MỤC LỤC
STT
Tên mục
Trang
1
A. Mở đầu
2
2
I. Lí do chọn đề tài
2
3
II. Mục đích nghiên cứu
3
4
III. Đối tượng nghiên cứu
3
5
IV. Phương pháp nghiên cứu
3
6
B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
7
I. Cơ sở lí luận
3
8
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
4
9
III.Các giải pháp thực hiện đề tài
5
10
5
11
1. Hướng dẫn học sinh xác định đề bài
1.1. Nhận diện đề nghị luận xã hội
12
1.2.Phân biệt các dạng đề nghị luận xã hội
6
13
1.2.1. Dạng đề nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
6
14
1.2.2. Dạng đề nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí
6
15
1.3. Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu đề bài
7
16
2. Hướng dẫn học sinh xác định luận điểm chính ( tìm ý)
9
17
3. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý
9
18
3.1. Mục đích của việc lập dàn ý
9
19
3.2. Cấu trúc của một dàn ý
10
20
10
21
3.2.1. Đối với dạng bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng
đời sống
3.2.2. Đối với dạng bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí
22
4. Hướng dẫn học sinh tìm dẫn chứng
16
23
20
24
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
C. Kết luận và kiến nghị
25
I. Kết luận
18
26
II. Kiến nghị
19
5
12
18
1
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Sinh thời Mác-xim Go-rơ-ki, đại văn hào Nga cho rằng “Văn học là nhân
học”. Đúng vậy, văn học là bộ môn khoa học về con người, góp phần xây dựng
tâm hồn, tình cảm, nhân cách của con người. Chính vì vậy mà mơn Ngữ văn
trong nhà trường phổ thơng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc giáo dục quan
điểm, tư tưởng... cho học sinh. Đồng thời đây cũng là môn học thuộc nhóm cơng
cụ, thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác
động tích cực tới các mơn học khác và ngược lại, các mơn học khác cũng góp
phần học tốt mơn Ngữ văn. Điều đó đặt ra u cầu tăng cường tính thực hành,
giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức sinh động
của cuộc sống.
Môn Ngữ văn trong nhà trường THCS hiện nay gồm ba phân môn là tiếng
Việt, văn học và tập làm văn. Trong đó tập làm văn là phân mơn mang tính chất
thực hành tổng hợp. Mỗi bài làm văn có thể coi là một “tác phẩm nhỏ” của học
sinh, phản ánh khá rõ nhận thức, kĩ năng, tình cảm của học sinh, là cơ hội để các
em bộc lộ rõ nét nhất, tập trung nhất vốn hiểu biết nhiều mặt cũng như các phẩm
chất và năng lực của mình.
Ở chương trình Tập làm văn lớp 9, học sinh chủ yếu được thực hành kiểu
bài văn nghị luận, gồm nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Nếu như trước
đây, làm văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị luận văn học khiến cho học
sinh luôn cảm thấy văn chương xa rời cuộc sống thì vài năm trở lại đây kiểu bài
nghị luận xã hội được đưa vào là một nỗ lực đổi mới chương trình Ngữ văn
trong nhà trường phổ thông. Cùng với nghị luận văn học, kiểu bài nghị luận xã
hội góp phần hình thành các kĩ năng cơ bản cho học sinh trong việc tạo lập văn
bản, đồng thời cung cấp cho các em nhiều tri thức về đời sống chính trị, xã hội
giúp các em có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề thiết thực
trong đời sống thực tế đang diễn ra xung quanh mình, rèn luyện nâng cao phẩm
chất tư tưởng, đạo đức của bản thân. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy, giáo viên
rất chú trọng rèn kĩ năng làm kiểu bài này cho học sinh. Với trách nhiệm của
một người thầy, chúng tôi luôn mong muốn giúp các em học sinh tiếp cận được
vấn đề, hiểu và giải quyết được vấn đề đặt ra. Từ đó, bồi dưỡng cho các em sự
u thích đối với mơn học và cũng là để góp phần làm phong phú thêm đời sống
tâm hồn, tình cảm, hình thành kỹ năng sống cho các em từ những vấn đề xã hội
được tiếp cận. Đồng thời, những vấn đề được đặt ra từ các đề bài làm văn nghị
luận xã hội cũng góp phần thiết thực vào việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách
cho học sinh, trở thành hành trang tri thức, góp phần chuẩn bị cho các em tự tin
bước vào đời.
Tuy nhiên, đây là kiểu bài nghị luận khó nên kết quả mà chúng tôi nhận
được thường không như mong muốn. Các em còn lúng túng, hành văn chưa
mạch lạc, chặt chẽ, nhất là còn chưa biết thể hiện, bày tỏ quan điểm của mình
trước các vấn đề xã hội. Bài làm của các em thường sơ sài, chung chung, lan
man, có khi xa đề, lạc đề.... Có bài chỉ viết được 7 đến 8 dịng là hết, có nhiều
2
em khơng biết xây dựng luận điểm, cịn có một số em bỏ qua không làm dạng
câu này…Kết quả thi vào lớp 10 môn Ngữ văn của trường THCS Thành Long
nhiều năm qua thường đứng tốp cuối trong Huyện. Thực trạng ấy làm tôi- giáo
viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn của nhà trường phải trăn trở, suy nghĩ. Vì vậy,
tôi đã tiến hành đồng thời nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học
Ngữ văn nói chung, đặc biệt là kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh. Và
vì thế tơi đã mạnh dạn thực hiện đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 9 trường
THCS Thành Long một số kĩ năng viết bài văn nghị luận xã hội đạt hiệu quả
trong kì thi vào lớp 10 THPT.
II. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh
trường THCS Thành Long nắm được một số những phương pháp và kĩ năng cơ
bản để làm bài nghị luận xã hội trong kì thi vào lớp 10 THPT. Đồng thời thơng
qua q trình rèn luyện viết bài nghị luận xã hội giúp học sinh biết cách và mạnh
dạn hơn khi trình bày quan điểm của mình trước một vấn đề xã hội nào đó. Từ
đó, các em tự nâng cao nhận thức và kĩ năng sống, biết sống tốt hơn và từng
bước hồn thiện nhân cách của mình.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung hướng dẫn học sinh lớp
9 trường THCS Thành Long một số kĩ năng viết bài văn nghị luận xã hội đạt
hiệu quả trong kì thi vào lớp 10 THPT.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê - phân loại
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp thực nghiệm...
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Trước hết, chúng ta cần làm rõ khái niệm nghị luận xã hội. "Nghị luận là
dùng lập luận để phân tích ý nghĩa, phải, trái, đúng, sai, bàn bạc, mở rộng vấn
đề. Cịn xã hợi là một tập thể người cùng sống, gắn bó với nhau trong quan hệ
sản xuất và các quan hệ khác. Cũng có thể hiểu xã hợi là những gì thuộc về quan
hệ giữa người và người về các mặt tư tưởng, đạo đức, lối sống, chính trị, kinh tế,
triết học, lịch sử, văn học, ngơn ngữ…." [1]. Từ đó có thể hiểu nghị luận xã hội
là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc, đánh giá các vấn đề liên quan đến con
người, đến xã hội, đến các mối quan hệ của con người trong đời sống. Mục đích
cuối cùng của nó là đưa ra một cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận, tạo ra
những tác động tích cực đến con người và những mối quan hệ giữa người với
người trong xã hội.
