Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Giáo trình giáo dục hòa nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.07 MB, 91 trang )

TRƯỜNGĐẠI
ĐẠIHỌC
HỌCQUẢNG
QUẢNGBÌNH
BÌNH
TRƯỜNG
KHOASP
SPTIỂU
TIỂUHỌC
HỌC––MẦM
MẦMNON
NON
KHOA

GIÁO
TRÌNH
GIÁO
TRÌNH
(Lưu hành
nội bộ)
(Lưu hành nội bộ)

GIÁO
DỤC
HÒA
NHẬP
GIÁO
HÒA
NHẬP
(DànhDỤC
cho hệ CĐGD


Mầm non)
(Dành cho hệ CĐGD Mầm non)

Tác giả: Hoàng Thị Lê
Tác giả: Hoàng Thị Lê

Năm 2016

Năm 2016
1


MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC HÒA NHẬP ...........................4
1.1. Khái niệm và một số quan điểm tiếp cận giáo dục hòa nhập .....................................4
1.2. Các yếu tố và đặc điểm của giáo dục hòa nhập ............................................................7
1.3. Tính tất yếu của giáo dục hòa nhập................................................................................8
1.4. Xu thế của giáo dục hòa nhập........................................................................................14
CHƯƠNG 2: THÚC ĐẨY VÀ HỖ TRỢ GIÁO DỤC HÒA NHẬP CHO TRẺ CÓ NHU
CẦU ĐẶC BIỆT TRONG TRƯỜNG MẦM NON................................................................25
2.1. Tạo môi trường học tập hòa nhập thân thiện .............................................................25
2.2. Mở rộng mạng lưới hỗ trợ giáo dục hòa nhập cho trẻ có nhu cầu đặc biệt ở
trường Mầm non .....................................................................................................................38
2.3. Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của giáo viên trong giáo dục hòa nhập Mầm
non cho trẻ có nhu cầu đặc biệt. ...........................................................................................42
CHƯƠNG 3: GIÁO DỤC HÒA NHẬP TRẺ CÓ NHU CẦU ĐẶC BIỆT TRONG
TRƯỜNG MẦM NON ...............................................................................................................44
3.1. Khái niệm và đặc điểm trẻ có nhu cầu đặc biệt ..........................................................44
3.2. Nguyên tắc giáo dục hòa nhập trẻ có nhu cầu đặc biệt trong trường Mầm non...67

3.3. Thực hiện giáo dục hòa nhập cho các nhóm trẻ có nhu cầu đặc biệt......................70
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH..................................................................................90

2


LỜI NÓI ĐẦU
Để góp phần cho công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên Mầm non hệ Cử nhân
Cao đẳng ở trường Đại học Quảng Bình, tôi đã biên soạn tài liệu “Giáo dục hòa nhập”.
Tài liệu được biên soạn theo các chương nhằm mục đích cung cấp cho người học
những hiểu biết kĩ năng cơ bản của giáo viên Mầm non trong việc giáo dục trẻ có nhu
cầu đặc biệt học hòa nhập trong trường mầm non
Tài liệu gồm có 3 chương
- Chương 1: Những vấn đề chung về giáo dục hào nhập.
Chương 2: Thúc đẩy và hỗ trợ giáo dục hòa nhập cho trẻ có nhu cầu đặc biệt
trong trường mầm non.
- Chương 3: Giáo dục hòa nhập trẻ có nhu cầu đặc biệt trong trường mầm non.
Lần đầu tiên tác giả biên soạn tài liệu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu
sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của sinh
viên, giảng viên trường Đại học Quảng bình, giáo viên tiểu học và tất cả bạn đọc.
Trân trọng cám ơn!

3


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC HÒA NHẬP
1.1. Khái niệm và một số quan điểm tiếp cận giáo dục hòa nhập
1.1.1. Khái niệm giáo dục hòa nhập
Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục cho mọi trè em, trong đó có trẻ có nhu
cầu đặc biệt trong lớp học bình thường của trường phổ thông. Giáo dục hòa nhập là:

“Hỗ trợ mọi học sinh cơ hội bình đẳng tiếp nhận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần
thiết trong lớp học tại trường phổ thông nơi trẻ sinh sống nhằm chuẩn bị trở thành
những thành viên đầy đủ của xã hội”. Hòa nhập không có nghĩa là xếp chỗ cho trẻ có
nhu cầu đặc biệt vào lớp học bình thường trong trường lớp phổ thông và không phải tất
cả mọi trẻ phải đạt trình độ hoàn toàn như nhau trong mục tiêu giáo dục. Giáo dục hòa
nhập đòi hổi sự hỗ trợ cần thiết để học sin phát triển hết mọi khả năng của mình. Sự
cần thiết đó được thể hiện trong việc điều chỉnh chương trình, các đồ dùng dạy học,
dụng cụ hỗ trợ đặc biệt, các kỹ năng giảng dạy đặc thù…
Giáo dục hoà nhập dựa trên quan điểm tích cực, đánh giá đúng trẻ có nhu cầu đặc
biệt và các em được nhìn nhận như mọi trẻ khác.
Theo quan điểm này thì mọi trẻ có nhu cầu đặc biệt đều có những năng lực nhất
định. Chính từ sự nhìn nhận này mà trẻ có nhu cầu đặc biệt được coi là chủ thể chứ
không phải là đối tượng thụ động của các tác động giáo dục. Từ đó người ta tập trung
quan tâm, tìm kiếm những cái mà trẻ có nhu cầu đặc biệt có thể làm được. Các em sẽ
làm tốt khi những việc phù hợp với năng lực mà nhu cầu của mình. Trong giáo dục, gia
đình, xã hội và cộng đồng cần tạo ra sự hợp tác và hòa nhập với các em trong mọi hoạt
động. Vì thế các em phải được học ở trường học gần nhà nhất, nơi các em sinh ra và
lớn lên. Các em phải luôn được gần gũi gia đình, luôn được sưởi ấm bằng tình yêu của
cha mẹ, anh, chị và được cả cộng đồng đùm bọc, giúp đỡ. Trẻ có nhu cầu đặc biệt sẽ
được học cùng một chương trình, cùng lớp, cùng trường với các trẻ bình thường. Và
như mọi sinh hoạt khác, học sinh có nhu cầu đặc biệt là trung tâm của quá trình giáo
dục. Các em được tham gia đầy đủ và bình đẳng trong mọi hoạt động trong nhà trường
và cộng đồng để thực hiện lý tưởng: “Trường học cho mọi trẻ em, trong xã hội cho
mọi người”. Chính lý tưởng đó tạo cho trẻ có nhu cầu đặc biệt niềm tin, lòng tự trọng ý
chí vươn lên để đạt đến mức cao nhất mà năng lực của mình cho phép.
1.1.2. Một số quan điểm tiếp cận giáo dục hòa nhập
1.1.2.1. Quan điểm bình thường hóa.
Trong giáo dục hòa nhập, trẻ có nhu cầu đặc biệt cũng như những trẻ khác có khả
năng và nhu cầu của riêng mình. Do mỗi trẻ đều có những đặc điểm riêng biệt như vậy
4



nên trong giáo dục hòa nhập, không nên coi khiếm khuyết là sự bất thường đó cùng
như là sự đa dạng tất yếu. Cần đối xử với trẻ một cách bình thường, không nên quá
nhấn mạnh, chú trọng đến khó khăn của trẻ. Trẻ có nhu cầu đặc biệt cần được học
chung một chương trình, với phương pháp dạy học phù hợp với giáo viên.
1.1.2.2. Quan điểm chấp nhận
Quan điểm này có ý nghĩa rằng chúng ta cần thừa nhận những khó khăn của trẻ là
sự đa dạng bình thường. Không phải vào môi trường hòa nhập thì trẻ phải thay đổi mà
là giáo viên cần có sự chấp nhận và thay đổi cho phù hợp với trẻ.
1.1.2.3. Quan điểm tiếp cận đa dạng
Với hình thức giáo dục hòa nhập thì các trường học phải tiếp nhận tất cả mà không
phân biệt điều kiện thể chất, trí tuệ, xã hội, tinh cảm, ngôn ngữ hay bất kỳ điều kiện
nào khác của các em. Điều này áp dụng cho tất cả các em có nhu cầu đặc biệt cho dù
các em sinh sống ở đâu, ở thành phố, đồng bằng, ở các vùng xa xôi hẻo lánh hay thuộc
nhóm dân du canh du cư, trẻ em thuộc các dân tộc thiểu số về ngôn ngữ, sắc tộc hay
văn hóa, trẻ em thuộc các nhóm bị thiệt thòi khác.
Sự đa dạng không chỉ thể hiện ở đối tượng trẻ mà còn thể hiện ở lực lượng giáo dục
trong giáo dục hòa nhập. Với trẻ bình thường có thể chỉ cần có giáo viên đứng lớp là
có thể dạy trẻ, nhưng đối với trẻ có nhu cầu đặc biệt thì ngoài giáo viên dạy hòa nhập
còn cần có đội ngũ chuyên gia hỗ trợ như giáo viên nguồn, giáo viên tư vấn, chuyên
gia y tế, nhân viên chăm sóc. Đặc biệt là sự phối kết hợp, hỗ trợ từ phía gia đình, người
thân, bạn bè của trẻ.
Sự đa dạng còn thể hiện ở phương pháp giáo dục trẻ. Đối với trẻ có nhu cầu đặc
biệt, khi học hòa nhập do mỗi trẻ có đặc điểm khác nhau, khả năng, nhu cầu khác
nhau, do vậy phải sử dụng linh hoạt, đa dạng các phương pháp dạy học khác nhau để
có thể giúp trẻ học tập đạt hiệu quả cao nhất theo khả năng của trẻ.
1.1.2.4. Quan điểm tiếp cận về giá trị văn hóa
Giáo dục hòa nhập coi trẻ em có nhu cầu đặc biệt như các trẻ em khác và là chủ thể
của quá trình giáo dục hơn là đối tượng giáo dục. Gia đình, cộng đồng và xã hội cùng

