ động. Vậy làm thế nào để nâng chất lượng hiệu
quả của tiết học Tập làm văn? Đó là một câu hỏi lớn đặt ra cho nhiều thầy cô
giáo phải băn khoăn, trăn trở: “Dạy như thế nào?” để thực hiện mục tiêu bài học,
môn học. Chính vì thế, ngay từ đầu năm học tôi rất quan tâm đến việc tìm hiểu
nội dung chương trình và phương pháp dạy học sao cho phù hợp với khả năng
sư phạm của bản thân và nhất là phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình phụ
trách trong đó có môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Chính vì
những lí do trên, tôi đã chọn nghiên cứu và đưa ra SKKN: Một số biện pháp sử
dụng tính tích hợp có hiệu quả khi dạy bài Luyện tập tả cảnh - Tiết 5 - Tập làm
văn lớp 5.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm nâng cao chất lượng học sinh.
- Giúp học sinh hình thành kỹ năng, sử dụng thành thạo từ ngữ, biện pháp
tu từ để viết được bài văn tả cảnh có hình ảnh, có trọng tâm…
- Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp dùng để giảng
dạy cho học sinh.
- Khảo sát và đề xuất một kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng
dạy học.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu về Một số biện pháp sử dụng tính tích hợp có hiệu quả khi
dạy bài luyện tập tả cảnh - Tiết 5 - Tập làm văn lớp 5.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp so sánh, đối chứng

2



II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận
Ngay từ lớp 2, khi tập quan sát và trả lời câu hỏi, các em đã bắt đầu làm
quen với văn miêu tả. Việc cho học sinh tiếp cận với văn miêu tả sớm như vậy
có thể nói rằng các nhà nghiên cứu đã dựa vào đặc điểm tâm sinh lí của trẻ (ưa
quan sát, thích nhận xét, sự nhận xét thiên về cảm tính thích tìm hiểu,...) và qua
việc học văn miêu tả góp phần nuôi dưỡng tình yêu của các em với thiên nhiên,
với thế giới xung quanh, góp phần giáo dục tình cảm thẩm mĩ, ngôn ngữ ở trẻ, ...
Học văn miêu tả các em có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất giữa tư duy
và tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên, với xã hội để
gợi ra những tình cảm ý nghĩ cao thượng, đẹp đẽ ... cho học sinh tiếp xúc với
thiên nhiên là con đường hiệu quả nhất để giáo dục học sinh phát triển ngôn
ngữ.
Bài văn miêu tả phải chân thực: Miêu tả là dùng lời văn có hình ảnh, làm
hiện ra (vẽ ra) trước mắt người đọc (nghe) bức tranh cụ thể về một đối tượng đã
làm cho ta chú ý và cảm xúc sâu sắc. Do vậy, bài văn miêu tả trước hết cần có
tính chân thực, đúng bản chất đối tượng. Dạy cho học sinh tiểu học miêu tả một
đối tượng trước hết phải đi từ yêu cầu là tả đúng thực tế, nghĩa là thông qua việc
quan sát bằng nhiều giác quan, chon được từ ngữ thích hợp, diễn tả đúng được
đối tượng, không làm người đọc (nghe) hiểu sai không hình dung được nó.
Trước khi tiến hành một bài văn miêu tả, học sinh cần được giáo viên giao
nhiệm vụ quan sát và hướng dẫn các em cách quan sát, miêu tả theo trình tự hợp
lí (trình tự thời gian, khômg gian hoặc trình tự tâm lí).
Bài văn miêu tả phải có trọng tâm và chọn lọc được những nét tiêu biểu.
Bài văn miêu tả phải bộc lộ được cảm xúc chân thành của người viết.
Bài văn miêu tả phải diễn đạt bằng lời văn sinh động, giàu hình ảnh.
Tích hợp là quan điểm mới trong chương trình giáo dục tiểu học nhằm
giải quyết quyết mâu thuẫn giữa lượng kiến thức ngày càng tăng do sự bùng nổ
thông tin với thời gian học tập và sức lực học tập có hạn của học sinh. Làm cho

người học nhận biết và ý thức được mối quan hệ giữa nội dung học tập ở các
môn học khác nhau và ở ngay trong một môn học đó là mối quan hệ giữa các tri
thức của các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; giữa tri thức với kĩ
năng, với năng lực cải tạo cuộc sống của người học ngay trong một môn học cụ
thể.
Các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau.
Sách được xây dựng theo hai trục: Trục chủ điểm và trục kĩ năng, trong đó trục
chủ điểm làm khung cho cả cuốn sách, còn kĩ năng được lấy làm khung cho
từng tuần học, từng đơn vị học.
Hệ văn bản đưa vào chương trình là các dạng văn bản thường gặp trong
cuộc sống như văn bản khoa học, văn bản thông tin truyền thông, văn bản hành
chính, pháp luật,... Hệ văn bản này cung cấp cho học sinh những tri thức phong
phú về khoa học, về các thông tin thuộc những vấn đề bức xúc của thời đại, làm
giàu vốn hiểu biết, vốn sống cho học sinh. Hệ văn bản này cũng góp phần làm
3


