MỤC LỤC
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
TÊN MỤC
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.
I. Lí do chọn đề tài.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
B. PHẦN NỘI DUNG.
I. Cơ sở lí luận.
II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng đề tài.
1. Thực trạng của vấn đề.
2. Kết quả của thực trạng trên.
III. Các biện pháp giải quyết vấn đề.
1. Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu.
2. Tạo hứng thú.
3. Chuẩn bị tốt bài giảng, đơn giản hóa kiến thức.
4. Khuyến khích năng lực tự học, tự luyện viết.
5. Đề cao liên hệ thực tế.
IV. Tổ chức thực hiện.
1. Giải thích các khái niệm.
2. Xác lập mô hình 2 kiểu bài nghị luận xã hội.
3. Rèn luyện kĩ năng nhận dạng đề nghị luận xã hội.
4. Tìm hiểu và phân tích đề.
5. Lập dàn bài cho một số đề nghị luận xã hội.
V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
C. PHẦN KẾT LUẬN.
I. Kết luận.
II. Kiến nghị.
Tư liệu tham khảo.
1
TRANG
1
2
2
3
3
3
5
5
5
5
6
7
7
7
7
7
8
8
8
9
10
12
12
16
18
18
18
19
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Từ khi đưa phần nghị luận xã hội vào chương trình học môn Ngữ văn THCS
và THPT, đề thi Ngữ văn thường xuất hiện kiểu bài nghị luận xã hội. Những đề thi
yêu cầu học sinh luận bàn về các hiện tượng có thật của đời sống xã hội ngày càng
trở nên quen thuộc, đem lại sự hứng thú cho học sinh, góp phần đưa văn chương
tới gần với cuộc sống. Ví dụ như câu chuyện về em Nguyễn Văn Nam hi sinh thân
mình cứu bạn, vận động viên bơi lội Nguyễn Thị Ánh Viên đạt nhiều thành tích
trong môn bơi trên đấu trường khu vực và thế giới, thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký
vượt qua căn bệnh bại liệt quái ác để trở thành Nhà giáo Việt Nam ưu tú… được
đưa vào đề thi. Có thể nói đây là dạng đề khá phổ biến, tuy nhiên đa phần học sinh
còn lúng túng, chưa biết cách làm hoặc làm theo cảm tính, dẫn đến kết quả không
cao.
Nghị luận xã hội là phương pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực xã hội,
chính trị, đạo đức làm nội dung bàn bạc, nhằm làm sáng tỏ cái đúng, cái sai, tốt,
xấu của vấn đề được nêu ra. Từ đó đưa ra một cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị
luận cũng như vận dụng nó vào đời sống và bản thân. Những đề tài và nội dung
này thường là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống, có tính giáo dục
và tính thời sự cao.
Đối với chương trình làm văn trong nhà trường phổ thông, đó thường là các
đề bài mang đến cho học sinh những suy nghĩ, nhận thức đúng đắn về cuộc sống,
có ý nghĩa hướng đạo, đặc biệt là những vấn đề có ý nghĩa tác động trực tiếp đối
với thế hệ trẻ.
Tập trung vào kiểu bài nghị luận xã hội là một nỗ lực đổi mới chương trình
Ngữ Văn trong nhà trường trung học cơ sở và trung học phổ thông hiện nay. Bởi
lẽ, một thời gian dài trước đây, làm văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị
luận văn học khiến cho học sinh luôn cảm thấy văn chương xa rời thực tế cuộc
sống. Cho đến hôm nay, văn nghị luận xã hội không chỉ trở thành tiêu chí đánh giá
học sinh trong những bài kiểm tra, mà còn trong cả kỳ thi tốt nghiệp, các kỳ thi
vượt cấp và đặc biệt là kỳ thi tuyển sinh cao đẳng, đại học.
Sự chuyển biến này đã mang lại không ít cơ hội cho sự phát triển toàn diện
của học sinh. Rèn luyện văn nghị luận xã hội không chỉ giúp học sinh hoàn thiện kĩ
năng trình bày quan điểm của mình, mà còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú
về những vấn đề xã hội để có thể sống tốt hơn, và hoàn thiện nhân cách của mình.
Tuy nhiên, bất kì một sự đổi mới nào cũng đặt ra không ít thách thức. Thách
thức đối với học sinh kể từ khi đề văn nghị luận xã hội có mặt trong cấu trúc đề thi
tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học không hề nhỏ. Thời gian rèn
luyện trên lớp về nghị luận xã hội không nhiều. Kiến thức xã hội còn hạn chế. Tài
liệu tham khảo nghị luận xã hội không nhiều, cộng với kĩ năng làm bài chưa thuần
thục, và nhiều vướng mắc khác trong việc thực hiện các yêu cầu của bài văn nghị
luận xã hội… Tất cả những điều đó đã tạo áp lực, gây hoang mang cho không ít
2
học sinh. Giúp đỡ các em học sinh khắc phục được những khó khăn trên chính là lí
do để người viết chọn vấn đề này làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
Do nghị luận xã hội là loại câu hỏi bắt buộc trong chương trình thi, nhưng lại
không có những bài học sẵn như nghị luận văn học, để làm tốt câu hỏi này, học
sinh cần phải nắm vững các vấn đề sau :
- Phải biết phát huy mọi loại kiến thức, trong nhà trường cũng như trong cuộc
sống để so sánh, phát triển, vận dụng vào bài viết sao cho phong phú, sâu sắc, đầy
đủ, cô đúc nhất.
- Phải chủ động, mạnh dạn trong khi viết bài. Vì không giống với nghị luận
văn học nói chung người viết có thể dựa vào bài học có sẵn, hoặc được thầy cô
giáo hướng dẫn, bài nghị luận xã hội hoàn toàn buộc người viết phải chủ động đề
xuất chính kiến của mình, có thể đúng hay chưa đúng, được số đông chấp nhận hay
không chấp nhận, miễn là nó thuyết phục được người đọc bằng những lí lẽ xác
đáng.
- Dạng câu hỏi nghị luận xã hội chiếm số điểm không nhiều, nên dung lượng
bài viết cũng không nên quá dài. Trong yêu cầu cụ thể, đề thi có thể ghi rõ bài viết
không vượt quá 400 hoặc 600 từ.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Để giúp học sinh làm quen với dạng đề thi này, người viết sẽ tiến hành đề tài
với hai mục đích cơ bản sau:
Thứ nhất, giúp học sinh nắm được những phương pháp cơ bản để làm tốt một
bài văn nghị luận xã hội.