tạo ra sự hợp tác và hòa nhâp với các em trong tất cả các hoạt động ở mọi môi trường.
Vì thế, các em được gần gũi gia đình trong tình yêu thương của cha mẹ, anh chị, người
thân trong gia đình và được cộng đồng đùm bọc, giúp đỡ. Nhu cầu đặc biệt không còn
là khó khăn riêng của các em mà đã được coi như là mối quan tâm chung, được chia sẻ
với các thành viên trong gia đình và của những người xung quanh các em là bạn bè,
thầy, cô giáo, các tình nguyện viên - những người sẽ hỗ trợ ở bên cạnh các em trong
5


cộng đồng. Giáo dục hòa nhập tạo cơ hội, môi trường để nhiều lực lượng tham gia giáo
dục có điều kiện hợp tác với nhau vì mục tiêu chung. Mọi người trong cộng đồng có
dịp tiếp cận với các em nhiều hơn, thấy rõ hơn những nhu cầu, tiềm năng của trẻ,
những mặt mạnh cùng như những mặt yếu của các em, từ đó chúng ta hiểu cần phải
làm gì để hỗ trợ, giúp đỡ các em được nhiều hơn. Các em được tham gia đầy đủ và
bình đẳng trong mọi công việc của công đồng. Chính điều này tạo cho các em niềm tin,
lòng tự trọng, ý chí vươn lên để đạt đến mức cao nhất mà năng lực các em cho phép,
để các em có thể độc lập, sáng tạo, tự tin và thể hiện quyền bình đẳng trong quá trình
tham gia mọi công việc của cộng đồng.
1.1.2.5. Quan điềm môi trường ít hạn chế nhất
Tức là trẻ có nhu cầu đặc biệt, bất kể mức độ nặng, nhẹ mang khiếm khuyết gì đều
cần phải được học tập trong môi trường ít hạn chế nhất. Đây là môi trường trong đó trẻ
có nhu cầu đặc biệt có được cơ hội để phát huy tối đa tiềm năng của mình, từ đó có thể
phát triển và hoà nhập xã hội. Môi trường này không làm hạn chế khả năng của trẻ, mà
ngược lại, làm giảm thiểu những yếu tố gây hạn chế cho trẻ với đầy đủ các đặc điểm
của nó.
1.1.2.6. Quan điểm không loại trừ.
Quyền được học tập của tất cả trẻ em, trong đó trẻ có nhu cầu đặc biệt đã được
tuyên bố trong tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948, được khẳng định lại
một cách mạnh mẽ trong tuyên bố thế giới về giáo dục cho tất cả mọi người năm 1990
và Công ước về Quyền trẻ em

Quyền cơ bản này của tất cả trẻ em lại một lần nữa được nêu ra tại diễn đàn giáo
dục thế giới do Liên hiệp quốc tố chức tại Dakar, Senegan trong năm 2010, với sự
tham gia của các đại biểu đại diện cho hơn 180 quốc gia và các tổ chức quốc tế. các
quốc gia đã nhất trí thông qua một khung hành động mà theo đó đến năm 2015, tất cả
trẻ em trên thế giới, đặc biệt là trẻ em gái đều phải được phổ cập giáo dục tiểu học
miền phí, bắt buộc và có chất lượng.
Các công ước và tuyên bố trên đã đề cập đến toàn bộ trẻ em không loại trừ đối
tượng nào kể cả trẻ khuyết tật. Và đối với trẻ khuyết tật còn có hẳn một bản tuyên bố
được coi là Tuyên ngôn của ngành giáo dục trẻ khuyết tật, đó là tuyên bố Salamanca
và Cương lĩnh hành động về giáo dục theo nhu cầu đặc biệt. Tuyên bố được coi là tiêu
chuẩn của Liên hiệp quốc về bình đẳng cơ hội cho người tàn tật. Tuyên bố khẳng định:
- Mọi trẻ em đều có quyền cơ bản được giáo dục, phải được tạo cơ hội để đạt và
duy trì trình độ học ở mức có thể chấp nhận được.
6


- Mọi trẻ em đều có những đặc điểm riêng, lợi ích riêng, khả năng và nhu cầu học
tập riêng.
- Các hệ thống giáo dục phải được thiết kế và các chương trình giáo dục phải được
thực hiện trên tinh thần xem xét đến sự đa dang của những đặc điểm và nhu cầu này.
- Những trẻ có nhu cầu giáo dục phải được đến học tại các trường học này có trách
nhiệm phải trang bị kiến thức cho các em thông qua một phương pháp lấy trẻ em làm
trung tâm, có đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của các em.
- Các trường chính quy theo hướng hòa nhập này là phương thức tốt nhất để chống
lại các thái độ phân biệt, tạo ra những cộng đồng thân ái, xây dựng một xã hội hoà
nhập và thực hiện giáo dục cho tất cả mọi người. Hơn thế nữa, các trường học này
mang lại một nền giáo dục hiệu quả hạch toán cho toàn bộ hệ thống giáo dục.
Một số điều chủ yếu của Cương lĩnh Salamanca cho thấy: thông qua giáo dục hoà
nhập là biện pháp tốt nhất để trẻ khuyết tật có thể hòa nhập vào cộng đồng một cách
hiệu quả nhất và thông qua giáo dục hòa nhập thì trẻ khuyết tật mới không bị loại trừ,

tách biệt khỏi gia đình và cộng đồng xã hội.
1.2. Các yếu tố và đặc điểm của giáo dục hòa nhập
1.2.1. Các yếu tố của giáo dục hòa nhập
- Giáo dục mọi đối tượng học sinh
- Học sinh được học ở trường thuộc khu vực sinh sống
- Học sinh được bố trí vào lớp học phù hợp với lứa tuổi trong moi trường giáo dục
phổ thông
- Cung cấp các dịch vụ và giúp dỡ học sinh
- Dạy học một cách sáng tạo, tích cực và hợp tác
- Bạn bè cùng lứa giúp đỡ lẫn nhau
- Học sinh với khả năng khác nhau được học theo nhóm
- Điều chính chương trình, đổi mới phương pháp dạy học và cách đánh giá
- Mọi học sinh đều là thành viên của tập thể
- Lớp học có tỷ lệ học sinh hợp lý
- Mọi học sinh đều được hưởng cùng một chương trình giáo dục phổ thông
- Giáo viên phổ thông và chuyên biệt cùng chia sẻ trách nhiệm giáo dục mọi đối
tượng học sinh
7


- Sự đa dạng được đánh giá cao
- Chú trọng đến điểm mạnh của học sinh
- Với phương pháp dạy học đa dạng, học sinh tham gia vào các hoạt động chung đạt
được kết quả khác nhau
- Cân bằng giữa hiệu quả về mặt kiến thức xã hội
- Lập Kế hoạch cho quá trình chuyển tiếp của học sinh
1.2.2. Đặc điểm của giáo dục hòa nhập
* Tiếp cận hòa nhập
- Giáo dục cho tất cả mọi người
- Linh hoạt

- Giảng dạy cá nhân
- Học tập trong các điều kiện hội nhập
- Nhấn mạnh học tập
- Lấy trẻ em làm trung tâm
- Tổng thể
- Bình đẳng hóa cơ hội cho tất cả mọi người
Chương trình học và phương pháp dạy học của giáo dục hòa nhập dựa vào
quá trình
- Giáo viên truyền kiến thức
- Giáo viên từ xa không tham gia và không chịu trách nhiệm
- Dựa vào sách giáo khoa chính thức
- Một phương pháp giảng dạy cho tất cả các em
- Nội dung bài học cố định
- Tập trung vào tập thể lớp
- Phân nhóm học sinh theo lứa tuổi một cách cứng nhắc
1.3. Tính tất yếu của giáo dục hòa nhập
UNESCO đưa ra 10 lý do tiến hành giáo dục hòa nhập. Cụ thể là:
1. Tất cả các trẻ em có quyền được học cùng nhau
8


