Tải bản đầy đủ (.doc) (228 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.68 KB, 228 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án
là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Hoàng Mạnh Hưng


2

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN Ở CÁC SƯ ĐOÀN
BỘ BINH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

1.1.
1.2.

Chương 2

2.1


2.2
Chương 3

Các sư đoàn bộ binh và đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ
binh Quân đội nhân dân Việt Nam
Một số vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng
đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân
dân Việt Nam
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN Ở CÁC SƯ
ĐOÀN BỘ BINH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

5
10
24
24

52

78

Thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ chính trị viên ở các
sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam
78
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ
chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam
102
YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TIẾP TỤC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN Ở CÁC SƯ ĐOÀN
116

BỘ BINH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.

Tình hình nhiệm vụ và yêu cầu tiếp tục nâng cao chất lượng đội
ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay
116
3.2.
Những giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ chính trị
viên ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 129
KẾT LUẬN
176
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
178
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
179
PHỤ LỤC
192


3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
1
2


Chữ viết đầy đủ
Bộ Chính trị
Bộ quốc phòng

Chữ viết
BCT
tắt
BQP

3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công tác đảng, công tác chính
Chính
trị trị viên
Chủ nghĩa xã hội
Diễn biến hòa bình
Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng ủy quân sự Trung ương

Đội ngũ chính trị viên
Huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu
Hội đồng quân nhân
Lực lượng vũ trang
Phương pháp, tác phong công tác

CNH,HĐH
CTĐ,CTCT
CTV
CNXH
DBHB
ĐCSVN
ĐUQSTƯ
ĐNCTV
HL,SSCĐ
HĐQN
LLVT
PPTPCT

15
16
17

Quân ủy Trung ương
Sư đoàn bộ binh
Tổng cục Chính trị
Trong sạch vững mạnh
Vững mạnh toàn diện
Xã hội chủ nghĩa


QUTƯ
SĐBB
TCCT
TSVM
VMTD
XHCN

18
19
20


4

MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án

Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 51/NQ - TƯ ngày 20
tháng 7 năm 2005 của BCT (khóa IX) “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh
đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy,
CTV trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, ĐNCTV đã có sự trưởng thành
tương đối toàn diện, bước đầu khẳng định được vị thế và uy tín trên thực tế, có
những đóng góp tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả CTĐ,CTCT ở các phân
đội, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, chất lượng ĐNCTV còn có những
hạn chế, bất cập nhất định về năng lực tổ chức thực tiễn, năng lực quản lý, chỉ
huy bộ đội, kiến thức quân sự, kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức pháp
luật,...Những hạn chế đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả hoàn thành
nhiệm vụ của các phân đội.
Là cán bộ chính trị, giảng viên khoa CTĐ,CTCT, Học viện Chính trị

nghiên cứu sinh đã nhiều năm với trăn trở, suy nghĩ làm thế nào để có những
giải pháp thiết thực nâng cao chất lượng ĐNCTV đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng, chiến đấu của quân đội trong thời kỳ mới. Vì vậy, nghiên cứu sinh
đã tham gia thực hiện đề tài khoa học cấp học viện (năm 2012), các đề tài thi
tuổi trẻ sáng tạo cấp toàn quân (năm 2012, 2013, 2014), công bố các bài báo
khoa học về vấn đề nâng cao chất lượng ĐNCTV trong quân đội góp phần
cung cấp thêm luận cứ khoa học cho các cấp có thẩm quyền vận dụng trong
xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng ĐNCTV hiện nay. Kế thừa
kết quả đã được công bố, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề “Nâng cao chất
lượng đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ với mong muốn có những đề xuất hệ
thống và toàn diện hơn.


5

Đề tài luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về cán bộ
và xây dựng đội ngũ cán bộ, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học có liên quan và thực tiễn xây dựng ĐNCTV những năm qua nhằm
tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản về lý luận thực tiễn, xây dựng, đề
xuất hệ thống các giải pháp nâng cao chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án.
ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận cán
bộ của Đảng; những người chủ trì về chính trị chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt
động CTĐ,CTCT và cùng người chỉ huy tổ chức thực hiện thắng lợi kế hoạch
công tác chung của các đại đội, tiểu đoàn. Cùng với đại đội trưởng, tiểu đoàn
trưởng, CTV là người trực tiếp quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối chính
trị, quân sự của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị,

mệnh lệnh của cấp trên; xây dựng và phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của
các đại đội, tiểu đoàn, củng cố mối quan hệ đoàn kết quân dân, phát huy bản
chất giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội ngay từ cơ sở.
Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 51- NQ/TƯ ngày 20 tháng
7 năm 2005 của BCT (khóa IX) “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của
Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, CTV trong
Quân đội nhân dân Việt Nam”; trong hơn 10 năm qua, các cấp ủy, đội ngũ cán bộ
chủ trì, cơ quan chính trị các cấp đã có những chủ trương và giải pháp thiết thực
xây dựng, nâng cao chất lượng ĐNCTV và đã đạt được kết quả tích cực. ĐNCTV
đã có sự phát triển toàn diện, từng bước đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ
được giao, khẳng định được vị thế và uy tín trên thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn một
bộ phận CTV chưa khẳng định rõ vị trí, vai trò người chủ trì về chính trị, lúng
túng trong tổ chức chỉ đạo tiến hành CTĐ,CTCT, kiết thức quân sự, trình độ, năng
lực trong quản lý, chỉ huy đơn vị, kiến thức quản lý nhà nước, pháp luật còn hạn
chế chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của các SĐBB.