Đối tượng và phạm vi phản ánh của nghị luận xã hội trong trường phổ
thông hết sức phong phú, đa dạng, bao gồm tất cả những vấn đề về tư tưởng, đạo
3
đức, lối sống, quan điểm, các mối quan hệ của con người trong xã hội; Và đặc
trưng nổi bật trong văn nghị luận xã hội là tính thời sự. Hầu như tất cả các vấn
đề nổi cợm, nóng bỏng, báo động....đang diễn ra trong xã hội, được dư luận quan
tâm đều có thể trở thành đối tượng nhận diện, phản ánh, bàn luận của văn nghị
luận xã hội. Nhờ tính thời sự mà văn nghị luận xã hội có khả năng phản ánh
chính xác, trung thực các hiện tượng, các vấn đề xảy ra trong xã hội, từ đó đánh
thức người học thái độ quan tâm đến đời sống xã hội, trang bị cho học sinh tư
duy nhạy bén với cuộc sống. Đặc trưng này đã tạo cho văn nghị luận xã hội sự
hấp dẫn, mới mẻ; Ngoài ra, mục đích của nghị luận xã hội là tạo ra những tác
động tích cực đến nhận thức, đến tư tưởng con người mà trước hết là sự thay đổi
nhận thức, tư tưởng của người viết. Trước một vấn đề xã hội, người làm văn
nghị luận xã hội không chỉ đưa ra ý kiến, quan điểm của bản thân mà còn biết đề
xuất những hành động, giải pháp cụ thể, thiết thực để thay đổi và cải tạo vấn đề.
Do đó đặc trưng của văn nghị luận xã hội cịn là tính ứng dụng thực tiễn, tính
hành động trong nhận thức và tư tưởng của người viết; Đặc biệt, làm văn nghị
luận xã hội khơng có một khn mẫu có sẵn vì bản thân đề nghị luận xã hội ln
mới. Do đó, nó kích thích sự khám phá, tìm tịi, sáng tạo, linh hoạt ở cả người
dạy và người học.
Như vậy, để làm nổi bật được mục đích và đặc trưng trên của văn nghị luận
xã hội đòi hỏi người viết phải có kĩ năng làm văn. Vậy kĩ năng làm văn là gì? Kĩ
năng làm văn chính là cách thức tổ chức sắp xếp các yếu tố hoặc các phương
tiện ngôn ngữ để thể hiện nội dung giao tiếp cần truyền đạt dưới hình thức văn
bản sao cho đạt hiệu quả cao nhất trong làm văn. Trong làm văn, kĩ năng tạo lập
văn bản là kĩ năng quan trọng nhất. Bao gồm kĩ năng phân tích đề, kĩ năng tìm ý
và lập dàn ý, kĩ năng diễn đạt, kĩ năng trình bày, hồn chỉnh bài viết...Mỗi kĩ
năng trên có vai trị và nhiệm vụ riêng nhưng chúng liên quan chặt chẽ với nhau
nhằm tạo ra một văn bản nghị luận xã hội tác động sâu sắc đến nhận thức người
đọc.
Văn nghị luận xã hội được đưa vào chương trình các cấp học từ THCS đến
THPT. Đề văn nghị luận xã hội là một trong những tiêu chí đánh giá quan trọng
trong các bài kiểm tra thường xuyên, định kì, thi học kì, thi học sinh giỏi, thi vào
lớp 10 THPT, kì thi THPT quốc gia. Sự đổi mới này đã đem lại khơng ít cơ hội
cho việc rèn luyện năng lực tư duy và phát triển toàn diện cho học sinh. Đối với
các em học sinh lớp 9, các bài văn nghị luận xã hội thường mang đến cho các
em những suy nghĩ và nhận thức đúng đắn về cuộc sống, có ý nghĩa hướng đạo,
đặc biệt là uốn nắn nhận thức cho các em về những vấn đề có tính hai mặt của
đời sống xã hội đang tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ.
II.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Nghị luận xã hội có tầm quan trọng là thế. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng
quan vấn đề giảng dạy kiểu bài này trong nhà trường THCS hiện nay thì vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Trước hết, về thời lượng chương trình dành cho dạy kiểu bài này chỉ có 5
tiết( trong đó 2 tiết cho dạng bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
4
và 3 tiết cho dạng bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí). Thực tế đó
khiến học sinh khơng có điều kiện để rèn luyện nghị luận xã hội một cách
thường xuyên. Bên cạnh đó một số giáo viên vẫn còn nhiều lúng túng trong cách
dạy, nhất là chưa có những tìm tịi, nghiên cứu sâu để tìm ra phương pháp giảng
dạy phù hợp, chưa có tính khái quát, xâu chuỗi về đặc trưng và phương pháp
giải quyết kiểu đề này.
Về phía học sinh, theo xu thế của xã hội, một bộ phận lớn học sinh không
đầu tư học môn Văn, ngại làm văn. Nhất là làm văn nghị luận xã hội( dạng văn
mới, khó) khiến các em càng nản, thậm chí bỏ qua dạng câu hỏi ấy. Cịn một bộ
phận học sinh khác thì nắm vững lí thuyết mà thiếu kĩ năng thực hành, vận dụng
vào thực tiễn. Nhiều em hoàn toàn thờ ơ trước những thơng tin thời sự nóng hổi,
những vấn đề cấp bách được cả xã hội quan tâm. Nhiều em sống khép kín, thiếu
sự tương tác, giao cảm với bạn bè, với những người xung quanh, với những cảnh
ngộ, những thân phận vơ tình bắt gặp...khiến giáo viên gặp rất nhiều khó khăn
trong việc giảng dạy văn nghị luận xã hội. Đặc biệt đối với học sinh lớp 9 của
trường THCS Thành Long, ngồi thực trạng trên, thì giáo viên Ngữ văn cịn gặp
khó khăn hơn nữa khi giảng dạy cách làm bài nghị luận xã hội. Bởi Thành Long
là một xã vùng khó của Huyện, nghề nghiệp chủ yếu là thuần nơng, sản xuất
cịn ở trình độ thủ cơng, lạc hậu, lối suy nghĩ kinh nghiệm, ngại đổi mới đã trở
thành thói quen trong lối sống nơi đây. Họ suy nghĩ, hành động, ứng xử và cảm
nhận mọi việc thường theo thói quen chứ khơng có lập trường, chính kiến. Bên
cạnh đó lối sống bó hẹp, khép kín, ít có sự giao thoa văn hóa dẫn đến hạn chế
trong cả ngơn ngữ nói và viết. Tất cả điều đó đã ảnh hưởng đến tư tư tưởng, suy
nghĩ và lối sống của học sinh Thành Long. Nơi đây còn là vùng đồng bào cơng
giáo nên thời gian dành cho học giáo lí, kinh thánh ở nhà thờ khiến các em
khơng cịn thời gian học tập, thực hành làm bài, đọc sách vở, tài liệu, cập nhật
tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng.... nên kiến thức, vốn hiểu biết
càng hạn hẹp ảnh hướng lớn đến học và làm bài văn nghị luận xã hội và cũng
đồng nghĩa với chất lượng môn Ngữ văn thi vào 10 THPT của nhà trường thấp.