2. Không được đánh giá thấp hoặc xa lánh, tách biệt, kỳ thị trẻ chỉ vì sự khuyết tật
hoặc những khó khăn về học tập của trẻ
3. Những người khuyết tật trưởng thành cho rằng họ là “những người còn sót lại
của nền giáo dục chuyên biệt” đang đòi hỏi phải chấm dứt sự tách biệt
4. Không có lý do nào để tách biệt trẻ trong giáo dục. trẻ cần có nhau, chúng học
hỏi lẫn nhau. Chúng không cần người lớn cần bảo vệ chúng khỏi những đứa trẻ khác
5. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, trẻ em học tập tri thức và tương tác xã hội tốt hơn
trong trường hòa nhập
6. Không có sự chăm sóc hay giáo dục nào trong trường chuyên biệt có thể thay thế

cho trường bình thường.
7. Với những cam kết và hỗ trợ đã nêu, giáo dục hòa nhập là một cách sử dụng các
nguồn lực giáo dục một cách hiệu quả
8. Sự tách biệt sẽ khiến mọi người sợ hãi hoặc lãng quên và thành kiến với đứa trẻ
9. Mọi trẻ cần được hưởng một sự giáo dục phù hợp để giúp chúng phát triển các
mối quan hệ và chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống hòa nhập sau này
10. Chỉ có giáo dục hòa nhập mới có khả năng giảm đi sự sợ hãi, mặc cảm và xây
dựng tình bạn, sự tôn trọng và sự hiểu biết lẫn nhau
Đối với trẻ Việt Nam, tùy thuộc vào cách nhìn nhận vấn đề của mỗi người, có thể
đưa ra 6 lý do tiến hành giáo dục hòa nhập như sau:
Lí do thứ nhất: Giáo dục hòa nhập đáp ứng mục tiêu giáo dục, đào tạo con người.
Bốn mục tiêu giáo dục con người của UNESCO đề xuất là: Học để làm người; Học
để biết; Học để làm; Học để cùng chung sống. Về thực chất, các mục tiêu trên đều có
nhiều điểm trùng với mục tiêu giáo dục các thành viên trong cộng đồng người da đỏ dã
đưa ra ccsh đây hàng nghìn năm. Theo quan điểm của họ, mỗi người muốn tồn tại
được trong cộng đồng cần phải phấn đấu đạt dược đông đều 4 phẩm chất sau đây: Tính
quy thuộc; Thông đạt kiến thức và kỹ năng; Tính độc lập; Tính quảng đại. Trong giáo
dục hòa nhập, cả 4 phẩm chất nêu trên đều thể hiện trong mục tiêu giáo dục cho mỗi
trẻ. Xem xét từng nội dung:
1.3.1. Tính quy thuộc: Có bạn bè và giữ mối quan hệ tốt hơn với bạn. Được chung
sống và cùng làm việc với người khác trong công đồng. Được là thành viên của gia
đình và cộng đồng. Mọi trẻ đều được chào đón và được tôn trọng như nhau một cách
tích cực. Trẻ được học trong môi trường giáo dục hòa nhập là điều kiện, cơ hội để
9


được là thành viên “chính thức”, được tham gia và đóng góp cho cộng đồng với những
khả năng có thể của mình, được hòa mình vào cộng đồng, vào tập thể nơi các em được
sinh ra, phát triển, trưởng thành và gắn bó suốt đời. Điều này ở các phương thức gaiso
dục khác nhau như chuyên biệt và bá chuyên biệt khó có thể thực hiện được.

1.3.2. Thông đạt kiến thức kỹ năng: Thành đạt và có khả năng tốt trong một hoặc vài
lĩnh vực; được phát triển toàn diện; có tư duy linh hoạt và năng lực giải quyết các vấn
đề; có động cơ đúng đắn; có tri thức văn hóa và có khả năng làm chủ kỹ thuật; được
tiếp tục học tập và có khả năng cao trong lĩnh vực quan tâm. Trẻ phải được tiếp thu
những tri thức, kỹ năng cơ bản, cần thiết và phù hợp với nhu cầu cà năng lực của mỗi
em. Mỗi em có khả năng khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau. Khi đã có kiên thức
và kỹ năng, các em phải có thái độ đúng, ứng xử một cách linh hoạt trước mọi vấn đề
đặt ra.
1.3.3. Tính độc lập: Mọi trẻ đều có cơ hội chọn nghề và tin yêu công việc đã chọn; có
trách nhiệm cá nhân cao, chiu trách nhiệm về hành động và quyết định của mình; được
độc lập trong mọi lĩnh vực. Để trẻ đạt mục tiêu trên, cần dạy cho trẻ có lòng tự trọng,
tự tin, tự học hỏi, biết chấp nhận, tiếp nhận thông tin để phát triển; có độc lập tự chủ
mới có sáng tạo. Những điều này rất cần cho cuộc sồng lao động, hội nhập cộng đồng
trong tương lai khi trẻ đã trưởng thành.
1.3.4. Tính quảng đại: Được đóng góp cho gia đình và xã hội, có lòng nhiệt tình, yêu
thương, chăm sóc, giúp đỡ người khác. Trẻ được học tập, được sự giúp đỡ của mọi
người trong quá trình tiếp nhận thông tin, lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng và tiến
đến trình độ làm việc độc lập, sáng tạo. Đến lượt mình, trẻ phải thể hiện giá trị của
mình bằng sự cống hiến xã hội, đây là mục tiêu rất quan trọng. Mục tiêu này định
hướng giá trị của mỗi người trước những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. Trong cuộc
sống, sự giúp đỡ lẫn nhau là tất yếu. Mỗi người nhận được sự giúp đỡ lúc này và phải
giúp đỡ người khác khi cần.
Lý do thứ hai: Thay đổi quan điểm giáo dục
Chúng ta biết rằng giáo dục trong nhà trường là đào tạo ra những con người có kỹ
năng, thái độ và thiên hướng cần cho xã hội. Trước đây, người ta đã quyết định rằng
cần phải phân loại trẻ em càng tỉ mỉ càng tốt. Bằng thang đo trí lực cho biết chỉ số trí
tuệ IQ, trẻ em đã được chẩn đoán để có thể phát hiện ra các tài năng sớm. Những trẻ
em sau khi đã được phân loại cần được dạy theo một chương trình riêng, theo một
phương pháp riêng. Người ta cho rằng, cách đào tạo này sẽ có hiệu quả hơn. Thực tế
đã chỉ ra rằng, trẻ em học kiểu này không phát triển hết khả năng của mình, thậm chí

có thể phát triển lệch lạc.
10


Xu thế giáo dục đa trình độ, đa phương pháp và phát huy tính độc lập hay sự tham
gia tích cực của học sinh đã trở nên phổ biến. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện
chương trình giáo dục mới ở các bậc học trong đó chú trong đổi mới phương pháp dạy
học phát huy tính tích cực của học sinh. Phương pháp dạy học tập trung vào hoạt động
của người học trở nên ngày càng phổ biến và mang lại hiệu quả cho nhiều em. Giáo
dục hào nhập dựa vào quan điểm giáo dục, dạy học dựa vào khả năng, sở thich và đáp
ứng nhu cầu của mỗi cá nhân trẻ. Điều này thúc đẩy quá trình đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay
Lí do thứ ba: Giáo dục hoà nhập là phương thức giáo dục hiệu quả nhất cho mọi
học sinh
Được giáo dục môi trường hòa nhập, trẻ có cơ hội thể hiện mình, với sự hỗ trợ của
bạn bè, thầy cô giáo, cùng với ý chí vươn lên, trẻ sẽ được học nhiều hơn, có kiến thức
văn hóa, có kỹ năng sống; trẻ có những dang khó khăn khác nhau đều có thể tiến bộ
hơn, các tiềm năng của trẻ được khơi dậy và phát triển tốt hơn so với các môi trường
giáo dục khác. Phương pháp học hợp tác nhóm là cơ hội để trẻ được tham gia và trao
đổi, thảo luận, được nói lên những suy nghĩ của mình, được thực hiện các hoạt động
học tạp trong môi trường hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau thuận lợi. Trong môi trường này,
học sinh biết quan tâm lẫn nhau giải quyết cac vấn đề. Giáo dục hoà nhập không
những mang lại lợi ích cho trẻ khuyết tật mà còn mang lại hiệu quả xã hội không kém
phần quan trọng. Thực tế hơn 10 năm tiến hành giáo dục hòa nhập ở Việt Nam và kinh
nghiệm giáo dục trên thế giới cho thấy tính hiệu quả đối với các đối tượng trẻ khuyết
tật khác nhau như sau:
Trẻ chậm phát triển trí tuệ: Thông qua giao lưu ban bè, trẻ xóa bỏ mặc cảm, tự ti;
kỹ năng giao tiếp của trẻ phát triển nhanh, phát triển tính độc lập trong sinh hoạt và trẻ
học được nhiều hơn
Trẻ khiếm thị : do được học gần nhà nên trẻ khiếm thị bớt khó khăn trong việc đi

lại, trẻ có nhiều bạn bè, hội nhập dễ dàng, có cơ hội tìm việc làm sau khi tốt nghiệp.
Trẻ khiếm thính: thông qua qua hệ với bạn bè, trẻ học cách giao tiếp, có nhiều cơ
hội để phát triển khả năng của mình, tư duy của trẻ được tốt hơn qua học tập và sinh
hoạt.
Trẻ khó khăn vận động: được học tập để có thể phát triển tài năng, được bạn bè
giúp đỡ, xoá bỏ dần sự lệ thuộc vào người khác
Lí do thứ tư: Giáo dục hào nhập thực hiện các văn bản pháp quy của Quốc tế và
Việt Nam
11


