BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ ……
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG LĨNH VỰC KIỂM DỊCH SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT
DÙNG LÀM THỰC PHẨM NHẬP KHẨU VÀO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60380101
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ……………..
HÀ NỘI – NĂM 2017
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và
hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt
khóa học cũng như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Tiến sĩ Trần Kim Liễu– cô giáo kính mến đã hết lòng giúp đỡ, tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực
hiện nghiên cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,
Khoa Pháp luật Hành chính – Hiến pháp và cán bộ Thư viện trường Đại học
Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày …. Tháng….. năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị …..
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ Giáo viên hướng dẫn là Tiến sĩ Trần Kim Liễu. Các nội dung nghiên
cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc
phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác
nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng
một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức
khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ
sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng như
kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày….. tháng …… năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị ……
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………….…………
……………………………………………………………………….……………………
…………………………………………………………….………………………………
……………………………………………………….……………………………………
…………………………………………….………………………………………………
………………………………….…………………………………………………………
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội văn minh, việc quản lý nhà nước bằng pháp luật là một
yêu cầu tất yếu khách quan và đặc biệt trở thành một yêu cầu bức thiết đối
với việc xây dựng, phát triển Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, pháp luật là một trong
những công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý xã hội, có vai trò đặc biệt trong
việc bảo đảm sự ổn định và phát triển của mỗi quốc gia.
Để thực hiện những mục tiêu trên, Nhà nước ta đã ban hành Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật 80/2015/QH13 ngày 22/6/2015 và Nghị
định 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/016 quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Theo giáo trình Luật Hành chính Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB CAND, Hà Nội -2012, tr 172) “ Quyết định hành chính là một
dạng của quyết định pháp luật, nó là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực của
nhà nước thông qua những hành vi của các chủ thể được thực hiện quyền
hành pháp trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành theo
một trình tự dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật,
nhằm đưa ra những chủ trương, biện pháp đặt ra các quy tắc xử sự hoặc áp
dụng những quy tắc đó giải quyết một công việc cụ thể trong đời sống xã hội
nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước”. Với bản chất như vậy, có thể
khẳng định rằng, Quyết định hành chính có tác động trực tiếp đến đời sống
của người dân, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Thực tế ban hành QĐHC hiện nay cho thấy, các chủ thể ban hành
QĐHC còn nhiều lúng túng, thường xuất phát từ góc độ chủ quan của người
trực tiếp thực hiện việc ban hành QĐHC, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau
về thẩm quyền ban hành QĐHC, từ góc độ khách quan, các tiêu chí cụ thể để
xác định một QĐHC khi nào thì được coi là hợp pháp, không hợp pháp, khi
nào bị coi là vô hiệu, các tình huống theo đó khi nào một quyết định được ủy
quyền ban hành, khi nào phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu QĐHC trái pháp
luật…cũng chưa được quy định đầy đủ.
Trên thực tế, chưa có luật chung về trình tự thủ tục ban hành QĐHC cá
biệt làm cho các cơ quan nhà nước, kể cả các Thẩm phán hành chính không
có cơ sở hủy bỏ Quyết định hành chính, về phía người dân và doanh nghiệp
cũng không có cơ sở pháp lý rõ ràng để khiếu nại, khởi kiện dẫn đến tình
trạng họ gặp khó khăn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình.
Việc thiếu các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục ban hành QĐHC (trên thực
tế thì không có luật chung về trình tự thủ tục ban hành QĐHC cá biệt tuy
nhiên trong từng lĩnh vực đều có quy định: ví dụ: xử phạt có trình tự ban hành
quyết định xử phạt, kỷ luật công chức có thủ tục ban hành quyết định kỷ luật,
giải quyết khiếu nại có quy trình ban hành quyết định giải quyết khiếu nại…)
làm cho các cơ quan Nhà nước, kể cả các Thẩm phán hành chính không có cơ
sở hủy bỏ QĐHC,về phía người dân và doanh nghiệp cũng không có cơ sở
pháp lý rõ ràng để khiếu nại, khởi kiện, dẫn đến tình trạng họ gặp khó khăn
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình. Chính vì vậy, cần thiết
phải có những quy định cụ thể, rõ ràng với hiệu lực pháp lý cao để điều chỉnh
cụ thể về quy trình ban hành QĐHC, chẳng hạn như: tiêu chí về đảm bảo tính
hợp pháp, tính công khai minh bạch, công bằng của QĐHC,các quy định về
trình tự, thủ tục ban hành QĐHC, để trên cơ sở đó xác định và ràng buộc
trách nhiệm pháp lý của các chủ thể có thẩm quyền ban hành QĐHC.