6

Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, trước
những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực; trước
những nguy cơ, thách thức của đất nước và yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc đã và đang đặt ra yêu cầu xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị,
tư tưởng, tổ chức và đạo đức, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu
đảm bảo cho quân đội thực sự là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, tuyệt đối
trung thành với Đảng, với Tổ quốc Việt Nam XHCN với Nhân dân, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao cho. Để đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ của quân đội và các SĐBB trong tình hình mới, vấn đề quan trọng
hàng đầu là phải nâng cao chất lượng lãnh đạo, quản lý chỉ huy, tiến hành

CTĐ,CTCT, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cán bộ chính trị và ĐNCTV ở
các SĐBB, đảm bảo cho ĐNCTV luôn có số lượng đủ, cơ cấu hợp lý, phẩm
chất, năng lực, PPTPCT tốt đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của
các SĐBB. Với những lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Nâng cao chất lượng đội
ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay” làm đề tài luận án có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề
xuất những giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến nâng cao chất lượng
ĐNCTV ở các SĐBB và xác định những vấn đề đặt ra luận án tập trung nghiên
cứu giải quyết.
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về chất lượng ĐNCTV và nâng cao
chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đánh giá đúng thực trạng và rút ra một số kinh nghiệm nâng cao chất
lượng ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam.


7

Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng
ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

Nâng cao chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam
* Phạm vi nghiên cứu

Đề tài luận án tập trung nghiên cứu về chất lượng và hoạt động nâng
cao chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB đủ quân thuộc các quân khu, quân đoàn.
Phạm vi khảo sát thực tế ở một số SĐBB đủ quân thuộc các quân khu, quân
đoàn phía bắc và phía nam. Các tư liệu, số liệu sử dụng trong luận án được
giới hạn từ 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của ĐCSVN về xây dựng Đảng, xây dựng LLVT cách mạng,
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị; xây dựng đội ngũ cán bộ, đội ngũ
cán bộ chính trị trong quân đội.
* Cơ sở thực tiễn
Là hiện thực hoạt động nâng cao chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB
Quân đội nhân dân Việt Nam; tham khảo các báo cáo sơ kết, tổng kết của các
quân khu, quân đoàn và các SĐBB về những vấn đề có liên quan và kết quả
điều tra, khảo sát thực tế của nghiên cứu sinh.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và
chuyên ngành; trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp lôgic - lịch sử;
phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát và
phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp mới của luận án


8

Làm rõ năng lực chủ trì về chính trị của CTV ở các SĐBB Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Góp phần luận giải sâu sắc hơn quan niệm chất lượng, nâng cao chất

lượng ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tổng kết những kinh nghiệm nâng cao chất lượng ĐNCTV ở các
SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp có tính khả thi trong các giải pháp
góp phần tiếp tục nâng cao chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu cung cấp thêm cơ sở khoa học giúp các cấp ủy, tổ
chức đảng ở các SĐBB lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động nâng cao chất lượng
ĐNCTV, góp phần nâng cao hiệu lực, chất lượng hoạt động CTĐ, CTCT ở
cấp phân đội các SĐBB, xây dựng cấp ủy, chi bộ TSVM, đại đội, tiểu đoàn
VMTD, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên
cứu, giảng dạy môn CTĐ, CTCT ở các học viện, nhà trường quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu; 3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục các
công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.


9

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình của nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án
Xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ chính trị, đội ngũ chính ủy, CTV trong quân đội nói riêng luôn được các
cán bộ lãnh đạo, tướng lĩnh của quân đội Liên Xô trước đây, Trung quốc, Lào
quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình khoa học được công bố, tiêu biểu là:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ, đội

ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên
Viện Lịch sử quân sự BQP Liên Xô (1976), Sách tham khảo “CTĐ,
CTCT trong các LLVT Liên Xô 1918 - 1973” [7]. Chương hai, CTĐ - CTCT
trong Hồng quân và hạm đội trong những năm nội chiến (1918 - 1920), mục
II: Tổ chức bộ máy để tiến hành CTĐ - CTCT, điểm 1. Các chính ủy và CTV,
đã chỉ rõ:“Các chính ủy đóng vai trò to lớn trong việc củng cố các LLVT Xô viết “Các chính ủy trong quân đội - Nghị quyết đại hội lần thứ VIII của Đảng
về vấn đề quân sự nhận định - không chỉ là đại diện trực tiếp của chính quyền
Xô Viết, mà trước hết là người mang tinh thần của Đảng, kỷ luật của Đảng,
tính kiên nghị và lòng dũng cảm của Đảng vào trong cuộc đấu tranh để thực
hiện những mục tiêu đã được đề ra” [7, tr. 65]. Các tác giả đã phân tích khá
sâu sắc vị trí, vai trò, nhiệm vụ của chính ủy, CTV, khẳng định vị thế của
chính ủy, CTV trong quân đội qua các thời kỳ cách mạng vì vậy trong bất cứ
điều kiện hoàn cảnh nào, Quân đội Liên Xô cũng đều quan tâm đến công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chính trị nói
riêng; xây dựng đội ngũ chính ủy, CTV vững mạnh hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Ioblev.A.M (1979) “Hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô trong lĩnh
vực đào tạo cán bộ quân đội ” [69]. Tác phẩm đã đề cập khá toàn diện hoạt
động của Đảng Cộng sản Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo và giáo dục quân ngũ
đối với sĩ quan quân đội trong tất cả các giai đoạn phát triển của LLVT Liên Xô
trước đây. Tác phẩm đã khẳng định nguồn gốc sức mạnh của các LLVT Xô viết


10

là ở chỗ Đảng Cộng sản Liên Xô là người tổ chức, lãnh đạo và giáo dục quân
đội. Muốn một quân đội mạnh phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ vững
mạnh và để có một đội ngũ cán bộ vững mạnh thì phải tiến hành xây dựng và
bồi dưỡng nguồn cán bộ. Khi đề cập đến việc xây dựng LLVT trong thời bình,
tác giả đã phân tích các nghị quyết của BCHTƯ Đảng Cộng sản Liên Xô về
phương hướng, nhiệm vụ nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ cho các LLVT:

