Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.25 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ A

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN
TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ Ở TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60380101
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ……………..

HÀ NỘI - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Mọi số liệu, kết quả nêu trong luận
văn đều trung thực ; các tài liệu tham khảo đều được trích dẫn và dẫn nguồn rõ ràng. Luận văn
này chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị A


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
THADS : Thi hành án dân sự
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn


UBND : Ủy ban nhân dân
VKSND : Viện Kiểm sát nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự về việc của cơ quan thi hành án tỉnh Thanh Hóa từ năm
2010 đến năm 2015
52
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về tiền của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa
từ năm 2010 đến năm 2015
52
Bảng 2.3: Số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về quyết định hoặc hành vi vi
phạm pháp luật trong thi hành án của chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Thanh
Hóa từ năm 2010 đến năm 2015
58
Bảng 2.4: Số việc phải thi hành án của chấp hành viên tỉnh Thanh Hóa

60


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU......................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN
TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 8
1.1. Khái niệm, hình thức thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự 8
1.2. Khái niệm, tiêu chuẩn, vai trò của chấp hành viên trong thực hiện pháp luật về thi hành
án dân sự 15
1.3. Khái niệm và các yếu tố cấu thành chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện

pháp luật về thi hành án dân sự 23
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp luật
về thi hành án dân sự 36
Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN TRONG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH THANH HÓA 43
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa ảnh hưởng đến chất lượng đội
ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự 43
2.2. Những kết quả đạt được về chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp luật
về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa 48
2.3. Những hạn chế về chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp luật về thi
hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa 55
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở TỈNH THANH HÓA 63
3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng đội ngũ Chấp hành viên thi hành án dân sự trong thực
hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa 63
3.2. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng của đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp
luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa 68
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ, công chức luôn là một nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”[20,tr 269], “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[20,tr 273] .
Vì đội ngũ cán bộ, công chức là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng. Nếu đội
ngũ này yếu thì dù có đường lối, chính sách đúng cũng không thể hiện thực hoá. Hồ Chí
Minh cũng khẳng định: “Cán bộ là cái sợi dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không

tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người
đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính
sách hay cũng không thể thực hiện được”[20,tr 54] . Do đó, Người luôn chú trọng đến công
tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Theo Người: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”[20,tr 310].
Con người xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải là người vừa có đức, vừa có
tài, có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng tốt, có năng lực tương xứng với nhiệm vụ
được giao và phải có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Chính phủ và nhân dân
giao phó.
Thực hiện pháp luật có vai trò rất quan trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, bởi pháp luật
chỉ có thể phát huy được vai trò của nó trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật
tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và được thực hiện đầy đủ,
nghiêm minh trong thực tế cuộc sống. Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự có vai trò
trong việc đưa các bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện trong thực tế cuộc sống, góp
phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Để hoạt động thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự đạt hiệu quả trong thực tế phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, trong đó phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của đội ngũ chấp hành viên,
bởi đội ngũ chấp hành viên được coi là trung tâm, là người trực tiếp tổ chức thi hành phần
dân sự trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, làm cho nó được thi
hành trên thực tế, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Do vậy, việc nâng cao chất lượng
của đội ngũ chấp hành viên trong quá trình thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự là một
đòi hỏi khách quan có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược cải cách tư pháp hiện nay.
Thanh Hóa là một tỉnh có diện tích lớn thứ 5 trong số các đơn vị hành chính cả nước. Diện
tích rộng và địa hình chiếm phần nhiều là miền núi, trung du ( với 11 huyện miền núi, trong
đó có 07 huyện nghèo theo chương trình 30a của Chính phủ), nhiều nơi đường giao thông
còn khó khăn, số lượng án bàn giao và thụ lý hàng năm tương đối lớn. Cùng với sự phát triển
của kinh tế thị trường, mở rộng hội nhập quốc tế các quan hệ dân sự trong cả nước, cũng như
ở Thanh Hóa có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, công tác thi hành án dân sự càng

gặp nhiều khó khăn hơn. Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa vẫn còn
tồn tại nhiều vấn đề bức xúc, bộc lộ nhiều hạn chế yếu kém, chưa đáp ứng được nhiệm vụ
trong tình hình mới như:lượng án tồn đọng hàng năm chưa được thi hành còn nhiều, số lượng
đơn thư khiếu nại vượt cấp còn lớn. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng một
trong những nguyên nhân cơ bản là do chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện
pháp luật về thi hành án dân sự của tỉnh còn hạn chế.
1


Sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay đã và đang đặt ra những nhiệm vụ mới
nặng nề đối với công tác thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa, đòi hỏi đội ngũ chấp hành viên
thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa phải vững vàng về mặt chính trị, gương mẫu về đạo đức,
trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ, gắn bó với nhân dân. Trong
tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, thì nâng cao chất lượng đội ngũ Chấp hành viên thi hành
án dân sự nói chung, đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa nói riêng
trong quá trình thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự, giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ,
đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra là một vấn đề rất đáng quan tâm. Do vậy, tác giả đã chọn
việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp
luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa” làm luận văn thạc sĩ của mình nhằm nghiên
cứu về mặt lý luận và thực tiễn của đề tài, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay mà Đảng ta đã đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta những năm gần đây, nghiên cứu về thi hành án dân sự và chất lượng đội ngũ chấp
hành viên trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự đang được quan tâm nghiên cứu ở
nhiều khía cạnh, nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác nhau. Cụ thể:
Về thi hành án dân sự đã có một số công trình nghiên cứu như: - “Hoàn thiện pháp luật thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” (2008) của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, Luận án Tiến
sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh[33]. Luận án đã làm rõ
cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự, đề xuất các quan điểm và giải
pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - “Hoàn thiện pháp luật thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” (2013) của tác giả Trần Mạnh Quân, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội[26]. Luận văn đã trình bày cơ sở lý luận về
khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung của pháp luật thi hành án dân sự; Đánh giá đúng đắn
về thực trạng pháp luật thi hành án dân sự hiện hành và trong mối quan hệ với hệ thống pháp
luật nói chung; Đưa ra những giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện pháp luật thi hành án dân
sự Việt Nam. - “Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án dân sự (qua thực tiễn tại
Thanh Hóa)” (2012) của tác giả Lê Trung Kiên, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học quốc
gia, Hà Nội[18]. Luận văn đã nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước trong
lĩnh vực thi hành án dân sự trong điều kiện ở nước ta hiện nay; Đánh giá thực trạng vai trò
của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự và đưa ra một số nguyên nhân của thực trạng
đó; Kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy công tác thi hành án dân sự nói riêng và hoạt động thi hành án nói chung để đạt hiệu
quả cao hơn.
- “Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa” (2008) của tác giả Đỗ Thành
Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội[21]. Luận văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án
dân sự, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa, chỉ ra
nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác này. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa.
Về Chấp hành viên và chất lượng đội ngũ Chấp hành viên thi hành án dân sự có một số công
trình khoa học như:- “Hoàn thiện địa vị pháp lý của chấp hành viên trong thi hành án dân sự

2


tại Việt Nam” (2009) của tác giả Nguyễn Thị Phíp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội[25].
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong thi hành án dân sự, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện

các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt
Nam.
- “Nghiên cứu thực trạng, nhu cầu phát triển đội ngũ Chấp hành viên và xây dựng chương
trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư pháp” (2007) của Bộ Tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Hà Nội[7]. Đề tài đã đánh giá tổng quan thực trạng đội ngũ chấp hành viên hiện nay. Trên cơ
sở đó, đề xuất nhu cầu phát triển đội ngũ chấp hành viên và chương trình khung về đào tạo
chấp hành viên trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. - “Xây dựng đội ngũ
chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa” (2016) của tác giả Nguyễn Xuân Thái,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội[32]. Luận văn
đã nghiên cứu vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ Chấp hành viên và trên cơ sở đánh giá
thực trạng xây dựng đội ngũ Chấp hành viên ở tỉnh Thanh Hóa, đề xuất những quan điểm,
giải pháp bảo đảm xây dựng đội ngũ Chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa.
Một số công trình nghiên cứu khác như: “Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân
sự ở tỉnh Đồng Tháp” (2015) của tác giả Vũ Quang
Hiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội[17];
“Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang” (2013) của tác giả
Nguyễn Thành Bắc, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội[1]; “Xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở thành phố
Hà Nội” (2015) của tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chi Minh, Hà Nội[38].
Một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí liên quan đến Chất lượng đội ngũ chấp hành viên
thi hành án dân sự như: “Năng lực chấp hành viên – yếu tố quyết định thành công trong thi
hành án dân sự” của tác giả Đặng Đình Quyền, Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Văn phòng
Quốc hội, số 6/2009, tr 16 – 21[27]; “Nâng cao chất lượng chấp hành viên” của tác giả Phạm
Công ý, Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, số 8/2009, tr 52 – 55[39].
Ngoài ra, còn nhiều công trình khoa học và các bài viết nghiên cứu của các tác giả khác về
một số vần đề lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự và chấp hành viên thi hành án dân
sự; nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực tiễn về: “Nâng
cao chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh
Thanh Hóa”.