Vấn đề bình đẳng trong cơ hội học tập và nhiều quyền khác đã được nêu trong công
ước Quốc tế về quyền khác đã được nêu trong Công ước Quốc tế về quyền trẻ em
(điều 8, điều 23), trong công ước về giáo dục cho mọi người và gần đây nhất, trong
Tuyên ngôn về giáo dục đặc biệt là Salamanca (Tây Ban Nha 1994): “Giáo dục là
quyền của con người và những người khuyết tật cũng có quyền được học trong các
trường phổ thông, các trường đó phải được thay đổi để tất cả các em đều được học”.
Tuyên ngôn về quyền của con người của Liên hợp quốc đã chấp nhận những
nguyên tắc cơ bản về quyền của người tàn tật. Đặc biệt là quyền giáo dục. Vấn đề giáo
dục trẻ khuyết tật được thực hiện trong hệ thống nhà trường chung. Những pháp luật
liên quan đến nền giáo dục bắt buộc sẽ bao gồm tất cả mọi trẻ em thuộc dạng khuyết
tật, kể cả những trẻ em bị khuyết tật nặng.
Vấn đề trên đã được mở rộng trong tuyên ngôn thế giới về giáo dục cho mọi con
người (1990). Tuyên ngôn đã khuyến nghị các quốc gia phải quan tâm đến nhu cầu
giáo dục đặc biệt của trẻ khuyết tật và tạo điều kiện bình đẳng trong giáo dục cho mọi
trẻ khuyết tật như là một bộ phận thiết yếu của hệ thống giáo dục quộc dân.
Công ước của liên hơp quốc về quyền trẻ em một lần nữa nhấn mạnh đến các quyền
cơ bản của trẻ khuyết tật. Khái niệm về quyền trẻ em được làm sáng tỏ trên nguyên tắc
cơ bản của trẻ em và cung cấp dịch vụ, sự giúp đỡ cần thiết cho sự phát triển của mỗi
cá nhân về mọi mặt, nhân cách, năng lực, tài năng…

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004:
Điều 50. Hoạt động dịch vụ của cơ sở giúp trẻ em
1. Cơ sở giúp trẻ em có tổ chức dịch vụ theo nhu cầu hồi phục chức năng, cai
nghiện ma túy, điều trị HIV/AIDS, tổ chức dạy nghề cho trẻ em vi phạm pháp luật,
nuôi dưỡng trẻ em nghiện ma túy, trẻ em nhiễm HIV/AIDS và nhu cầu khác được thu
tiền dịch vụ theo quy định hoặc theo hợp đồng thỏa thuận với gia đình, người giám hộ.
2. Trẻ em của hộ nghèo có nhu cầu dịch vụ cần được người đứng đầu cơ sở giúp trẻ
em xét miễn, giảm phí dịch vụ cho từng trường hợp.
Chính phủ quy định cụ thể mức thu phí dịch vụ và đối tượng được miễn giảm dịch
vụ.
Điều 52. Trẻ khuyết tật, tàn tật, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học.
Trẻ em khuyết tật, tàn tật, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học được gia đình,
nhà nước và xã hội giúp đỡ, chăm sóc, được tạo điều kiện để sớm phát hiện bệnh, chữa
12


bệnh, phục hồi chức năng; được nhận vào các lớp học hòa nhập, lớp học dành cho trẻ
khuyết tật, tàn tật; được giúp đỡ học văn hóa, học nghề và tham gia hoạt động xã hội.
Pháp lệnh về người tàn tật - Pháp lệnh số 06/1998 - UVTVQH10 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 30/7/1998
Điều 16. Việc học tập của trẻ em tàn tật được tổ chức thực hiện bằng các hình thức
hòa nhập trong các trường phổ thông, trường chuyên biệt dành cho người tàn tật, cơ sở
nuôi dưỡng người tàn tật và tại gia đình.
Nghị định 55/1999/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của pháp
lệnh người tàn tật 1998
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm đào tạo giáo viên, biên soạn chương
trình, giáo trình, sách giáo khoa áp dụng cho học sinh là người khuyết tật, phối hợp với
Bộ Y tế biên soạn chương trình đào tạo cán bộ chuyên ngành phục hồi chức năng, giáo
trình y học phục hồi chức năng trong các trường trung học. đại học y; cung ứng các
thiết bị dạy học cho giáo viên và phương tiên học tập thích ứng với từng loại tàn tật

cho học sinh là người tàn tật; tổ chức mạng lưới trường, lớp với những điều kiện cần
thiết để thu nhận trẻ em tàn tật học theo hướng hoà nhập; chỉ đạo việc mở lớp tuyển
sinh, dạy và học, chế độ sinh hoạt ở các trường, lớp chuyên biệt cho người tàn tật.
Nghị định số /2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết về
hướng dẫn một số Điều của Luật Giáo dục:
Điều 36. Tạo điều kiện học tập cho người tàn tật, khuyết tật
1. Người học là người tàn tật, khuyết tật được học tại các lớp dành riêng hoặc hòa
nhập, được xét cấp học bổng, trợ cấp và miễn, giảm học phí theo quy định tại khoản 3
điều 33 của Nghị định này và được xét cấp sách giáo khoa, học phẩm cần thiết.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về việc tổ chức để người tàn tật,
khuyết tật của Bộ Giáo dục và Đào tạo:
Quy định này được ban hành theo Quyết định số 23/2006/QĐ - BGDĐT ngày
22/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đây là văn bản đầu tiên thể hiện nổ
lực của nhà nươc ta láy tư tưởng hòa nhập để thực hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ khuyết
tật.
Lí do thứ năm: Tính kinh tế của giáo dục hòa nhập
Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục có hiệu quả kinh tế vì nhiều trẻ được đi
học và chi phí đỡ tốn kém. Kinh phí giáo dục cho một trẻ khuyết tật bao gồm cả chi
phí cho học sinh, đào tạo giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học…Theo số liệu
13


tổng hợp từ các cơ sở, chi phí cho một trẻ khiếm thính trong một năm nội trú khoảng 5
triệu đồng, trong trường bán trú khoảng 2,5 triệu, trong đó chưa tính kinh phí đào tạo
giáo viên mua máy trợ thính. Chi phí cho cơ sở vật chất ban đầu cũng là điều cần đề
cập; xây dựng cơ sở vật chất cho các trường, trung tâm cũng rất cao. Trong chương
trình giáo dục hào nhập tại Thường Tín, chi phí cho một trẻ khiếm thính khoảng
600.000 đồng (đào tạo giáo viên và lương cho giáo viên). Con số đưa ra đây không
phải để so sánh và nếu so sánh thì phải tập trung vào các mặt như hiệu quả giáo dục,
tính bề vững và sự tham gia của cộng đồng…Tuy nhiên, giáo dục hoà nhập không chỉ

giải quyết vấn đề ngân sách mà vấn đề cơ bản là làm thế nào để trẻ được hưởng lợi
nhiều nhất.
Lí do thứ sáu:Giáo dục hòa nhập huy động được sự tham gia của cộng đồng
Vai trò, vị trí của cộng đồng trong giáo dục hòa nhập là rất lớn và rất quan trọng.
Giáo dục hòa nhập được thực hiện trong cộng đông và dựa vào cộng đồng. theo quan
điểm của giáo dục hòa nhập thì những khó khăn hay khuyết tật không phải là của riêng
trẻ em, mà là sự quan tâm, trách nhiệm chung của cả cộng đồng; cộng đồng có trách
nhiệm chia sẻ những khó khăn của các em, đồng cảm, hỗ trợc các em vượt qua những
khó khăn đó.
Trẻ em sinh ra và lớn lên gắn liền với gia đình, cộng đồng. Trách nhiệm nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục các em trước hết là của gia đình, sau đó là cộng đồng (làng
xóm, thôn bản…). Các em sinh ra và lớn lên và gắn cả cuộc đời mình với gia đình,
cộng đồng . Vì thế gia đình và cộng đồng là cái nôi trưởng thành của các em. Trong
giáo dục hòa nhập yếu tố này ngày càng có ý nghĩa lớn và tăng cường hiệu quả giáo
dục.
Ngoài thời gian học ở trường, thời gian còn lại, trẻ sống trong gia đình, tham gia
các hoạt động với các bạn cùng trang lứa trong cộng đồng, đó là thời gian mà gia đình,
cộng đồng có trách nhiệm chính chăm sóc, hỗ trợ các em. Thiếu điều đó, chất lượng
hiệu quả giáo dục hòa nhập sẽ bị thấp, sẽ bị hạn chế nhiều.
Đối với trẻ khuyết tật, cần phải thực hiện các nội dung phục hồi chức năng, hình
thành và phát triển kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ, chuẩn bị tâm thế cho trẻ đến
trường, kế cả việc chuẩn bị các yếu tố phục vụ cho việc học tập chuyên môn văn hóa
(đọc viết chữ nổi cho trẻ mù; các cử chỉ, ký hiệu trong ngôn ngữ ký hiệu cho trẻ
điếc…) những vấn đề này cần phải được giải quyết sớm và sẽ được thực hiện tốt nhất
trong cộng đồng, có sự tham gia và hỗ trợ của cộng đồng.
1.4. Xu thế của giáo dục hòa nhập
14