đặt ra cho các trường đại học quân sự nhiệm vụ đào tạo đội ngũ sĩ quan có trình
độ phù hợp với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật quân sự trên cơ sở chú
ý đến kinh nghiệm chiến đấu, đặc biệt quan tâm rèn luyện phẩm chất chính trị
tinh thần...Để nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực toàn diện cho đội ngũ sĩ
quan quân đội, tác giả cho rằng việc tuyển chọn, đào tạo ban đầu có vị trí, vai
trò đặc biệt quan trọng. Những kinh nghiệm của Đảng cộng sản Liên xô trước
đây có thể nghiên cứu, vận dụng vào công tác tạo nguồn đào tạo sĩ quan Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay
P. I. Các pen cô (1981), Chủ biên, “Giáo trình CTĐ - CTCT trong các
LLVT Xô Viết” [8]. Trong Chương III. Cơ quan chính trị, bộ máy Đảng và chính
trị, các tổ chức đảng và đoàn trong Quân đội và Hải quân Xô Viết, mục 2. Cán
bộ chính trị là những người trực tiếp tổ chức CTĐ - CTCT, đã chỉ rõ: “Trong
thời bình và thời chiến, đồng chí phó chỉ huy về chính trị chịu trách nhiệm về tổ
chức và tình hình công tác chính trị trong trung đoàn (tàu chiến); về công tác
giáo dục chính trị, giáo dục quân nhân, củng cố trạng thái chính trị - tinh thần và
kỷ luật quân nhân, về hiệu lực của công tác chính trị trong thực hiện các nhiệm
vụ huấn luyện chính trị và huấn luyện chiến đấu, duy trì sự SSCĐ cao của trung
đoàn (tàu chiến) và cả trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến đấu” [8, tr. 80]. Đồng
thời, chỉ rõ: “Một trong những nhiệm vụ cơ bản của người phó chỉ huy về chính
trị là tổ chức và tiến hành công tác chính trị nhằm đoàn kết mọi người xung
quanh Đảng và Chính phủ, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện chính trị
và huấn luyện chiến đấu, duy trì tình trạng SSCĐ thường xuyên, hoàn thành
nhiệm vụ chiến đấu, củng cố chế độ một thủ trưởng, kỷ luật quân nhân và trạng


11

thái chính trị - tinh thần của mọi người” [8, tr. 80],“Trong phạm vi công tác
đảng, nhiệm vụ của phó trung đoàn trưởng về chính trị cũng phong phú. Phó
trung đoàn trưởng đi sâu vào hoạt động thực tiễn của các tổ chức cơ sở đảng và

tổ chức đảng ở các phân đội, huấn luyện và giáo dục có hệ thống bộ phận cán bộ
đảng, cùng với ban chấp hành đảng bộ (cấp ủy) và các bí thư tổ chức đảng thực
hiện các nghị quyết và những nhiệm vụ của tổ chức đảng” [8, tr. 81].
Chương Tử Nghị (1986) (chủ biên): “Giáo trình CTĐ, CTCT của
Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc dùng trong các Học viện, nhà trường
trong thời kỳ mới” [137]. Trong chương 10, đã đề cập quá trình xây dựng và
phát triển chế độ chính ủy trong Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc, phân
tích khá sâu sắc nhiệm vụ, nội dung chủ yếu của công tác chính ủy. Trong đó
đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ cơ bản của chính ủy là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội về tư tưởng, chính trị và tổ chức, bảo đảm quán triệt thực
hiện đường lối, phương châm, chính sách của Đảng, bảo đảm cho đơn vị thực
hiện hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà đảng giao phó trong bất kỳ điều
kiện khó khăn gian khổ nào”. Chính ủy cần:“Phải cố gắng hết sức, đem hết
tinh lực nắm chắc đường lối phương châm, chính sách của Đảng và quán triệt,
chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên...giải quyết đúng đắn mối quan hệ
với người chỉ huy; phát huy đầy đủ vai trò của cơ quan chính trị; không
ngừng thay đổi và hoàn thiện tác phong làm việc".
Đây là những vấn đề quan trọng, tác giả luận án có thể kế thừa, vận
dụng vào nghiên cứu làm rõ con đường hình thành, phát triển phẩm chất,
năng lực của ĐNCTV và đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp nâng cao
chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên
A. A. Ê - pi - sép (1978) “Một số vấn đề Công tác đảng - công tác
chính trị trong LLVT Liên Xô” [1]. Trên cơ sở những kinh nghiệm đã tích
lũy được, tác giả đã chỉ rõ, muốn hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giáo dục và


12


huấn luyện cấp dưới thì các sĩ quan của LLVT Liên Xô phải nắm vững một
cách có hệ thống kiến thức và phương pháp CTĐ,CTCT. Phải kiên trì nâng
cao tri thức về kỹ thuật, chiến thuật, vũ khí và trang bị hiện đại, học tập
phương pháp sử dụng chúng một cách có hiệu quả nhất trong chiến đấu.v.v...
Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị,
chính ủy, CTV về phẩm chất, năng lực và phương pháp tiến hành
CTĐ,CTCT...Tác giả khẳng định, cán bộ chính trị phải không ngừng nâng
cao trình độ tư tưởng, bổ sung và hoàn thiện kiến thức lý luận, khả năng
trình độ thuyết phục cấp dưới. Đặc biệt, tác giả đưa ra biện pháp nâng cao
trình độ, năng lực cho cán bộ chính trị các cấp là cần tổ chức các đợt tập
huấn định kỳ. Các đợt tập huấn ấy tạo cơ hội tốt cho cán bộ chính trị tiếp thu
những vấn đề phát triển mới, có điều kiện để trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
Khăm Phăn Phôm Ma Thắt (2005) “Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào thời kỳ đổi mới” [73]. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện
Trung ương quản lý ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, luận án đã phân
tích làm rõ mục đích, yêu cầu, nội dung đào tạo, bồi dưỡng khá toàn diện
cả về phẩm chất, trình độ, kiến thức, năng lực lãnh đạo, quản lý. Đánh giá
đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân ưu, khuyết điểm, rút ra một số kinh
nghiệm; xác định yêu cầu và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức ở Lào hiện nay là: tiến hành phân
loại cán bộ công chức để có các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với
yêu cầu sử dụng và trình độ cán bộ công chức; thực hiện đào tạo, bồi
dưỡng theo quy hoạch, gắn chặt với quy hoạch cán bộ công chức; đầu tư
hợp lý và có chế độ, chính sách thích hợp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ công chức; thực hiện đào tạo, bồi dưỡng toàn diện; đổi mới nội
dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo xây dựng
đội ngũ giảng viên có trình độ cao và tăng cường hợp tác quốc tế về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức.