3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phân tích lý luận về chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp luật
về thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện
pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa, từ đó đưa ra một số quan điểm, giải pháp
nâng cao chất lượng của đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân
sự tỉnh Thanh Hóa.
3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có một số nhiệm vụ sau đây:
+ Phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự;
chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ Chấp hành viên trong thực hiện pháp luật
về thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa và tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó;
+ Đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng đội của ngũ chấp hành viên trong
thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp
luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong việc thực hiện pháp luật về thi hành án
dân sự trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, thông qua thực tiễn và số liệu của cơ quan thi hành án
dân sự tỉnh Thanh Hóa từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật; chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước về công tác thi hành án dân sự và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp

+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp thống kê
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học của luận văn:
- Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ Chấp hành viên trong
thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự;
- Thực trạng chất lượng đội ngũ Chấp hành viên trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân
sự ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2010 đến năm 2015;
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng của đội ngũ Chấp hành viên trong
thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.

4


Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung thêm
nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh ở Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn được kết cấu làm ba chương, tám tiết:
Chương I: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp
luật về thi hành án dân sự
Chương II: Thực trạng chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực hiện pháp luật thi hành
án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa
Chương III: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ chấp hành viên trong thực
hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THỰC

HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, hình thức thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự
1.1.1.1. Thực hiện pháp luật
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có thể phát huy được vai
trò và những giá trị của nó trong việc duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi
nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống. Vì vậy, thực hiện pháp luật là hoạt động
không thể thiếu khi pháp luật ra đời.
Thực hiện pháp luật là giai đoạn không thể thiếu và vô cùng quan trọng của cơ chế điều
chỉnh pháp luật. Thực hiện pháp luật một mặt nhằm đạt được những mục đích xã hội mặt
khác còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật thực định để từ đó
có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp
luật hiện hành và cơ chế đưa pháp luật vào cuộc sống. Pháp luật được thực hiện nghiêm minh
sẽ tạo ra trật tự cần thiết để các quan hệ xã hội tồn tại và phát triển theo những định hướng
mong muốn có lợi cho xã hội, cho nhà nước cũng như cho cá nhân[34].
Thực hiện pháp luật là quá trình các tổ chức, cá nhân và các chủ thể pháp luật khác khi gặp
phải tình huống thực tế mà quy phạm pháp luật đã dự liệu, trên cơ sở nhận thức của mình
chuyển hóa một cách sáng tạo quy tắc xử sự chung mà Nhà nước đã quy định vào tình huống
cụ thể đó thông qua hành vi thực tế hợp pháp của mình, nói cách khác, những đòi hỏi, cấm
đoán hay cho phép của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân đã được biểu hiện thành các
hành vi thực tế thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật. Dưới góc độ pháp lý thì
thực hiện pháp luật là hành vi pháp luật (hành động hoặc không hành động) hợp pháp, nghĩa
là nó được tiến hành phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi trong phạm vi các quy định của
pháp luật[14].
Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ của tất cả các tổ chức và cá nhân, mọi tổ chức và cá nhân
trong xã hội. Đối với Nhà nước thì thực hiện pháp luật là một trong những hình thức để thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, quản lý và bảo vệ xã hội, còn đối với các tổ
chức phi nhà nước hoặc các cá nhân thì thực hiện pháp luật là hoạt động sử dụng các quyền,
tự do pháp lý và thi hành các nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật quy định cho họ.
Tóm lại, thực hiện pháp luật là hành vi thực tế, hợp pháp có mục đích của các chủ thể pháp

luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống.
1.1.1.2. Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự
Thực hiện pháp luật nói chung đã trở thành một phạm trù pháp lý cơ bản. Những vấn đề thực
hiện pháp luật dường như đã được giải quyết như: khái niệm thực hiện pháp luật, các hình
thức thực hiện pháp luật. Song thực hiện pháp luật nói chung cần được cụ thể hoá ở từng lĩnh
vực khác nhau của đời sống pháp luật trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Thực hiện pháp luật
6