Thứ hai, có thể dùng làm tài liệu ôn tập, luyện thi phần nghị luận xã hội.
III. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu : Nghị luận xã hội có mặt trong phân môn Ngữ Văn từ
chương trình THCS. Ở chương trình THPT, nó có mặt ở cả 3 khối lớp: 10, 11, 12.
Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, người viết chỉ tìm hiểu phương pháp làm văn
nghị luận xã hội cho học sinh lớp 10 để các em bước đầu ôn tập lại phần nghị luận
xã hội ở bậc THCS và làm quen với các dạng nghị luận xã hội ở bậc THPT.
Phạm vi nghiên cứu : Các đề bài nghị luận xã hội vô cùng phong phú và đa
dạng. Trong khuôn khổ sáng kiến này, người viết chỉ có thể khai thác một số đề bài
ở 2 dạng đề cơ bản, đó là: Nghị luận về một tư tưởng đạo lý và nghị luận về một
hiện tượng đời sống. Để đạt được những mục đích trên, trong đề tài nghiên cứu của
mình, người viết giải quyết một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh
lớp 10.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm tiến hành rèn luyện đạt hiệu quả cao cho học
sinh lớp 10, đầu cấp.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục đích và thực hiện những nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, người
viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau : Phương pháp phân tích
vấn đề, Phương pháp liệt kê các giải pháp thực hiện, Phương pháp phân tích và
3
tổng hợp để tìm hiểu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, Phương pháp nêu và phân tích
các ví dụ, các dẫn chứng, Phương pháp chứng minh các biện pháp thực hiện,
Phương pháp khảo sát thực nghiệm để chứng minh cho giả thuyết của đề tài.
Đã có nhiều bài viết trên các tạp chí, các báo và rất nhiều sáng kiến kinh
nghiệm… nói về tình trạng dạy – học môn văn và phần nghị luận xã hội, cũng như
tâm lí và năng lực của học sinh trong việc học văn, viết văn. Nhưng trong khuôn
khổ sáng kiến này, người viết chỉ xin khảo sát kết quả học và thi phần nghị luận xã
hội tại các lớp 10C, 10H, 10I của trường THPT Trần Phú mà mình trực tiếp giảng
dạy trong năm học 2015 – 2016.
Qua thực tế giảng dạy phần nghị luận xã hội trong chương trình lớp 10, cách
thức này đem lại nhiều ý nghĩa thực tế có lợi cho thầy và trò:
- Học sinh nắm bắt được mô hình bài nghị luận xã hội, nhận diện được các
dạng đề nghị luận xã hội và bài theo những mô hình đã được rèn luyện.
- Tiết kiệm được thời gian, dễ ghi nhớ, ôn tập nắm vững được kiến thức. Đồng
thời cũng là cơ sở để vận dụng vào việc giảng dạy những tác phẩm văn xuôi có đặt
ra các vấn đề xã hội sâu sắc trong chương trình Ngữ văn bậc THPT.
4
B. PHẦN NỘI DUNG
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Trong cấu trúc của tất cả các đề thi, kiểm tra từ 90, 120, 150, đến 180 phút
đều có phần nghị luận xã hội. Thường thì câu nghị luận xã hội là câu 2, có số điểm
là 3 điểm để yêu cầu học sinh viết bài.
Câu 2 : Vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã hội
ngắn khoảng 400 từ (đối với đề thi tốt nghiệp trung học phổ thông), hoặc khoảng
600 từ (đối với đề thi tuyển sinh cao đẳng, đại học). Trong khung chương trình
Ngữ văn THPT, trong các bài kiểm tra 90 phút, các thầy, cô giáo cũng thường
xuyên ra các dạng đề nghị luận xã hội và yêu cầu học sinh thực hiện. Qua đó người
viết sáng kiến thấy có 2 dạng bài nghị luận xã hội cụ thể là : Nghị luận về một tư
tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống.
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí : là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư
tưởng đạo đức, lối sống, quan niệm của con người. Vấn đề tư tưởng đạo lí thường
được nêu lên trong các ý kiến, nhận định của các bậc vĩ nhân, hay nhà thơ, nhà
văn…, hoặc được nêu ra ở tục ngữ, ca dao…
Nghị luận về một hiện tượng đời sống : Xung quanh chúng ta hằng ngày có
biết bao chuyện xảy ra. Có hiện tượng tốt, có hiện tượng xấu. Tất cả những điều
xảy ra trong cuộc sống đều là hiện tượng đời sống. Nghị luận về một hiện tượng
đời sống là cách sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận để bàn về một sự việc, hiện
tượng có ý nghĩa đối với đời sống xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề cần
suy nghĩ, từ đó làm cho người đọc hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu sâu, để đồng tình hoặc
bác bỏ trước những hiện tượng đó.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI.
1. Thực trạng của vấn đề.
Những vấn đề nghị luận xã hội vô cùng phong phú và đa dạng. Hàng trăm
hàng nghìn câu nói, nhận định, và có biết bao nhiêu hiện tượng đáng chú ý trong
đời sống hiện tại. Tất cả đều có thể được lấy làm đề thi nghị luận xã hội cho học
sinh. Thế nhưng thời lượng chương trình dành cho việc giảng dạy và rèn luyện
nghị luận xã hội trong phân phối chương trình theo quy định của bộ giáo dục là quá
ít.
Ở lớp 10, bài học nghị luận xã hội là không có. Chỉ có một bài làm văn yêu
cầu viết bài nghị luận xã hội. Chính vì vậy mà các thầy, cô giáo vẫn phải giảng dạy
và ôn tập phần nghị luận xã hội cho học sinh để các em có kiến thức và kĩ năng
làm bài. Thực tế đó khiến cho học sinh không có điều kiện để rèn luyện nghị luận
xã hội một cách thường xuyên. Hậu quả là kết quả thi cử, kiểm tra không cao. Việc
ôn tập trong một thời gian ngắn như vậy chỉ như “muối bỏ bể”. Tuy nhiên, phải
khẳng định rằng, cho đến nay, muốn có kết quả cao ở phần nghị luận xã hội cho
học sinh thì giáo viên phải tranh thủ thời gian để ôn tập cho học sinh, chứ chưa có
5
phân phối chương trình phù hợp quan tâm đến mảng này. Và tất nhiên, thời gian
dành cho việc rèn luyện nghị luận xã hội sẽ ít hơn nhiều so với nghị luận văn học.