13

Seng Nuôn Xay Nha Lạt (2013)“Về tiêu chuẩn cán bộ chiến lược trong
Quân đội nhân dân cách mạng Lào hiện nay” [115]. Tác giả nêu lên những
yêu cầu cơ bản về phẩm chất, năng lực của người sĩ quan cao cấp Quân đội
nhân dân Lào. Người sĩ quan cao cấp Quân đội nhân dân Lào phải có tầm
nhìn chính trị rộng, có tri thức quân sự, kỹ thuật quân sự, kinh tế quân sự sâu
sắc, biết tư duy sáng tạo, có khả năng tham gia tích cực vào quá trình soạn
thảo chính sách quân sự, học thuyết quân sự, các chương trình quân sự...Vì
vậy việc nâng cao chất lượng tuyển chọn nguồn đào tạo sĩ quan cao cấp từ các
đơn vị là rất quan trọng, nhất thiết phải qua các khâu, các bước hết sức chặt
chẽ. Chế độ tuyển chọn phải xác định rõ các nội dung từ mục đích cử đi học,
các tiêu chuẩn đánh giá về trình độ học vấn, tuổi quân, tuổi đời, phẩm chất
đạo đức, sức khoẻ, nghiệp vụ... trong đó phải đặc biệt chú ý tuyển chọn cán
bộ trẻ đã được đào tạo cơ bản và có triển vọng phát triển.
Bun Lon Sa Luôi Sắc (2014) “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội nhân
dân Lào ngày càng vững mạnh và có chất lượng cao” [10]. Tác giả khẳng định
đội ngũ cán bộ giữ các cương vị, trọng trách lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cơ
quan, đơn vị trong toàn quân là lực lượng nòng cốt trong tổ chức thực hiện
đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng; có vai trò quyết định trong tổ chức
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ HL,SSCĐ, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật
và trong các mặt công tác, thực hiện nhiệm vụ khác của quân đội. Vì vậy, Đảng
nhân dân cách mạng Lào luôn coi trọng lãnh đạo công tác cán bộ, bảo đảm cho
đội ngũ cán bộ thực sự là lực lượng nòng cốt trong công tác xây dựng Đảng,
xây dựng quân đội, làm cho quân đội thực sự là lực lượng chính trị tuyệt đối
trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào.
Trong biện pháp 3, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ huy,
quản lý đơn vị của đội ngũ cán bộ, tác giả chỉ rõ: Thực hiện các nội dung

trong công tác cán bộ, nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ phải gắn
với trách nhiệm lãnh đạo, quản lý chỉ huy đơn vị; lấy kết quả thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao của cán bộ mà đánh giá chất lượng công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ.


14

Các công trình nghiên cứu đã khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ cán
bộ, đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, CTV, hoạt động CTĐ,CTCT trong quân
đội và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cán bộ chính trị, chính ủy, CTV trong
quân đội; chỉ ra những nguyên tắc lãnh đạo, quản lý, tổ chức và hoạt động của
CTĐ,CTCT trong quân đội; nội dung, hình thức, phương pháp và một số kinh
nghiệm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ chính trị nói
riêng trong quân đội của từng nước. Tuy cách thức tổ chức và tiến hành đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ trong quân đội ở các nước này khác nhau, nhưng đều có điểm
chung là nhằm tăng cường CTĐ, CTCT trong quân đội và nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong quân đội. Đây là những vấn đề giữ vai trò quan
trọng, bảo đảm cho đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, CTV các cấp trong quân
đội trưởng thành hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
Trong những năm qua, đã có nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước,
các tướng lĩnh, nhà khoa học trong và ngoài quân đội quan tâm nghiên cứu về
xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, PPTPCT của đội ngũ cán bộ, cán bộ
chính trị, chính ủy, CTV. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài báo khoa học
được công bố có liên quan đến đề tài luận án. Tiêu biểu là:
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ, đội
ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên
Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sâm (2001) (chủ biên),“Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh

CNH,HĐH đất nước” [133]. Cuốn sách đã làm rõ những vấn đề lý luận và
phương pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH. Trên cơ sở đó đưa ra quan niệm và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng cả hiện tại và tương lai; luận giải
những yêu cầu về chất lượng đội ngũ cán bộ trong điều kiện hoàn cảnh mới của
đất nước và thời đại về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Tác giả chỉ rõ phải
căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, chất lương hiệu quả công việc thực tế, có tính đến


15

môi trường và điều kiện công tác, mức độ tín nhiệm của quần chúng nơi công
tác và nhân dân nơi cán bộ sinh sống, trách nhiệm xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức là cấp ủy, tổ chức đảng. Cần có một quy hoạch, kế hoạch về xây dựng đội
ngũ cán bộ trong điều kiện thời bình, đất nước diễn ra quá trình đổi mới, bổ sung
và hoàn thiện chính sách đổi mới cán bộ và gia đình cán bộ, công chức.
Trần Xuân Trường (2008)“Đức và tài cán bộ trong giai đoạn mới”
[136]. Tác giả đã chỉ rõ; để thực hiện thắng lợi chiến lược CNH, HĐH đất
nước cần phải có một chiến lược cán bộ được hoạch định một cách đúng đắn.
Để có một chiến lược cán bộ đúng cần phải có một tư duy đúng về đường lối
cán bộ, mà một nội dung cực kỳ quan trọng là giải quyết đúng mối quan hệ
giữa đức và tài phù hợp với yêu cầu của giai đoạn lịch sử mới. Tiêu chuẩn đức
và tài cũng là tiêu chuẩn của toàn bộ đội ngũ cán bộ hiện nay của Đảng và
Nhà nước. Tiêu chuẩn đức và tài, "hồng" và "chuyên" là chung cho mọi loại
cán bộ: Cán bộ lãnh đạo Đảng, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ LLVT, cán bộ
đoàn thể quần chúng, cán bộ khoa học... Quan điểm coi trọng cả đức và tài,
lấy đức làm gốc không mâu thuẫn với quan điểm lấy hiệu quả công việc để
đánh giá cán bộ. Một hiệu quả công việc cao chỉ có được nếu chúng ta có
những cán bộ vừa có đức và có tài mà đức làm gốc đó là cơ sở trong xây dựng
đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới của đất nước.