về thi hành án dân sự là một trong những lĩnh vực cụ thể. Nó có khái niệm, đặc điểm riêng
biệt cần được định nghĩa, bổ sung, cụ thể hoá lý luận chung, góp phần làm sáng tỏ tình hình
thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Để hiểu được khái niệm thực hiện pháp
luật thi hành án dân sự, trước tiên ta phải hiểu thế nào là hoạt động thi hành án dân sự.
Theo quy định tại Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thihành án dân sự năm
2008, hoạt động thi hành án dân sự nhằm mục đích thựchiện bản án, quyết định dân sự, hình
phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền,tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án
phí và quyết định dân sựtrong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết
định hànhchính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lývụ
việc cạnh tranh của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tàisản của bên phải thi
hành án và phán quyết, quyết định của Trọng tài thươngmại (sau đây gọi chung là bản án,
quyết định). Do đó, theo nghĩa pháp lý, hoạtđộng thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp thi
hành các bản án, quyết địnhđược đưa ra thi hành theo quy định. Điều 2 Luật thi hành án dân
sự 2008được sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định về những bản án, quyết định đượcđưa ra thi
hành bao gồm:
- Những bản án đã có hiệu lực pháp luật: Bản án, quyết định hoặc phầnbản án, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghịtheo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết
định của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyếtđịnh giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; bản án,
quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việtnam công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định xử lý vụ việc cạnhtranh của Hội đồng xử lý vụ việc

cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày cóhiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi
hành, không khởi kiện tại
Tòa án; quyết định của Trọng tài thương mại; quyết định của Tòa án giảiquyết phá sản.
- Những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hànhngay, mặc dù có thể bị
kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấpdưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp
thôi việc, trợ cấp mất việc làm,trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe,tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; quyết định áp
dụngbiện pháp khẩn cấp tạm thời.
Như vậy, hoạt động thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành các bảnán, quyết định của Tòa
án theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định nhằmbảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức.
Bản án, quyết định của Tòa án mới chỉ giải quyết nội dung vụ án, xácđịnh được quyền và
nghĩa vụ của các đương sự, còn phán quyết của Tòa án cótrở thành hiện thực hay không còn
tùy thuộc vào quá trình thực thi nó trongcuộc sống. Thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về thi
hành án dân sự sẽ pháthuy hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án, đảm bảo chúng
được tôntrọng và thi hành trên thực tế, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của phápluật và
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổchức, cá nhân và Nhà
nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăngcường hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước.
Như vậy, Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự là hành vi thực tế,hợp pháp, có mục đích
của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thi hành ándân sự nhằm hiện thực hóa các quy định
7


của pháp luật trong quá trình đưabản án, quyết định của Toà án được thực hiện trong thực tế
cuộc sống.
Chủ thể trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là những cá nhân,cơ quan tổ chức đáp
ứng được các điều kiện do pháp luật thi hành án dân sựquy định. Chủ thể của quan hệ pháp
luật thi hành án dân sự bao gồm: Cơ quan thi hành án dân sự, Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh, Viện

kiểm sát, đương sự, người đại diện của đương sự và những cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan đến việc thi hành án dân sự. Trong các chủ thể trên thì
cơ quan thi hành án dân sự là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình
thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự. Trong phạm vi nghiên cứu của luận
văn, tác giả chủ yếu đề cập đến hoạt động thực hiện pháp luật của đội ngũ
chấp hành viên thuộc cơ quan thi hành án dân sự để phục vụ cho việc nghiên
cứu đề tài.
Như vậy, trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự, Chấp hành
viên là chủ thể pháp luật bằng việc thực hiện những quy định của pháp luật
trên thực tế để đưa các bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trong thực
tế cuộc sống theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Thông qua
hoạt động thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự của chấp hành viên, bản
án, quyết định của Tòa án mới có hiệu lực trên thực tế. Mặc khác, còn có thể
kiểm nghiệm thực tiễn những phán quyết của Tòa án, chất lượng hiệu quả của
hoạt động xét xử; thấy được những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp
luật thi hành án dân sự, từ đó có giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự; công chức ngành Tòa án có thể rút ra những kinh
nghiệm, nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác xét xử.
1.1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự
Nhà nước điều tiết xã hội bằng pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội
bằng các quy phạm pháp luật nhất định. Việc biến chuẩn mực pháp luật thành

8


17
hành vi pháp luật thực tế của con người gắn liền với việc thực hiện pháp luật
và gắn liền với các nhân tố có ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật. Theo
cách tiếp cận này, thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về thi
hành án dân sự nói riêng có các hình thức cơ bản là: tuân thủ (tuân theo) pháp

luật, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Tuân thủ (tuân theo) pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp
luật cấm. Các quy phạm pháp luật cấm được thực hiện ở hình thức này. Tuân
thủ pháp luật biểu hiện cách cư xử thụ động của các chủ thể pháp luật.
Ở hình thức thực hiện pháp luật này, chấp hành viên trong quá trình thi
hành án không được tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Ví dụ:
chấp hành viên không được thực hiện những công việc mà cán bộ công chức
không được làm theo quy định tại các Điều 18, 19, 20 của Luật cán bộ, công
chức 2008 và các văn bản liên quan[28]. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 21
Luật thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì trong quá
trình Thi hành án dân sự, chấp hành viên không được làm những việc sau:
- Tư vấn cho đương sự làm cho việc thi hành án không đúng quy định
của pháp luật;
- Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết các vụ việc thi hành án;
hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm thi
hành án;
- Sử dụng trái phép tiền, tài sản, vật chứng có liên quan đến thi hành án;
- Thi hành những vụ việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trực tiếp
của bản thân và những người thân thích: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; Cha đẻ,