khuôn mẫu, làm ngữ liệu giúp các em học tốt, làm tốt các bài Tập làm văn đồng
dạng.
Phân môn Tập làm văn lớp 5 bao gồm nhiều thể loại: văn miêu tả (tả
cảnh, tả người) ngoài ra còn ôn tập các kiểu bài miêu tả đồ vật, con vật, cây cối
ở lớp 4, văn kể chuyện, viết thư ở các lớp dưới; cùng với việc xen kẽ các thể
loại: làm báo cáo thống kê, thuyết trình tranh luận, làm đơn, làm biên bản cuộc
họp, biên bản sự việc,...
Kiến thức kĩ năng viết văn không chỉ hình thành trong phân môn mà còn
được hình thành, rèn luện trong các phân môn của Tiếng Việt như: Tập đọc,
Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu hay trong các bài thuộc các môn học khác
như: Khoa học, Lịch sử và Địa lí, Đạo đức,... ngoài ra học sinh còn phải vận
dụng những kiến thức từ thực tế cuộc sống trong gia đình, làng xóm, quê hương,
trường học, qua sách báo, các kênh thông tin đại chúng, các em còn phải phát

huy trí tưởng tượng khái quat, óc sáng tạo của mình.
Thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học Tập làm văn theo hướng trên
sẽ tạo cho giáo viên và học sinh cơ hội tốt để dạy học tốt phân môn Tập làm văn
nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
2. Thực trạng dạy – học bài : Luyện tập tả cảnh (Tiết 5) Tập làm văn lớp 5
a. Đối với học sinh
Trong quá trình dạy học Tập làm văn tôi thấy học sinh thường gặp một số
khó khăn như: Vốn ngôn ngữ, vốn hiểu biết về cảnh vật thiên nhiên của các em
còn hạn chế. Khi học các phân môn của Tiếng Việt cũng như các môn học khác
học sinh chưa có sự liên hệ vận dụng các kiến thức đó để hỗ trợ cho quá trình
quan sát và làm văn tả cảnh. Để các em hoàn thành bài tập theo đúng mục tiêu
đề ra cũng là tương đối khó. Nhiều em chưa biết phân tích đề bài và lập dàn ý,
trình bày đoạn văn còn lúng túng chưa biết cách diễn đạt, khi viết câu văn còn
rườm rà chưa xếp ý cho đúng. Dẫn đến bài văn khô khan ít có cảm xúc, hoặc sao
chép văn mẫu.
b. Đối với giáo viên
Qua phỏng vấn một số đồng nghiệp tôi được biết khi dạy văn tả cảnh cho
học sinh lớp 5, đa số giáo viên cho rằng học sinh làm bài kém hơn các thể loại
văn khác, do vốn từ ngữ cũng như cách diễn đạt của các em còn khô khan, thiếu
sáng tạo. Để đối phó với tình trạng học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất lượng
nhiều thầy cô giáo cho học sinh học thuộc một số bài văn mẫu khi gặp đề bài
tương tự cứ thế mà chép. Vì vậy dẫn đến tình trạng cả thầy và trò đều lệ thuộc
vào văn mẫu. Nguyên nhân là do giáo viên chưa nhiệt tình trong công tác đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp, chưa quan tâm lưu ý hướng dẫn
học sinh tích hợp các nội dung, kiến thức, kĩ năng các phân môn của môn Tiếng
Việt cũng như các môn học khác. Tổ chức các hình thức dạy và học chưa phong
phú và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập
trung chú ý nghe giảng của học sinh. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa
trọng tâm, kiến thức còn dàn trải.


4


c. Đối với gia đình
Do địa hình dân cư là vùng nông thôn điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó
khăn, thiếu thốn do đó việc học hành của các em chưa được quan tâm nhiều. Vì
thế nó ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em, ảnh hưởng đến trình
độ tư duy, nhận thức và vốn sống, khả năng giao tiếp của các em. Điều đó ảnh
hưởng đến xúc cảm, tình cảm của các em, ảnh hưởng đến chất lượng học tập
phân môn Tập làm văn nói chung và văn tả cảnh nói riêng.
* Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên
Kết quả khảo sát chất lượng 32 học sinh về thể loại văn miêu tả đầu năm
học 2016 - 2017 lớp 5B Trường Tiểu học Quảng Thành như sau:
Nhận xét
Học sinh biết làm bài văn hay, có hình ảnh, có
cảm xúc, có sáng tạo.
Học sinh biết cách làm bài văn, biết sắp xếp ý,
dùng từ phù hợp.
Học sinh biết cách làm bài văn có bố cục rõ ràng
nhưng còn sa vào kể lể, liệt kê.
Học sinh chưa biết cách diễn đạt, nội dung bài
viết còn lan man.

Số lượng

Tỉ lệ

1em

3,1%


7em

21,7%

18em

56,3%

6em

18,9%

Thực trạng về dạy học văn miêu tả như đã nêu trên đã ảnh hưởng trực tiếp
tới chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói
chung của nhà trường. Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã mạnh dạn đổi mới
phương pháp dạy học phân môn Tập làm văn nhằm khắc phục tình trạng như đã
nêu ở trên.
3. Các giải pháp, biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
a. Giải pháp thực hiện
* Nguyên tắc vận dụng tính tích hợp vào bài học
Với các định hướng trên, tôi đã vận dụng tính tích hợp vào trong việc dạy
bài Luyện tập tả cảnh - Tiết 5 theo các nguyên tắc sau:
+ Đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với đối tượng học sinh mình phụ trách.
+ Kiến thức và kĩ năng phải đi đúng nội dung, chương trình bài học, của
phân môn Tập làm văn 5.
+ Xuất phát từ các bài tập trong sách giáo khoa và Vở Bài tập Tiếng Việt
5 tập I.
* Kết hợp bài học với các phân môn trong môn Tiếng Việt
* Huy động vốn hiểu biết trong cuộc sống của học sinh

b. Biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Tìm hiểu Nội dung các bài tập trong tiết Luyện tập tả
cảnh (tiết 5) - Tập làm văn 5 (Sách giáo khoa Tiếng Việt 5 -Tập I - trang 31)
* Bài 1: Đọc bài văn sau và trả lời câu hỏi
Mưa rào
5