Trần Danh Bích (2005)“Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực hoạt
động thực tiễn của cán bộ chủ trì CTĐ, CTCT ở đơn vị cơ sở ” [5]. Khi bàn
đến những yếu tố cấu thành, tác giả đã khẳng định rõ vị trí, vai trò của
“phong cách làm việc khoa học” là một trong những yếu tố quan trọng tạo
nên năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ chủ trì CTĐ, CTCT ở đơn vị cơ sở.
Đồng thời, tác giả cũng đã đề cập đến những biểu hiện cơ bản của phong cách
làm việc khoa học đó là: Sự thống nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với
tính năng động, sáng tạo, nhạy bén phát hiện cái mới, cái tiến bộ; sự thống nhất
giữa nhiệt tình cách mạng với thái độ trung thực và khách quan khoa học; sự
thống nhất giữa cách làm việc dân chủ, kịp thời với tính quyết đoán và tinh thần


16

dám chịu trách nhiệm; sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, giữa nói đi
đôi với làm; ở tác phong sâu sát cơ sở, thường xuyên liên hệ với cán bộ, chiến sĩ
trong đơn vị. Nhưng tác giả cũng mới chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất,
khái quát nhất về phong cách làm việc khoa học với vai trò và yếu tố tạo thành
năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ chủ trì CTĐ, CTCT ở đơn vị cơ sở.
Lê Văn Dũng (2006)“Vai trò đội ngũ chính ủy, CTV trong xây dựng bản
chất cách mạng của quân đội hiện nay” [ 22 ]. Tác giả đã khẳng định: Để pháp
huy vai trò của đội ngũ chính ủy, CTV trong xây dựng bản chất cách mạng của
quân đội hiện nay cần nắm vững và thực hiện tốt những nội dung chủ yếu sau
đây: Thứ nhất, quán triệt đầy đủ chức trách, nhiệm vụ và xây dựng đội ngũ
chính ủy, CTV vững mạnh, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Để phát huy vai trò của chính ủy, CTV trong xây dựng bản chất cách mạng
của quân đội cần quán triệt đầy đủ chức trách, nhiệm vụ của người chính ủy,
CTV và xây dựng đội ngũ chính ủy, CTV vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt
chức trách nhiệm vụ trong thời kỳ mới theo đúng quan điểm, đường lối của
Đảng...Thứ hai, thường xuyên coi trọng việc củng cố, kiện toàn và phát huy

vai trò của hệ thống tổ chức đảng trong quân đội, thực hiện nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách. Củng
cố, kiện toàn hệ thống tổ chức đảng, nhất là hệ thống cấp ủy các cấp là việc
làm thường xuyên, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng theo phân cấp...Chính
ủy, CTV thường là người được tín nhiệm bầu làm bí thư cấp ủy, tổ chức đảng,
do vậy, xây dựng cấp ủy TSVM, thực sự tiêu biểu cho đạo đức và trí tuệ, bản
lĩnh của Đảng, phát huy tốt vai trò lãnh đạo đơn vị là điều kiện có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng để người chính ủy, CTV hoàn thành xuất sắc chức trách nhiệm vụ
của mình...Phát huy vai trò của hệ thống tổ chức đảng trong quân đội là yếu tố
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là điều kiện tiên quyết để đội ngũ chính ủy, CTV
phát huy vai trò của mình trong xây dựng bản chất cách mạng của quân đội.
Nguyễn Tiến Quốc (2010) “Phát huy vai trò chỉ đạo, quản lý của chính
ủy, phó chính ủy và người chỉ huy đối với cơ quan chính trị cấp trung, SĐBB


17

trong điều kiện mới” [110] đã khẳng định; phát huy vai trò chỉ đạo, quản lý của
chính ủy, phó chính ủy và người chỉ huy đối với ban chính trị trung đoàn, phòng
chính trị SĐBB (gọi chung là cơ quan chính trị cấp trung, sư đoàn) hiện nay là
vấn đề cơ bản, cấp thiết. Cơ quan chính trị phải chấp hành triệt để mọi sự chỉ đạo
hướng dẫn của chính ủy, phó chính ủy. Người chỉ huy căn cứ vào chức năng,
nhiệm vụ, khả năng thực tế của cơ quan chính trị để giao nhiệm vụ, thường
xuyên kiểm tra theo dõi, tạo điều kiện cho cơ quan chính trị hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao. Để phát huy vai trò chỉ đạo, quản lý của chính ủy, phó
chính ủy, người chỉ huy đối với cơ quan chính trị phải tiếp tục nâng cao nhận
thức trách nhiệm của chính ủy, phó chính ủy, người chỉ huy trong xây dựng nâng
cao chất lượng hoạt động của cơ quan chính trị; tiếp tục đổi mới công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ trì cấp trung, sư đoàn đáp ứng yêu cầu thực
hiện nghị quyết 51/NQ - TƯ của BCT (khóa IX).