9


mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu,
cô, dì và anh, chị, em ruột của chấp hành viên, của vợ hoặc chồng của chấp
hành viên; Cháu ruột mà Chấp hành viên là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.
- Sử dụng thẻ chấp hành viên, trang phục, phù hiệu thi hành án, công cụ
hỗ trợ để làm những việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn được giao;
- Sách nhiễu gây phiền hà cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình

18
thi hành án;
- Cố ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định; trì hoãn hoặc kéo dài
thời gian giải quyết việc thi hành án được giao không có căn cứ pháp luật.
Thi hành (chấp hành) pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động
tích cực. Các quy phạm pháp luật bắt buộc được thực hiện ở hình thức này.
Trong thi hành án dân sự, chấp hành viên phải thực hiện những nhiệm
vụ, công việc mà pháp luật quy định. Nhiệm vụ của chấp hành viên được quy
định cụ thể tại Luật thi hành án dân sự và Thông tư số 10/2010/TT- BNV
ngày 28/10/2010 của Bộ Nội vụ về quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các
ngạch công chức chấp hành viên và thi hành án dân sự. Ví dụ: Điều 20 Luật
thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của chấp hành viên thì trong quá trình thi hành án chấp hành viên
phải thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công, ra các quyết định
về thi hành án theo thẩm quyền;
- Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án; áp dụng đúng
các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án; thực hiện nghiêm

10


chỉnh chuẩn mực đạo đức chấp hành viên;
- Triệu tập đương sự, người có liên quan đến việc thi hành án; xác minh
tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án...
Sử dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình (những hành vi mà
pháp luật cho phép chủ thể thực hiện). Các quy phạm pháp luật quy định về
các quyền tự do pháp lý được thực hiện ở hình thức này. Vì quyền tự do pháp

lý là những hành vi mà pháp luật cho phép chủ thể thực hiện nên chủ thể có
thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền, tự do đó theo ý chí của mình.
Trong quá trình thi hành án, chấp hành viên thực hiện các quyền hạn
mà pháp luật quy định. chấp hành viên có thể lựa chọn thực hiện hoặc không
thực hiện, tùy thuộc vào ý chí của mình. Ví dụ: chấp hành viên có thể lựa
19
chọn sử dụng hoặc không sử dụng công cụ hỗ trợ khi thi hành công vụ; có
quyền yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án
theo quy định của pháp luật (Khoản 9; khoản 6, Điều 21, Luật thi hành án dân
sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014)…
Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước
thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự
mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát
sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
Ở hình thức thực hiện pháp luật này, chấp hành viên là người nhân
danh Nhà nước căn cứ vào các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự,
căn cứ vào tình hình thực tế của vụ việc để lựa chọn và ra quyết định và áp

11


dụng các biện pháp cưỡng chế, biện pháp đảm bảo thi hành án phù hợp.
Trong áp dụng pháp luật thi hành án dân sự, tính chủ động trong hoạt động
tác nghiệp của chấp hành viên được đề cao. Ví dụ, vụ việc đơn giản, ý thức
chấp hành pháp luật của người phải thi hành án tốt, thì chấp hành viên lựa
chọn biện pháp giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi
hành các nghĩa vụ của mình theo đúng phán quyết của Tòa án hoặc của Trọng
tài thương mại (trường hợp người được thi hành án yêu cầu người phải thi
hành án thi hành toàn bộ các nghĩa vụ theo quyết định của bản án, quyết định

của Tòa án). Ngược lại, nếu sau khi xác minh thấy đương sự có điều kiện để
thi hành án, nhưng xét thấy người phải thi hành án ý thức chấp hành pháp luật
không tốt, có biểu hiện tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án thì
chấp hành viên áp dụng một hoặc nhiều biện pháp đảm bảo thi hành án theo
quy định của pháp luật (phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm
dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản), hoặc người
phải thi hành án cố tình không tự nguyện thi hành án thì chấp hành viên lựa
chọn, áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật
Thi hành án dân sự (khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi xử lý tiền, giấy có
giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án;
20
kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án kể cả tài sản của người phải
thi hành án đang do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi
hành án; buộc giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ; buộc người phải
thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định) để tổ
chức thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của
Trọng tài thương mại.