Cải cách hành chính quốc gia, cải cách nền tư pháp, hoàn thiện pháp
luật là những nội dung quan trọng trong quá trình hoàn thiện hoạt động ban
hành QĐHC của TAND. Trong bối cảnh đất nước thay đổi mạnh mẽ trên tất
cả các lĩnh vực, tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đánh
giá đúng thực tiễn hoạt động xét xử và các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động
Ban hành quyết định hành chính từ đó có những giải pháp nâng cao hiệu quả
của hoạt động này.
Trong bối cảnh như vậy, tác giả chọn : “Ban hành quyết định hành
chính của cơ quan Tòa án – Thực trạng và hướng hoàn thiện” làm đề tài
luận văn nhằm tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản của
việc ban hành QĐHC của TAND, tìm kiếm giải pháp để bảo đảm việc ban
hành QĐHC hợp pháp, hợp lý, khả thi và nâng cao chất lượng QĐHC của cơ
quan tòa án.
2. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài
Quyết định hành chính và ban hành QĐHC là một trong những nội
dung quan trọng của pháp luật hành chính, vì vậy giáo trình Luật hành chính
và một số giáo trình có liên quan của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta đều đề
cập đến nội dung này. Liên quan đến QĐHC, hoạt động ban hành QĐHC,
pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật trong lĩnh vực này, đến nay ở nước ta
đã có những công trình nghiên cứu đáng chú ý là:
- Tiến sĩ Bùi Thị Đào “Tính hợp pháp và tính hợp lý của Quyết định
hành chính”: Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008;
- Nguyễn Văn Quang, “Hoàn thiện pháp luật về ban hành Quyết định
hành chính ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Trường, tháng 5/2015.
- Đào Kim Cương “Một số căn cứ hủy quyết định hành chính bị khiếu
kiện, cơ quan nhà nước ban hành quyết định hành chính trái pháp luật bồi
thường thiệt hại cho công dân”: Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2001;
- Vũ Thư “Tính hợp pháp và hợp lý của văn bản pháp luật và các biện
pháp xử lý các khiếm khuyết của nó”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
1/2003;
- Nguyễn Văn Quang, “Về xác định các căn cứ đánh giá tính hợp pháp
của quyết định hành chính trong xét xử vụ án hành chính”, Tạp chí luật học,
số 4/2004;
- Nguyễn Cảnh Hợp và Vũ Cao Minh “Tính hợp pháp và tính hợp lý
của quyết định quản lý nhà nước”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 11/2011;
- Viện nghiên cứu chính sách, Pháp luật & Phát triển (PLD), “Tính
minh bạch của quyết định hành chính”, Nhà xuất bản lao động và xã hội,
tháng 10/2012;
- Nguyễn Văn Quang , “Các căn cứ đánh giá tính hợp pháp của quyết
định hành chính”, Tạp chí luật học số 11/2013.
- Luận án tiến sĩ “Hiệu lực quyết định quản lý hành chính nhà nước ở
nước ta hiện nay” Tiến sĩ Nguyễn Minh Phú
- Luận án tiến sĩ “Giải quyết khiếu nại hành chính trong công cuộc cải
cách hành chính ở Việt Nam” Tiến sĩ Hoàng Ngọc Dũng
Có thể nhận thấy, tất cả những công trình trên đây đều có liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp đến một số vấn đề thực tiễn, lý luận của đề tài nghiên cứu.
Mặc dù không có công trình nào nghiên cứu riêng về quyết định hành chính
của cơ quan Toà án, song những kết quả nghiên cứu tổng hợp sẽ là nền tảng,
tiền đề và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để tác giả kế thừa, vận dụng có
chọn lọc khi triển khai nghiên cứu đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn đi sâu vào nghiên cứu vấn đề lý luận và thực
tiễn của việc ban hành quyết định hành chính, từ đó tìm ra nguyên nhân còn
tồn tại, hạn chế và đề xuất các ý kiến để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
Ban hành quyết định hành chính trong hệ thống cơ quan Tòa án ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ chính của luận văn sẽ giải quyết
các vấn đề sau:
-Tổng hợp, phân tích làm rõ khái niệm và đặc điểm cơ bản của QĐHC,
vai trò của QĐHC trong quản lý của hệ thống cơ quan Tòa án; về ban hành
QĐHC ở nước ta và một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá các quy định pháp luật hiện hành
về ban hành các QĐHC của cơ quan Tòa án.