Lê Trọng Tuyến (2016) “Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu ở Sư đoàn 968, Quân khu 4” [132].
Tác giả đã khẳng định; Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn, cấp ủy đảng, cán bộ chủ trì
và cơ quan chính trị các cấp đã thường xuyên nắm bắt tình hình tư tưởng từng
cán bộ, kịp thời giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong cuộc sống, động
viên cán bộ yên tâm công tác. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, quản
lý, rèn luyện đội ngũ cán bộ; gắn sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các
cấp với sự nỗ lực phấn đấu của mỗi cá nhân; mạnh dạn đưa cán bộ, nhất là
cán bộ trẻ vào rèn luyện trong hoạt động thực tiễn, thử thách qua nhiều cương
vị công tác để khẳng định mình; lấy kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ
làm thước đo đánh giá phẩm chất, năng lực của mỗi cán bộ. Thực hiện tốt
công tác quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, nhận xét, đánh
giá, bổ nhiệm và thực hiện công tác chính sách do đó đội ngũ cán bộ Sư đoàn
luôn yên tâm công tác, phấn khởi gắn bó, xây dựng đơn vị, tâm huyết, trách
nhiệm cao trong thực hiệm nhiệm vụ, góp phần tích cực vào việc xây dựng
Đảng bộ Sư đoàn TSVM, đơn vị VMTD, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.


18

Tô Xuân Sinh (2007) “Về vị trí, vai trò của chính ủy, CTV trong các
đơn vị quân đội theo tinh thần Nghị quyết 51 của BCT” [116]; Phạm Đình
Nhịn (2007)“Đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng chính uỷ, CTV trong quân
đội hiện nay” [91]; Lương Cường (2012) “Nâng cao trách nhiệm của chính
ủy, CTV trong thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ
chính ủy, CTV trong Quân đội nhân dân Việt nam” [18]. Các tác giả đều
khẳng định: Nghị quyết 51/NQ - TƯ của BCT (khóa IX) "Về việc tiếp tục
hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn
với chế độ chính ủy, CTV trong Quân đội nhân dân Việt Nam" có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam

vững mạnh về chính trị trong thời kỳ mới. Nghị quyết đã đề cập đến nhiều nội
dung hết sức cơ bản nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực của
tổ chức chỉ huy và hiệu lực CTĐ,CTCT; đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu
về nâng cao trách nhiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ của người chính
ủy, CTV trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Chính ủy, CTV là người có ảnh
hưởng rất quan trọng đến toàn đơn vị, có trách nhiệm rất lớn đối với việc xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị.
Ngoài những nội dung trên, còn một số công trình khoa học khác được
đăng tải trên các tạp chí và trên các báo trong và ngoài quân đội; các công
trình khoa học đó nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về thực hiện chế
độ chính uỷ, CTV trong quân đội và xây dựng đội ngũ chính uỷ, CTV trong
toàn quân hoặc ở từng lĩnh vực, từng quân, binh chủng khác nhau, ở các
quân khu, quân đoàn và các SĐBB…Những công trình khoa học nêu trên có
giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng
lợi chế độ chính uỷ, CTV theo Nghị quyết 51/ NQ - TƯ của BCT (khóa IX).
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên
Nguyễn Văn Hiệp (2000) “Nâng cao chất lượng cán bộ chính trị cấp
phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay theo tư tưởng


19

Hồ Chí Minh” [66]. Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm
vụ của cán bộ chính trị cấp phân đội là chủ thể trực tiếp góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả CTĐ,CTCT, phát huy sức mạnh nhân tố chính trị - tinh thần
của bộ đội ở đơn vị cơ sở; là một trong những chủ thể có ảnh hưởng trực tiếp
đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh; là người góp phần quan trọng
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ, đảng bộ, xây dựng
chi bộ, đảng bộ TSVM, xây dựng các tiểu đoàn, đại đội VMTD. Luận án tập

trung làm rõ khái niệm và những yếu tố tạo thành chất lượng, từ đó chỉ ra tiêu
chuẩn người cán bộ chính trị phân đội thời kỳ mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của những ưu điểm và hạn
chế, rút ra kinh nghiệm; xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao chất lượng cán bộ chính trị phân đội trong Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tổng cục Chính trị (2006)“Nâng cao chất lượng đào tạo, chính ủy, chính
trị viên trong thời kỳ mới” [123]. Cuốn sách đã phân tích làm rõ mục đích, yêu
cầu, nội dung đào tạo, bồi dưỡng chính ủy, CTV khá toàn diện cả về phẩm
chất, năng lực, PPTPCT, trình độ, kiến thức, kỹ năng tiến hành hoạt động
CTĐ,CTCT. Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân ưu, khuyết điểm,
rút ra một số kinh nghiệm; xác định yêu cầu và đề xuất một số giải pháp cơ bản
nâng cao chất lượng đào tạo chính ủy, CTV đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây
dựng quân đội trong thời kỳ mới.
Phạm Đức Hoài (2015),“Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ quân đội đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trong tình hình mới” [61].
Tác giả chỉ rõ: để làm chuyển biến công tác xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính của BQP trong tình hình
mới, cần nắm chắc tình hình, chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết số lượng,
điều chỉnh cơ cấu hợp lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Đổi mới công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Quan tâm thực hiện tốt các chính sách
đối với cán bộ. Xây dựng cơ quan cán bộ các cấp VMTD, hoàn thành tốt chức


20

trách, nhiệm vụ được giao. Thường xuyên kiện toàn đội ngũ cán bộ, nhân viên
ngành nghiệp vụ công tác cán bộ đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, có phẩm
chất chính trị tốt, gương mẫu trong thực hiện công tác cán bộ; sắp xếp, bổ
nhiệm đảm bảo đúng tiêu chuẩn của từng chức vụ, chức danh công tác; thực