KẾT QUẢ BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN SỐ 5 ( NGHỊ LUẬN XÃ HỘI) HS LỚP 9
TRƯỜNG THCS THÀNH LONG NĂM HỌC 2015 – 1016, TRƯỚC KHI THỰC
HIỆN ĐỀ TÀI LÀ:
Khối
lớp
Tổng
số
học
sinh
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
32
0
0
8
25
14
43,8
10
31,2
9B
30
0
0
4
13,3
12
40
14
46,7
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
III. Các giải pháp thực hiện:
1. Hướng dẫn học sinh xác định đề bài:
1.1. Nhận diện đề nghị luận xã hội
Trong cấu trúc của đề thi vào lớp 10 THPT của Sở GD & ĐT tỉnh Thanh
Hóa gồm có ba câu: Một câu tiếng Việt, một câu nghị luận văn học và một câu
5
nghị luận xã hội. Vì trong đề thi có hai câu nghị luận nên học sinh cần phải phân
biệt được hai dạng nghị luận này.
Nghị luận xã hội có đề tài rất rộng, bao gồm tất cả những vấn đề về tư
tưởng, đạo đức, lối sống, những hiện tượng tích cực, tiêu cực trong đời sống,
vấn đề thiên nhiên, môi trường, vấn đề hội nhập, vấn đề giáo dục nhân
cách....Nghĩa là ngoài những tác phẩm văn học( lấy tác phẩm văn học trong nhà
trường làm đối tượng) thì tất cả các vấn đề khác được đưa ra bàn luận đều được
xếp vào dạng nghị luận xã hội. Trên thực tế các đề tài mà đề nghị luận xã hội đề
cập rất phong phú và đa dạng nhưng có thể quy về hai dạng cơ bản: Nghị luận
về một sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí.
1.2.Phân biệt các dạng đề nghị luận xã hội
Đề nghị luận xã hội được quy về hai dạng trên, tuy nhiên sự phân chia
dạng đề chỉ là tương đối vì nhiều khi giới hạn giữa hai dạng đề khơng rõ ràng
nên học sinh khó xác định rạch rịi. Việc nhận diện dạng đề trước khi tìm hiểu đề
rất quan trọng, giúp cho học sinh nhận diện rõ đề thuộc kiểu bài nào để có cách
làm bài phù hợp, định hướng đúng cho bài làm, tránh sai lạc trong quá trình làm
bài.
1.2.1. Dạng đề nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
"Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống xã hội là bàn về một sự
việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề
đáng suy nghĩ" [2] ; có tính bức xúc, cập nhật nóng hổi diễn ra trong đời sống
hàng ngày, được xã hội quan tâm như: học sinh nghèo vượt khó, an tồn giao
thơng, ơ nhiễm mơi trường, thực phẩm bẩn, gian lận trong thi cử, bạo lực học
đường, các tệ nạn xã hội.......Từ đó làm cho người đọc hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu
sâu để đồng tình hoặc bác bỏ trước những hiện tượng đó.
Ví dụ một số đề như sau:
Đề 1: "Trị chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn mải chơi mà sao
nhảng học tập và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến của em về hiện
tượng đó
Đề 2: Việt Nam tuy điều kiện kinh tế hạn chế, cơ sở vật chất chưa phát triển,
nhưng đã có nhiều học sinh đạt huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế về
tốn, lí, ngoại ngữ,....Năm 2004, sinh viên Việt Nam lại đoạt giải vô địch cuộc
thi Robocon châu Á tại Hàn Quốc. Hãy viết bài văn nêu suy nghĩ của em về hiện
tượng đó." [3]
Như vậy học sinh nhận ra dạng đề nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời
sống nhờ vào đối tượng được đề cập và yêu cầu trong đề bài. Đối tượng ở đây là
vấn đề đang xảy ra trong cuộc sống hiện tại, những vấn đề nóng mang tính thời
sự. Và trong đề thường có các từ: hiện tượng, vấn nạn, vấn đề....
1.2.2. Dạng đề nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí:
" Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh
vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, ... của con người" [4]. Giáo viên hướng dẫn học
sinh các lĩnh vực cụ thể:
6
- Về vấn đề nhận thức: lí tưởng, mục đích sống, ước mơ....
- Về vấn đề đạo đức, tâm hồn, tính cách: lịng u nước, lịng nhân ái, tình u
thương, bao dung, độ lượng; tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, khiêm
tốn, vị tha, .....
- Về vấn đề quan hệ trong gia đình: tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em...
- Về vấn đề quan hệ xã hội: tình u q hương, tình thầy trị, tình bạn....
Ví dụ một số đề sau:
Đề 1: "Đạo lí Uống nước nhớ nguồn" [5]
Đề 2: "Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Nguyễn Duy viết:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Câu thơ trên gợi cho em suy nghĩ gì về tình mẫu tử? ( Bài viết khoảng 30 dòng)"
[6]
Đề 3: "Viết bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về đức tính tự tin của con
người trong cuộc sống." [7]
Như vậy, đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí khá đa dạng: có thể nêu
rõ yêu cầu nghị luận, có thể chỉ đưa ra vấn đề nghị luận mà không đưa ra yêu
cầu cụ thể nào. Các lĩnh vực trên có thể được yêu cầu trong đề bài một cách trực
tiếp, cũng có khi gián tiếp qua một câu tục ngữ, ca dao, danh ngơn, châm ngơn,
câu thơ hoặc có thể là một bài thơ, một câu chuyện....
1.3. Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu đề bài:
Mỗi đề làm văn nói chung và mỗi đề văn nghị luận xã hội nói riêng đều có
đặc điểm riêng về nội dung và hình thức nên trước khi làm bài việc xác định yêu
cầu của đề là điều kiện quan trọng giúp học sinh hình dung được tồn bộ hướng
đi của bài viết. Tìm hiểu kĩ đề sẽ tránh được tình trạng lạc đề trong làm bài. Vì
vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh phương pháp chung cho việc tìm hiểu đề
là: Đọc thật kĩ đề, tiếp theo tìm từ hoặc cụm từ then chốt có chứa ẩn ý được gọi
là từ khóa hoặc cụm từ khóa. sau đó giải mã các từ khóa để tìm ra u cầu trọng
tâm của đề là gì. Tóm lại, khi xác định u cầu của đề bài nghị luận xã hội,
chúng ta có thể đặt ra các câu hỏi:
+ Đề thuộc dạng nào?
+ Đề nêu vấn đề gì?
+ Đề yêu cầu gì về nội dung và hình thức?
Ví dụ:
Đề 1: Viết một bài văn ngắn ( khoảng 30 dịng) trình bày suy nghĩ của em về
vấn nạn bạo lực học đường hiện nay.
Học sinh sẽ xác định đề theo các bước sau:
- Về hình thức: một bài văn ngắn(khoảng 30 dòng)
- Về nội dung:
7
+ Đây là dạng đề nghị luận xã hội bởi đề bài đề cập đến một vấn nạn trong xã
hội hiện nay đó là: bạo lực học đường
+ Thuộc dạng nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống vì đề bài có cụm từ:
vấn nạn bạo lực học đường.
+ Học sinh phải xác định được các từ ngữ then chốt trong đề: suy nghĩ, bạo lực
học đường
Đề 2: Viết mợt bài văn ngắn (khoảng 30 dịng) trình bày suy nghĩ của em về đức
tính tự tin của con người trong cuộc sống.