Một buổi có những đám mây bay về. Những đám mây lớn nặng và đặc xịt
lổm ngổm đầy trời. Mây tản ra từng nắm nhỏ rồi san đều trên một nền đen xám
xịt. Gió nam thổi giật mãi. Gió bỗng đổi mát lạnh, nhuốm hơi nước. Từ phía
nam bỗng nổi lên một hồi khua động dạt dào. Mưa đã xuống bên kia sông: gió
càng thêm mạnh, mặc sức điên đảo trên cành cây.
Mưa đến rồi, lẹt đẹt... lẹt đẹt... mưa giáo đầu. Những giọt nước lăn xuống
mái phên nứa: mưa thực rồi, mưa ù xuống khiến cho mọi người không tưởng
được là mưa lại kéo đến chóng thế . Lúc nãy là mấy giọt lách tách, bây giờ bao
nhiêu nước tuôn rào rào. Nước xiên xuống, lao xuống, lao vào trong bụi cây. Lá
đào, lá na, lá sói vẫy tay run rẩy. Con gà sống ướt lướt thướt ngật ngưỡng tìm
chỗ trú. Mưa xuống sầm sập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước toả trắng xoá. Trong
nhà bỗng tối sầm, một mùi nồng ngai ngái, cái mùi xa lạ, man mác của những
trân mưa mới đầu mùa. Mưa rào rào trên sân gạch. Mưa đồm độp trên phên nứa,
đập bùng bùng vào lòng lá chuối. Tiếng giọt tranh đổ ồ ồ.
Nước chảy đỏ ngòm bốn bề sân, cuồn cuộn dồn vào các rãnh cống đổ
xuống ao chum. Mưa xối nước được một lúc thì bỗng trong vòm trời tối thẳm
vang lên một hồi ì ầm. Tiếng sấm, tiếng sấm của mưa mới đầu mùa..
Mưa đã ngớt. Trời rạng dần. Mấy con chim chào mào từ hốc cây nào đó
bay ra hót râm ran. Mưa tạnh, phía đông một mảng trời trong vắt. Mặt trời ló ra,
chói lọi trên những vòm lá bưởi lấp lánh.
Theo Tô Hoài
a) Những dấu hiệu nào báo cơn mưa sắp đến?

b) Tìm những từ ngữ tả tiếng mưa từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc mưa.
c) Tìm những từ ngữ tả cây cối , con vật, bầu trời trong và sau trận mưa
d) Tác giả đã quan sát cơn mưa bằng những giác quan nào?
* Bài 2: Từ những điều em đã quan sát được, hãy lập dàn ý bài văn miêu
tả cơn mưa.
Trong Vở bài tập Tiếng Việt 5 tập I, tương ứng với nội dung bài học
Luyện tập tả cảnh - Tiết 5 - Tiếng Việt 5 cũng có hai bài tập với yêu cầu tương tự
chỉ khác là chi tiết hơn để giúp học sinh thực hiện bài làm ngay trong vở.
Biện pháp 2: Sử dụng tính tích hợp vào trong tiết dạy “Luyện tập tả
cảnh” - Tiết 5 - Tập làm văn 5
a) Sự kết hợp bài học với các phân môn Tiếng Việt
* Đối với phân môn Tập đọc
Dựa vào nội dung bài tập 1 được trình bày trong bài học, ta có thể thấy
ngay được là trước khi học sinh lập dàn ý cho một đề bài Tập làm văn tả cảnh cụ
thể thì có một bài văn (hoặc đoạn văn) có thể hiểu là một mẫu văn bản tương
ứng với thể loại văn mà học sinh được học. Như vậy, để khai thác bài văn này
thì có thể kèm theo một hệ thống câu hỏi gợi ý tìm hiểu, yêu cầu học sinh phải
huy động các kĩ năng của phân môn Tập đọc như: đọc thành tiếng, đọc thầm,
đọc lướt, đọc hiểu,... để trả lời các câu hỏi gợi ý. Từ đó giúp các em dễ dàng
nhận biết được cách viết một bài văn thuộc thể loại văn tả cảnh nói chung và tả
cơn mưa nói riêng đặc biệt là cách trình bày, diễn đạt, sử dụng từ ngữ, hình
6