12


1.2. Khái niệm, tiêu chuẩn, vai trò của chấp hành viên trong thực hiện
pháp luật về thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm chấp hành viên
Theo quy định tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ
sung năm 2014 thì: “Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ
thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật này. Chấp
hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp
và Chấp hành viên cao cấp”[29] .
Theo Giáo trình Luật thi hành án dân sự thì: “Chấp hành viên là người

được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định dân sự được
đưa ra thi hành”[35,tr 86].
Vậy chấp hành viên là chức danh gì và có đặc thù ra sao thì hiện nay
đang có nhiều ý kiến khác nhau.
Liên quan đến vấn đề này, đa số ý kiến cho rằng, chấp hành viên là
chức danh tư pháp, được pháp luật quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan
trọng (tương tự như chức danh Kiểm sát viên và Thẩm phán).
Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng chấp hành viên là công chức
hành chính - tư pháp vì xuất phát từ đặc thù của hoạt động thi hành án là hoạt
động mang tính chất hành chính - tư pháp.
Về vấn đề này tác giả cho rằng, chấp hành viên trước hết là công chức
Nhà nước, được bổ nhiệm theo những tiêu chuẩn do pháp luật quy định, công
tác tại các cơ quan THADS ở cấp tỉnh, cấp huyện, được pháp luật quy định
nhiều nhiệm vụ, quyền hạn nhằm thực hiện những mục tiêu mà Nhà nước đặt
ra. Theo đó, chấp hành viên sẽ nhân danh Nhà nước, thực hiện quyền lực nhà
21

13


nước để tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Trong quá trình
thực thi nhiệm vụ, chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, do hoạt động trong lĩnh
vực tư pháp, có nhiều đặc thù nên khác với các công chức khác, chấp hành
viên cùng với Thẩm phán, Kiểm sát viên được Nhà nước quy định riêng về
chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm nghề, đồng thời cũng bị áp dụng hình
thức kỷ luật riêng so với các chức danh khác.
Như vậy, Chấp hành viên là chức danh tư pháp, được nhà nước giao
trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án, độc lập, tuân theo
pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ.

Hoạt động thi hành án dân sự của chấp hành viên có những đặc trưng
cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động của chấp hành viên mang tính chủ động và độc
lập. Chấp hành viên chịu sự quản lý của thủ trưởng cơ quan THADS nhưng
trong việc tổ chức và thi hành án thì Chấp hành viên có vị trí tương đối độc
lập với thủ trưởng cơ quan THADS. Không cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có
quyền can thiệp trái pháp luật vào quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của chấp hành viên. Khi được thủ trưởng cơ quan thi hành án phân công tổ
chức thi hành bản án, quyết định dân sự, chấp hành viên có quyền chủ động
trong việc áp dụng các biện pháp thi hành án phù hợp với quy định của pháp
luật để thi hành bản án, quyết định đó.
Thứ hai, hoạt động của chấp hành viên trong quá trình THADS đều
phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Mọi hoạt động thi hành án của
chấp hành viên phải tuân thủ các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục
thi hành án. Chấp hành viên phải thi hành đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định

14


dân sự, không được có bất kỳ sự thay đổi nào về nội dung bản án, quyết định
dân sự được đưa ra thi hành, trừ trường hợp các đương sự thỏa thuận về việc
thi hành án. Nếu trong quá trình tổ chức thi hành án, chấp hành viên vi phạm
pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, họ có thể bị xử lý kỉ luật,
hành chính hoặc hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
22
của pháp luật dân sự[35,tr 87].
Khái niệm “đội ngũ” được sử dụng khá rộng rãi và dùng để chỉ các tổ
chức trong xã hội như: Đội ngũ trí thức, đội ngũ cán bộ công chức, đội ngũ
chấp hành viên... Đó là sự gắn kết những cá thể với nhau, hoạt động qua sự
phân công, hợp tác lao động, là những người có chung mục đích, lợi ích và

ràng buộc với nhau bằng trách nhiệm pháp lý.
Đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự là tập hợp những người
người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án theo trình tự, thủ tục quy định.
1.2.2. Tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành viên
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 18 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa
đổi bổ sung năm 2014, để trở thành chấp hành viên cần thỏa mãn những điều
kiện sau: Là công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc, trung thực, liêm
khiết, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân Luật trở lên, đã được đào
tạo về nghiệp vụ thi hành án dân sự, có thời gian làm công tác pháp luật theo
quy định, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, ngoài
các điều kiện theo quy định nêu trên để được bổ nhiệm vào ngạch chấp hành
viên thì bắt buộc phải qua kỳ thi tuyển. Để tham dự kỳ thi tuyển này, Điều 57
nghị định số 62/2015/NĐ - CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ quy định chi