- Phân tích, đánh giá những hạn chế và nguyên nhân tác động đến vấn
đề Ban hành QĐHC của cơ quan Tòa án thông qua thực trạng ban hành quyết
định hành chính của cơ quan Tòa án (từ năm 2011 đến năm 2015).
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp
luật ban hành QĐHC của cơ quan Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ của Luận văn Thạc sỹ luật học, luận văn tập trung
nghiên cứu một số vấn đề cơ bản liên quan đến hoạt động ban hành QĐHC
đưa ra một số nội dung tham khảo kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài về
việc ban QĐHC của Tòa án nhân dân và kiến nghị xây dựng, hoàn thiện pháp
luật và hướng dẫn thực hiện việc ban hành QĐHC của cơ quan Tòa án để bảo
đảm tính minh bạch, hiệu quả, phù hợp với đặc điểm, tình hình chính trị, kinh
tế và xã hội nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay. Hê thống cơ quan Tòa
án bao gồm Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự. Trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu là QĐHC cuả cơ quan Tòa án
nhân dân, đặc biệt trong phần thực trạng tác giả giới hạn sử dụng các số liệu
về ban hành QĐHC của cơ quan Tòa án nhân dân.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện đề tài, luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật,
về quản lý nhà nước.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội
như phương pháp phân tích, tổng hợp kết hợp phương pháp lịch sử, quy nạp
trên cở sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và phân tích các văn kiện của Đảng,
pháp luật của Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm trong việc ban hành
QĐHC. Đồng thời, có phân tích, đánh giá thực trạng ban hành QĐHC hiện
nay ở nước ta để hướng đến hoàn thiện quy trình, thủ tục trong việc ban hành
QĐHC.
Luận văn cũng sử dụng các tài liệu nước ngoài và các tác phẩm, công
trình nghiên cứu khoa học của các tác giả trong nước và ngoài nước về
QĐHC và việc ban hành QĐHC trong hoạt động quản lý của cơ quan Tòa án.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phương pháp logic và phương pháp so sánh đối chiếu để làm
sáng tỏ những nội dung của luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa khoa học
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm cơ sở lý luận và thực
tiễn để hoàn thiện tổ chức và thực hành hoạt động ban hành quyết định hành
chính của cơ quan tòa án. Đồng thời, luận văn sẽ là cơ sở khoa học cho việc
sửa đổi, bổ sung, xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh về vấn đề ban hành quyết định hành chính của cơ quan
tòa án.
Về ý nghĩa thực tiễn
Việc nghiên cứu của luận văn sẽ giúp cho việc tận dụng và kế thừa
những thành quả nghiên cứu về ban hành quyết định hành chính của cơ quan
tòa án sử dụng cho công tác nghiên cứu lý luận về QĐHC, những giải pháp
khắc phục vướng mắc, bất cập về vấn đề này góp phần hạn chế và xử lý kịp
thời các hoạt động ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa án.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, Luận văn được kết cấu thành 3 chương gồm:
Chương I: Cơ sở lý luận về ban hành quyết định hành chính của cơ
quan Tòa án ở Việt Nam.
Chương II: Thực trạng về ban hành quyết định hành chính của cơ quan
Tòa án ở Việt Nam.
Chương III: Quan điểm và giải pháp tăng cường hoạt động ban hành
quyết định hành chính của cơ quan Tòa án ở Việt Nam.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
CỦA CƠ QUAN TÒA ÁN Ở VIỆT NAM
1.1 Khái niệm, đặc điểm quyết định hành chính của cơ quan Tòa án
1.1.1 Khái niệm quyết định hành chính của cơ quan tòa án
Việc tìm hiểu khái niệm quyết định hành chính của cơ quan Tòa án là
vấn đề quan trọng mang tính chất mấu chốt, vì khái niệm là yếu tố giúp xác
định phạm vi và nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động ban hành và thực
hiện quyết định hành chính của cơ quan Tòa án.