ảnh,...
Chẳng hạn để học sinh thực hiện theo đúng yêu cầu của bài tập bằng cách
trả lời các câu hỏi thì giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện như sau:
- 1 HS đọc thành tiếng, cả lớp đọc thầm toàn bài “Cơn mưa” của nhà văn
Tô Hoài trong SGK.
- HS đọc thầm, đọc lướt suy nghĩ trao đổi thảo luận để trả lời các câu hỏi

a, b, c, d có trong bài đọc.
* Cách tiến hành ở phần này gần giống như cách khai thác tìm hiểu bài ở
phân môn Tập đọc. Vì thế, để học sinh làm được thì trước hết các em phải có kĩ
năng đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễm cảm tốt ở phân môn Tập đọc
thì từ đó mới có thể giúp cho HS có thói quen tìm hiểu văn bản trong phân môn
Tập làm văn, giúp học sinh có thêm ngữ liệu, có hiểu biết về một bài văn miêu
tả chân thực, sinh động và hấp dẫn. Nếu học sinh đọc yếu, kĩ năng đọc hiểu văn
bản kém thì dẫn đến học sinh không thể hiểu và cảm nhận một cách đầy đủ, rõ
ràng một bài văn đúng và hay được. Từ đó dẫn đến các em sẽ khó khăn trong
việc dịnh hướng nói, viết cho bài văn của mình theo đúng yêu cầu đề bài.
Vì vậy mà ta có thể nói rằng việc dạy tốt các kĩ năng trong phân môn Tập
đọc góp phần quan trọng để học sinh có thể học tốt phân môn Tập làm văn.
*Đối với phân môn Luyện từ và câu
- Thông qua các câu hỏi có thể giúp học sinh tìm được những từ ngữ, hình
ảnh miêu tả có trong bài văn:
+ Mây: đặc xịt, lổm ngổm đầy trời; tản ra từng nắm nhỏ rồi san đều trên
một nền đen xám xịt.
+ Gió: thổi giật, đổi mát lạnh, nhuốm hơi nước; khi mưa xuống, gió càng
mạnh, mặc sức điên đảo trên cành cây.
+ Tiếng mưa: lẹt đẹt ... lẹt đẹt, lách tách; mưa ù xuống, rào rào, sầm sập,
đồm độp, đập bùng bùng vào lòng lá chuối; giọt tranh đổ ồ ồ.
+ Hạt mưa: Những giọt nước lăn xuống mái phên nứa rồi tuôn rào rào;
mưa xiên xuống, lao xuống, lao vào bụi cây; hạt mưa giọt ngã, giọt bay, toả bụi
nước trắng xoá.
...
Những từ ngữ, hình ảnh miêu tả trên được tác giả sử dụng một loạt các từ
láy mang tính tượng hình, tượng thanh; từ đơn, từ ghép, từ đồng nghĩa, danh từ,
động từ, tính từ, ... gợi tả mây, gió, tiếng mưa, hạt mưa,...
- Những biện pháp nghệ thuật giúp cho bài văn sinh động hấp dẫn như:
Tác giả sử dụng biện pháp nhân hoá khi miêu tả cảnh vật trong mưa: “Lá

đào, lá na, lá sói vẫy tai run rẩy”
- Những từ ngữ, hình ảnh; những biện pháp nghệ thuật như: so sánh,
nhân hoá, liên tưởng, điệp ngữ,... Học sinh đã được học ở phân môn Luyện từ và
câu. Vì vậy, học sinh cũng cần phải học tốt và nắm vững về đặc điểm, dấu hiệu
nhận biết, cách sử dụng chúng khi học ở phân môn này. Có như vậy thì khi học
phân môn Tập làm Văn giáo viên chỉ việc dùng câu hỏi gợi mở giúp học sinh
nhớ lại và nhận biết ngay được từ đó có thể giúp cho dạy học Tập làm văn đạt
7


hiệu quả tốt.
* Đối với phân môn Tập làm văn
Như chúng ta đã biết, thể loại văn tả cảnh là tổng hợp nghiều thể loại văn
khác học sinh đã được học như: tả đồ vật, con vật, cây cối,... chính vì thế mà có
thể nói rằng văn tả cảnh là thể loại văn đã tích hợp gồm nhiều loại văn học sinh
đã được học trước đó. Ngay từ lớp hai học sinh đã được tìm các từ ngữ, hình ảnh
miêu tả, viết câu văn đoạn văn miêu tả. Ở lớp 3 học sinh được làm quen với cách
viết một đoạn văn tương đối hoàn chỉnh theo các chủ đề: con người, đò vật, con
vật, cây cối,... gần gũi xung quanh các em. Ở lớp 4, học sinh được học và có kĩ
năng viết một bài văn hoàn chỉnh (đủ ba phần: mở bài, thân bài, kết bài) về thể
loại kể chuyện, tả đồ vật, con vật, cây cối,... Lên lớp 5, học sinh bắt đầu được
học thể loại văn tả cảnh. Bài luyện tập tả cảnh này là tiết thứ tư học sinh học thể
loại văn tả cảnh. Trước tiết luyện tập này học sinh đã được học về cấu tạo bài
văn tả cảnh và có hai tiết luyện tập để tìm hiểu sâu hơn về cấu tạo bài văn, cách
sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong bài văn miêu tả, cách lập dàn ý một bài văn tả
cảnh. Do đó, ở tiết luyện tập này giáo viên chỉ dùng câu hỏi gợi ý giúp học sinh
nhắc nhanh lại các kiến thức đã học có liên quan: Cấu tạo bài văn tả cảnh, cách
mở bài, kết bài, cách lập dàn ý. Chẳng hạn:
- Ở bài tập 1, GV có thể yêu cầu HS nêu:
+ Bài văn “Mưa rào” gồm có mấy đoạn?