hiện việc luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác đúng quy định.
Lê Minh Vụ (2008) “Nâng cao chất lượng đào tạo chính uỷ, CTV đáp
ứng yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới” [149]. Nguyễn
Tiến Hải (2013) “Nâng cao chất lượng tạo nguồn đào tạo cán bộ chính trị cấp
phân đội trên địa bàn miền núi phía Bắc hiện nay” [60]. Các tác giả đã tập
trung luận giải những vấn đề cơ bản về chất lượng đội ngũ chính uỷ, CTV
trong thời kỳ mới đó là: chính uỷ, CTV phải có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có năng lực toàn diện, trong đó, năng lực tư duy lý luận, năng lực thực hành
CTĐ, CTCT, năng lực sư phạm giữ vai trò quan trọng hàng đầu; chính uỷ,
CTV phải là tấm gương mẫu mực về phong cách, đạo đức, lối sống trong
đơn vị để bộ đội học tập và noi theo. Để có được trình độ, năng lực, bản lĩnh
và những phẩm chất đạo đức đó, chính uỷ, CTV phải được đào tạo cơ bản tại
các học viện, nhà trường quân đội và trải nghiệm qua thực tiễn công tác tại
đơn vị. Vì vậy, để nâng cao chất lượng chính ủy, CTV đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong thời kỳ mới, các tác giả đã đưa ra những giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng tạo nguồn, đào tạo đội ngũ chính uỷ, CTV tại Học
viện Chính trị, Trường sĩ quan Chính trị làm cơ sở vững chắc cho đội ngũ
chính uỷ, CTV sau khi ra trường sẽ phát triển hoàn thiện trong quá trình công
tác đơn vị.
Các công trình khoa học trên đã tập trung nghiên cứu làm rõ chất lượng đội
ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, CTV, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chính trị nói chung, chính ủy, CTV nói riêng theo từng loại hình
đơn vị trong quân đội. Tuy nhiên, do đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác
nhau, chưa có công trình khoa học nào đề cập tới nâng cao chất lượng ĐNCTV
ở các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.


21

1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan

đến nâng cao chất lượng đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh và
những vấn đề đặt ra luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan
đến nâng cao chất lượng đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh
Các công trình nghiên cứu đã khẳng định vai trò to lớn của ngũ cán
bộ, cán bộ chính trị, chính ủy, CTV trong quân đội và vai trò của đội ngũ cán
bộ, cán bộ chính trị, chính ủy, CTV đối với công tác xây dựng Đảng, xây
dựng đơn vị VMTD. Có công trình đã chỉ rõ vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm
vụ của đội ngũ cán bộ, đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, CTV; biện pháp
nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ chính trị; yêu cầu về đức, tài của người
cán bộ, cán bộ chính trị, chính ủy, CTV.
Một số công trình đã đi sâu phân tích làm rõ yêu cầu phẩm chất, năng lực,
PPTPCT, năng lực tiến hành CTĐ,CTCT của đội ngũ cán bộ, cán bộ chính trị,
chính ủy, CTV. Trong đó tập trung làm rõ yêu cầu về phẩm chất chính trị, phẩm
chất đạo đức, lối sống, kiến thức, năng lực toàn diện, nhất là năng lực tiến hành
CTĐ,CTCT và PPTPCT của đội ngũ cán bộ, cán bộ chính trị, chính ủy, CTV.
Có công trình đã đi sâu phân tích làm rõ những vấn đề cơ bản về chất
lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đội ngũ cán bộ chính trị, chính
ủy, CTV; đưa ra quan niệm, yếu tố cấu thành, những vấn đề có tính nguyên tắc
và tiêu chí đánh giá nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đội ngũ cán bộ chính
trị, chính ủy, CTV. Một số công trình đã đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên
nhân của những ưu điểm, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, cán bộ chính trị, chính ủy, CTV. Một số công trình đi sâu
phân tích tình hình, xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, cán bộ chính trị, chính ủy, CTV trong quân đội.
Các công trình đề cập nội dung trên với phạm vi, ý định và hướng nghiên
cứu khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu
một cách có hệ thống, trực tiếp, toàn diện về vấn đề: Nâng cao chất lượng
ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.



22

Các công trình khoa học nêu trên là tư liệu quan trọng, là cơ sở cung
cấp những luận cứ khoa học để tác giả có thể kế thừa, tiếp tục nghiên cứu,
phát triển các ý tưởng của các công trình nghiên cứu đã công bố chưa đề cập
tới, xây dựng thành công luận án đúng mã số chuyên ngành xây dựng Đảng
và Chính quyền Nhà nước.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết
Trên cơ sở Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương của ĐCSVN, của QUTƯ, TCCT về xây dựng
đội ngũ cán bộ, đội ngũ cán bộ chính trị; dựa trên kết quả các công trình
khoa học nghiên cứu có liên quan, hướng nghiên cứu của đề tài luận án tập
trung vào luận giải làm sáng tỏ những vấn đề sau:
Thứ nhất, luận án tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về
các SĐBB và ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thứ hai, đi sâu làm rõ quan niệm, yếu tố quy định chất lượng và
những vấn đề cơ bản về nâng cao chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Thứ ba, tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng và rút ra
những kinh nghiệm nâng cao chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Thứ tư, phân tích sự phát triển của tình hình nhiệm vụ, xác định yêu
cầu và đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao chất lượng ĐNCTV ở các SĐBB
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, trong đó tập trung đề xuất giải pháp
tăng cường bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất, năng lực, PPTPCT của ĐNCTV ở
các SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Đây là những vấn đề căn bản nhất nếu thành công luận án sẽ hoàn
thành nhiệm vụ và đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra.



23

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN Ở CÁC SƯ ĐOÀN BỘ BINH
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1. Các sư đoàn bộ binh và đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ
binh Quân đội nhân dân Việt Nam
1.1.1. Các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam
Các SĐBB là lực lượng chiến đấu chủ lực của Quân đội nhân dân Việt
Nam. Sự vững mạnh của SĐBB là một yếu tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định tạo
nên chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Các SĐBB thường
đảm nhận nhiệm vụ tiến công hoặc phòng ngự độc lập trên một hướng của quân
khu, quân đoàn hay trong đội hình chiến dịch của cấp trên, lực lượng nòng cốt
trong chiến tranh nhân dân, tham gia bảo vệ an ninh trật tự, làm thất bại âm mưu,
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Từ điển Bách khoa quân sự
Việt Nam định nghĩa: "Sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam thuộc
quân chủng lục quân, thường gồm 3-4 trung đoàn bộ binh, và một số đơn vị
trực thuộc, được trang bị gọn nhẹ, có thể cơ động và tác chiến trên nhiều loại
địa hình khác nhau (rừng núi, đồng bằng, trung du...) có khả năng tác chiến
hiệp đồng quân binh chủng trong đội hình cấp trên hoặc độc lập, thuộc biên
chế của quân khu, quân đoàn hoặc trực thuộc BQP'', [128].
* Tổ chức biên chế của SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam.
Theo quy định, tổ chức biên chế của SĐBB đủ quân gồm: Ban chỉ huy
sư đoàn; 4 cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật; 3 trung đoàn bộ
binh đủ quân; 7 tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật bảo đảm và các đại đội trực
thuộc trinh sát, cảnh vệ, sửa chữa, kho kỹ thuật. Hiện nay toàn quân có 11
SĐBB đủ quân, 9 SĐBB có một trung đoàn bộ binh đủ quân, 12 SĐBB khung
thường trực và dự bị động viên thuộc các quân khu, quân đoàn.