Khái niệm quyết định hành chính của cơ quan Toà án bắt nguồn từ
quan niệm chung về quyết định hành chính. Trong khoa học pháp lý hành
chính, nhiều tác giả đã cố gắng đưa ra định nghĩa về quyết định hành chính
của cơ quan tòa án để làm cơ sở nền móng cho việc xây dựng pháp luật cũng
như các vấn đề lý luận có liên quan khác.1Theo Giáo trình Luật Hành chính
thì khái niệm quyết định được bắt nguồntừ thuật ngữ Latinh “Actus”. Thuật
ngữ này được sử dụng với nhiều nghĩa khácnhau là “quyết định”, “hành
động”, “hành vi”, “văn bản”. Bởi vậy, sách báo, tạp chínước ngoài thường gọi
quyết định là hành động, một hành động dẫn đến một hậuquả pháp lý được
gọi là quyết định pháp luật. Người ta còn gọi quyết định pháp lýlà mệnh lệnh,
là sự thể hiện ý chí quyền lực, là văn bản, là kết quả và hình thức thểhiện của
hoạt động nhà nước. Ở Việt Nam, trong sách báo khoa học, trong cácvăn bản
pháp luật và trong thực tiễn đời sống nhà nước, đời sống xã hội thườngđồng
nhất “quyết định” với “văn bản”, “quyết định quản lý” với “ văn bản
quảnlý”.Từ điển giải thích thuật ngữ luật học đã định nghĩa quyết định hành
chính là “ kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, những người có chức vụ, các tổ chức và cá nhân được
Nhà nước trao quyền, thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp luật, theo
trình tự và hình thức do pháp luật quy định hướng tới việc thực hiện nhiệm vụ
quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực hoặc vấn đề được phân công phụ
trách”.2Theo Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam – Trường Đại học Luật
Hà Nội, NXB CAND, Hà Nội -2012, tr.172) thì “Quyết định hành chính là
một dạng của quyết định pháp luật, nó là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực
của nhà nước thông qua những hành vi của các chủ thể được thực hiện quyền
hành pháp trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành theo
một trình tự dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật,
nhằm đưa ra những chủ trương, biện pháp đặt ra các quy tắc xử sự hoặc áp
dụng những quy tắc đó giải quyết một công việc cụ thể trong đời sống xã hội
nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước”.
Tuy nhiên, có nhiều quan niệm vế quyết định hành chính nói chung và
quyết định hành chính của cơ quan Toà án nói riêng. Dưới góc độ hình thức
biểu hiện, sẽ có hai quan niệm về quyết định hành chính của cơ quan Tòa án:
Một là: quyết định bằng văn bản. Hai là, quyết định hành chínhchỉ là các
quyết định bằng văn bản. Theo quan niệm thứ nhất: quyết định hành chính
của cơ quan tòa án có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như văn
bản, lời nói, dấu hiệu, ký hiệu xuất phát từ việc cho rằng quyết định là “định
ra, đề ra và dứt khoát phải làm” hoặc là “điều định ra, đề ra của cấp trên
phải thực hiện” 1 . Điều kiện cần và đủ của một quyết định là tính bắt buộc và
tính quyền lực nhà nước.Việc một quyết định hành chính tồn tại dưới hình
thức nào (văn bản hay không phải văn bản) chỉ là cách thức thể hiện nội dung
của quyết định mà thôi.Theo quan niệm thứ 2: đồng nhất khái niệm quyết
định với văn bản, đã thu hẹp khái niệm quyết định hành chính.
Thực tế quản lý hành chính cho thấy, các quyết định hành chính của cơ
quan tòa án không thể hiện dưới dạng văn bản được sử dụng thường xuyên
hơn các quyết định hành chính thể hiện dưới dạng văn bản. Vì hoạt động quản
lý hành chính của cơ quan tòa án là hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật,trực
tiếp điều hành hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nên mệnh lệnh của
người quản lý có các mức độ đơn giản, phức tạp rất khác nhau và cần đưa ra
rất nhiều quyết định hành chính. Nếu tất cả các quyết định hành chính của cơ
quan tòa án đều được văn bản hóa thì hoạt động quản lý sẽ cứng nhắc, phức
tạp và nhiều trường hợp sẽ rất chậm trễ. Các quyết định hành chính của cơ
quan tòa án không thể hiện dưới dạng văn bản đã tạo nên sự sống động, linh
hoạt cần thiết trong hoạt động quản lý của cơ quan tòa án.
Về căn bản, định nghĩa nêu trên về quyết định hành chính đã phản ánh
tương đối đầy đủ những dấu hiệu đặc trưng của quyết định hành chính trong
quản lý của cơ quan tòa án .Tuy nhiên, định nghĩa này không phản ánh rõ nét
dấu hiệu đặc trưng về tác động pháp lý trực tiếp ra bên ngoài của các quyết
định hành chính của cơ quan tòa án. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của
luận văn này, tác giả sử dụng định nghĩa nêu trên trên cơ sở bổ sung dấu hiệu
đặc trưng của QĐHC do cơ quan tòa án ban hành và giới hạn góc độ là quyết
định dưới hình thức văn bản. Từ đó, có thể định nghĩa như sau:
Quyết định hành chính của cơ quan Tòa án là một loại quyết định do
các cơ quan Tòa án, người có thẩm quyền trong cơ quan Tòa án ban hành
theo hình thức, thủ tục do pháp luật quy định để điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong quản lý hành chính của Tòa án.