15


tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự quy định:
ngoài việc có đủ tiêu chuẩn của ngạch chấp hành viên, người tham dự kỳ thi
tuyển phải không thuộc trường hợp đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
đang bị xem xét xử lý kỷ luật nhưng chưa có kết luận, quyết định cuối cùng
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và các trường hợp khác theo quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức.
Bên cạnh đó, để được bổ nhiệm làm chấp hành viên sơ cấp, trung cấp
hay cao cấp thì ngoài những tiêu chuẩn chung đã nêu ở trên, người được bổ
nhiệm làm chấp hành viên sơ cấp phải có thời gian làm công tác pháp luật từ
03 năm trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự và trúng tuyển
kỳ thi chấp hành viên sơ cấp. Người được bổ nhiệm làm chấp hành viên trung
cấp phải có thời gian làm chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên và trúng

23
tuyển kỳ thi tuyển chấp hành viên trung cấp. Người được bổ nhiệm làm chấp
hành viên cao cấp phải có thời gian làm chấp hành viên trung cấp từ 05 năm
trở lên và trúng tuyển kỳ thi làm chấp hành viên cao cấp.
Ngoài ra, theo quy định của Thông tư số 10/2010/TT-BNV của Bộ Nội
vụ ngày 28/10/2010 về Quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công
chức chấp hành viên và thư ký thi hành án dân sự thì đối với mỗi ngạch chấp
hành viên phải có đủ tiêu chuẩn về năng lực và trình độ khác nhau. Cụ thể:
- Đối với chấp hành viên sơ cấp:
+ Về năng lực: Có kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để vận dụng vào công tác thi hành
án dân sự; nắm vững nội dung cơ bản về hệ thống pháp luật hiện hành; nắm

16


vững nội dung pháp luật về thi hành án dân sự; biết áp dụng các nguyên tắc,
chế độ, thủ tục về nghiệp vụ thi hành án; nắm được tình hình kinh tế, xã hội ở
địa phương; có năng lực độc lập tổ chức thi hành những vụ việc thuộc thẩm
quyền của cơ quan thi hành án cấp huyện; có khả năng giáo dục, thuyết phục
đương sự thi hành bản án, quyết định của tòa án; có khả năng soạn thảo các
văn bản liên quan đến chức trách, nhiệm vụ được giao.
+ Về trình độ: Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch chấp hành viên
theo nội dung, chương trình của Bộ Tư pháp; có ngoại ngữ trình độ B trở lên
(một trong năm thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc) hoặc một ngoại
ngữ khác theo yêu cầu của vị trí làm việc; có trình độ tin học văn phòng
- Đối với chấp hành viên trung cấp:
+ Về năng lực: Có kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để vận dụng vào công tác thi hành
án dân sự; am hiểu các nội dung về hệ thống pháp luật hiện hành và pháp luật
quốc tế liên quan đến công tác thi hành án của cấp mình; am hiểu sâu về nội
dung pháp luật về thi hành án dân sự; áp dụng thành thạo các nguyên tắc, chế
độ, thủ tục về nghiệp vụ thi hành án dân sự; nắm chắc tình hình kinh tế, xã hội
của địa phương, của đất nước; có khả năng độc lập tổ chức thực hiện công
24
việc được giao; có khả năng phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan trong việc
thi hành án; có khả năng giáo dục, thuyết phục đương sự thi hành bản án,
quyết định của tòa án; có khả năng phân tích, tổng hợp và soạn thảo được văn
bản liên quan đến chức trách, nhiệm vụ được giao.
+ Về trình độ: Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch chấp hành viên

17


trung cấp theo nội dung, chương trình của Bộ Tư pháp; có ngoại ngữ trình độ
B trở lên (một trong năm thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc) hoặc
một ngoại ngữ khác theo yêu cầu của vị trí làm việc; có trình độ tin học văn
phòng; chủ trì hoặc tham gia xây dựng đề tài, đề án, công trình nghiên cứu
khoa học về công tác thi hành án dân sự được áp dụng có hiệu quả trong thực
tiễn.
- Đối với chấp hành viên cao cấp:
+ Về năng lực: Có kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để vận dụng vào công tác thi hành
án dân sự; các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; am hiểu
các nội dung về hệ thống pháp luật hiện hành và pháp luật quốc tế liên quan
đến công tác thi hành án của cấp mình; am hiểu sâu các nội dung pháp luật về
thi hành án dân sự; áp dụng thành thạo các nguyên tắc, chế độ, thủ tục về