+ Nêu cách mở bài, kết bài của bài văn này?
- Ở bài tập 2, trước khi học sinh tiến hành lập dàn ý, GV có thể yêu cầu
HS nêu:
+ Cấu tạo chung của bài văn tả cảnh.
+ Phần thân bài có thể được viết theo trình tự nào? (thời gian, không gian,
hay từng bộ phận của cảnh).
GV có thể lưu ý thêm: Các em có thể chọn cho mình cách mở bài, kết bài, trình
tự miêu tả sao cho phù hợp.
Như vậy, để học sinh học tốt phân môn tập làm văn 5, thì những kiến thức
và kĩ năng viết văn ở các tiết Tập làm văn trước đó, ở các lớp trước đó cũng đều
phải học tốt thì HS mới có ngữ liệu, có kĩ năng để vận dụng và thực hiện được
vào bài học một cách thuận lợi, dễ dàng. Có thể nói rằng, tính tích hợp được vận
dụng trong phạm vi phân môn Tập làm văn là tích hợp theo chiều dọc. Vì vậy,
để chất lượng phân môn Tập làm văn được nâng cao thì học cũng phải học tốt
ngay trong từng bài học, tiết học có như vậy không những học sinh có thêm kiến
thức, kĩ năng giao tiếp và hiểu biết của bản thân mà nó còn là công cụ để học
tiếp các bài học tiếp theo và các lớp học, cấp học cao hơn.
* Đối với phân môn Chính tả
Phân môn này giúp học sinh viết đúng các tiếng, từ, các chữ hoa,... theo
đúng luật chính tả. Học sinh sử dụng đúng các tiếng từ phổ thông tránh sử dụng
các tiếng địa phương không phổ biến. Vì vậy, khi dạy, giáo viên cần lưu ý:
+ Ở bài tập1, giáo viên giúp các em đọc đúng thông qua đó các em nhận
biết được các tiếng từ đó đã viết đúng theo luật chính tả, tiếng phổ thông.
8


+ Ở bài tập 2: Khi học sinh lập dàn ý giáo viên nhắc nhở các em viết các
tiếng từ một cách có ý thức sao cho đúng chính tả, đúng tiếng phổ thông tránh
viết các từ địa phương không phổ biến.
* Như vậy, có thể thấy rằng việc dạy cho học sinh viết chính tả một cách

có ý thức và dạy cho học sinh viết chính tả theo phương ngữ là một việc làm rất
cần thiết góp phần giúp cho học sinh khi viết văn tránh sai lỗi chính tả, để người
đọc, người nghe không hiểu sai lệch văn bản mà người viết muốn trình bày. Việc
dạy tốt phân môn chính tả cho học sinh sẽ góp phần không nhỏ nâng cao chất
lượng dạy học Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
b) Sự kết hợp bài học đối với các môn học khác
Đối với văn tả cảnh thì việc kết hợp với các môn học khác là điều rất cần
thiết giúp cho các em có hiểu biết sâu rộng về thiên nhiên, cây cỏ, sự vật, hiện
tượng, con người ... đang hiện hữu và diễn ra hằng ngày xung quanh các em.
Các em còn được biết những gì đã xảy ra trong quá khứ và nững gì có thể đến
với các em trong tương lai gần. Từ đó, giúp các em có một vốn từ ngữ thật
phong phú, giúp các em có thể lựa chọn và sử dụng đúng, hay và chính xác các
từ ngữ, hình ảnh theo đúng yêu cầu của dạng bài văn tả cảnh. Chẳng hạn:
- Ở bài tập 1; 2: HS có nắm vững kiến thức của môn Tự nhiên và Xã hội,
Khoa học, phân môn Địa lí,... thì các em mới nhận biết được:
+ Các dấu hiệu báo cơn mưa sắp đến.
+ Các sự vật: con vật, cây cối, bầu trời, mây,...
+ Các hiện tượng: gió, mưa,...
+ Các giác quan sử dụng để quan sát sự vật hiện tượng: thị giác (mắt),
thính giác (tai), xúc giác (da), khứu giác (mũi),...
Khi dạy đến những kiến thức này, giáo viên có thể dùng câu hỏi gợi mở
giúp học sinh nhớ lại các kiến thức đã học có liên quan để các em nhận biết và
vận dụng được vào bài học.
Vì vậy, có thể nói rằng học sinh học tốt các môn học khác như Tự nhiên
và Xã hội, Khoa học, Lịch sử và Địa lí, Đạo đức,... cũng góp phần khong nhỏ
vào việc nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn.
Biện pháp 3: Huy động vốn hiểu biết trong cuộc sống của học sinh
Để bài văn học sinh viết được một cách chân thực, giàu hình ảnh, giàu
cảm xúc,... thì việc huy động vốn hiểu biết từ cuộc sống xung quanh của các em
là điều hết sức cần thiết. Nếu vốn sống của các em phong phú thì vốn từ của các

em giàu thêm, từ đó giúp cho các em sử dụng từ ngữ của các em cũng được
chính xác, phù hợp và hay hơn giúp cho bài văn càng thêm chân thực, giàu hình
ảnh, giàu cảm xúc. Nếu vốn sống của các em ít thì vốn từ ngữ sẽ nghèo nàn, học
sinh có thể dùng nhiều từ ngữ lặp, bài văn trở nên khô khan, nội dung sơ sài.
Chẳng hạn:
- Ở bài tập 1: Giáo viên có thể dùng câu hỏi gợi mở giúp học sinh huy
động thêm vốn sống, vốn hiểu biết về môi trường xung quanh của các em để các
em có thể vận dụng được vào bài học.
+ Theo sự quan sát và kinh nghiệm trong thực tế các em thường thấy
9