Học sinh sẽ xác định đề theo các bước sau:
- Về hình thức: một bài văn (khoảng 30 dòng)
- Về nội dung:
+ Đây là bài nghị luận xã hội thuộc dạng nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo
lí vì trong đề bài đề cập đến tính cách của con người: tính tự tin
+ Học sinh phải xác định được các từ ngữ then chốt trong đề: suy nghĩ về đức
tính tự tin.
Đề 3: Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Nguyễn Duy viết:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Câu thơ trên gợi cho em suy nghĩ gì về tình mẫu tử? ( Bài viết khoảng 30 dịng)
Học sinh sẽ xác định đề theo các bước sau:
- Về hình thức: một bài văn (khoảng 30 dịng)
- Về nội dung:
+ Đây là bài nghị luận xã hội thuộc dạng nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo
lí vì trong đề bài đề cập đến mối quan hệ trong gia đình: tình mẫu tử
+ Học sinh phải xác định được các từ ngữ then chốt trong đề: kiếp con người;
lời mẹ ru; suy nghĩ về tình mẫu tử.
Đề 4: Trình bày suy nghĩ của em về thói bắt chước từ câu chuyện ngụ ngôn sau
đây bằng bài văn ngắn( khoảng 30 dòng):
Chàng Làng vẫn thường hãnh diện và kiêu ngạo về tiếng hót của mình hơn
hẳn đồng loại. Nó có thể hót tiếng của nhiều lồi chim. Mợt hơm, nhân có mặt
đơng đủ bạn bè họ nhà chim, chú đậu tót lên cành cây cao rồi ưỡn ngực, vươn
cổ cất tiếng hót. Chú hót say sưa, khi thì giống giọng của sáo đen, khi là giọng
của chích chịe, hoạ mi.... Ai cũng khen chú bắt chước giống và tài tình q.
Cuối buổi biểu diễn, mợt chú chim sâu đề nghị: Bây giờ anh hãy hót tiếng của
riêng anh cho bọn em nghe nào! Chàng Làng đứng mãi mà không hót được
giọng của riêng mình, Chàng Làng xấu hổ cất cánh bay thẳng. Bởi vì từ xưa
đến nay, Chàng Làng chỉ quen nhại theo giọng hót của các lồi chim khác chứ
đâu chịu luyện mợt giọng hót riêng cho chính mình.
Học sinh sẽ xác định đề theo các bước sau:
8
- Về hình thức: một bài văn (khoảng 30 dịng)
- Về nội dung:
+ Đây là bài nghị luận xã hội thuộc dạng nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo
lí vì trong đề bài đề cập đến một lối sống của con người: thói bắt chước.
+ Học sinh phải xác định được các từ ngữ then chốt trong đề: bắt chước
Như vậy, từ một số ví dụ trên chúng ta có thể thấy kĩ năng xác định đề bài
có tầm quan trọng như thế nào. Nó giúp học sinh xác định đúng hướng, đúng
trọng tâm yêu cầu của đề bài. Những học sinh vội vàng, hấp tấp bỏ qua cơng
đoạn tìm hiểu đề thì sẽ rất dễ lạc đề, mất điểm.
2. Hướng dẫn học sinh xác định luận điểm chính ( tìm ý):
Trước hết học sinh phải nắm được khái niệm luận điểm. Luận điểm là tư
tưởng, quan điểm... mà người viết muốn đặt ra trong bài văn nghị luận. Và để
tìm luận điểm cho bài văn nghị luận xã hội, người viết cần căn cứ vào vấn đề
cần nghị luận của đề bài. Từ vấn đề cần nghị luận ấy, người viết có thể tìm luận
điểm bằng cách đặt ra và trả lời các câu hỏi để xác định như: là gì? tại sao? như
thế nào? có ý nghĩa gì? cần phải làm gì? Từ luận điểm chính, người viết triển
khai thành các luận cứ, lí lẽ, dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề.
Ví dụ với đề bài: Viết mợt bài văn ngắn ( khoảng 30 dịng) trình bày suy
nghĩ của em về vấn nạn bạo lực học đường hiện nay. Ở bước phân tích đề chúng
ta đã xác định được vấn đề nghị luận là: bạo lực học đường. Ở bước tìm luận
điểm (tìm ý), chúng ta phải xác định được các luận điểm sau: Giải thích bạo lực
học đường là gì? Thực trạng (biểu biện) của vấn nạn này như thế nào? Nguyên
nhân nào dẫn đến? Gây ra những hậu quả gì? Cần phải làm gì để khắc phục vấn
nạn này?
Hoặc với đề bài: Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Nguyễn Duy viết:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Câu thơ trên gợi cho em suy nghĩ gì về tình mẫu tử? ( Bài viết khoảng 30 dịng)
Bước tìm hiểu đề đã xác định được vấn đề nghị luận: tình mẫu tử qua lời
ru. Từ đó chúng ta có thể xác định được các luận điểm sau: Giải thích tình mẫu
tử qua câu thơ; Tình mẫu tử có vai trị và biểu hiện như thế nào? Cần làm gì để
vun đắp tình mẫu tử?
3. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
3.1. Hướng dẫn học sinh xác định mục đích của việc lập dàn ý:
Để làm được một bài văn đúng và hay thì chúng ta phải có những phương
pháp đúng đắn. Một trong số phương pháp để có một bài văn hồn chỉnh và đầy
đủ các ý thì chúng ta phải thiết lập một dàn ý. Dàn ý là một hệ thống những ý
chính giúp bài viết có tính hệ thống và lơ gic, là nội dung sơ lược của bài văn.
Nói cách khác, đó là những hệ thống suy nghĩ, tìm tịi, nhận xét, đánh giá của
học sinh dựa trên yêu cầu cụ thể của đề bài. Có như thế chúng ta sẽ khơng bỏ sót
9
những ý quan trọng. Như vậy, lập dàn ý chính là xây dựng khung kiến thức cơ
bản cho bài viết.
3.2. Cần hướng dẫn học sinh xây dựng được cấu trúc của một dàn ý:
Cách xây dựng cấu trúc của một dàn ý cần dựa vào các luận điểm chính (ý
chính) đã tìm được ở trên, sau đó sắp xếp các ý đã tìm được thành hệ thống ý lớn
nhỏ. Dưới đây là dàn ý chung( mang tính tham khảo) cho từng dạng bài nghị
luận xã hội:
3.2.1. Đối với dạng bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống:
A. Mở bài:
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề ( sự việc, hiện tượng, sự kiện...) cần bàn luận
B. Thân bài:
Ḷn điểm 1: Giải thích(nếu trong đề bài có khái niệm, thuật ngữ...) làm rõ vấn
đề bàn luận.
Luận điểm 2: Thực trạng của hiện tượng – mô tả hiện tượng đời sống được nêu
ở đề bài . Lưu ý: Khi miêu tả thực trạng, cần đưa ra những thông tin cụ thể, tránh
lối nói chung chung, mơ hồ mới tạo được sức thuyết phục.
Luận điểm 3: Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng ( thường có 2 nguyên nhân dẫn
đến: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan)
- Nguyên nhân khách quan : Do môi trường xung quanh, do trào lưu của xã hội,
do gia đình, nhà trường, do các nhân tố bên ngoài tác động,…
- Nguyên nhân chủ quan: Do ý thức , tâm lí, tính cách, ….của con người
Luận điểm 4: Tác hại/ tác dụng, các mặt đúng / sai, lợi / hại của vấn đề.