nghiệp vụ thi hành án dân sự; am hiểu sâu rộng tình hình kinh tế, xã hội trong
nước và quốc tế; có khả năng độc lập tổ chức thực hiện công việc được giao;
có khả năng phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức thi
hành án dân sự; có khả năng giáo dục, thuyết phục đương sự thi hành bản án,
quyết định của tòa án; có khả năng biên soạn tài liệu giảng dạy và bồi dưỡng
nghiệp vụ về thi hành án dân sự cho chấp hành viên trung cấp, chấp hành sơ
cấp và công chức làm công tác thi hành án dân sự; có năng lực nghiên cứu
khoa học, tổng kết chuyên đề diện rộng thuộc lĩnh vực được giao, đề xuất
những vấn đề chiến lược về công tác thi hành án dân sự, có khả năng phân
tích, khái quát, tổng hợp tình hình hoạt động của nhiều lĩnh vực, đề xuất, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch công tác thi hành án dân sự.

18


+ Về trình độ: Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch chấp hành viên
cao cấp theo nội dung, chương trình của Bộ Tư pháp; có trình độ cao cấp lý
25
luận chính trị; có ngoại ngữ trình độ C trở lên (một trong năm thứ tiếng: Anh,
Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc) hoặc một ngoại ngữ khác theo yêu cầu của vị
trí làm việc; có trình độ tin học văn phòng (sử dụng thành thạo các kỹ năng
của Microsoft Word, Microsoft Excel, Internet để phục vụ công tác chuyên
môn); chủ trì xây dựng hoặc triển khai thực hiện đề án, đề tài, công trình
nghiên cứu khoa học về công tác thi hành án dân sự được Hội đồng khoa học
cấp Bộ công nhận và áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thu hút người có kinh nghiệm làm công tác
pháp luật ở các ngành khác từ đó góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ thi hành án, bên cạnh những đối tượng đã được Luật thi hành án dân sự
2008 quy định như người đang là thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên
được điều động đến công tác tại cơ quan thi hành án dân sự, Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014 đã bổ sung thêm
trường hợp người đã từng là chấp hành viên nhưng được bố trí làm nhiệm vụ
khác và có đủ điều kiện quy định tại khoản 1, Điều 18 thì có thể được bổ
nhiệm chấp hành viên ở ngạch tương đương không qua thi tuyển. Ngoài ra,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự còn quy định
trong trường hợp do nhu cầu cấp bách phải bổ nhiệm thủ trưởng, phó thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản
1, Điều 18 Luật thi hành án dân sự 2008 đã có thời gian làm công tác pháp
luật từ 05 năm trở lên có thể được bổ nhiệm chấp hành viên sơ cấp; có 10 năm
làm công tác pháp luật trở lên có thể được bổ nhiệm chấp hành viên trung

19


cấp; có 15 năm làm công tác pháp luật trở lên có thể được bổ nhiệm chấp
hành viên cao cấp không qua thi tuyển. Việc xác định tiêu chuẩn và bổ nhiệm
chấp hành viên trong một số trường hợp đặc biệt nêu trên được quy định cụ
thể tại Điều 18 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự
2014, Điều 63 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
1.2.3. Vai trò của Chấp hành viên trong thực hiện pháp luật về thi hành án
dân sự
Thứ nhất, chấp hành viên là người thi hành nội dung bản án, quyết
định của Tòa án tuân theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật
Nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan THADS là thi hành phần dân sự trong
26
các bản án, quyết định hình sự; các bản án, quyết định dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh tế... và các quyết định khác theo quy định của pháp luật; trong cơ
quan THADS chấp hành viên chính là người gánh vác tránh nhiệm này. Để
quản lý, điều hành và tổ chức hoạt động THADS, thì trong cơ quan thi hành
án dân sự có rất nhiều cán bộ, công chức với các chức danh khác nhau như:

Thẩm tra viên, Thư ký, chuyên viên, kế toán, thủ kho, thủ quỹ... nhưng chỉ có
chấp hành viên là người trực tiếp có quyền tổ chức thi hành án, còn các chức
danh khác trong cơ quan thi hành án chỉ giữ vai trò phụ trợ cho hoạt động của
Chấp hành viên như Thư ký, chuyên viên pháp lý giúp chấp hành viên trong
việc xác minh và đôn đốc thi hành án, tống đạt các quyết định, văn bản giấy
tờ cho các đương sự trong quá trình tổ chức thi hành án...
Chính vì vậy, Chấp hành viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ
quan THADS. Không có hoạt động của Chấp hành viên thì các bản án, quyết
định của Tòa án nhân danh Nhà nước sẽ chỉ là những quyết định trên giấy do

20


×