những dấu hiệu nào cho biết cơn mưa sắp đến?
+ Em thường quan sát thấy cảnh vật sau cơn mưa như thế nào?
- Ở bài tập 2: Để học sinh có thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ, hình ảnh, ...
từ thực tế và cơn mưa thì trước khi học bài này, ở tiết học trước đó giáo viên yêu
cầu học sinh về nhà quan sát hoặc nhớ lại những gì em đã được tận mắt chứng
kiến về một cơn mưa, ghi chép lại để chuẩn bị cho bài lập dàn ý về tả cơn mưa.
* Phương pháp dạy bài “Luyện tập tả cảnh”, Tiết 5 - Tập làm văn 5
a. Phương pháp
Đối với bài này tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp đàm thoại gợi mở.
- Phương pháp thảo luận.
- Phương pháp thực hành luyện tập.
b. Hình thức tổ chức dạy học
Cá nhân; Nhóm nhỏ; Cả lớp.
c. Cách tiến hành
Hoạt động 1: Bài tập 1
* Mục tiêu: Qua phân tích bài “Mưa rào”, giúp học sinh hiểu thêm về
cách quan sát và chọn lọc chi tiết trong một bài văn tả cảnh.

* Cách tiến hành:
- Trước hết tôi cho một học sinh đọc toàn bộ nội dung Bài tập 1. Cả lớp
theo dõi trong SGK. HS cả lớp đọc thầm lại bài văn “Mưa rào”.
- Gv yêu cầu HS đọc thầm, đọc lướt trao đổi nhóm đôi, trả lời các câu hỏi:
a. Những dấu hiệu nào báo cơn mưa sắp đến?
b. Tìm những từ ngữ tả tiếng mưa và hạt mưa từ lúc bắt đầu đến lúc kết
thúc cơn mưa.
c. Những từ ngữ tả cây cối, con vật, bầu trời trong và sau cơn mưa.
d. Tác giả đã quan sát cơn mưa bằng những giác quan nào?
- GV khuyến khích HS đại diện các nhóm lần lượt phát biểu ý kiến.
+ HS trả lời câu a, cả lớp và GV nhận xét, chốt lời giải:
Mây: nặng, đặc xịt, lổm ngổm đầy trời, tản ra từng nắm nhỏ rồi san đều
trên một nền đen xám xịt.
Gió: thổi giật, đổi mát lạnh, nhuốm hơi nước, khi mưa xuống, gió càng
mạnh, mặc sức điên đảo trên cành cây.
GV nêu thêm câu hỏi: Theo sự quan sát và kinh nghiệm trong thực tế em
thường thấy những dấu hiệu nào cho biết cơn mưa sắp đến?
+ HS trả lời câu b, cả lớp và GV nhận xét, chốt lời giải:
Tiếng mưa: Lúc đầu: lẹt đẹt ... lẹt đẹt, lách tách.
Về sau: mưa ù xuống, rào rào, sầm sập, đồm độp, đập bùng
bùng vào lòng lá chuối, giọt tranh đổ ồ ồ.
GV nêu thêm câu hỏi: ? Tìm các từ láy miêu tả tiếng mưa?
Ngoài ra, em có thể tìm thêm các từ ngữ nào nữa miêu tả tiếng mưa rơi?
Hạt mưa: Những giọt nước lăn xuống mai phên nứa rồi tuôn rào rào mưa
xiên xuống, lao xuống, lao vào bụi cây; hạt mưa giọt ngã, giọt bay, toả bụi nước
10


trắng xoá.
GV nêu thêm câu hỏi: Khi tả hạt mưa tác giả sử dụng một loạt động từ,

em hãy nêu các động từ đó?
+ HS trả lời câu c, cả lớp và GV nhận xét, chốt lời giải:
Trong mưa:
- Lá đào, lá na, lá sói vẫy tai run rẩy
- Con gà sống lướt thướt ngật ngưỡng tìm chỗ trú.
- Cuối cơn mưa, vòm trời tối thẫm vang lên một hồi ục ục ì ầm những
tiếng sấm của mưa mới đầu mùa.
GV nêu thêm câu hỏi: Câu văn nào cho thấy tác giả đã sử dụng biện pháp
nhân hoá? (Lá đào, lá na, lá sói vẫy tai run rẩy.)
Sau trận mưa:
- Trời rạng dần.
- Chim chào mào hót râm ran.
- Phía đông một mảng trời trong vắt.
- Mặt trời ló ra, chói lọi trên những vòm lá bưởi lấp lánh.
GV hỏi thêm: Em thường quan sát thấy cảnh vật sau cơn mưa như thế
nào?
+ HS trả lời câu hỏi d, cả lớp và GV nhận xét, chốt lời giải:
Trước khi HS trả lời GV nêu thêm câu hỏi gợi ý: Để quan sát, cảm nhận
cảnh vật xung quanh người ta thường dùng những giác quan nào?
Đáp án câu hỏi d:
+ Bằng mắt nhìn (thị giác) nên thấy những đám mây biến đổi trước cơn
mưa; thấy mưa rơi; những đổi thay của cây cối, con vật, bầu trời, cảnh tượng
xung quanh khi mưa tuôn, lúc mưa ngớt.
+ Bằng tai nghe (thính giác) nên nghe thấy tiếng gió thổi; sự biến đổi của
tiếng mưa; tiếng sấm; tiếng hót của chào mào.
+ Bằng cảm giác của làn da (xúc giác) nên cảm thấy sự mát lạnh của làn
gió nhuốm hơi nước mát lạnh trước cơn mưa.
+ Bằng mũi ngửi (khứu giác) nên biết được mùi nồng ngai ngái, xa lại
man mác của những trận mưa mới đầu mùa.
* GV kết luận chung cho hoạt động: Tác giả đã quan sát cơn mưa rất tinh