1.4.1. Thực trạng giáo dục hòa nhập hiện nay

Khái niệm giáo dục hòa nhập trong những năm gần đây đã thay đổi trên toàn thế
giới, từ chỗ chỉ đơn thuần là giới thiệu hoặc hòa nhập trẻ em và những cá nhân khuyết
tật đến sự hiểu biết rằng sự đa dang trong một lớp học, bao gồm một loạt những năng
khiếu, khả năng và cá tính dẫn đến sự hiểu biết rằng sự đa dạng trong một lớp học, bao
gồm một loạt những năng khiếu, khả năng và cá tính dẫn đến sự đổi mới, học tập và
phát triển. Tương tự như vậy, ở Việt Nam, sự tập trung chủ yếu vào các nhóm trẻ xác
định là khó khăn và nguy cơ thiệt thòi cao để đảm bảo những nhóm trẻ này có cơ hội
tiếp cận với dịch vụ giáo dục và dịch vụ khác vì sự phát triển và an sinh của các em.
Kế hoạch phát triển giáo dục 2001 - 2010 đã lấy câu sau làm minh chứng: “Nguồn
nhân lực có chuyên môn cao là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy quá
trình hiện đại hóa và kêu gọi một “hệ thống giáo dục phổ biến, mang tính quốc gia
khoa học, tạo cơ hội học tập bình đẳng cho tất cả mọi người”.
Nhóm trẻ có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm đặc biệt là nhóm trẻ khuyết tật.
Tuy nhiên, nhiều chiến lược và cách tiếp cận đối với việc hòa nhập trẻ khuyết tật như
là những thành viên bình đẳng của xã hội, tạo cơ hội cho việc tham gia và tiếp cận
những dịch vụ có thể tiếp cận được và thiết thực đối với nhu cầu học tập cũng sẽ mang
lại lợi ích cho hầu hết các trẻ khác.
- Những thành tựu
Việt Nam hiện có một hệ thống giáo dục tương đối đa dạng so với một thập kỷ
trước đây, ở tất cả các cấp từ Mầm non đến Đại học và Sau đại học. Tuy nhiên, các hỗ
trợ về giáo dục hòa nhập nhìn chung còn hạn chế, chưa nhận thức sâu sắc được nhu
cầu phải có dịch vụ và biện pháp mang lại tính toàn diện và chặt chẽ song song với các
hỗ trợ cụ thể cho trẻ. Trong hệ thống giáo dục hỗ trợ tập trung cơ bản vào giáo dục tiểu
học và dạy nghề cho trẻ khuyết tật mà chưa tập trung nhiều vào can thiệp sớm, giáo
dục ở bậc trung học cơ sở.
Về chính sách và chiến lược: Việt Nam đã có chính sách phù hợp ở cấp quốc gia về
việc phát triển giáo dục hòa nhập để hỗ trợ mọi học sinh tiếp cận với các dịch vụ hỗ
trợ. Ba văn bản chính sách quan trọng ở cấp quốc gia đã được xây dựng trong đầu thập
kỷ này trong đó trực tiếp đề cập tới giáo dục hòa nhập, hỗ trợ mọi trẻ em bao gồm cả
trẻ em khuyết tật. Kế hoạch hành động Giáo dục cho mọi người 2003 -2015 (tháng 6

năm 2003) đã trình bày kế hoạch chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 – 2010
là: xây dựng chính sách giáo dục cấp quốc gia về thực hiện chính sách này trong toàn
ngành giáo dục. Như đã phản ánh trong chiến lược Kinh tế - xã hội (2001-2010) và kế
hoạch chiến lược phát triển giao dục năm 2001-2010, trọng tâm là tập trung nguồn lực
15


để nâng cao chất lượng dạy và học trong lớp học nhằm giúp tất cả học sinh được tiếp
cận với chương trình quốc gia
Thực hiện nghị định 26/NĐ-CP của Chính phủ tháng 4 năm 1995 về nhiệm vụ giáo
dục trẻ khuyết tật, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều văn bản hướng dẫn các địa
phương thống nhất quản lý giáo dục trẻ khuyết tật. Đặc biệt năm 2002, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã thành lập Ban chỉ đạo giáo dục trẻ khuyết tật từ cấp Bộ đến cấp Sở và
Phòng Giáo dục ở khắp các địa phương trên cả nước. Đến nay cả 64 tỉnh thành đã
thành lập ban chỉ đạo giáo dục trẻ khuyết tật và triển khai hệ thống hoạt động nhất
quán từ trung ương đến địa phương.
Hệ thống văn bản pháp quy về giáo dục trẻ khuyết tật được điều chỉnh, bổ sung và
cập nhật thường xuyên. Hằng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo đều có văn bản hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ năm học và xác định giáo dục hòa nhập là một trong những nội
dung của hoạt động giáo dục của nhà trường. Kế hoạch năm học của nhà trường đã cụ
thể hóa công tác giáo dục hòa nhập bằng một loạt các hoạt động: Phát hiện, xác định
nhu cầu và huy động trẻ khuyết tật ra lớp học; Biên chế và phân công giáo viên trực
tiếp hỗ trợ; đánh giá chất lượng giáo dục và dạy hòa nhập; Thực hiện các biện pháp
khuyến khích và hỗ trợ giáo viên trực tiếp dạy trẻ khuyết tật; Huy động các lực lượng
công đồng tham gia hỗ trợ giáo dục hòa nhập; Hệ thống chương trình bồi dưỡng và tổ
chức bồi dưỡng về giáo dục hoà nhập…
Các trường Cao đẳng, Đại học trong cả nước đã tạo thành một hệ thống đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu giáo dục hòa nhập ở các cấp học, trong đó tập trung
vào giáo dục Tiểu học và giáo dục Mầm non. Khung chương trình đào tạo cử nhân
Giáo dục đặc biệt trình độ Đại học và Cao đẳng đã được xây dựng và ban hành sử

dụng
Hơn 10 trung tâm hỗ trợ và phát triển giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật cùng hệ
thống dịch vụ hỗ trợ bước đầu đã ra đời và đi vào hoạt động ở một số địa phương. Các
trung tâm này đã hỗ trợ trực tiếp cho trẻ khuyết tật vao chuyển giao kiến thức, kỹ năng
chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết tật tới nhà trường, gia đình trẻ khuyết tật , cộng đồng và
cá nhân có liên quan tới trẻ khuyết tật đi học, xây dựng kế hoạch và triển khai công tác
chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết tật hằng năm tại các nhà trường…
Về việc thu thập dữ liệu về tỉ lệ trẻ khuyết tật: Mỗi năm có các điều tra khác nhau
về trẻ khuyết tật được tiến hành. Trọng tâm phần lớn vẫn tập trung vào những trẻ
khuyết tật hiện chưa được tiếp cận với giáo dục, trong đó bao gồm cả những trẻ khác
như trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ lao động và những trẻ khác hiện đang học tiểu học
16


hoặc trung học cơ sở. Số liệu ước tính về tỉ lệ trẻ không đi học mẫu giáo và tiểu học rất
khác nhau.
Năm 1996, cả nước có 6.000 trẻ khuyết tật học trong 72 cơ sở giáo dục chuyên biệt;
36.000 trẻ khuyết tật học trong 900 trường phổ thông thuộc 97 quận/ huyện của 51 tỉnh
thành. Năm 2002, có 7.000 trẻ khuyết tật học trong 90 cơ sở / trường chuyên biệt,
khoảng 100.000 trẻ khuyết tật học hòa nhập tại các cơ quan quân huyện của cả nước.
Sư phát triển của giáo dục hòa nhập trên phạm vị cả nước là điều kiện đảm bảo số
lượng trẻ khuyết tật đi học hòa nhập và phát triển tăng nhanh. Hiện có khoảng 230.000
trẻ khuyết tật đi học chiếm 24,22%. Trẻ khuyết tật không chỉ tập trung ở bậc Mầm non
và Tiểu học mà còn ở bậc Trung học, một số đang ở bậc Đại học.
Về việc phát triển nguồn nhân lực: các trường Đại học có khoa giáo dục đặc biệt
nói trên đã đạt được những thành công nhất định trong việc cung cấp cá khóa đào tạo
đại học nhằm hỗ trợ cho hoạt động giáo dục trẻ có nhu cầu đặc biệt.
Trong 10 năm qua, khoảng 2,8% giáo viên Tiểu học đã được tập huấn về giáo dục
hòa nhập cho trẻ khuyết tật, 542 cán bộ quản lý giáo dục của 64 tỉnh/ thành phố, 264
giảng viên của các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm trong cả nước được bồi

dưỡng về giáo dục hòa nhập vào các năm 2003, 2004 và 2005. Bộ Giáo dục và Đào tạo
có kế hoạch tiếp tục bồi dưỡng hằng năm để đội ngũ này đáp ứng mục tiêu năng lực
đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục hòa nhập. Mạng lưới giáo viên cốt cán
của các huyện được hình thành. Tất cả số giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng này đang
được phát huy vai trò và tỏ rõ hiệu quả trong giáo dục, dạy học hòa nhập trẻ khuyết tật
ở các trường mầm non và tiểu học, đáp ứng nhu cầu đi học gần 230.000 trẻ khuyết tật
trong cả nước.
Về các dịch vụ hỗ trợ: Nhận thức về những trẻ thể hiện không đi học hoặc không
tiếp cận được với chương trình đã được nâng cao lên trong thập kỷ vừa qua. Do đó,
cần tiếp tục nâng cáo kiến thức, hiểu biết, thái đọ và kỹ năng cho giáo viên để họ có
thể dạy trong lớp học đa đối tượng “thay đổi từ việc truyền tatr kiến thức một cách bị
động sang một phương pháp khác là hướng dẫn học sinh suy nghĩ và đón nhận kiến
thức một cách chủ động”. Bên cạnh đó, các dịch vụ về phát hiện sớm và can thiệp sớm
cũng bắt đầu được quan tâm, đây là nền tảng thành công của giáo dục hòa nhập.
- Những hạn chế
Giáo dục hòa nhập chủ yếu mới tập trung vào giáo dục Tiểu học và dạy nghề đặc
biệt là giáo dục tiểu học cho học sinh khuyết tật mặc dù những sáng kiến quy mô nhỏ
gần đây tập trung vào hỗ trợ cho giáo dục trung học cơ sở và giáo dục Mầm non.
17