- Phân tích tác dụng của vấn đề nếu là hiện tượng tích cực.
- Phân tích tác hại của vấn đề nếu là hiện tượng tiêu cực.
- Phân tích cả hai mặt tích cực và hạn chế nếu đề có cả hai mặt.
Tác hại :
+ Đối với mỗi cá nhân ( anh hưởng sức khoẻ, kinh tế, danh dự, hạnh phúc
gia đình, ảnh hưởng tâm lí….)
+ Đối với gia đình, nhà trường, cộng đồng, xã hội
+ Đối với môi trường......
Luận điểm 5: Giải pháp khắc phục đối với hiện tượng tiêu cực; phát huy đối với
hiện tượng tích cực.
Giải pháp : Thơng thường mỗi hiện tượng đều xuất phát từ những nguyên nhân
cụ thể, nguyên nhân nào thì đi kèm với giải pháp ấy.
C. Kết bài:
- Khẳng định lại quan điểm, ý kiến của bản thân về hiện tượng đời sống đã bàn
luận
10
- Rút ra bài học nhận thức và hành động.
Ví dụ minh họa: sau khi tìm hiểu đề và luận điểm là bước lập dàn ý:
Ví dụ 1: Đề 1, trang 7 của SKKN
Học sinh có thể lập dàn ý như sau:
A. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn nạn bạo lực học đường hiện nay.
B. Thân bài:
Luận điểm 1: Giải thích khái niệm:
- Bạo lực học đường là những hành vi thơ bạo, ngang ngược, bất chấp cơng lí
đạo đức xúc phạm, trấn áp người khác gây nên những tổn thương về tinh thần và
thể xác diễn ra trong phạm vi trường học.
Luận điểm 2: Thực trạng, biểu hiện của vấn nạn bạo lực học đường:
- Bạo lực học đường có thể xảy ra dưới nhiều hình thức như:
+ Xúc phạm, lăng mạ, đay nghiến, chà đạp nhân phẩm, danh dự người khác, làm
tổn thương về mặt tinh thần thơng qua lời nói.
+ Đánh đập, tra tấn, hành hạ dã man làm tổn thương về sức khỏe, xâm phạm cơ
thể con người thông qua những hành vi bạo lực.
(Dẫn ra một vài vụ việc bạo lực học đường tiêu biểu gần nhất được báo chí và
các phương tiện thơng tin đại chúng đưa tin)
Luận điểm 3: Nguyên nhân dẫn đến vấn nạn này:
– Nạn bạo lực học đường có thể xuất phát từ những nguyên nhân rất nhỏ: “Nhìn
đểu”, nói móc; tranh giành người yêu; học sinh cá biệt thành lập băng nhóm để
uy hiếp bạn bè; do ảnh hưởng từ những những trò chơi bạo lực; do thiếu khả
năng kiểm soát hành vi ứng xử của bản thân.
- Ngồi ra những ngun nhân sau cũng có thể xảy ra hành vi bạo lực học
đường:
+ Do sự giáo dục chưa đúng đắn, thiếu sự quan tâm của gia đình.
+ Do sự giáo dục của một số nhà trường còn nặng về kiến thức văn hóa mà đơi
khi lãng qn việc dạy kĩ năng sống cho học sinh.
+ Do xã hội cịn thờ ơ, dửng dưng, bng xi, chưa có sự quan tâm đúng mức,
chưa có giải pháp thiết thực, đồng bộ triệt để.
Luận điểm 4: Vấn nạn trên gây ra hậu quả khôn lường:
- Với nạn nhân bị bạo lực: Tổn thương về thể xác và tinh thần.
- Với gia đình: Gây ra sự bất an, lo lắng, hoang mang cho gia đình, người thân....
- Với xã hội: Gây bức xúc trong dư luận, gây tâm lí hoang mang cho thầy cô,
bạn bè, gây nên sự bất ổn cho xã hội.
– Với những người gây ra bạo lực:
+ Bị mọi người lên án, xa lánh, ghét bỏ.
11
+ Mất dần nhân tính, con người phát triển khơng toàn diện.
+ Mầm mống của những tội ác sau này.
Luận điểm 5: Giải pháp khắc phục vấn nạn:
- Phối hợp 3 mơi trường giáo dục: Gia đình – nhà trường – xã hội.
- Mỗi học sinh cần biết kiềm chế bản thân, giữ cho trái tim ln ấm nóng tình
u thương, ý thức rõ ràng về hành động và hậu quả mình gây ra.
C. Kết bài:
- Khẳng định lại: Đây là một vấn nạn vơ văn hóa, phi nhân đạo, thiếu tình người.
- Rút ra bài học cho bản thân.
3.2.2. Đối với dạng bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí:
Như trên chúng ta đã biết đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí khá đa
dạng: có thể nghị luận một tính cách, phẩm chất, mối quan hệ, lối sống, quan
niệm sống cụ thể, trực tiếp; nhưng cũng có thể nghị luận gián tiếp tính cách,
phẩm chất hoặc mối quan hệ, lối sống ấy thông qua một câu danh ngôn, một câu
thành ngữ, tục ngữ, câu thơ, một câu chuyện…Vì vậy học sinh cần nắm chắc kĩ
năng làm bài để vận dụng cho phù hợp.
A. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận
- Trích ra câu thơ, tục ngữ, thành ngữ.... nếu có.
B. Thân bài:
Luận điểm 1 : Giải thích tư tưởng, đạo lí.
- Đầu tiên, cần giải thích những từ trọng tâm, sau đó giải thích cả câu nói: giải
thích các từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có); rút ra ý
nghĩa chung của tư tưởng, đạo lý; quan điểm của tác giả qua câu nói (thường
dành cho đề bài có tư tưởng, đạo lý được thể hiện gián tiếp qua câu danh ngôn,
tục ngữ, thành ngữ, câu thơ…).
( Đối với đề bài nghị luận tư tưởng, đạo lí qua câu chuyện, trước tiên cần giải
thích vấn đề nghị luận, sau đó nêu vắn tắt nội dung câu chuyện)
- Thường trả lời câu hỏi : Là gì?
Luận điểm 2: Bàn luận
- Phân tích và chứng minh các mặt đúng của tư tưởng, đạo lý (thường trả lời câu
hỏi tại sao? như thế nào? Dùng dẫn chứng cuộc sống xã hội để chứng minh. Từ
đó chỉ ra vai trị, tầm quan trọng, tác dụng của tư tưởng, đạo lý đối với đời sống
xã hội).
- Bác bỏ ( phê phán ) những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề : bác bỏ
những biểu hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng, đạo lý vì có những tư tưởng,
đạo lý đúng trong thời đại này nhưng còn hạn chế trong thời đại khác, đúng
trong hoàn cảnh này nhưng chưa thích hợp trong hồn cảnh khác; dẫn chứng
minh họa
- Mở rộng vấn đề:
12
+ Mở rộng bằng cách giải thích và chứng minh.
+ Mở rộng bằng cách đào sâu thêm vấn đề.
+ Mở rộng bằng cách lật ngược vấn đề.