Một thực tế đáng nói nữa đó là học sinh THPT hiện nay có rất ít hiểu biết về
kiến thức xã hội. Điều này các em phải tự tích lũy dần theo thời gian, vì chẳng có
ai trực tiếp dạy cho các em cả. Vì vậy học sinh rất ngại tìm hiểu các vấn đề xã hội.
Mà thiếu kiến thức thực tế thì chắc chắn học sinh không thể làm tốt bài văn nghị
luận xã hội được.
Cùng chung thực tế với các trường THPT trong cả nước, trường THPT Trần
Phú – Nga Sơn – Thanh Hóa cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Các
giáo viên dạy khối 10 của tổ Văn đã chú ý đến việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận
xã hội cho học sinh để đáp ứng yêu cầu trong các kì thi, các giờ kiểm tra. Tuy
nhiên, thời gian dành cho việc rèn luyện này thật sự là quá ít.
Năm học 2014 – 2015, việc rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho
học sinh lớp 10 được thực hiện cho học sinh yếu kém trong nhiều đợt học phụ đạo
với số lượng đề nghị luận xã hội giải quyết mẫu cho học sinh là rất lớn. Năm học
20105 – 2016, trong các buổi học phụ đạo chiều thứ 7 theo chương trình học 2
buổi trên ngày cho học sinh, các giáo viên Văn đã dành thời lượng cả buổi cho việc
rèn luyện nghị luận xã hội.
Nhìn chung, tổ Văn của trường đã và đang có những quan tâm đáng kể đến
việc rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh. Tuy nhiên, khối
lượng thời gian cho việc đầu tư là chưa nhiều. Về phía học sinh, các em vẫn còn rất
yếu kém kĩ năng ở lĩnh vực này. Nhiều học sinh còn chưa nhận ra mức độ khó của
đề bài nghị luận xã hội nên vẫn còn tỏ ta xem thường. Nhiều em khác có ý thức thì
tỏ ra hoang mang, lo lắng, không biết làm thế nào để làm tốt bài văn nghị luận xã
hội. Nếu không có một kế hoạch ôn luyện cụ thể thì khó có thể giúp học sinh ôn
tập một cách hiệu quả nhất. Vì thế đòi hỏi về mặt thời gian và nhân lực cho việc
đầu tư là rất lớn.
2. Kết quả của thực trạng trên.
Khi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn khối 10 ở các lớp 10C, 10H, 10I,
tôi từng bước nhận diện học sinh yếu kém, phát hiện các nguyên nhân dẫn đến tình
trạng học sinh yếu kém trước khi tìm các biện pháp giúp đỡ các em. Ngay từ đầu
năm học, sau khi tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm, phân tích, đánh giá kết
quả đạt được của học sinh, tôi đưa ra các dự báo về học sinh yếu kém cho môn
Ngữ văn của mình. Kết quả của dự báo được cụ thể hơn khi tôi cho các em viết bài
văn số 2 – Bài nghị luận xã hội (Bài làm ở nhà). Kết quả như sau:
Lớp 10C :
Điểm giỏi
4/43
Điểm khá
8/43
Điểm TB
10/43
Lớp 10H :
6
Điểm yếu
8/43
Điểm kém
13/43
Điểm giỏi
0/37
Điểm khá
4/37
Điểm TB
8/37
Điểm yếu
15/37
Điểm kém
10/37
Lớp 10I :
Điểm giỏi
0/39
Điểm khá
4/39
Điểm TB
6/39
Điểm yếu
18/39
Điểm kém
11/39
Từ thực trạng trên, tôi mạnh dạn áp dụng một số giải pháp để công tác dạy và
học được tốt hơn, nhằm giảm số lượng học sinh yếu kém về khả năng viết bài nghị
luận xã hội.
III. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu.
Đọc - hiểu là hoạt động thiết thực nhất để học sinh trực tiếp tích lũy vốn hiểu
biết và kiến thức về các vấn đề xã hội. Trong quá trình đọc, học sinh sẽ biết cách
đọc để lí giải, đọc để đánh giá và đọc sáng tạo, phát hiện. Rèn luyện phương pháp
đọc – hiểu cho học sinh cũng là một trong những phương pháp đổi mới dạy học,
phát huy tính tích cực của học sinh khi làm việc với các dạng đề văn nghị luận xã
hội.
2. Tạo hứng thú.
Muốn để học sinh yêu thích môn văn, thích học văn thì giáo viên văn cũng
phải thật sự yêu thích, say mê môn học này, đặc biệt là phần nghị luận xã hội. Tất
nhiên yêu thích nó, say mê nó nhưng để truyền niềm yêu thích ấy sang cho học trò
còn phải có thêm một số yếu tố khác nữa như khả năng truyền đạt, sự phối hợp các
phương pháp dạy học và tổ chức học sinh học tập… Nhưng yêu thích, say mê,
hứng thú, thậm chí si mê văn học, say mê dạy văn cũng như cái đẹp trong văn
chương là yếu tố đầu tiên để thầy và môn văn chinh phục được học sinh.
3. Chuẩn bị tốt bài giảng, đơn giản hóa kiến thức.
Mỗi học sinh là một “tâm hồn” có trình độ hiểu biết và tiếp nhận khác nhau
theo mức độ cao – thấp nên khi soạn bài nên chọn phương pháp, phương tiện thích
hợp phục vụ cho bài giảng. Khi giảng bài cố gắng đơn giản hóa kiến thức (mà
không sơ sài, không cắt bớt) bằng cách chọn các từ ngữ giản dị, thậm chí nôm na
để các em có thể hiểu được những kiến thức cơ bản nhất. Mục đích cuối cùng là để
học sinh nắm bắt được mô hình cơ bản và cách triển khai bài viết theo những mô
hình nghị luận xã hội đó.