- Về chính sách và chiến lược
Mặc dù phương hướng và kết quả cần đạt được đã được cụ thể hóa một cách chính
thức trong các văn bản chính sách, nhưng các hỗ trợ chưa tập trung vào việc xây dựng
một hệ thống giáo dục tổng thể cung cấp các phương pháp xác định nhu cầu và dịch vụ
đáp ứng các nhu cầu đó. Kế hoạch giáo dục cho mọi người 2003 – 2015 nhiều khi còn
được xem là tập trung vào trẻ khuyết tật dưới góc độ giáo dục hòa nhập, một hệ thống
giáo dục tôn trọng tính đa dạng của trẻ trong lớp học thông qua dạy học theo phương
pháp lấy trẻ làm trung tâm và dạy học cho trẻ có nhu cầu giáo dục đặc biệt (trong đó có
trẻ khuyết tật). Cho tới nay, việc xây dựng chiến lược giáo dục cho mọi trẻ em mới chỉ

tập trung vào các nhóm như trẻ khuyết tật và trẻ dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, chưa xây
dựng được một cơ chế đồng bộ mang tính tổng thể, hệ thống cho mọi trẻ em.
Về việc tăng cường năng lực cho các cơ sở giáo dục để thực hiện nhiệm vụ giáo
dục hòa nhập đã được thể chế hóa: Trách nhiệm cung cấp các dịch vụ giáo dục cho các
nhóm trẻ thiệt thòi khác nhau được thực hiện một cách thiếu đồng bộ, do đó tạo ra chỗ
trống trong việc cung cấp dịch vụ và làm tăng khó khăn trong việc đạt mục tiêu của kế
hoạch phát triển ngành giáo dục và giáo dục cho mọi người. Nhu cầu tăng cường năng
lực để hỗ trợ cho hoạt động giảng dạy trong lớp học còn chưa được chú ý một cách
đồng bộ. Hiện tại ước tính có 15-20% học sinh trong các lớp có nhu cầu học tập chưa
được đáp ứng. Các trường chuyên biệt vẫn chưa được đào tạo bồi dưỡng đầy đủ nhưng
phải hoạt động quá tải, chưa có một mức chất lượng chuẩn cho các trương này và hiện
đang được xem xét là đơn vị hỗ trợ giáo dục hoà nhập ở cấp tỉnh và huyện. Dưới góc
độ giáo dục hòa nhập, kiến thức và kỹ năng tập huấn, hỗ trợ giáo viên của các đơn vị
này còn nhiều hạn chế. Công tác phát triển chuyên môn cho giáo viên chưa được thể
chế háo trong các cơ sở giáo dục Đại học mà chủ yếu dựa vào đội ngữ giảng viên cốt
cán từ các cấp khác nhau.
Về việc thu thâp dữ liệu và tỉ lệ trẻ khuyết tật: Việc thu thập dữ liệu trong lĩnh vực
giáo dục hòa nhập mới chỉ tập trung vào trẻ khuyết tật, do đó chỉ xác định được những
khó khăn dễ nhận thấy, dẫn trẻ khuyết tật còn rất khác nhau giữa các ban ngành. Số
liệu trẻ khuyết tật chủ yếu tập trung vào trẻ trong nhà trường.
Về phát triển nguồn nhân lực: Điều này thể hiện trước hết ở các năng lực của các cơ
sở đào tạo về giáo dục đặc biệt còn nhiều bất cập. Tổ chức triển khai giáo dục đặc biệt
trên phạm vi toàn quốc đồi hỏi số lượng lớn nguồn nhân lực đạt chuẩn mục tiêu năng
lực cơ bản về lĩnh vực này. Tuy nhiên, số lượng cơ sở đào tạo còn hạn chế (07 cơ sở
đào tạo có khoa, tổ giáo dục đặc biệt), hình thức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đang ở
mức khởi đầu, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục của trẻ có nhu cầu đặc biệt. Đội
18


ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Đến

nay, nguồn giảng viên của các trường Đại học, Cao đẳng có khoa giáo dục đặc biệt
hoặc tổ bộ môn giáo dục đặc biệt được đào tạo chủ yếu từ các nguồn đầu tư hợp tác
quốc tế. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chưa được thiết kế theo các cấp độ đáp
ứng nhu cầu về nguồn nhân lực. Đồng thời, phạm vi chương trình còn hạn chế về đối
tượng , chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các đối tượng khác nhau tham gia vào
giáo dục đặc biệt như phụ huynh, trẻ có nhu cầu đặc biệt, cán bộ cộng đồng, cán bộ
làm công tác xã hội…Chương trình đào tạo còn nặng tính hàn lâm. Hệ thống giáo
trình, tài liệu chuyên khảo ít về chủng loại, hạn chế về số lượng, chất lượng.
Thứ hai, phần lớn cán bộ quản lý giáo dục chưa được bồi dưỡng hoặc bồi dưỡng rất
ít về giáo dục hòa nhập. Đến nay, chỉ có khoảng gần 200 cán bộ quản lý cấp tỉnh và số
ít cấp huyện được bồi dưỡng qua 3 vòng, song vẫn chưa đảm bảo chuẩn tối thiểu mục
tiêu, năng lực đối với cán bộ quản lý giáo dục về giáo dục hòa nhập. Bên cạnh đó, hầu
như cán bộ quản lý giáo dục cấp huyện và trường chưa từng được bồi dưỡng về lĩnh
vực này. Những hạn chế này của đội ngũ cán bộ quản lý chắc chắn không thể có tác
động tích cực đến chất lượng hoạt động giáo dục đặc biệt tại địa phương.
Về các dịch vụ hỗ trợ: Hiện tại, các dịch vụ hỗ trợ cho giáo viên, học sinh và gia
đình còn rời rạc lẻ tẻ, chưa mang tình hệ thống. Các dịch vụ mang tính chuyên môn
cao còn hạn chế, chủ yếu chie dành cho những trẻ trong vùng miền mà điều kiện kinh
tế - xã hội thuận lợi hoặc những trẻ sống gần các khu vực đó. Các dịch vụ chuyên biệt
còn hạn chế về chưa có chuẩn chất lượng nào cho những dịch vụ này
1.4.2. Bối cảnh, cơ hội và thách thức của giáo dục hòa nhập
1.4.2.1. Bối cảnh quốc tế
Giáo dục hòa nhập là một cách tiếp cận phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu học tập
cho tất cả trẻ em, với sự tập trung cụ thể vào những ai có nguy cơ bị tách biệt với mội
trường xã hội. Nguyên tắc giáo dục hòa nhập được thông qua tại Hội nghị quốc tế về
giáo dục theo nhu cầu đặc biệt: Tiếp cận và chất lượng được khẳng định tại Diễn đàn
Giáo dục thế giới (2000). Ý tưởng của giáo dục hòa nhập được hỗ trợ thêm bởi những
quy chuẩn của Liên hiệp quốc và bình đẳng và cơ hội đối với những người khuyết tật,
tuyên bố tất cả mọi người đều có quyền tham gia bình đẳng.
Trong báo cáo giám sát toàn cầu năm 2006 về giáo dục cho mọi người: Học chữ để

sống, các chính sách hòa nhập được xem là vô cùng quan trọng để đạt được mục tiêu
Giáo dục cho mọi người, đặc biệt liên quan đến sự bất ổn định, có thể gây nên xung
đột hoặc nhân tố kinh tế, để thiết lạp môi trường an toàn và lành mạnh mà ở đó các em
19