Người viết đưa ra mặt trái của vấn đề, phủ nhận nó là cơng nhận cái đúng,
ngược lại, nếu vấn đề bình luận là sai hãy lật ngược bằng cách đưa ra vấn đề
đúng, bảo vệ cái đúng cũng có nghĩa là phủ định cái sai.
(Trong các bước mở rộng, tuỳ vào từng trường hợp và khả năng của mình mà áp
dụng cho tốt, không nên cứng nhắc)
Luận điểm 3 : Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động ( thường trả
lời câu hỏi Làm thế nào?). Đây là vấn đề cơ bản của một bài nghị luận bởi mục
đích của việc nghị luận là rút ra những kết luận đúng để thuyết phục người đọc
áp dụng vào thực tiễn đời sống.
C. Kết bài:
- Khẳng định lại quan điểm, ý kiến về tư tưởng, đạo lí vừa bàn luận.
- Rút ra bài học cho bản thân
Ví dụ minh họa:
Ví dụ 1: Đề 2, trang 8 của SKKN
Học sinh có thể lập dàn ý như sau:
A. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận: đức tính tự tin của con người trong cuộc
sống.
B. Thân bài:
Luận điểm 1: giải thích vấn đề nghị luận: đức tính tự tin
- "Tự tin là tin vào chính mình, vào năng lực của bản thân mình trước mọi hồn
cảnh.
- Sự tự tin được biểu hiện cụ thể qua học tập, qua giao tiếp, qua sự quyết đốn
trong cơng việc, trong làm ăn....
Ḷn điểm 2: Bàn luận
- Những người có sự tự tin thường chủ động, bản lĩnh trước mọi tình huống,
ln có ý thức khẳng định mình trước mọi người, tin ở khả năng của chính
mình...
- Sự tự tin giúp con người dễ đi đến thành cơng hơn vì người tự tin thường có
khả năng giao tiếp tốt, có những quyết định nhạy bén, sáng suốt, nắm bắt được
cơ hội cho mình
- Mở rộng:
+ Thiếu tự tin là nguyên nhân phần lớn của sự thất bại...
+ Cần phân biệt sự tự tin với tự cao tự đại. Để thành cơng, ngồi sự tự tin, cần
có thái độ cầu tiến, khơng ngừng lắng nghe, học hỏi.
13
+ Trái với sự tự tin là tự ti. Cần phê phán những con người tự ti, mặc cảm,
không tin vào khả năng của bản thân; hoặc những người tự cao, tự đại, đánh giá
quá cao về bản thân mình...
( lựa chọn dẫn chứng)
Luận điểm 3: Bài học nhận thức và hành động:
- Tự tin cần được rèn luyện từ những việc nhỏ nhất như: phát biểu bài, tham gia
các hoạt động tập thể....và phải được rèn luyện trong một q trình.
- Tuổi trẻ phải tích cực học tập, rèn luyện, bồi đắp những giá trị đạo đức, sống
chân thành, trung thực, tự tin." [8]
C. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề vừa bàn luận: Đây là một đức tính tốt, cần có ở mỗi
người.
- Bài học rút ra cho bản thân.
Ví dụ 2: Đề 3, trang 8 của SKKN
Học sinh có thể lập dàn ý như sau:
A. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận: tình mẫu tử qua lời ru.
B. Thân bài:
Luận điểm 1: Giải thích những từ ngữ quan trọng trong câu thơ:
"- Kiếp con người: Cuộc đời của mỗi con người
- Lời mẹ ru: Là tâm hồn, là tấm lòng, là lời yêu thương, là ước mong, lời nhắn
nhủ, khuyên răn, dạy bảo ... của mẹ đối với con.
-> Ở đây tình mẫu tử được thể hiện qua lời ru. Đó là sức sống của tình mẹ đối
với cuộc đời con.
Luận điểm 2: Bàn luận
- Vai trị của tình mẫu tử:
+ Là mơi trường tốt nhất cho sự phát triển tâm hồn và trí tuệ của con người.
+ Là nguồn nuôi dưỡng lương tri, nhân phẩm của con người trong cuộc đời, có ý
nghĩa thiêng liêng và cảnh giới con người khi đứng trước bờ vực của lầm lỡ và
tội ác.
+ Là điểm tựa cho lòng tin, sức mạnh của con người trong cuộc sống. Là nơi
xuất phát cũng là chốn về sau cùng của con người trong cuộc sống đầy những
phức tạp, hiểm nguy.
- Biểu hiện của tình mẫu tử: vơ cùng phong phú, song đều hướng tới cái đích
cuối cùng tất cả là vì con, là cho con.
( lựa chọn dẫn chứng)
- Mở rộng:
14
+ Những người con khơng chỉ biết đón nhận mà cần sống có trách nhiệm và tự
điều chỉnh bản thân để góp phần tỏa sáng giá trị thiêng của tình mẹ.
+Tuy nhiên, trong thực tế vẫn cịn có những người mẹ thiếu trách nhiệm với con
dạy dỗ con không đúng cách, thậm chí bỏ rơi con cái....
+ Phê phán những thái độ vơ ơn, vơ cảm trước tình u và sự hi sinh của mẹ, bất
hiếu với mẹ.(dẫn chứng)
Luận điểm 3: Bài học nhận thức và hành động:
- Hiểu được tình mẫu tử qua lời ru là đạo lí truyền thống của con người Việt
Nam.
- Vun đắp tình mẫu tử bằng những việc làm nhỏ nhất, thiết thực nhất để cho
cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn từ những lời ru của mẹ." [9]
C. Kết bài:
- Khẳng định lại: tình mẫu tử là một tình cảm thiêng liêng, bất diệt. Đặc biệt tình
cảm ấy lại được thể hiện qua lời ru lại càng trở nên ngọt ngào và thấm đẫm trong
tâm hồn mỗi người con.
- Bài học rút ra cho bản thân.
Ví dụ 3: Đề 4, trang 8,9 của SKKN
Dàn ý cho đề bài trên như sau :
A. Mở bài:
- Giới thiệu thói bắt chước, thiếu sáng tạo trong cuộc sống.
- Dẫn dắt đến thói bắt chước của chim Chàng Làng trong câu chuyện.
B.Thân bài :
Luận điểm 1: Giải thích vấn đề nghị luận và tóm tắt nội dung câu chuyện
- Bắt chước là nói theo, làm theo, hành động theo.... người hoặc sự vật, hiện
tượng nào đó.
- Tóm tắt lại nội dung câu chuyện: chú chim Chàng Làng bắt chước giọng hót
của các lồi chim khác và kết cục.
=> Câu chuyện phê phán thói bắt chước, nhại lại mà không chịu suy nghĩ, không
chịu sáng tạo để làm nên phong cách riêng cho chính mình.
Ḷn điểm 2: Bàn luận:
- Vài trị của bắt chước:
"+ Bắt chước là một thói quen được hình thành từ thuở ấu thơ, nó giúp con
người học hỏi được mọi thứ từ thế giới xung quanh để thích nghi với cuộc sống.
+ Bắt chước là giai đoạn đầu tiên của tư duy mà bất cứ ai cũng phải trải qua bởi
khó có thể phát minh, sáng tạo ra cái mới nếu không dựa vào những ý tưởng cũ.
Bắt chước trong một hồn cảnh nào đó cũng được coi là tài năng nếu sự bắt
trước y như thật.