4. Khuyến khích năng lực tự học, tự luyện viết.
Làm thế nào để giúp học sinh xây dựng được ý thức tự học, phát huy tính chủ
động trong giờ học ? Đây là một trong những yêu cầu đối với giáo viên khi muốn
đổi mới phương pháp dạy học. Tự học ở nhà là một trong những nhiệm vụ chính
của học sinh. Ngoài việc học và làm bài, học sinh yếu kém nên dành thời gian để
luyện tập viết đoạn văn, viết bài hoàn chỉnh, hoặc đọc các tài liệu, cẩm nang nghị
7
luận xã hội để học tập thêm kỹ năng hành văn, diễn đạt… Ngoài ra, các em nên có
một cuốn Sổ tay văn học để ghi chép lời hay ý đẹp, những câu danh ngôn, những
đoạn văn – câu thơ nhằm bổ sung thêm vốn kiến thức cho bản thân.
5. Đề cao liên hệ thực tế.
Môn văn là môn học góp phần lớn trong việc hình thành, giáo dục nhân cách
cho học sinh. Mỗi một tác phẩm viết ra đều có hàm chứa tình cảm đạo đức, từ đó
nó tác động tới nhận thức, tình cảm của học sinh. Vì vậy nên khi dạy giáo viên nên
khéo léo liên hệ, tích hợp, lồng ghép kiến thức trong tác phẩm với kiến thức thực tế
đời sống hay các lĩnh vực khác như giáo dục môi trường, các tệ nạn xã hội…Đối
với phần nghị luận xã hội thì công việc liên hệ với thực tế đời sống xã hội lại càng
cần thiết gấp bội phần. Ngoài việc sẽ thu lượm được kiến thức đời sống vô cùng
quý giá, học sinh còn có thể giúp cho bài viết của mình trở nên sinh động và thuyết
phục người đọc, người nghe.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
1. Giải thích các khái niệm (Tiến hành trong quá trình học chính khóa phần Nghị
luận xã hội và trong các tiết ôn tập).
a. Nghị luận xã hội :
- “Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ
để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết học,
đạo đức). Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần giải đáp và làm sáng tỏ. Luận
là bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để người ta
nhận ra chân lí, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của mình. Sức
mạnh của văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm, tính mạch lạc,
chặt chẽ của suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận. Vận dụng các thao
tác như giải thích, phân tích, chứng minh, bác bỏ, so sánh…” (Sách giáo khoa Ngữ
Văn 11, tập 2).
Như vậy nghị luận xã hội là những bài văn bàn về xã hội, chính trị, đời sống.
Đề tài của dạng bài nghị luận xã hội cũng hết sức rộng mở. Nó gồm tất cả những
vấn đề về tư tưởng, đạo lí, một lối sống đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực
trong cuộc sống hàng ngày, vấn đề thiên nhiên môi trường, vấn đề hội nhập, toàn
cầu hoá… Nghĩa là, ngoài những tác phẩm nghị luận văn học (lấy tác phẩm văn
học, nhà văn làm đối tượng), tất cả các dạng văn bản viết khác đều có khả năng
được xếp vào dạng nghị luận xã hội, chính trị.
- Các dạng nghị luận xã hội : có 3 dạng phổ biến.
1. Dạng nghị luận về một tư tưởng, đạo lý.
2. Dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống.
3. Dạng nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học.
b. Nghị luận về một hiện tượng đời sống :
- Hiện tượng đời sống : Là những sự việc xảy ra xung quanh cuộc sống của
con người, có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến đời sống con người. Có vô vàn
hiện tượng đời sống nhưng tựu chung có thể xếp chúng vào 3 loại như sau : Hiện
8
tượng tích cực ; Hiện tượng tiêu cực ; Hiện tượng 2 mặt, vừa tích cực lại vừa tiêu
cực.
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống : Là kiểu bài sử dụng tổng hợp các
thao tác lập luận để làm cho người đọc hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu sâu và đồng tình
với ý kiến của người viết trước những hiện tượng đời sống có ý nghĩa xã hội.
c. Nghị luận về tư tưởng, đạo lí :
- Tư tưởng là quan điểm, ý nghĩ của con người đối với hiện thực khách quan
và đối với xã hội. Tư tưởng thuộc phạm trù ý thức, là sản phẩm chủ quan của con
người.
- Có nhiều định nghĩa, cách hiểu về đạo lí. Sau đây là 3 cách hiểu :
+ Đạo lí là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho
phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ
cá nhân – cá nhân và quan hệ cá nhân – xã hội ;
+ Đạo lí là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên ;
+ Đạo lí là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ
con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả
bản thân mình.
- Phạm vi biểu hiện của tư tưởng, đạo lí : Tư tưởng, đạo lí thường được đúc
rút thành những câu nói nổi tiếng, những câu danh ngôn, châm ngôn, những câu ca
dao, tục ngữ, thành ngữ…
- Nghị luận về tư tưởng, đạo lí : Là quá trình kết hợp những thao tác lập luận
để làm rõ những vấn đề tư tưởng, đạo lí trong cuộc sống.
2. Xác lập mô hình 2 kiểu bài nghị luận xã hội.
Trong quá trình giảng dạy và ôn tập phần nghị luận xã hội, người viết sáng
kiến này luôn luôn tiến hành nhắc lại và ôn tập thường xuyên 2 mô hình nghị luận
dưới đây cho học sinh :
a. Nghị luận về một hiện tượng đời sống :
- Mở bài: Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Thân bài :
+ Luận điểm 1 : Nêu rõ hiện tượng đời sống cần nghị luận.
+ Luận điểm 2 : Phân tích các mặt đúng – sai, lợi – hại của hiện tượng đời
sống đang nghị luận (Dùng dẫn chứng từ cuộc sống để chứng minh).
+ Luận điểm 3: Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đời sống trên (Dùng
dẫn chứng từ cuộc sống để chứng minh).
+ Luận điểm 4: Đánh giá hiện tượng đời sống đang nghị luận.
- Kết bài : Khái quát lại vấn đề đang nghị luận ; Bày tỏ thái độ của bản thân về
hiện tượng đời sống đang nghị luận.
b. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí :
- Mở bài : Nêu tư tưởng, đạo lí cần nghị luận.
- Thân bài :
9
+ Luận điểm 1 : Giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lí (Bằng cách giải thích
các từ ngữ, các khái niệm…).
+ Luận điểm 2 : Phân tích các mặt đúng của tư tưởng đạo lí (Dùng dẫn chứng
từ cuộc sống và văn học để chứng minh).
+ Luận điểm 3 : Bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng
đạo lí (Dùng dẫn chứng từ cuộc sống và văn học để chứng minh).
+ Luận điểm 4 : Đánh giá ý nghĩa tư tưởng đạo lí đã nghị luận.