học sinh có thẻ học được. Báo cáo này cũng nói rõ mức độ khẩn cấp đối với nhu cầu
hào nhập trong bối cảnh giáo dục cho mọi người từ quan điểm tiếp cận và chất lượng.
Báo cáo tập trung vào mức độ biết chữ và các nhóm có hoàn cảnh khó khăn đã bị tách
biệt khỏi một xã hội chính thống do những lí do xã hội, văn hóa và chính trị phức tạp,
đồng thời kỹ năng của những đối tượng này trong ngôn ngữ viết còn rất hạn chế. Sư
tách biệt ra khỏi xã hội là do các em bị “khuyết tật” hoặc do những đặc tính như dân
tộc, tôn giáo, ngoài ra còn có giới tính và độ tuổi, hoặc do các yếu tố khác như nghèo
đói, di cư…
Cộng đồng quốc tế thấy cần thiết phải tiến hành giáo dục hòa nhập, để cung cấp các
dịch vụ có chất lượng và cải thiện những cơ hội tiếp cận những dịch vụ này cho những
đối tượng hiên chưa co hòa nhập trong xã hội. Giáo dục hòa nhập thừa nhận sự đa
dạng về văn hóa, xã hội và phấn đấu đáp ứng nhu cầu học tập của từng cá nhân bất kể
nguyên nhân nào dẫn đến các nhu cầu này và cho dù những nhu cầu này có phức tạp
đến đâu. Giáo dục hòa nhập tạo ra môi trường học tập đáp ứng những nhu cầu đa dạng
của trẻ và tạo cơ hội cho mọi học sinh – cả học sinh nam và học sinh nứ, học sinh có
nhu cầu giáo dục đặc biệt, học sinh khuyết tật, học sinh dân tộc, học sinh có những
khác biệt về văn hóa, xã hội và ngôn ngữ. Thông qua quá trình phát triển trình độ
chuyên môn cho giáo viên, giáo dục hòa nhập tạo ra môi trường lớp học ma mọi học
sinh có thể học tập và giúp đỡ lẫn nhau. Với cách tiếp cận này, mỗi trẻ được nhìn nhận
là một cá nhân chứ không phái là phân loại theo khó khăn và được giáo dục dựa theo
sự phân loại đó.
1.4.2.2. Bồi cảnh trong nước
Phát triển giáo dục là quốc sách vì giáo dục được xem là động lực phát triển kinh tế
- xã hội. Mục tiêu của giáo dục là đảm bào mọi thành viên trong xã hội bất kể khả

năng, giới tính, dân tộc, điều kiện văn hóa, kinh tế, xã hội. Vì thế, cần phát triển giáo
dục hòa nhập dưới góc độ phát triển giáo dục nói chung và nâng cao sự tham gia của
công đồng nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đề ra
Giáo dục hòa nhập hỗ trợ các mục tiêu chung của Kế hoạch chiến lược phát triển
giáo dục 2001-2010 bằng cách tập trung vào chất lượng dạy học. Cụ thể hơn là nâng
cao kiến thức và kỹ năng trong hệ thống giáo để chăm sóc và giáo dục trẻ dưới 6 tuổi;
phát triển giáo dục tiểu học theo tiêu chuẩn quốc tế; nâng cao tỉ lệ nhập học và hoàn
thành giáo dục tiểu học và trung học cơ sở cho mọi trẻ em; nâng cao tỉ lệ trẻ chuyển
cấp từ trung học cơ sở sang trung học phổ thông và trang bị đầy đủ kỹ năng, kiến thức
cho trẻ để sau khi rời ghế nhà trường trẻ có thể tiếp tục học ở bậc cao hơn.
1.4.2.3. Cơ hội và thách thức.
20


Bối cảnh trong nước và quốc tế đã tạo ra các cơ hội và thách thức đối với sự phát
triển giáo dục hòa nhập. Các hoạt động trước đây chưa hoàn toàn đúng nghĩa của giáo
dụ hòa nhập. Việc tập trung vào trẻ khuyết tật theo kiểu phân loại truyền thống một
mức độ nào đó đã làm tăng nhu cầu của trẻ em khác gặp khó khăn trong học tập và làm
hiểu sai cụm từ “hòa nhập”. Tuy nhiên, các sáng kiến gần đây của chính phủcùng với
sự hỗ trợ của các nhà tài trợ đã bắt đầu tăng cường các chương trìh tập trung vào tất cả
đối tượng trẻ của hệ thống giáo dục, từ dó tạo cơ sở xác định nhu cầu và thực hiện giáo
dục hòa nhập
Hoạt động thu nhập dữ liệu về trẻ ở độ tuổi Tiểu học và Mầm non hiện chưa đưa ra
đầy đủ thông tin để cung cấp các dịch vụ giáo dục cho trẻ em, gia đình và giáo viên
dạy trẻ có nhu cầu đặc biệt. Để xác định những trẻ có khó khăn trong học tập, cần đề ra
các biện pháp giúp giáo dục giáo viên và gia đình xác định khó khăn của trẻ ngày từ
giai đoạn đầu phát triển của trẻ và biện pháp giúp giáo viên, cán bôh quản lý xây dựng
kế hoạch giáo dục, theo dõi đánh giá trẻ.
Nếu có biện pháp xác định nhu cầu giáo dục đặc biệt của trẻ, cần đảm bảo mọi trẻ
tiếp cận với biện pháp này dưới góc độ giáo dục, kinh tế xã hội, văn hóa – xã hội và

môi trường. Trách nhiệm của nhà trường là tháo gỡ khó khăn, rào cản để học sinh có
thể tiếp cận được với lớp học và chương trình học. Để giúp học sinnhh tiếp cận được
với chương trình học thì giáo viên phải nhận thức rằng, mỗi trẻ là một cá nhân có nhu
cầu học tập khác nhau. Đối với những trẻ có nhu cầu giáo dục đặc biệt mà khả năng
của giáo viên chưa đáp ứng được, cần trang bị cho giáo viên kiến thức và kĩ năng để
dạy học hiệu quả cho những trẻ này.
Để đáp ứng được công tác giảng dạy nêu trẻ, cần có các hỗ trợ và công cụ quản lí
thích hợp tại tất cả các cấp của hệ thống giáo dục. Giáo dục và các dịch vụ liên quan
khác được cung cấp cho trẻ và gia đình trẻ thông qau trường học, do đó, cần tăng
cường năng lực quản lý cảu trường học trong việc cung cấp dịch vụ cũng như hoạt
động lập kế hoạch phát triển trường học. Tương tự như vậy, cần tăng cường công tác
quản lý lãnh đạo tại cấp huyện, tỉnh để đảm bảo tất cả các trường đáp ứng được nhu
cầu của giáo viên, học sinh và gia đình học sinh
Ngoài ra, các mạng lưới hỗ trợ tại cộng đồng phải đảm bảo được rằng, mọi trẻ đều
được tiếp cận với các dịch vụ giáo dục ở địa phương và những nơi mà trẻ chưa được
hòa nhập vào cộng đồng phải cùng nhau phối hợp để đảm bảo tất cả những trẻ này
được tham gia vào đời sống cộng đồng. Nhưng hoạt động thí điểm về sự tham gia của
cộng đồng gần đây đã được ủng hộ một cách tích cực, do đó các hoạt động này có thể
được mở rộng phát triển trên taofn quốc.
21


Để thúc đẩy hoạt động giáo dục với tất cả cơ hội và thách thức nói trên, cần tăng
cường sự phối hợp giữa các ban ngành khác nhau và giữa các đơn vị, các cấp giáo dục.
Các dịch vụ giáo dục hiện đang được thực hiện cho trẻ còn rải rác, thiếu sự kết hợp và
phân chia trách nhiệm rõ ràng. Thách thức của Việt Nam là phát triển một hệ thống hỗ
trợ đa ngành, có tổ chức, trong đó xác định rõ trách nhiệm của từng ngành trong việc
cung cấp từu hai dịch vụ trở lên, ví dục như phát hiện sớm và hỗ trợ trẻ có nhu cầu đặc
biệt
1.4.3. Định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm phát triển giáo dục hòa nhập ở

Việt Nam
Tháng 12 năm 2000, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị tổng kết 5 năm
thực hiện Nghị định số 26/NĐ - CP ngày 17 tháng 4 năm 1995 của Chính phủ về việc
giao nhiệm vụ giáo dục trẻ khuyết tật cho ngành giáo dục. Tại Hội nghị này, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã đánh giá cao sư phối hợp, hỗ trợ của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc
(UNICEF), Ủy ban Văn hóa – Khoa học – Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ
chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển (Radda Barnen), Tổ chức cứu trợ và phát triển – Cơ
quan phát triển quốc tế Hoa Kì (USAID và CRS), Tổ chức PSBI và một số tổ chức
khác đã giúp ngành Giáo dục và Đào tạo (tính đến tháng 12 năm 2000) huy động được
6.000 trẻ em khuyết tật đến học với trẻ bình thường tại các thôn, xã theo chương trình
hòa nhập. Cũng tại Hội nghị này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ định hướng chiến
lược giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt Nam chủ yếu là giáo dục hòa nhập, vì giáo dục hòa
nhập nằm trong khuôn khổ pháp lí và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt
Nam
Để tiếp tục triển khai định hướng phát triển giáo dục hòa nhập và thực hiện phân
công nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ trong Chiến lược phát triển giáo dục 2001 –
2010 (Quyết định 102/2001/QĐ-TTg), ngày 30 tháng 9 năm 2002, Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã kí Quyết định số 44431/QĐ-BGDĐT – TCCB thành lập Ban chỉ đạo
giáo dục trẻ khuyết tật của ngành gồm 10 thành viên và một Ban thư kí giúp việc
Mô hình giáo dục hòa nhập là hình thức đưa trẻ khuyết tật vào học hòa nhập với trẻ
bình thường cùng lứa tuổi ở ngay nơi sinh ra và lớn lên. Những học sinh này được bố
trí vào lớp học phù hợp với lứa tuổi trong môi trường phổ thông, được cung cấp các
dịch vụ và giúp đỡ thường xuyên. Trong môi trường giáo dục hào nhập, các tiêu chí
đánh giá kết quả giáo dục cũng luôn được điều chỉnh phù hợp với năng lực và nhu cầu
của mỗi trẻ nhằm phát huy hết khả năng riêng biệt và mặt mạnh của trẻ. Ưu điểm của
mô hình giáo dục này là khắc phục được những điều mà mô hình giáo dục chuyên biệt
không làm được, chi phí giảm, màng lại hiệu quả kinh tế
22