- Biểu hiện sai lệch của bắt chước:
+ Tuy nhiên cuộc sống khơng ngừng địi hỏi sự sáng tạo. Thành công của ngày
15
hôm nay không thể giống với ngày hôm qua, ngày mai khơng thể giống ngày
hơm nay. Vì thế con người khơng thể rập khn, máy móc bắt chước những cái
đã có.
+ Câu chuyện đã phản ánh một thực trạng trong xã hội: nói theo, viết theo, nghĩ
theo, hành động theo…nhất là đối với học sinh hiện nay. Việc bắt chước một
cách máy móc đã làm các em mất đi phong cách riêng của mình, thui chột khả
năng sáng tạo, ảnh hưởng lớn tới sự phát triển trong tương lai(dẫn chứng)
- Mở rộng: Phê phán những người chỉ biết rập khuôn, máy móc, khơng biết sáng
tạo, chỉ quen đi theo những lối mòn của người đi trước.
Luận điểm 3: Bài học nhận thức và hành động:
- Trong cuộc sống không tự biến mình thành những con chim Chàng Làng chỉ
biết làm theo người khác một cách máy móc.
- Khơng ngừng học hỏi, không ngừng tư duy, sáng tạo để khẳng định mình và đi
tới thành cơng." [10]
C. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề nghị luận
- Bài học cho bản thân.
Như vậy, mỗi một dạng nghị luận xã hội có một hướng làm bài khác nhau.
Học sinh nắm được dàn ý chung của mỗi dạng sẽ khơng cịn lúng túng về
phương hướng làm bài. Và nắm được phương hướng làm bài tức là các em đã
biết cách thể hiện ý kiến, tư tưởng, quan điểm...của mình về một vấn đề xã hội
nào đó.
4. Hướng dẫn học sinh tìm dẫn chứng:
Một thực tế mà giáo viên môn Văn thường thấy trong các bài làm văn
nghị luận xã hội của học sinh là khơng có dẫn chứng hoặc dẫn chứng nghèo nàn,
dẫn chứng khơng phù hợp,…Vậy dẫn chứng là gì? Dẫn chứng có vai trò như thế
nào với văn nghị luận ? Dẫn chứng là những minh hoạ, những bằng chứng,
những ví dụ cụ thể được diễn đạt bằng lời văn có tác dụng làm cho lí lẽ của bài
văn nghị luận chặt chẽ, lập luận càng thêm thuyết phục và làm sáng tỏ được vấn
đề nghị luận. Việc lấy dẫn chứng đối với một bài văn nghị luận xã hội (dù là
nghị luận về một tư tưởng, đạo lý hay một hiện tượng đời sống) đều có vai trị
đặc biệt quan trọng. Khơng có dẫn chứng bài văn sẽ thiếu “chất sống”, thiếu sự
sinh động, hấp dẫn. Quan trọng hơn, nếu thiếu dẫn chứng những lý lẽ đưa ra sẽ
khơng cịn sức thuyết phục. Lúc đó bài văn chỉ cịn là những lời bàn luận chung
chung, thiếu cơ sở, thiếu căn cứ và hồn tồn mang tính lý thuyết sng.
Khơng có u cầu cụ thể một bài nghị luận xã hội cần bao nhiêu dẫn
chứng. Tuy nhiên không phải dẫn chứng nhiều sẽ hay, sẽ thuyết phục mà điều
quan trọng hơn cả là dẫn chứng phải phù hợp. Tùy theo yêu cầu của đề bài mà
chọn lựa dẫn chứng, nếu không biết cân nhắc lựa chọn thì việc đưa dẫn chứng sẽ
khơng hiệu quả. Thông thường cứ đưa ra một luận điểm cần phải có ít nhất một
dẫn chứng để làm sáng tỏ luận điểm đó. Song với dung lượng một bài văn
ngắn(khoảng 30 dịng) thì việc lựa chọn dẫn chứng cần tiêu biểu và cân nhắc kĩ.
16
Đối với bài nghị luận về một hiện tượng đời sống, phần cần nhiều dẫn chứng
nhất chính là nêu thực trạng. Còn đối với dạng bài nghị luận về một tư tưởng,
đạo lý, phần bàn luận phải có dẫn chứng đi kèm. Học sinh không nên lấy dẫn
chứng trong tác phẩm văn học. Các dẫn chứng từ cuộc sống, bám sát tình hình
thời sự được khuyến khích sử dụng để đem lại sự tươi mới cho bài viết. Học
sinh cần thường xuyên cập nhật các tin tức thời sự, những vấn đề được xã hội
quan tâm để chọn lọc được những dẫn chứng thời sự, mới mẻ cho bài viết của
mình.
Ví dụ khi tìm dẫn chứng cho đề bài: Viết mợt bài văn ngắn ( khoảng 30
dịng) trình bày suy nghĩ của em về vấn nạn bạo lực học đường hiện nay. Người
viết chú ý nhất lấy dẫn chứng ở phần thực trạng của vấn đề. Có thể dẫn chứng
chỉ cần điểm tên hoặc nêu tầm quan trọng của vụ việc như sau: Bạo lực học
đường không phải là chủ đề mới nhưng tần suất và mức độ nghiêm trọng của nó
ngày một tăng. Hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc chỉ cần
một thao tác rất nhanh trên google ta có thể tìm thấy hàng loạt các clip bạo lực
không chỉ đơn giản chỉ là các nam sinh mà nay hot nhất chính là clip của các nữ
sinh. Vụ 6 nữ sinh đánh 2 nữ sinh như phim chưởng Trường THCS Quỳnh
Thuận, Quỳnh Lưu, Nghệ An; Vụ nữ sinh bị đánh hội đồng đến ngất xỉu ở
Trường THPT Cẩm Thủy 3 (huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa); Dã man hơn cịn có
vụ chỉ vì khơng có 5- 6 nghìn đồng để nộp cho một nhóm học sinh khác ăn sáng
mà một nam sinh lớp 7 trường THCS Minh Tân (Kinh Môn, Hải Dương) đã bị 5
học sinh khác đánh hội đồng. Chưa hết, một trong số nam sinh kia còn tè bậy
trước mặt nạn nhân khến nhiều người phẫn nộ....
Hoặc khi tìm dẫn chứng cho đề: Viết mợt bài văn ngắn (khoảng 30 dịng)
trình bày suy nghĩ của em về đức tính tự tin của con người trong cuộc sống.
Người viết chú ý lấy dẫn chứng phần bàn luận vấn đề. Cụ thể có thể lấy cho ý :
thiếu tự tin là nguyên nhân phần lớn của sự thất bại. Điển hình là một số bạn
trẻ, dù đã bước sang tuổi trưởng thành rồi mà vẫn không tự tin dấn thân vào đời,
tự lập để mà kiếm sống, vẫn ăn bám vào cha mẹ cung cấp, sống vật vờ vơ ích
như một người thừa của xã hội. Một số kẻ cịn thiếu tự tin đến mức khơng dám
chấp nhận những thử thách trong công việc, những cơ hội thăng tiến bay qua mà
khơng muốn nắm bắt vì sợ thất bại, không tin vào những khả năng của bản thân
mình có thể làm được...