- Kết bài : Khái quát lại vấn đề cần nghị luận ; Nêu ý nghĩa và rút ra bài học
nhận thức từ tư tưởng đạo lí đã nghị luận.
3. Rèn luyện kĩ năng nhận dạng đề nghị luận xã hội.
a. Nhận dạng đề thông thường :
Việc nhận dạng đề trước khi tìm hiểu đề và lập dàn bài, cũng như viết thành
bài văn hoàn chỉnh là công việc hết sức quan trọng và cần thiết. Nó giúp học sinh
định hướng đúng cho bài làm, tránh việc sai lạc đề. Chính vì vậy trong quá trình
giảng dạy người viết luôn đặc biệt coi trọng thao tác này.
Thử xác định dạng đề của các đề bài sau:
- Đề 1 : “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý tưởng thì không có
phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”
(Lép Tônxtôi).
Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lý tưởng nói chung và trình bày
lý tưởng riêng của mình ?
- Đề 2 : Bàn về đọc sách, nhất là đọc các tác phẩm văn học lớn, người xưa nói
: “Tuổi trẻ đọc sách như nhìn trăng qua kẽ lá, lớn tuổi đọc sách như ngắm trăng
ngoài sân, tuổi già đọc sách như thưởng trăng trên đài” (Dẫn theo “Lâm Ngữ
Đường”, Sống đẹp, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Sài Gòn, 1965).
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào ?
- Đề 3 : Hãy viết một bài văn bàn về vấn đề : Tuổi trẻ học đường suy nghĩ
và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông hiện nay.
- Đề 4 : Anh (chị) suy nghĩ gì về hiện tượng nghiện “game” trong giới trẻ
hiện nay ?
Xét về các đề bài trên chúng ta thấy : Các đề (1), (2) thuộc dạng đề bài nghị
luận về một tư tưởng đạo lí. Các đề (3), (4) thuộc dạng đề bài nghị luận về một
hiện tượng đời sống. Các đề bài trên là những đề bài đơn giản nhất thường thấy.
Học sinh có thể dễ dàng nhận ra dạng đề ở các đề bài này nhờ vào các dấu hiệu
ngôn ngữ có trong đề bài. Đối với đề (1) và (2), học sinh nhận ra nhờ các câu nói
nằm trong dấu ngoặc kép. Đề (1) là câu nói của nhà văn Nga Lep – Tônxtôi, đề (2)
là câu nói của Lâm Ngữ Đường ở Trung Quốc. Yêu cầu của 2 đề bài này là bình
luận về câu nói được trích dẫn. Nội dung của 2 phát ngôn trên thuộc về vấn đề
nhận thức cuộc sống.
Nói tóm lại, học sinh có thể nhận ra dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí
khi nhận thấy đề bài yêu cầu bàn luận về một nhận định, hay một câu nói của một
10
người nổi tiếng được giới thiệu trong đề bài. Nhận định, tư tưởng thường được
trích dẫn nguyên văn và được đặt trong dấu ngoặc kép.
Đối với đề (3), (4), học sinh nhận ra dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời
sống cũng nhờ vào đối tượng được đề cập đến trong đề bài và yêu cầu của đề bài.
Đối tượng được đề cập ở đây không phải là một câu nói nào đó mà là một vấn đề
đang xảy ra trong cuộc sống hiện tại. Thông thường trong dạng đề này có các từ
ngữ như : hiện tượng, vấn đề, vấn nạn….
Ở đề (3) là vấn đề tai nạn giao thông, còn ở đề (4) là hiện tượng
nghiện “game”. Nhờ các từ ngữ nói trên, học sinh có thể xác định được dạng đề
ngay tức thì.
b. Nhận dạng đề hỗn hợp :
Với các đề bài vừa thuộc nghị luận về tư tưởng đạo lí, vừa thuộc nghị luận về
hiện tượng đời sống, học sinh cần kết hợp yêu cầu bài làm của cả hai dạng đề để
giải quyết. Trước hết các em cần xác định phần chung của hai dạng đề cần giải
quyết, đó là:
- Giới thiệu, tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng đời sống cần giải quyết.
- Bình luận về tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống. Chỉ ra mặt đúng, mặt
tích cực, hay mặt sai, mặt tiêu cực của vấn đề cần bàn luận.
- Rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.
Mỗi dạng đề có các yêu cầu riêng của nó. Dạng đề nghị luận về một tư tưởng
đạo lí cần thiết phải giải thích ý nghĩa của tư tưởng đạo lí. Còn dạng đề nghị luận
về một hiện tượng đời sống cần thiết phải phân tích nguyên nhân và chỉ ra hậu quả
của hiện tượng cần bàn luận. Đối với các đề bài có sự kết hợp cả 2 dạng thì học
sinh cần phải xác định luận điểm nhiều hơn, bao gồm cả phần chung và phần riêng
đã nói trên. Như vậy, nhận dạng đề là khâu quan trọng đầu tiên giúp học sinh xác
định được hướng đi của bài làm, nhằm tránh việc lạc đề.
4. Tìm hiểu và phân tích đề.
Học sinh cần tiến hành khâu tìm hiểu đề. Việc tìm hiểu đề không phải là công
đoạn riêng của văn nghị luận xã hội mà bất cứ bài làm văn nghị luận nào cũng cần
thiết phải được chú ý. Tìm hiểu đề là tìm hiểu 3 yêu cầu của đề, bao gồm:
- Yêu cầu về nội dung : Hiện tượng cần bàn luận là hiện tượng nào, hiện tượng
tốt đẹp, tích cực trong đời sống hay hiện tượng mang tính chất tiêu cực, đang bị xã
hội lên án, phê phán ? Có bao nhiêu ý cần triển khai trong bài viết ? Mối quan hệ
giữa các ý như thế nào ?
- Yêu cầu về phương pháp : Các thao tác nghị luận chính cần sử dụng ? (giải
thích, chứng minh, bình luận…)
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng : Trong văn học, trong đời sống thực tiễn
(chủ yếu là đời sống thực tiễn).
Ví dụ : Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã
nêu trong bài kí đề danh tiến sĩ năm 1442 : “Hiền tài là nguyên khí quốc gia,
nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu,
11
rồi xuống thấp”. Luận đề của đề bài trên là bàn về vai trò của hiền tài đối với đất
nước.