Tuy nhiên, hình thức này cũng có nhiều khó khăn, trước hết là khó khăn về đội ngữ
giáo viên. Mô hình giáo dục hòa nhập đòi hởi một lực lượng lớn giáo viên có khả
năng, trình độ, lòng yêu trẻ, biết đổi mới phương pháp giảng dạy, luôn quan tâm tìm
hiểu mặt mạnh, mặt tích cực của học sinh để phát huy và bồi dưỡng, giáo dục các em
trở thành người có ích trong xã hội
Trong hoàn cảnh hiện nay, ở Việt Nam vẫn đang tiếp tục duy trì các cơ sở giáo dục
chuyên biệt hiện có, tiến tới phát triển các cơ sở này thành “Trung tâm nguồn”, vừa là
nơi nghiên cứu là chỗ dựa để bồi dưỡng giáo viên tật học giảng dạy hòa nhập trẻ
khuyết tật, nhưng chủ yếu vẫn là tận dụng tối đa những nguồn lực hiện có để thực hiên
mô hình giáo dục hòa nhập
Như vậy, để giải quyết “Vấn đề trẻ khuyết tật ở Việt Nam” phải bằng con đường
giáo dục hòa nhập là chính thì mới đạt được mục tiêu đã đề ra.
Để thực hiện thành công giáo dục hòa nhập theo quan điểm “Trường học cho mọi
trẻ em”, đồng thời thực hiện quan điểm, mục tiêu đối với giáo dục trẻ khuyết tật mà
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đặt ra, trong thời gian sắp tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo
sẽ tiến hành chỉ đạo theo các bước sau
Bước 1: Thực hiện công tác điều tra cơ bản ngày từ đầu năm học 2003 -2004 như
thông lệ hằng năm, thực hiện ngày toàn dân đưa trẻ đến trường. Hội đồng giáo dục của
xã (phường, thị trấn) tiến hành điều tra học sinh lớp 1 kết hợp điều tra trẻ khuyết tật (cả
lớp 1 và lớp 6). Kế hoạch điều tra tổng thể do Dự án Giáo dục Tiểu học cho trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn đảm nhận
Bước 2: Lập kế hoạch phân phối và tiếp nhận trẻ khuyết tật vào trường
a. Đối với các trường chuyên biệt vàn bán chuyên biệt
Tổ chức thu nhận trẻ trên địa bàn tỉnh hoặc khu vực
b. Đối với trẻ thiểu năng trí tuệ
- Tất cả các trường đều phải có trách nhiệm tiếp nhận trẻ thuộc địa bàn dân cư
trường đóng vào trường
- Nếu học sinh hòa nhập được thì mỗi giáo viên nhận từ 1 đến 2 em. Nếu học sinh
chưa hòa nhập được thì tổ chức thành lớp học riêng. Trường hợp phải điêug trị bệnh
thì thuộc lĩnh vực của trường chuyên biệt và cơ quan y tế

Bước 3: Tổ chức chỉ đạo

23


a) Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn một số quy định về cách đánh giá và xếp
loại đối với học sinh khuyết tật (đã có đối với lớp 1 của năm học 2002 -2003), về
nhiệm vụ giáo viên và kiến thức cơ bản ở từng lớp học
b) Mở rộng 2 trung tâm đào tạo giáo viên tật học tại Thành phố Hồ Chí Minh và Đà
Nẵng để đào tạo lực lượng cột cán cho 3 khu vực trong cả nước.
c) Đổi mới phương thức đào tạo giáo viên theo tín chỉ để đáp ứng yêu cầu về số
lượng giáo viên trước mắt, đồng thời đảm bảo trình độ chuẩn giáo viên về lâu dài. Quá
trình thực hiện yêu cầu nêu trên gắn chặt với quá trình đổi mới giáo dục phổ thông và
cải cách sư phạm
d) Đổi mới phương thức tuyển chon người học ngành sư phạm khuyết tật. Chẳng
hạn, là người khuyết tật dạy người khuyết tật, người có tâm huyết nghề nghiệp và thật
sự yêu trẻ chứ không phải là tìm một chỗ đứng trong xã hội
e) Hướng dẫn thực hiện nội dung cần phải đối với trẻ học hòa nhập
Bước 4: Xây dựng hệ thống chính sách. biện pháp thực hiện giáo dục hòa nhập
a) Từng bước đưa công tác bồi dưỡng giáo viên dạy hòa nhập vào chương trình bồi
dưỡng giáo viên thường xuyên và trong chương trình bồi dưỡng hè.
b) nghiên cứu đề xuất chính sách cho giáo viên dạy hòa nhập và chính sách trợ giúp
cho học sinh khuyết tật.
c) Tăng cường nghiên cứu định hướng, đồng thời đầu tư cho sản xuất, cung cấp
trang thiết bị và đồ dùng dạy học đặc thù cho trẻ khuyết tật (kể cả đồ dùng dạy học tự
làm)
Tóm lại, giáo dục trẻ khuyết tật là một nhiệm vụ mà hệ thống giáo dục quốc dân
Việt Nam phải chấm dứt đảm nhận. Bởi nhiệm vụ này đã được ghi nhận từ các văn bản
pháp lý của quốc gia và quốc tế. Đúng như Tuyên ngôn về giáo dục đặc biệt
Salamanca (Tây Ban Nha, 1994) đã khẳng định:

“...Giáo dục trẻ khuyết tật theo hướng hòa nhập là phương thức tốt nhất đẻ xóa bỏ
thái độ phân biệt, tạo ra những cộng đồng thân ái, xây dựng một xã hội cho mọi
người..”. Đó cũng là điều mong mỏi của Bác Hồ kính yêu: “Thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ
vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”. Phục vụ những công dân bé nhỏ với
những mảnh đời khó khăn đặc biệt chắc chắn sẽ không kém phần gian nan, vất vả
nhưng cũng sẽ vồ cùng tốt đẹp và vẻ vang.

24


CHƯƠNG 2: THÚC ĐẨY VÀ HỖ TRỢ GIÁO DỤC HÒA NHẬP CHO TRẺ CÓ
NHU CẦU ĐẶC BIỆT TRONG TRƯỜNG MẦM NON
2.1. Tạo môi trường học tập hòa nhập thân thiện
Quy định về giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật, tàn tật, ghi rõ : “ Các cơ
sở giáo dục tùy theo điều kiện để xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho người
khuyết tật; phối hợp với các tổ chức xã hội xây dựng môi trường văn hóa, thể thao phù
hợp để người khuyết tật được tham gia các hoạt động giáo dục như mọi người khác”.
Môi trường giáo dục trong nhà trường, theo nghĩa tổng thể, bao gồm các yếu tố
của môi trường vật chất và yếu tố của môi trường tâm lí. Việc xây dựng môi trường
giáo dục trong nhà trường cho mọi trẻ nói chung và cho trẻ co nhu cầu đặc biệt cần đạt
được các yêu cầu của cả hai yếu tố trên.Trong đó, hai yếu tố môi trường vừa là tiền đề
vừa là kết quả của nhau. Thực chất là tạo ra được một môi trường giáo dục hòa nhập
thân thiện nhằm kích thích việc học tập và tham gia tích cực vào các hoạt động học tập
của mọi học sinh trong lớp học và nhà trường.
Mục tiêu của xây dựng môi trường giáo dục thân thiện đó là trẻ có cơ hội phát
triển tối đa khả năng của mình. Các mục tiêu cụ thể là:
- Trẻ có được cảm giác an toàn ;
- Trẻ được thừa nhận và tôn trọng ;
- Trẻ tự tin và hứng thú tham gia vào các hoạt động ;
- Trẻ được tương tác, hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.

2.1.1. Môi trường vật chất không rào cản
Đó là môi trường với các điều kiện về cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi, phương
tiện, thiết bị đảm bảo cho tổ chức hoạt động chăm sóc,giáo dục, học tập của giáo viên
và trẻ. Các yếu tố của môi trường vật chất trong nhà trường gồm:
Môi trường vật chất trong lớp học: Môi trường này cần đảm bảo sự phù hợp giữa
cấu trúc không gian và tổ chức các hoạt động như sắp xếp bàn ghế học tập, bàn giáo
viên, vị trị ngồi học của trẻ theo sự tương tác của giáo viên với trẻ và giữa các trẻ với
nhau, góc đồ dùng, đồ chơi, phương tiện thiết bị học tập,…
Cấu trúc của môi trường đảm bảo để trẻ có nhu cầu đặc biệt nhận biết được sự hiện
diện của mình trong lớp học. Bên cạnh đó, môi trường lớp học cần được cấu trúc theo
diễn biến thời gian và hoạt động bằng cách sử dụng mô hình, hình ảnh, biểu tượng cho
các hoạt động diễn ra trong lớp học tương ứng với những mốc thời gian. Điều này giúp
25


×