Tóm lại, trong bài nghị luận xã hội nhất thiết phải có dẫn chứng. Khi lấy
dẫn chứng, học sinh cần chú ý đến nguồn dẫn chứng, số lượng dẫn chứng, cách
phân bố dẫn chứng và cách trình bày những dẫn chứng ấy sao cho hợp lí.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua q trình thực hiện đề tài, tơi nhận thấy những kĩ năng viết bài văn
nghị luận xã hội của học sinh nâng lên rõ rệt. Nhiều em từ chỗ ngại làm bài, ngại
bày tỏ ý kiến, quan điểm... thì nay đã có phương hướng làm bài. Nhiều em từ
hiểu bài đến tự tin làm bài dạng nghị luận xã hội... Tôi đã thường xuyên khảo
sát, kiểm chứng kết quả thực hiện đề tài qua việc giao đề cho các em thực hành
17
ở nhà và chấm chữa vào các buổi dạy thêm chiều. Các em được thực hành nhiều
vừa nắm vững phương pháp, kĩ năng làm bài vừa cải thiện được ngôn ngữ viết.
Đối với bản thân người giáo viên trực tiếp giảng dạy như tôi và các đồng
nghịêp trong nhà trường, dạy văn nghị luận xã hội khơng cịn khiến chúng tôi lúng
túng trong cách dạy nữa mà chúng tôi đã tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp,
đã khái quát, xâu chuỗi về đặc trưng và phương pháp để giải quyết dạng đề này.
Chúng tơi cịn trao đổi kinh nghiệm với những đồng nghiệp trường bạn( Thành
Tiến, Thành An...) - những trường vùng khó như Thành Long để cùng nhau nâng
cao chất lượng. Sự trăn trở, miệt mài tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp với
học sinh, giúp học sinh ngày càng tiến bộ khiến chúng tôi cảm thấy yêu nghề và
gắn bó với nghề hơn.
Chất lượng học sinh được cải thiện, thể hiện cụ thể là kết quả của câu 2,
phần nghị luận xã hội (bài thi khảo sát chất lượng HKII năm học 2015-2016)
của các em.
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Tổng
số học
sinh
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
9A
36
4
11,1
13
36,1
15
41,7
4
11,1
9B
36
1
2,7
12
33,3
17
47,4
6
16,6
Khối
lớp
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Từ kết quả trên cho thấy tỉ lệ khá giỏi tăng, yếu kém giảm so với bài viết
Tập làm văn số 5 đầu học kì II của năm học. Kết quả này có phần khả quan đối
việc nâng cao chất lượng môn Ngữ văn 9 của nhà trường và chất lượng thi vào lớp
10 THPT bởi phần nghị luận xã hội chiếm 30% tổng số điểm trong đề bài.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Có thể nói, để có kĩ năng làm bài văn nghị luận nói chung và nghị luận xã
hội nói riêng khơng phải là vấn đề đơn giản, vấn đề một sáng một chiều là có
hiệu quả mà địi hỏi giáo viên phải có sự kiên trì, bền bỉ chỉ dẫn cho học sinh,
đồng thời nghiên cứu, tìm tịi ra phương pháp ngắn gọn và dễ hiểu nhất để giúp
hoc sinh không cảm thấy rối và nản. Sáng kiến kinh nghiệm trên đã được tôi rút
ra từ thực tế giảng dạy, qua quá trình hướng dẫn học sinh một số kĩ năng làm bài
nghị luận xã hội. Cụ thể bản thân đã thực hiện bốn nhóm giải pháp và đã đạt
được những kết quả nhất định. Trước hết, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xác
định đề bài, phân tích đề để học sinh làm bài đúng hướng, khơng bị lạc đề. Sau
đó hướng dẫn học sinh tìm luận điểm chính (tìm ý) và lập dàn ý giúp bài viết đủ
và đúng ý, kết cấu bài văn hợp lí. Bên cạnh đó, để bài nghị luận xã hội sinh
động, hấp dẫn, có sức thuyết phục cao, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm
dẫn chứng cho bài làm.
18
Những giải pháp tôi đã thực hiện trên đã giúp học sinh nhất là đối tượng
học sinh từ trung bình trở xuống biết cách làm và hứng thú hơn với dạng bài
này. Quan trọng hơn, trước một vấn đề cần bàn luận trong giờ học, các em tham
gia thảo luận rất sơi nổi để thể hiện chính kiến của mình, khơng cịn rụt rè, nhút
nhát và lảng tránh như trước.
II. Kiến nghị:
Đối với giáo viên: Cần tích cực nâng cao trình độ, năng lực giảng dạy,
khơng ngừng học tập, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ đặc biệt là phương
pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó mỗi dạng bài làm
văn giáo viên cần khái quát cho học sinh những kĩ năng và phương pháp làm bài
cơ bản nhất. Và ngoài những kiến thức trong sách giáo khoa, kiến thức trong các
tác phẩm văn học, giáo viên cần chú trọng cung cấp cho học sinh kiến thức đời
sống xã hội, cập nhật những vấn đề nổi cộm, những tin tức nóng hổi trên các
phương tiện thông tin đại chúng...Trong các tiết học giáo viên cần tạo điều kiện
nhiều hơn cho học sinh được thảo luận, được đưa ra và bảo vệ ý kiến quan điểm
của mình....
Đối với tổ chun mơn và nhà trường: Cần tổ chức hiệu quả các buổi sinh
hoạt chuyên môn về phương pháp giảng dạy những kiểu bài khó, để các giáo viên
có thể trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và thống nhất cách dạy đối với những dạng bài
cụ thể. Việc dự giờ, góp ý cho đồng nghiệp về từng kiểu bài cũng cần được thực
hiện một cách thường xuyên để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói
chung và mơn Ngữ văn nói riêng. Bên cạnh đó cần tham khảo các sáng kiến kinh
nghiệm đã được đánh giá từ Hội đồng khoa học cấp huyện, cấp tỉnh để triển khai
tới các tổ viên, tạo cơ hội cho tổ viên học hỏi, rút kinh nghiệm cho chun mơn
của mình.
Đối với Phòng giáo dục: Nghị luận xã hội là đơn vị kiến thức quan trọng để
đánh giá năng lực của học sinh trong các kì thi. Vì vậy, mỗi năm cần tổ chức các
chuyên đề về văn nghị luận xã hội tới giáo viên trong huyện.
Đối với Sở giáo dục và đào tạo: Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, các
chuyên đề về lĩnh vực chuyên môn đối với các nội dung giảng dạy còn khiến nhiều
giáo viên băn khoăn, lúng túng trong cách thực hiện, cụ thể như mảng văn nghị
luận xã hội. Những sáng kiến kinh nghiệm được đánh giá cao, sát với thực tiễn, dễ
vận dụng cần được phổ biến rộng rãi để giáo viên trong tỉnh có cơ hội học tập kinh
nghiệm lẫn nhau.
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi qua việc thực hiện đề tài ở
trường THCS Thành Long. Đây chỉ là kinh nghiệm mang tính chủ quan của bản
thân và mới áp dụng trong phạm vi hẹp. Trong quá trình thực hiện, chắc chắn
khơng tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sự quan tâm đóng góp ý kiến, trao đổi, bổ
sung của bạn bè đồng nghiệp và Ban giám khảo trong Hội đồng khoa học của
ngành để sáng kiến kinh nghiệm này của tơi được hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
19
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thạch Thành, ngày 05 tháng 04 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết
Lê Thị Thúy
20