Với ví dụ trên, ta có thể đưa ra cho học sinh một phương pháp chung trong
việc tìm hiểu đề, đó là : Đọc kĩ đề, sau đó tìm từ hoặc cụm từ then chốt nhất trong
đề bài, từ đó phát biểu thành một câu hoặc cụm từ ngắn gọn.
5. Lập dàn bài cho một số đề nghị luận xã hội.
Trong quá trình giảng dạy, số lượng ví dụ, các bài tập đưa ra để học sinh rèn
luyện là rất nhiều, là liên tục. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh
nghiệm cho phép, người viết chỉ xin lấy ở mỗi kiểu bài nghị luận xã hội 2 ví dụ để
làm rõ ý tưởng của sáng kiến.
a. Nghị luận về một hiện tượng đời sống :
* Đề số 1 : Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng trái đất ngày càng nóng lên ?
1. Tìm hiểu đề.
- Nội dung bàn luận : hiện tượng tiêu cực trái đất ngày càng nóng lên.
- Kiểu bài : Nghị luận xã hội với các thao tác bình luận, chứng minh…
- Tư liệu : Trong đời sống xã hội.
2. Lập dàn ý.
a) Mở bài : Nêu hiện tượng, phát biểu nhận định chung…
b) Thân bài.
* Nêu thực trạng của hiện tượng :
- Trái đất của chúng ta ngày càng nóng lên, nhiệt độ ngày càng tăng.
- Ở nhiều vùng trên trái đất khí hậu ngày càng khắc nghiệt, hạn hán kéo dài…
* Phân tích những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên :
- Nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là công nghiệp nặng. Hằng
năm ngành công nghiệp đã thải ra môi trường lượng khí thải độc hại khổng lồ, gây
hiện tượng hiệu ứng nhà kính, làm thủng tầng Ôzôn, làm trái đất ngày càng nóng
lên.
- Các phương tiện giao thông mà con người sử dụng cũng là một trong những
nguyên nhân lớn và trực tiếp gây ô nhiễm môi trường sống, làm trái đất ngày càng
nóng lên.
- Nguồn tài nguyên của trái đất ngày càng cạn kiệt : Tài nguyên khoáng sản bị
khai thác một cách bừa bãi, không có kế hoạch làm trái đất mất đi sự cân bằng vốn
có. Rừng bị chặt phá bừa bãi, nguồn sinh quyển của trái đất bị tàn phá mà không
được tái tạo khiến cho đất đai ngày càng bị khô cằn, hoang hóa, cũng là nguyên
nhân làm cho trái đất ngày càng nóng lên.
- Ngoài ra còn có nguyên nhân khách quan là : Mặt trời nóng lên một cách bất
thường, bão từ trường và bão mặt trời khiến cho nhiệt độ của trái đất tăng lên đáng
kể.
* Chỉ ra những tác hại của hiện tượng :
- Hủy hoại môi trường sống của con người : không khí, đất đai, nguồn nước bị
ô nhiễm nặng nề khiến cho điều kiện sống của con người ngày càng khó khăn và bị
thu hẹp.
12
- Sức khỏe, tuổi thọ của con người ngày càng bị giảm sút nghiêm trọng :
Nhiều loại bệnh tấn công con người, sức đề kháng và khả năng miễn dịch của con
người yếu đi rõ rệt, tuổi thọ trung bình của con người giảm, sức khỏe yếu…
- Gây thiệt hại nặng nề đến các hoạt động sản xuất vật chất để nuôi sống con
người : Tài nguyên khoáng sản cạn kiệt khiến ngành công nghiệp đình trệ, tài
nguyên đất và nước bị ô nhiễm khiến cho ngành nông nghiệp sa sút, nguồn lương
thực trở nên thiếu thốn, khan hiếm…
- Trái đất đang đứng trước nguy cơ diệt vong.
c) Kết bài : Biện pháp để ngăn chặn hiện tượng trên.
- Hạn chế các ngành công nghiệp nặng, có biện pháp xử lí nước thải, khí thải,
tái chế các vật liệu phế thải…
- Khai thác tài nguyên rừng hợp lí kết hợp với trồng rừng đề tránh xói mòn
đất, tránh để đất hoang hóa.
- Sử dụng các phương tiện giao thông ít gây ô nhiễm môi trường, sử dụng các
nguồn năng lượng không độc hại.
- Có chiến lược lâu dài đối phó với hiện tượng tự nhiên : sự nóng lên của mặt
trời, bão mặt trời…
* Đề số 2 : Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng nước biển dâng ?
1. Tìm hiểu đề.
- Nội dung bàn luận : Hiện tượng thiên nhiên, thảm họa đối với con người.
- Kiểu bài : Nghị luận xã hội với các thao tác bình luận, chứng minh…
- Tư liệu : Trong đời sống xã hội, báo chí, truyền thông.
2. Lập dàn ý :
a. Nhận thức hiện tượng :
- Đây là hiện tượng đang được bàn luận nhiều trên các phương tiện thông tin
đại chúng và đời sống hàng ngày.
b. Nêu thực trạng của hiện tượng :
- Nước biển ngày càng dâng cao. Tính trung bình mỗi năm nước biển dâng
cao vài cm.
- Ở nhiều nước, nhiều vùng trên trái đất nước biển dâng cao chiếm rất nhiều
diện tích đất liền.
c. Phân tích những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên :
- Trái đất ngày càng nóng lên do hằng năm ngành công nghiệp đã thải ra môi
trường lượng khí thải độc hại khổng lồ, gây hiện tượng hiệu ứng nhà kính, làm
thủng tầng Ôzôn, làm băng ở hai cực tan nhanh gây nên hiện tượng nước biển
dâng.
- Tài nguyên Rừng bị chặt phá bừa bãi, nguồn sinh quyển của trái đất bị tàn
phá mà không được tái tạo khiến các hiện tượng thiên tai, lũ lụt xảy ra với cường
độ và mật độ ngày càng tăng.
- Các hiện tượng xói mòn đất, lở đất tạo cơ hội cho nước biển xâm lấn đất liền
một cách nhanh chóng.
13
d. Chỉ ra những tác hại của hiện tượng :
- Hủy hoại môi trường sống của con người : đất đai ngày càng bị xâm lấn
khiến cho điều kiện sống của con người ngày càng khó khăn và bị thu hẹp.
- Gây thiệt hại nặng nề đến các hoạt động sản xuất vật chất để nuôi sống con
người : Tài nguyên đất bị xâm lấn, bị nhiễm mặn khiến cho ngành nông nghiệp sa
sút, gây thiệt hại nặng nề các ngành kinh tế biển.