1.1.2 Đặc điểm quyết định hành chính của cơ quan tòa án
Trên cơ sở tích hợp những đặc điểm chung của quyết định hành chính với
đặc thù hoạt động của cơ quan Toà án , quyết định hành chính của cơ quan tòa
án có những đặc điểm đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Quyết định hành chính của cơ quan tòa án là sản phẩm hoạt
động của các chủ thể quản lý tòa án có thẩm quyền.
Chủ thể này trước hết và chủ yếu là các cơ quan và những người có thẩm
quyền trong hệ thống cơ quan tòa án từ trung ương đến địa phương. Theo quy
định của pháp luật, hệ thống cơ quan tòa án này thực hiện chức năng quản lý
tư pháp và như vậy phần lớn các quyết định hành chính của cơ quan tòa án
do người có thẩm quyền của hệ thống cơ quan tòa án ban hành ra. Trong
những trường hợp như vậy, những chủ thể nói trên cũng ban hành các quyết
định hành chính của cơ quan tòa án để giải quyết các công việc phát sinh
trong hoạt động quản lý cơ quan tòa án của mình.
Thứ hai: Quyết định hành chính của cơ quan tòa án mang tính quyền lực
nhà nước.
Tính chất này thể hiện rõ ở nội dung của các quyết định hành chính của
cơ quan tòa án và biện pháp bảo đảm thi hành các quyết định hành chính đó.
Tính quyền lực nhà nước của các quyết định hành chính của cơ quan tòa án
thể hiện ở nhiều yếu tố khác nhau, cụ thể là:
Trước hết, như đã nêu trên, quyết định hành chính của cơ quan tòa án có
thể đặt ra các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung đối với các đối tượng
có liên quan trong quản lý hành chính của cơ quan tòa án, đưa ra các chủ
trương, chính sách, biện pháp lớn, hoặc ấn định các quyền và nghĩa vụ cụ thể
của cá nhân, hay tổ chức trong quản lý hành chính của cơ quan tòa án. Những
nội dung này được hình thành trên cơ sở của việc thực hiện thẩm quyền của
các chủ thể quản lý cơ quan tòa án theo quy đinh của pháp luật và được bảo
đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước trong trường hợp cần
thiết.
Thêm vào đó, về nguyên tắc, nội dung các quyết định hành chính của cơ
quan tòa án được hình thành trên cơ sở ý chí quyền lực đơn phương của các
chủ thể quản lý của cơ quan tòa án, phù hợp với thẩm quyền mà pháp luật đã
trao cho các chủ thể này. Lẽ tất nhiên, trong quá trình xây dựng các quyết
định hành chính của cơ quan tòa án, việc tham khảo và tiếp thu ý kiến của các
đối tượng quản lý thuộc quyền là yêu cầu được đặt ra nhưng quyền quyết định
cuối cùng đối với các vấn đề có liên quan bao giờ cũng thuộc về các chủ thể
quản lý của cơ quan tòa án có thẩm quyền.
Thứ ba: quyết định hành chính của cơ quan tòa án phải là quyết định
trong hoạt động quản lý hành chính của cơ quan tòa án. Quyết định hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án có thể do cơ quan hành chính
nhà nước (Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp ban hành) hoặc các cơ quan
nhà nước khác không phải là cơ quan hành chính nhà nước (Cơ quan Tòa án,
Viện kiểm sát nhân dân, Bảo hiểm xã hội…), nhưng phải là quyết định trong
hoạt động quản lý hành chính, tức là quyết định trong hoạt động chấp hành -
điều hành.
Đồng thời, quyết định hành chính của cơ quan tòa án phải bao hàm sự
điều chỉnh.Điều này có nghĩa là quyết định hành chính của cơ quan tòa án
phải hướng đến việc làm phát sinh những hậu quả pháp lý mang tính chất bắt
buộc. Trên thực tế, trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý hành chính
của cơ quan tòa án, chủ thể có thể thực hiện những hoạt động hành chính thực
tế đơn thuần như cung cấp thông tin cho các bên liên quan, đưa ra các thông
báo hoặc thực hiện những biện pháp nhằm chuẩn bị cho việc ra một quyết
định hành chính của cơ quan tòa án như: tổ chức hội nghị, các cuộc họp….