tế bằng tất cả các giác quan. Quan sát cơn mưa từ lúc có dấu hiệu báo mưa đến
khi mưa tạnh, tác giả đã nhìn thấy, nghe thấy, ngửi và cảm thấy sự biến đổi của
cảnh vật, âm thanh, không khí, tiếng mưa, ... nhờ khả năng quan sát tinh tế, cách
dùng từ ngữ miêu tả chính xác và độc đáo, tác giả đã viết được một bài văn miêu
tả cơn mưa rào đầu mùa rất chân thực, thú vị.
Hoạt dộng 2: Bài tập 2
* Mục tiêu: Giúp HS biết chuyển điều quan sát được về một cơn mưa
thành một dàn ý thể hiện sự quan sát của riêng mình; biết trình bày dàn ý trước
các bạn rõ ràng, tự nhiên.
* Cách tiến hành:
- Gọi 1 HS đọc yêu cầu của bài tập.
11


- Gv kiểm tra sự chuẩn bị cho tiết học đã dặn và giao việc về nhà ở tiết
trước: Quan sát và ghi lại kết quả quan sát một cơn mưa.
- Gv nêu câu hỏi gợi ý, giúp HS nhớ lại một số kiến thức đã học để lập
dàn ý:
Bài văn thường có cấu tạo mấy phần? Đó là những phần nào? (3 phần: mở
bài, thân bài, kết bài).
Người ta thường mở bài theo kiểu nào? (trực tiếp hoặc gián tiếp).
Có những cách kết bài nào? (mở rộng, không mở rộng, một cách tự
nhiên)
Phần thân bài, cảnh có thể được miêu tả theo trình tự nào? (thời gian,
không gian, từng bộ phận cảnh).
- Dựa trên kết quả quan sát, mỗi HS tự lập dàn ý vào vở bài tập. Gv phát
giấy khổ to và bút dạ cho 2 HS.
- GV gọi lần lượt 5 HS dựa vào dàn ý đã viết) tiếp nối nhau trình bày. cả
lớp và GV nhận xét. Gv chấm.
- Gv mời lần lượt 2 HS làm bài trên giấy khổ to đính bài lên bảng lớp,

trình bày kết quả cho cả lớp và Gv nhận xét, bổ sung, xem như là một mẫu để
HS cả lớp tham khảo.
- Gv chấm nhanh các dàn ý còn lại.
Hoạt động nối tiếp
- GV nhận xét tiết học.
- GV yêu cầu HS về nhà hoàn chỉnh lại dàn ý bài văn tả cơn mưa; chọn
trước một phần trong dàn ý để chuẩn bị chuyển thành một đoạn văn trong tiết
học tới.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi nghiên cứu và tìm ra được một số biện pháp vận dụng tính tích
hợp vào bài dạy, tôi tiến hành soạn bài theo đúng tinh thần có điều chỉnh và cải
tiến thêm một số biện pháp ở trên và thực hiện trên tiết dạy trên lớp của mình
(Lớp 5B - Trường TH Quảng Thành – Tp Thanh Hóa) kết quả thu được như sau:
Nhận xét
Số lượng
Tỉ lệ
Học sinh biết làm bài văn hay, có hình ảnh, có
5em
15,7%
cảm xúc, có sáng tạo.
Học sinh biết cách làm bài văn, biết sắp xếp ý,
10em
31,2%
dùng từ phù hợp.
Học sinh biết cách làm bài văn có bố cục rõ ràng
16em
50%
nhưng còn sa vào kể lể, liệt kê.
Học sinh chưa biết cách diễn đạt, nội dung bài
1em

3,1%
viết còn lan man.
- Tôi tiếp tục phát huy biện pháp tích cực đó vào các bài luyện tập tả cảnh
tiếp theo kết quả thu được sau khi chấm bài viết văn tả cảnh là:
Nhận xét

Số lượng

Tỉ lệ
12


Học sinh biết làm bài văn hay, có hình ảnh, có
cảm xúc, có sáng tạo.
Học sinh biết cách làm bài văn, biết sắp xếp ý,
dùng từ phù hợp.
Học sinh biết cách làm bài văn có bố cục rõ ràng
nhưng còn sa vào kể lể, liệt kê.
Học sinh chưa biết cách diễn đạt, nội dung bài
viết còn lan man.

7em

21,7%

12em

37,6%

13em


40,7%

0em

0%

- Nhận thấy hiệu quả lớn của việc vận dụng tính tích hợp vào trong việc
dạy phân môn Tập làm văn nói chung, các bài văn tả cảnh nói riêng, tôi tiếp tục
vận dụng một cách tích cực các biện pháp đó và nó đã đem lại kết quả khả quan
cho môn Tiếng Việt. Cụ thể, kết quả tổng hợp sau khi kiểm tra cuối kì I của phân
môn Tập Làm văn là:
Nhận xét
Học sinh biết làm bài văn hay, có hình ảnh, có
cảm xúc, có sáng tạo.
Học sinh biết cách làm bài văn, biết sắp xếp ý,
dùng từ phù hợp.
Học sinh biết cách làm bài văn có bố cục rõ ràng
nhưng còn sa vào kể lể, liệt kê.
Học sinh chưa biết cách diễn đạt, nội dung bài
viết còn lan man.