- Các hiện tượng tự nhiên như bão, lũ lụt, sóng thần, động đất, thủy triều dâng
cao hằng năm cướp đi bao nhiêu sinh mạng loài người trên trái đất.
- Trái đất đang đứng trước nguy cơ diệt vong vì các trận đại hồng thủy.
e. Biện pháp để ngăn chặn hiện tượng trên :
- Khai thác tài nguyên rừng hợp lí kết hợp với trồng rừng đề tránh xói mòn
đất, tránh các hiện tượng thiên tai khủng khiếp như bão lụt, lở đất, thủy triều.
- Khắc phục các hậu quả do nước biển dâng như đất và nước bị nhiễm mặn để
phát triển các ngành nông, ngư nghiệp.
- Tuyên truyền ý thức cộng đồng về việc bảo vệ môi trường sống.
- Có chiến lược lâu dài đối phó với hiện tượng tự nhiên : sự nóng lên của mặt
trời, bão mặt trời…
b. Nghị luận về tư tưởng, đạo lí :
* Đề số 1 : Suy nghĩ của Anh (chị) về khát vọng và tham vọng của con
người trong cuộc sống ?
1. Tìm hiểu đề.
- Nội dung bàn luận : Các yếu tố khát vọng và tham vọng, và mối quan hệ
giữa chúng với nhau.
- Kiểu bài : Nghị luận xã hội với các thao tác giải thích, chứng minh, bình
luận.
- Tư liệu : Trong đời sống xã hội.
2. Lập dàn ý :
a. Giải thích được thế nào là khát vọng và tham vọng.
- Khát vọng : Là mong muốn những điều lớn lao, tốt đẹp với một sự thôi thúc
mạnh mẽ.
- Tham vọng : Là ham muốn, mong ước quá lớn, thường vượt xa khả năng
thực tế, khó có thể đạt được.
- Có ý kiến cho rằng : Trong cuộc sống, ai cũng có khát vọng. Nhưng từ khát
vọng, biến thành tham vọng và bạn cố bằng mọi cách để đạt tới thì…thật là một
thảm họa.
b. Bàn luận và mở rộng vấn đề.
B1. Khát vọng được hiểu là một biểu hiện tâm lí của con người mang tính
tích cực, cao đẹp. Vì vậy, con người nên và cần có khát vọng.
- Khát vọng giúp con người có định hướng, phương hướng trong suy nghĩ,
hành động. Khát vọng là một động lực vô cùng to lớn. Nó làm cho con người giàu
có thêm về sức mạnh, bản lĩnh, nghị lực, niềm tin… Trái tim ta, tâm hồn ta, suy
14
nghĩ của ta…luôn luôn lạc quan, trong trẻo, đi theo hướng tích cực nhờ có khát
vọng.
- Để có được những điều lớn lao, tốt đẹp như mong muốn con người phải nỗ
lực rất nhiều… Khát vọng khi đó lại có khả năng giúp con người tự nâng cao mình
hơn.
- Khát vọng của mỗi cá nhân không chỉ thực sự có ý nghĩa đối với bản thân họ
mà còn có ý nghĩa đối với sự phát triển của xã hội, của đất nước, nhất là những
khát vọng lớn lao, vĩ đại như khát vọng tự do, hòa bình, khát vọng dựng xây Tổ
quốc…
- Cuộc sống không có khát vọng, không có ước mơ sẽ tẻ nhạt… Khát vọng sẽ
chắp cánh cho cuộc sống.
b2. Tham vọng được hiểu là một biểu hiện tâm lí của con người mang
tính tiêu cực. Do vậy, con người không nên kết bạn với tham vọng.
- Người có tham vọng không đánh giá đúng được về bản thân mình, sẽ bị ảo
tưởng về khả năng thực sự của bản thân.
- Tham vọng có khả năng điều khiển, sai khiến con người. Nó khiến con
người mất đi sự tỉnh táo, sáng suốt, tìm đến với những mưu mô, toan tính, thủ
đoạn… Khi đó tham vọng không chỉ có hại cho bản thân mà còn có hại đến nhiều
người, đến cộng đồng, xã hội…
- Khi tham vọng không được thỏa mãn, con người rất dễ rơi vào trạng thái tâm
lí xấu, tiêu cực : bi quan, chán nản, thù ghét…thậm chí có những hành động gây
hậu quả khôn lường…
- Phê phán những người có tham vọng vị kỉ ; đề cao những con người có khát
vọng chính đáng.
c. Bài học nhận thức và hành động.
- Nhận thức được ý nghĩa to lớn của khát vọng đối với bản thân mỗi người và
hậu quả nghiêm trọng của người có tham vọng vị kỉ.
- Cần nỗ lực trau dồi năng lực, năng cao trình độ trong học tập và công tác để
đạt được khát vọng chân chính ; đấu tranh để loại bỏ những tham vọng không
chính đáng.
* Đề số 2 :
"Một quyển sách tốt là một người bạn hiền”
Anh (chị) hãy giải thích và chứng minh ý kiến trên ?
1. Tìm hiểu đề.
- Nội dung bàn luận : Vai trò và tác dụng của sách đối với đời sống văn hóa và
tinh thần của chúng ta.
- Kiểu bài : Nghị luận xã hội với các thao tác giải thích, chứng minh, bình
luận.
- Tư liệu : Trong đời sống xã hội.
2. Lập dàn ý :
a. Mở bài:
15
Sách là một phươg tiện quan trọng giúp ta rất nhiều trong quá trình học tập và
rèn luyện, giúp ta giải đáp thắc mắc, giải trí... Do đó, có nhận định "Một quyển
sách tốt là người bạn hiền”.
b. Thân bài.
- Giải thích Thế nào là sách tốt và tại sao ví sách tốt là người bạn hiền ?
+ Sách tốt là loại sách mở ra cho ta chân trời mới, giúp ta mở mang kiến thức
về nhiều mặt : cuộc sống, con người, trong nước, thế giới, đời xưa, đời nay, thậm
chí cả những dự định tương lai, khoa học viễn tưởng.
+ Bạn hiền đó là người bạn có thể giúp ta chia sẻ những nỗi niềm trong cuộc
sống, giúp ta vươn lên trong học tập, cuộc sống. Do tác dụng tốt đẹp như nhau mà
có nhận định ví von "Một quyển sách tốt là một người bạn hiền".
- Phân tích, chứng minh vấn đề :
+ Sách tốt là người bạn hiền kể cho ta bao điều thương, bao kiếp người điêu
linh đói khổ mà vẫn giữ trọn vẹn nghĩa tình. Ví dụ để hiểu được số phận người
nông dân trước cách mạng không gì bằng đọc tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố,
Lão Hạc của Nam Cao.
+ Sách cho ta hiểu và cảm thông với bao kiếp người, với những mảnh đời ở
những nơi xa xôi, giúp ta vươn tới chân trời của ước mơ, ước mơ một xã hội tốt
đẹp hơn nữa.
+ Sách giúp ta chia sẻ, an ủi những lúc buồn chán : Truyện cổ tích, thần
thoại,...
- Bàn bạc, mở rộng vấn đề :
+ Trong xã hội có sách tốt và sách xấu, bạn tốt và bạn xấu.
+ Liên hệ với thực tế, bản thân.
V. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Qua việc áp dụng một số phương pháp đã nêu trên nhằm giảm số lượng học
sinh yếu, kém, tăng số lượng học sinh đạt kết quả khá, giỏi trong việc viết bài nghị
luận xã hội, người viết nhận thấy đã rèn luyện có hiệu quả cho học sinh phương
pháp nhận dạng đề, phân tích đề, lập dàn ý và viết bài cho các kiểu bài nghị luận xã
hội. Học sinh yếu kém ít nhiều đã biết quy trình một bài nghị luận xã hội là phải
làm những gì, và thực hiện như thế nào. Học sinh đã có hứng thú và bắt đầu tự
giác, chủ động trong học tập, và đặc biệt là trong việc tự luyện viết ở nhà. Nhờ đó
mà số lượng học sinh đạt điểm yếu, kém đã giảm rõ rệt.
Kết quả được biểu hiện ở những con số cụ thể như sau :
Lớp 10C
Đầu năm
Cuối năm
Điểm giỏi
4/43
10/43
Điểm khá
8/43
20/43
Điểm TB
10/43
10/43
16
Điểm yếu
8/43
3/43
Điểm kém
13/43
0
Lớp 10H
Đầu năm
Cuối năm
Điểm giỏi
0/37
6/37
Điểm khá
4/37
14/37
Điểm TB
8/37
13/37
Điểm yếu
15/37
4/37
Điểm kém
10/37
0
Lớp 10I
Đầu năm
Cuối năm
Điểm giỏi
0/39
7/39
Điểm khá
4/39
15/39
Điểm TB
6/39
15/39
Điểm yếu
18/39
2/39
Điểm kém
11/39
0
17
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN.
Là giáo viên bộ môn Ngữ văn trong trường THPT đã có thâm niên hơn 10
năm giảng dạy, người viết không xem nhẹ bất cứ phần nào trong chương trình học
môn Ngữ Văn của học sinh, dù là nghị luận văn học hay nghị luận xã hội. Người
viết đặc biệt chú trọng hướng dẫn học sinh lớp 10 nắm bắt quy trình một bài nghị
luận xã hội, cách thức nhận dạng và phân tích đề bài, thao tác lập dàn ý cho bài
viết và cuối cùng là triển khai dàn ý thành bài viết hoàn chỉnh. Thêm vào đó, người
viết luôn khuyến khích các em học sinh, ngoài việc học các tác phẩm văn học trong
nhà trường, cần mở rộng vốn hiếu biết xã hội để tích lũy kiến thức và có khả năng
viết bài nghị luận xã hội đạt kết quả cao nhất.
Một số kinh nghiệm, giải pháp, và tiến trình giảng dạy nêu trên ngoài việc góp
phần giúp cho bản thân người viết tích lũy kinh nghiệm, kiến thức phục vụ quá
trình giảng dạy, học tập và nâng cao trình độ kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ, còn
góp phần giúp cho nhiều khóa học sinh lớp 10 làm các bài thi với kết quả cao.
II. KIẾN NGHỊ.
Với thời lượng không nhiều của một sáng kiến cho nên những giải pháp,
phương pháp người viết nêu trên còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của những đồng nghiệp giảng dạy bộ môn Ngữ Văn nói
riêng và các thầy cô giáo nói chung.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Nga Sơn, ngày 10 tháng 05 năm 2016.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
ĐƠN VỊ
bản thân viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết
Mai Danh Tiến
18
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Ngữ Văn 10, tập 1, NXB Giáo Dục, 2008.
2. Ngữ Văn 10, tập 2, NXB Giáo Dục, 2008.
3. Ngữ Văn 11, tập 1, NXB Giáo Dục, 2008.
4. Ngữ Văn 11, tập 2, NXB Giáo Dục, 2008.
5. Ngữ Văn 12, tập 1, NXB Giáo Dục, 2008.
6. Ngữ Văn 12, tập 2, NXB Giáo Dục, 2008.
7. Bùi Quang Huy và Trần Châu Thương, Nghị luận xã hội : Hướng dẫn kỹ
năng làm bài và bài văn mẫu. NXB Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Tuấn Huy và cộng sự, Hướng dẫn ôn tập và làm bài thi môn
Văn : Nghị luận xã hội. NXB Đại Học Sư Phạm.
9. Nguyễn Đức Hùng và Huỳnh Phương Nghĩa, Những bài văn mẫu nghị
luận xã hội. NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
10. Đỗ Ngọc Thống, Dạy và học nghị luận xã hội. NXB Giáo Dục Việt
Nam.
11. Phạm Ngọc Hiền và cộng sự, Tuyển tập những bài văn nghị luận xã hội.
NXB Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
12. Lê Xuân Soan, Cẩm nang luyện thi đại học môn Ngữ Văn : Nghị luận xã
hội, tập 1. NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
13. Lê Xuân Soan, Cẩm nang luyện thi đại học môn Ngữ Văn : Nghị luận xã
hội, tập 2. NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Quốc và Nguyễn Thị Quỳnh Nga, Chuyên đề văn nghị luận
xã hội. NXB Đại Học Sư Phạm.
15. Phan Quốc Trung và cộng sự, Những bài văn nghị luận xã hội chọn lọc.
NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
16. Nguyễn Xuân Lạc và cộng sự, Để làm tốt bài văn nghị luận xã hội. NXB
Giáo Dục Việt Nam.
19