Đây chỉ là những hoạt động nhằm thực hiện công vụ của chủ thể chứ không
hướng đến việc làm phát sinh những hậu quả pháp lý mang tính chất bắt buộc
nào cả.
Thứ tư: về hình thức, quyết định hành chính của cơ quan tòa án thể hiện
bằng văn bản
Phân biệt quyết định hành chính nội bộ với các quyết định chuyên môn
của Tòa án
Quyết định hành chính của cơ quan tòa án được hiểu là kết quả của sự thể
hiện ý chí quyền lực đơn phương của các chủ thể quản lý là Tòa án, được thể
hiện dưới những hình thức nhất định tác động đến các đối tượng nhất định
trong quá trình quản lý tưpháp.Vì thế, quyết định hành chính của cơ quan tòa
án được ban hành có thể thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như quyết
định bằng miệng, bằng tín hiệu, ám lệnh, văn bản. Đây là hình thức thể hiện
có nhiều ưu thế về tính chính xác và tính ổn định cao so với các hình thức
khác.
Đây là hai loại quyết định do cùng cơ quan toà án ban hành nhưng
mang tính chất khác nhau. Những quyết định chuyên môn của cơ quan toà án
chủ yếu là những quyết định cá biệt dưới hình thức là những bản án hoặc
quyết định của Tòa án để thực hiện chức năng xét xử. Ban hành các quyết
định hành chính để thực hiện công tác quản lý nội bộ nhằm hỗ trợ việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ thuộc chức năng cơ bản của mình các cơ quan này
là chức năng xét xử: để giải quyết công việc nội bộ hoặc thực hiện một số
quyền quản lý hành chính được pháp luật quy định.
Trình tự, thủ tục xây dựng ban hành hai loại quyết định này cũng khác
nhau. Quyết định chuyên môn thực hiện chức năng xét xử của cơ quan toà án
tiến hành các thủ tục theo quy định của luật tố tụng còn quyết định hành chính
của Toà án ban hành hoặc có thể theo thủ tục hành chính hoặc theo quy trình
tư pháp.
1.2. Khái niệm, đặc điểm ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa án
1.2.1. Khái niệm ban hành quyết định hành chính của cơ quan Tòa án
Từ thực tiễn ban hành quyết định hành chính trong hoạt động quản lý
của cơ quan tòa án, cũng có những cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau về khái
niệm “ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa án”. Cụ thể như sau:
Ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa án là sự phản ứng của
tòa án trước một tình huống đòi hỏi phải có sự giải quyết của tòa án theo thẩm
quyền quản lý do luật định.
Trong cơ chế quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, mỗi loại cơ quan trong bộ máy nhà nước có
những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Trong quá trình thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình các cơ quan nhà nước đều xây
dựng và ban hành quyết định pháp luật khác nhau nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội, có thể là điều chỉnh chung, hoặc điều chỉnh cá biệt cụ thể đối với
một, hay một số quan hệ xã hội cụ thể phát sinh trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống nhà nước và xã hội, tạo nên cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động
nhà nước, sinh hoạt của xã hội, tạo nên sự thay đổi hiện thực của đời sống xã
hội, bảo đảm lợi ích nhà nước, xã hội và công dân. Quyết định pháp luật là
sản phẩm trực tiếp do các cơ quan nhà nước tạo nên, sản phẩm của hoạt động
lập pháp là các quyết định lập pháp- các luật (Hiến pháp, bộ luật, đạo luật),
pháp lệnh… sản phẩm của hoạt động tư pháp là các quyết định tư pháp – bản
án, quyết định của tòa án.
Ban hành quyết định hành chính là hình thức hoạt động của cơ quan
toà án hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan toà án, có nội dung là đặt ra
các quy tắc xử xự chung hoặc các mệnh lệnh hành chính cụ thể đối với một
chủ thể cụ thể, nhằm để quản lý hành chính trong quá trình hoạt động của
Toà án.