Số lượng
10em

Tỉ lệ
31,2%

12em


37,6%

10em

31,2%

0em

0%

Qua các lần chấm bài viết của học sinh, xác định các loại lỗi mà HS
thường mắc phải, tôi nhận thấy rằng hầu như HS không mắc lỗi lớn. Các em đã
biết cách viết bài văn một cách chân thực, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc làm cho
bài viết trở nên sinh động, hấp dẫn. Không còn thấy lỗi viết văn như trước đây
HS hay viết theo khuôn mẫu, sáo rỗng, thiếu tính chân thực và cảm xúc, ...
nhưng do các em ở địa bàn còn mang nặng tiếng địa phương do đó một vài em
còn sử dụng tiếng địa phương vào trong bài viết dẫn đến mắc lỗi về chính tả ở
một số tiếng từ có thể khắc phục được.
Từ những kết quả khả quan đó cho thấy việc vận dụng tính tích hợp vào
trong dạy học nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng là điều cần
thiết góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy - học hiện nay.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này tôi thấy:
Để việc dạy học Tập làm văn tốt quả không phải dễ mà nó đòi hỏi sự đầu
tư nghiên cứu, nhiệt tình của người thầy qua đó giờ Tập làm văn trở nên nhẹ
nhàng, gây hứng thú với học sinh từ đó mới giúp các em sản sinh ra những bài
văn hay, chân thực, giàu cảm xúc. Muốn vậy chúng ta cần sử nhiều phương pháp
13



dạy học sao cho phù hợp với đối tượng HS của mình, trong đó sử dụng tính tích
hợp khi dạy học phân môn này mang tính khả quan hơn cả. Bởi phân môn Tập
làm văn là phân môn được tích hợp các kiến thức và kĩ năng của các phân môn
khác trong môn Tiếng Việt. Chính vì vậy, để phân môn Tập làm văn đạt hiệu quả
cao thì việc dạy học các phân môn trong Tiếng Việt đều phải đạt kết quả tốt.
Người dạy phải biết liên kết xâu chuỗi các kiến thức, kĩ năng có liên quan với
nhau. Giúp người học biết vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào hoạt động
thực hành. Trong quá trình dạy học, người dạy phải biết bao quát toàn bộ nội
dung chương trình môn học, nắm vững cấu trúc và mục tiêu của chương trình,
mục tiêu của từng chủ đề, từng đơn vị học và từng bài học cụ thể. Tìm hiểu sự
liên kết các kiến thức kĩ năng theo chủ đề, theo cấu trúc nội dung chương trình
để từ đó lập được những kế hoạch bài học tốt nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học.
2. Kiến nghị
Để nâng cao chất lượng dạy học Tập làm văn tôi xin đề xuất một số ý kiến
sau:
- Các cấp lãnh đạo thường xuyên triển khai các chuyên đề hoặc tổ chức
các hội thảo để giáo viên tiểu học có thể tiếp cận, trao đổi học hỏi kinh nghiệm
phục vụ cho việc dạy học, giáo dục học sinh.
- Các cấp các ngành cần coi trọng việc giáo dục học sinh là trách nhiệm
của toàn xã hội.
- Tăng cường bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
- Khi lập kế hoạch bài dạy văn tả cảnh cho HS giáo viên cần chú ý để HS
được rèn kĩ năng quan sát, có thể bằng tranh ảnh hoặc quan sát thực tế từ đó các
em biết tả cảnh theo sự cảm nhận của riêng mình.
- Không được xem nhẹ hoặc hời hợt bất kì một phân môn nào trong Tiếng
Việt, các kĩ năng mà các em học được thông qua các phân môn này sẽ hỗ trợ tốt
nhất cho HS học Tập làm văn.
- Khi chấm và nhận xét bài văn của HS giáo viên cần chú ý lời phê sao

cho có tính khích lệ động viên.
- Phải tạo được sự hứng thú của HS khi học Tập làm văn.
- GV có thể mạnh dạn thay đổi bổ sung thêm một số câu hỏi, bài tập trong
sách giáo khoa sao cho phù hợp với trình độ HS của lớp của địa phương.
- Cha mẹ học sinh phải chú ý chăm sóc con cái chu đáo hơn nữa, kèm cặp
các em học đúng phương pháp, giáo dục các em những điều hay lẽ phải.
- Bản thân mỗi giáo viên cần phải yêu nghề, mến trẻ tâm huyết với nghề
hơn nữa, đầu tư cả về thời gian lẫn công sức. Tự học tự bồi dưỡng để nâng cao
trình độ của mình.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi trong quá trình dạy học
bài Luyện tập tả cảnh (tiết 5) - Tập làm văn 5 nói riêng và dạy Tập làm văn tả
cảnh cho HS lớp 5 nói chung tôi thấy các biện pháp như đã nêu trên mang lại
hiệu quả cao. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện SKKN này
không tránh được thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến quý
báu của cấp trên và của đồng nghiệp để SKKN của tôi được hoàn thiện hơn.
14


XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Lê Thị Phương Thảo

Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết số 29- Hội nghị Trung ương 8 khóa XI - BCH TW

2. Luật giáo dục - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2002.
3. Luật PCGDTH
4. Điều lệ trường Tiểu học
5. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học – NXB Đại học Sư phạm

15


16



×