Hệ thống chỉ huy bao gồm 6 cấp: sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội,
trung đội và tiểu đội. Hệ thống tổ chức đảng gồm: đảng bộ sư đoàn là đảng bộ


24

cấp trên trực tiếp cơ sở, đảng bộ trung đoàn, đảng bộ tiểu đoàn trực thuộc sư
đoàn là đảng bộ cơ sở, đảng bộ tiểu đoàn thuộc trung đoàn là đảng bộ bộ phận và
các chi bộ đại đội. Tổ chức cơ sở đoàn được thành lập ở các trung đoàn và các
tiểu đoàn trực thuộc sư đoàn, liên chi đoàn ở các tiểu đoàn trực thuộc trung đoàn
và chi đoàn ở các đại đội. Hội đồng quân nhân được tổ chức ở cấp đại đội và
tương đương. Hội phụ nữ, công đoàn quốc phòng được thành lập và kiện toàn
theo yêu cầu tổ chức biên chế, nhiệm vụ chính trị và đặc điểm của các đơn vị.
* Chức năng, nhiệm vụ của SĐBB Quân đội nhân dân Việt Nam
Chức năng:
Quân đội nhân dân Việt Nam có các chức năng chiến đấu, công tác, lao
động sản xuất [127, tr.112]. Là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam,
các SĐBB có đầy đủ các chức năng của quân đội. Thực hiện tốt các chức năng
là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng
và các tổ chức, các lực lượng ở các SĐBB.
Các SĐBB có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, HL, SSCĐ nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu
của sư đoàn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
HL,SSCĐ nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu là nhiệm vụ
chính trị trung tâm đảm bảo cho các SĐBB sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm
vụ chiến đấu chống kẻ thù xâm lược bên ngoài và “DBHB”, bạo loạn lật đổ,
khủng bố của các thế lực phản động bên trong bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN. V.I Lênin chỉ rõ: “Một đội quân giỏi nhất, những người trung
thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu

họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ” [139,Tr.497].
Trong HL,SSCĐ, các SĐBB phải tuân thủ chỉ lệnh, nội dung quy định của
cấp trên, vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể nhằm làm cho mọi quân nhân
quán triệt đầy đủ quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng, tư tưởng chỉ đạo,
phương thức tác chiến trong giai đoạn mới, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ


25

trong mọi tình huống. Hoạt động HL,SSCĐ của các SĐBB là quá trình làm
công tác chuẩn bị về con người, tổ chức, vũ khí, trang bị, phương án quân sự
và các mặt bảo đảm khác, để khi tình huống xảy ra sư đoàn luôn chủ động,
không bị bất ngờ, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hoạt động HL,SSCĐ của các
SĐBB phải bảo đảm đối phó hiệu quả với mọi hình thức, quy mô, tính chất
loại hình chiến đấu mà địch có thể gây ra, cả vũ trang, phi vũ trang và sự kết
hợp giữa các hình thức đó.
SSCĐ của các SĐBB không chỉ sẵn sàng về con người, vũ khí, trang bị, tư
thế tác phong, chấp hành kỷ luật, chế độ quy định, mà còn là sự kiên định về
chính trị, lập trường tư tưởng, sự nhận thức tình hình, sẵn sàng chuyển sang
trạng thái chiến đấu, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, sẵn sàng
nhận và hoàn thành các nhiệm vụ, trong mọi tình huống khi có lệnh. Trình độ
SSCĐ của các SĐBB phụ thuộc rất lớn vào chất lượng tổng hợp, sức mạnh
chiến đấu của sư đoàn, trình độ tổ chức, chỉ huy của cán bộ và cơ quan các
cấp, ý thức tổ chức kỷ luật của mỗi quân nhân, từng phân đội, cũng như toàn
sư đoàn trong việc nắm chắc các chỉ thị, quy định của BQP, của cấp trên về
nhiệm vụ SSCĐ, nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, từ đó nâng cao
tinh thần cảnh giác, xây dựng bản lĩnh chính trị, ý thức thường trực hoàn
thành tốt nhiệm vụ; đồng thời đặt ra yêu cầu cao trong lãnh đạo chuẩn bị con
người và vũ khí trang bị của đơn vị; duy trì chế độ, nền nếp, tỉ mỉ, chu đáo,
thường xuyên trong trạng thái SSCĐ, khi có tình huống không bị bất ngờ,

bước vào chiến đấu được ngay. Mặt khác, SSCĐ còn thể hiện ở việc thường
xuyên kiểm tra, điều chỉnh, bổ sung các loại văn kiện, kế hoạch SSCĐ theo
đúng quy định của cấp trên, nhất là kế hoạch cơ động lực lượng, phương án
chiến đấu trong khu vực đảm nhiệm, luyện tập tổng hợp các phương án (kể cả
phương án diễn tập chống khủng bố); nâng cao trình độ, năng lực chỉ huy của
cán bộ, khả năng cơ động của bộ đội, sẵn sàng nhận và thực hiện nhiệm vụ
một cách chính xác với hiệu quả cao nhất.
Chính vì vậy, các SĐBB phải tập trung mọi nỗ lực nâng cao chất lượng huấn


×