17
1.2.2 Đặc điểm hoạt động ban hành quyết định hành chính của cơ
quan tòa án
Ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa án là hoạt độngmang
tính quyền lực Nhà nước: Tính quyền lực nhà nước trước hết thể hiện ở chỗ
ban hành quyết định hành chính được thực hiện chủ thể thuộc các cơ quan tòa
án, được trao qyền trong những trường hợp nhất định. Việc sử dụng quyền lực
này còn đòi hỏi phải đúng thẩm quyền pháp luật qui định nhằm đảm bảo sự
hài hòa, thống nhất trong quá trình sử dụng quyền lực của các bộ phận cấu
thành bộ máy nhà nước…Không chỉ thế, tính quyền lực nhà nước còn được
thể hiện ở tính đảm bảo thi hành các quyết định hành chính trong thực tế. Bởi
lẽ về nguyên tắc, mọi quyết định hành chính của cơ quan tòa án đều phải
được thi hành, kể cả những quyết định có sự phản kháng từ phía đối tượng
quản lí, có nghĩa là quyết định sẽ được đảm bảo bằng biện pháp cưỡng chế
của nhà nước khi cần thiết. Ngoài ra quyền lực nhà nước còn được thể hiện
trong việc các chủ thể có thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để
đảm bảo thực hiện ý chí của nhà nước như các biện pháp về kinh tế, giáo dục,
thuyết phục…
Đặc điểm được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền của quyết định
hành chính đã phản ánh một phần yếu tố ý chí của cơ quan tòa án trong nội
dung quyết định, vì khi một chủ thể tiến hành các hoạt động sử dụng quyền
lực nhà nước là chủ thể dó nhân danh nhà nước, thể hiện ý chí của nhà nước
trong các quyết định của mình. Hơn nữa, quản lý hành chính nhà nước là quá
trình tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng chịu sự quản lý nhằm đạt
được những mục đích mà nhà nước định trước.Phần lớn các tác động này
được chưa đựng trong các quyết định hành chính. Để các tác động quản lý
được các đối tượng chịu sự quản lý tiếp nhận,thực hiện dễ dàng, đạt hiệu quả
cao, mỗi tác động phải là kết quả của sự vận dụng các quy luật khách quan về
sự vận động của đời sống xã hội, dựa trên những điều kiện quản lý cụ thể. Lẽ
dĩ nhiên, sự vận dụng, đánh giá các quy luật khách quan, các điều kiện quản
18
lý cụ thể đó không thể tránh khỏi quan điểm, cách nhìn nhận chủ quan của
Nhà nước. Vì vậy, nội dung quyết định hành chính thể hiện rõ mong muốn
của Nhà nước tác động vào đối tượng nào, trong lĩnh vực quản lý nào, tác
động theo chiều hướng nào, tác động theo chiều hướng, cách thức nào. Đồng
thời, ý chí của nhà nước trong quyết định hành chính còn được thể hiện ở chỗ:
mặc dù khi ban hành quyết định, chủ thể ban hành có thể xem xét, lấy ý kiến
của đối tượng tác động của quyết định về những vấn đề liên quan đến nội
dung quyết định nhưng các ý kiến đó chỉ có giá trị tham khảo, nhằm giảm bớt
khả năng nhìn nhận vấn đề một cách phiến diện, chủ quan của người ban hành
quyết định, Nội dung quyết định không bao giờ là sự thỏa thuận ý chí giữa
chủ thể quản lý và đối tượng chịu sự quản lý.
Ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa án là hoạt động
mang tính chấp hành- điều hành: các cơ quan tòa án ban hành các quyết định
hành chính để thực hiện nhiệm vụ và chức năng quản lí tòa án của mình,
nhằm chấp hành các văn bản luật của cơ quan quyền lực Nhà nước và điều
hành hoạt động của các đối tượng chịu sự quản lí. Các quyết định hành chính
do toà án ban hành để thực hiện công tác nội bộ (tuyển dụng, phân công…) và
để đảm bảo trật tự hành chính torng quá trình thực hiện chức năng cơ bản của
toà án là chức năng xét xử (quyết định xử phạt hành chính đối với hành vi gây
rối trật tự phiên toà là quyết định hành chính do thẩm phán (chủ toạ phiên toà)
ban hành để đảm bảo duy trì trật tự hành chính trong quá trình thực hiện chức
năng xét xử của toà án).
Ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa án là hoạt động mang
tính dưới luật: nghĩa là hoạt động ban hành quyết định hành chính của cơ
quan Tòa án phải được ban hành trên cơ sở luật, nhằm triển khai thực hiện
luật hoặc các quy định khác về công tác quản lý hành chính chứ không phải
hoạt động mang tính luật. Về nguyên tắc, hoạt động ban hành quyết định hành
chính của toà án phải dựa trên cơ sở luật và không được trái với luật và quyết
19
định hành chính được ban hành để hướng dẫn thi hành luật, cụ thể hóa và chi
tiết hóa luật; đặc biệt đối với những vấn đề phức tạp, mới mẻ.
Ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa án được tiến thành theo
trình tự thủ tục, dưới hình thức được pháp luật quy định. Trình tự, thủ tục,
hình thức ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa án được quy định
cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan của cơ quan có tòa
án cóthẩm quyền, có tính chất bắt buộc phải thực hiện nhằm bảo đảm rằng:
Nội dung của các quyết định hành chính của cơ quan tòa án được xây
dựng và ban hành theo đúng trình tự, thủ tục đáp ứng yêu cầu của việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của quản lý của cơ quan tòa án, tôn trọng và bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp của cá nhân, tổ chức trong quản lý của cơ quan tòa án.
Nội dung của các quyết định hành chính của cơ quan tòa án được thể hiện
theo đúng hình thức mà pháp luật quy định, đáp ứng yêu cầu về tính thống
nhất, minh bạch, rõ ràng, thuận lợi cho việc thực hiện đặt ra đối các quyết
định quản lý hình thành trong hoạt động quản lý hành chính của cơ quan tòa
án.Trên thực tế, hình thức thông dụng nhất của các quyết định hành chính của
cơ quan tòa án là văn bản với tên gọi và hình thức thể hiện được pháp luật quy
định. Vấn đề đặt ra là ngoài hình thức văn bản, liệu quyết định hành chính của
cơ quan tòa án còn được thể hiện dưới hình thức nào khác hay không? Thực
tiễn pháp luật của nhiều nước trên thế giới đã thừa nhận ngoài văn bản, quyết
định hành chính của cơ quan tòa án còn được thể hiện dưới hình thức khác
như lệnh truyền miệng (kể cả việc truyền qua điện thoại, cử chỉ của người có
thẩm quyền quản lý tòa án (cảnh sát chẳng hạn).3Vì vậy, tồn tại các quyết
định hành chính của cơ quan tòa án dưới các hình thức khác với hình thức văn
bản.
3 Xem Jean-Michel De Forges (Nguyễn Diệu Cơ dịch), Luật hành chính, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội,
1995, trang 43.
20
Hoạt động ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa án có tác
động pháp lý trực tiếp ra bên ngoài hệ thống của chủ thể có thẩm quyền đã
đưa ra quyết định.Việc ban hành ra các quyết định hành chính của cơ quan
tòa án là kết quả của hoạt động nhằm thực hiện thẩm quyền quản lý hành
chính của cơ quan tòa án đối với các chủ thể có thẩm quyền. Điều này biểu
hiện đầy đủ và rõ nét nhất trong mối quan hệ giữa chủ thể có thẩm quyền đó
với các đối tượng chịu sự tác động, quản lý của chủ thể có thẩm quyền trong
lĩnh vực hoạt động có liên quan. Việc ban hành ra các quyết định hành chính
của cơ quan tòa án đã tác động trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ pháp lý của các
cá nhân, tổ chức liên quan nằm ngoài hệ thống của chủ thể có thẩm quyền.
Trong quá trình quản lý tòa án, những hoạt động mang tính chất chỉ đạo,
mệnh lệnh hành chính nội bộ của chủ thể quản lý hành chính của cơ quan tòa
án có thẩm quyền không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ pháp lý của
các cá nhân, tổ chức bên ngoài. Như vậy, kết quả của những hoạt động này
không ban hành ra các quyết định hành chính của cơ quan tòa án.
Hệ quả pháp lý của hoạt động ban hành quyết định hành chính của cơ
quan Tòa án: làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩ vụ của các chủ
thể liên quan trong lĩnh vực hành chính. Việc tác động đến quyền và lợi ích
của các đối tượng liên quan có thể là tích cực và cũng có trường hợp phát sinh
hậu quả tiêu cực: như quyết định xử phát hành chính, quyết định kỷ luật,
quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
1.3 . Các hình thức ban hành quyết định hành chính của cơ quan tòa
án
Quyết định hành chính do toà án ban hành có thể dưới nhiều hình thức
khác nhau: căn cứ vào chủ thể ban hành; căn cứ vào cấp thẩm quyền ban
hành; căn cứ vào cách thể hiện ý chí của toà án trong quản lý hành chính.
1.3.1. Căn cứ vào chủ thể ban hành
21
Theo hướng dẫn tại khoản 7, 8 Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật được Quốc hội khóa 13 thông qua vào ngày 22/6/2015 quy
định về Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật như sau:
“7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
8. Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;”
Và theo quy định tại Điều 21“ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán