Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

lạm phát ở việt nam từ 1988 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.05 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1988 ĐẾN
NAY

Huyền

Giảng viên
: Trần Bá Thọ
Sinh viên thực hiện : Dương Thị Kiều Oanh
Phan Thị Phương Anh
Hoàng thị Khánh
Lớp

: DH42DC015


LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kì công nghiệp hóa- hiện đại hóa hiện nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế
có xu hướng tăng lên đầy ấn tượng. Song bên cạnh đó nền kinh tế cũng nảy
sinh rất nhiều khó khăn, một trong nhữn khó khăn hàng đầu mà nền kinh tế toàn
cầu đang phải đối mặt là tình trạng lạm phát gia tăng và diễn biến vô cùng phức
tạp. Đa phần lạm phát có tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia, gây hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống của mỗi cá nhân trong nền
kinh tế đó. Do đó, giải quyết vấn đề lạm phát là một trong những mục tiêu hàng
đầu.
Vì lí do trên mà nhóm em lựa chọn lạm phát làm chủ đề cho bài tiểu luận. Thông
qua bài tiểu luận này, mọi người sẽ có cái nhìn tổng quan về tình hình lạm phát
qua các năm, nguyên nhân cũng như hậu quả mà lạm phát gây ra. Từ đó rút ra


những giải phát cho bản thân nhằm giảm bớt tình trạng lạm phát


MỤC LỤC
I: KHÁI NIỆM LẠM PHÁT
II: TÌNH TRẠNG LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1988 ĐẾN NAY
III: HẬU QUẢ CỦA LẠM PHÁT
IV: NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG LẠM PHÁT
V: CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG LẠM PHÁT
NỘI DUNG
I: KHÁI NIỆM LẠM PHÁT VÀ CÁC CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT:
1: Khái niệm:
1.1: Lạm phát là gì?
Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng
lên cao trong khoảng thời gian nhất định.
Lạm phát không chỉ phản ánh chỉ số giá tăng lên mà còn là hiện tượng của nền
kinh tế liên quan đến giá trị của tiền. Lạm phát làm giảm giá trị của tiền.
1.2: Giảm phát là gì?
Giảm phát là trình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống trong một
khoảng thời gian nhất định.
Do đó, giảm phát trái ngược với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát
là lạm phát với tỷ lệ mang giá trị âm.
Không nên nhầm lẫn giảm phát với giảm lạm phát( là sự chậm lại của tỷ lệ
lạm phát ).
2 Phân loại:
o Theo mức độ:

MỨC ĐỘ
Lạm phát vừa phải


Siêu lạm phát


Lạm phát phi mã

• Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới
10% một năm,biểu hiện là giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao,
không có tình trạng đầu cơ tích trữ hàng hóa do đó lạm phát vừa phải có
tác động không đáng kể đến nền kinh tế.
 lạm phát vừa phải có 2 loại:
_ Thiểu phát: có tỷ lệ lạm phát từ 3-4% một năm trở xuống.
_ Lạm phát thấp: có mức lạm phát từ 3-7% một năm.
• Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ
lệ 2 hoặc 3 con số một năm, biểu hiện là giá cả tăng nhanh, lãi suất cho
vau cao, xảy ra tình trạng đầu tư tích trữ. Do đó lạm phát phi mã có tác
động mạnh đến nền kinh tế, nếu kéo dài có thể gây ra những biến động
nghiêm trọng.
• Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa
lạm phát phi mã, siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát
trên 4 con số, là tình trạng đột biến với tốc độ cao, gây ra những hậu quả
nặng nề cho nền kinh tế.
o Theo tính chất:

Định tính
Lạm phát không
dự kiến

Lạm phát
thuần túy
Lạm phát cân

bằng

Lạm phát dự kiến


• Lạm phát thuần túy: Đây là trường hợp đặc biệt của lạm phát, hầu như
giá cả của mọi loại hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ trong cùng một
đơn vị thời gian.
• Lạm phát cân bằng: Là loại lạm phát có mức giá chung tăng tương ứng
với mức tăng của thu nhập.
• Lạm phát dự kiến: là lạm phát mà mọi người có thể dự đoán được nhờ
vào diễn biến liên tục theo chuỗi thời gian trong nhiều năm.
• Lạm phát không dự kiến: Là lạm phát xảy ra bất ngờ, không dự đoán
trước diễn biến.
3: Các chỉ số đo lường lạm phát:
3.1: Hệ số giảm phát GDP (GDP deflator):
Được tính trên cơ sở so sánh giá trị GDP tính theo giá hiện hành và GDP tính
theo giá kỳ trước. Nghĩa là đo lường mức tăng và giảm giá trên tất cả các loại
hàng hoá dịch vụ tính trong GDP.
3.2: Chỉ số giá tiêu dùng CPI:
Được tính theo bình quân giá của một nhóm các hàng hóa thiết yếu.
4: Cách tính:
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi giá cả của một lượng
lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế, thông thường dựa trên dữ
liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, các liên đoàn lao động và các tạp
chí kinh doanh.
Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một
chỉ số giá cả đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp
các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát vì giá trị của chỉ

số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy
nhiên, thước đo lạm phát phổ biến nhất chính là chỉ số giá tiêu dùng CPI- là chỉ
số đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hóa và dịch vụ, bao gồm thực
phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế…, được mua bởi “người tiêu dùng
thông thường”.


I%=((CPI t - CPI t-1)/CPI t-1) *100%
Trong đó i%: tỷ lệ lạm phát
t: thời gian tính toán
Nếu
i% < 10% là lạm phát vừa phải
10% < = i% < 200% là lạm phát phi mã
i% > 200% là siêu lạm phát
II: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1988 ĐẾN NAY:
2.1 Giai đoạn từ 1988-1992:
Giai đoạn từ tháng 5/1988 đến 1990( giai đoạn lạm phát chính thức được thừa
nhận chính thức ở Việt Nam).
Giai đoạn 1988-1992: Đây là thời kì của lạm phát phi mã, lạm phát ở mức 03
con số; nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế ở giai đoạn này bị khủng hoảng, tăng
trưởng thấp, làm cho thị trường bị thiếu cung, tiền phát hành ra nhiều hơn lượng
hàng hóa sản xuất được.
Đầu năm 1988 chi phí đẩy xảy ra ở các tỉnh miền Bắc, người dân tích trữ hàng
hóa, ngoại tệ vì sợ đồng tiền Việt Nam mất giá, tạo ra cầu tăng giả dẫn đến lạm
phát cầu kéo diễn ra. Số liệu điều tra được là tỷ lệ lạm phát 223,1% và tốc độ
tăng trưởng chỉ đạt 3,78%.
Tình hình lạm phát những năm sau đó có dấu hiệu giảm nhiệt. Từ siêu lạm
phát với ba con số xuống hai con số. Từ 1989-1991 lạm phát giảm nhưng vẫn ở
tỷ lệ cao. Năm 1989, lạm phát phi mã được chặn đứng,tình trạng rối loạn giá cả

và lưu thông chấm dứt. tỷ lệ 67% duy trì trong 2 năm liên tiếp 1990-1991.
Bảng 2: Tỷ lệ lạm phát từ năm 1988-1991 ở Việt Nam
Năm
1988
1989
1990
1991
1992
Tỷ lệ lạm
308,2
73,4
67,4
67,6
17,6
phát


Bảng 2: Biểu đồ thể hiện tình hình lạm phát từ 1988-1992
2.2 Giai đoạn 1993-1996:
Giai đoạn 1993-1996: lạm phát còn cao, nhưng đã thấp hơn nhiều so với thời
kỳ trước; nguyên nhân chủ yếu do cung đã tăng, lương thực vượt nhu cầu trong
nước, xuất khẩu với khối lượng lớn; Chính phủ đưa ra phương châm: ngân sách
thì thu lấy mà chi; ngân hàng thì vay lấy mà cho vay, có nghĩa là Nhà nước
không phát hành tiền cho bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt.
Năm 1993 nhờ chính sách tiền tệ phù hợp mà tỷ lệ lạm phát giảm xuống còn
5,2% . Tuy nhiên, tỷ lệ này không duy trì được lâu kết quả là năm 1994 tỷ lệ lạm
phát lại tăng lên 14,4%.
Bảng 2.2.1: Tỷ lệ lạm phát từ năm 1993-1996
Năm
1993

1994
1995
1996
Tỷ
lệ
lạm 5,2
14,4
12,7
4,5
phát(%)


2.3: Giai đoạn 1997-2003:
Giai đoạn 1997-2003 được coi là thiểu phát, khi CPI tăng rất thấp; Nhìn chung,
cả thời kỳ này có 3 năm, trong đó có 1 năm giảm, 2 năm tăng chậm.
Cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Châu Á bắt đầu từ tháng7/1997 đã gây
ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế Việt Nam. Biểu hiện của tình trạng này là mức giá
liên tục giảm, sức mua sụt giảm, xuất khẩu và đầu tư nước ngoài giảm, hàng
hóa ứ đọng, sản xuất trì trệ, tỷ lệ thất nghiệp tăng...Biểu hiện tiêu biểu của sự
suy giảm kinh tế là sự giảm phát.
Năm 1998 tăng cao 9,2% do tác động của khủng hoảng khu vực.
Năm 1999 giá cả liên tục giảm từ tháng 3 đến tháng 12, CPI chung hầu như
không tăng.
Năm 2000, CPI giảm 0,6% so với năm 1999.
CPI năm 2001 sáu tháng đầu giảm, CPI tháng 6/2001 giảm 0,3% so với tháng
6/2000 và giảm 0,7% so với tháng 12/2000. Tuy nhiên với những nỗ lực tỷ lệ lạm
phát đã giảm xuống 0,8% năm 2001.
Năm
1997
Tỷ lệ lạm 3,6

phát(%)

1998
9,2

1999
0,1

2000
-0,6

2001
0,8

2002
4

2003
3


2.3: Giai đoạn từ 2004-2010
Giai đoạn 2004-2010 Đây là thời kì mà mức lạm phát tăng trở lại, gần như lặp
đi lặp lại, cứ 2 năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn: năm 2004 tăng 9,5%,
năm 2005 tăng 8,4%, thì năm 2006 chỉ tăng 6,6%; năm 2007 tăng 12,63%, năm
2008 tăng 19,89%, năm 2009 chỉ tăng 6,52%; đến năm 2010 tăng 11,75%;
Từ năm 2007 đến 2010, lạm phát có chiều hướng bất ổn định và biểu hiện tính
chu kì. Chu kì này vào khoảng 3 năm khi tỷ lệ lạm phát đã lên đến đỉnh điểm vào
tháng 8/2008 (28,23%) và tháng 8/2011 (23,02%). Cuộc khủng hoảng tài chính
2008 bắt nguồn từ Mĩ đã nhanh chóng lan rộng khắp các thị trường đã tác động

nghiêm trọng đến nền kinh tế Việt Nam. Lạm phát tại Việt Nam tăng mạnh trong
9 tháng đầu 2008. Tới tháng 8/2008, CPI so với kỳ gốc 2005 là 148,21%. Chỉ số
giá 8 tháng đầu năm so với cùng kỳ 2007 tăng 22,14%. Đây là năm có giá trị
nhập siêu tăng đột biến.
năm
Tỷ lệ lạm
phát

2004
9,5

2005
8,4

2006
6,6

2007
12,63

2008
19,89

2009
6,52

2010
11,75



Giai đoạn 2011 đến nay:
Lạm phát ở giai đoạn này không có nhiều biến động. Diễn biến lạm phát 2011
diễn ra khá phức tạp, giá lương thực, giáo dục, giao thông tăng mạnh. Lạm phát
lên tục bị đẩy lên, tỷ lệ lạm phát 18,13%. Những năm sau đó tỷ lệ lạm phát giảm
dần 2012( 9,21%), 2013( 6,6%), 2014( 4,09%), 2015( 0,63%)
năm
Tỷ lệ lạm
phát

2011
18,13

2012
9,21

2013
6,6

2014
4,09

2015
0,63

2016
2,66

III: HẬU QUẢ CỦA LẠM PHÁT:
* Tích cực: Nếu chúng ta giữ lạm phát ở mức vừa phải nó sẽ :
-kích thích tiêu dùng: Khi giá trị của đồng tiền ít biến động, người tiêu dùng sẽ

không còn tâm lí phải bỏ ra quá nhiều tiền để mua hàng hóa .
- tăng vay vốn để đầu tư: Khi lạm phát thấp sẽ làm giảm lãi suất cho vay, nhờ
vậy công chúng có thể vay vốn để đầu tư.
- giảm thất nghiệp xã hội
- kích thích tăng trưởng kinh tế.
* Tiêu cực:
Tác động đến lãi suất:
Ta có: Lãi suất thực= Lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát


Nếu tỷ lệ lạm phát tăng, nếu muốn giữ lãi suất thực dương và ổn định thì phải
tăng lãi suất danh nghĩa lên. Việc tăng lãi suất danh nghĩa đó sẽ khiến nền kinh
tế bị suy thoái.
Tác động làm phân phối lại thu nhập: Việc phân phối thu nhập không đồng
đều đã gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Những người có hàng hóa bán
với mức giá tăng cao đột biến sẽ trở nên giàu có và ngược lại những
người sở hữu những hàng hóa không tăng giá hoặc tăng chậm sẽ nghèo
đi. Mặc khác, những người có xu hướng đầu cơ tích trữ vàng và ngoại tệ
( ví dụ giai đoạn 1988-1989) đã làm người tích trữ giàu lên trong khi những
người làm công ăn lương nghèo đi.
Tác động đến đời sống người dân: Khi giá tăng lên đột ngột người dân sẽ
khó thích nghi kịp, do đó chất lượng cuộc sống sẽ giảm đi do họ không còn
đủ khả năng chi trả những khoản chi phí mà trước đó họ vẫn chi trả được,
làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng tiêu dùng và buộc nhân
dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng, đặc biệt là đời sống cán bộ công
nhân viên ngày càng khó khăn khi các khoản trợ cấp, phúc lợi cũng bị cắt
giảm. Tình trạng thất nghiệp gia tăng.
Tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh: Người kinh doanh sẽ tập
trung đầu tư vào những dự án ngắn hạn, thu vốn và lãi sớm, mang tích
đầu cơ, sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có

lợi nhuận cao. Gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa này nhưng lại dư
thừa hàng hóa kia, nền kinh tế mất cân bằng. Ngoài ra, lạm phát gây rối
loạn thị trường, sai lệch thông tin khiến nhà đầu tư xác định sai phương
hướng hoạt động, dẫn đến thua lỗ phá sản và lãng phí tiền của.
Nợ quốc gia tăng cao: Lạm phát cao làm cho Chính phủ được lợi do thuế
thu nhập đánh vào người dân, nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở
nên trần trọng hơn. Chính phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với
nợ nước ngoài. Lý do là vì: lạm phát đã làm tỷ giá giá tăng và đồng tiền
trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính
trên cá khoản nợ.
Làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo giá trị, dẫn đến
thước đo này co dãn thất thường, do đó xã hội không thể tính toán hiệu
quả, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh một cách phù hợp để mang lại
hiệu quả.


Tiền tệ và thuế là 2 công cụ quan trọng nhất trong việc điều tiết nền kinh tế,
tuy nhiên khi tiền tệ bị mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa, các biểu
thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ của lạm phát. Do
vậy tác dụng điều chỉnh của thuế bị hạn chế, mặc dù chính phủ đã có
những chính sách thay đổi ttrong mức thuế.
Kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bạc…gây ra
tình trạng khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng phí tiền bạc.
Ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày càng giảm
về mặt giá trị.
Đối với ngân hàng: lạm phát làm cho hoạt động bình thường của ngân
hàng bị rối loạn, ngân hàng không thu hút được các nhà đầu tư trong xã
hội. Do đó, các ngân hàng hoạt động trì trệ, không đúng như vai trò của
mình.
Tệ nạn xã hội gia tăng: Khi lạm phát gia tăng, nền kinh tế rơi vào tình

trạng suy thoái do đó tình trạng thất nghiệp gia tăng. Các tệ nạn xã hội
như: ăn cắp, cướp giật, giết người tăng lên…Xã hội sẽ rơi vào hỗn loạn,
mất trật tự.
 Tóm lại: Hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây ra
hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của môi nước. Lạm phát làm cho
việc phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền kinh tế qua giá cả
đều khiến quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm
cho một nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại nặng nề.
Nhưng suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai của người lao
động, chính người lao động là người gánh chịu mọi hậu quả của lạm phát.
IV: NGUYÊN NHÂN:
 Lạm phát do cầu kéo: Lạm phát này xuất phát do đường cầu. Khi cầu tăng
lên quá nhanh trong khi cung không tăng hoặc tăng rất ít. Dẫn đến tình
trang mất cân đối cung- cầu. Việc tăng cung ứng tiền tệ đã dẫn đến tăng
cầu hàng hóa và dịch vụ. Thứ hai, khi cầu tăng lên quá nhanh với số máy
móc và năng suất lao động có hạn sẽ không thể đáp ứng kịp, do đó giá cả
tăng lên.


 Lạm phát do chi phi đẩy: Lạm phát này xuất phát từ đường cung. Xảy ra do
cú sốc tiêu cực hoặc do kết quả của những cuộc đấu tranh đòi tăng lương
gây ra. Nó có thể là do chi phí sản xuất cao được chuyển sang người tiêu
dùng, khi mức giá tăng lên công nhân hoặc công đoàn sẽ đòi tăng lương
để phù hợp với chi phí sinh hoạt. Yếu tố thứ hai là chi phí nguyên vật liệu.
Ngoài ra giá nhập khẩu được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Giá cả
nhập khẩu đắt đỏ do giá đông tiền nội địa yếu đi.


 Lạm phát do cung ứng tiền tăng lên và kéo dài: Khi chính phủ bơm nhiều
tiền vào nền kinh tế, dẫn đến tình trạng tổng cầu trong dài hạn sẽ lớn hơn

tổng cung, do đó giá tăng lên, giá trị của tiền giảm. Kết quả là lạm phát xảy
ra.
 Chính sách quản lí kinh tế không phù hợp của nhà nước như chính sách
cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất…
 Lạm phát do thâm hụt ngân sách: Khi chính phủ bị thâm hụt ngân sách,
chính phủ sẽ tăng cung tiền để bù đắp thâm hụt, lượng cung tiền tăng do
đó lạm phát xuất hiện.
 Lạm phát do tỷ giá hối đoái
 Giá cả xăng dầu trên thế giới biến động thất thường.
 Thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nguyên vật liệu,
nhiên liệu trên thế giới.
* Nguyên nhân cụ thể cho một từng giai đoạn:
-1988- 1992:
• Tích trữ vàng và ngoại tệ.
• In nhiều tiền.
• Thiếu cung.
• Chính sách kinh tế chưa phù hợp.
-1997- 2003:
• Hoạt động sản xuất trì trệ.


• Xuất khẩu và đầu tư nước ngoài giảm.
• Lượng cầu giảm.
• Chính sách giảm lạm phát chưa phù hợp.
• Ảnh hưởng của khủng hoảng khu vực.
-2004-2010:
• Khủng hoảng toàn cầu.
• Nhập siêu
2011- 2016:
• Do chính sách xã hội hóa học tập và giá cả của một số mặt hàng do nhà

nước quản lí định hướng sang cơ chế thị trường.
• Việc tăng giá xăng.
• Do thiên tai.
• Do tác động của thị trường thế giới.
• Việc phá giá đồng Việt Nam và việc xuất nhập khẩu.
• Do tác động của quá trình đô thị hóa, lãi suất,….
• Nguy cơ tái lạm phát kèm theo là sự trì trệ của thị trường.
• Tình trạng nợ xấu, dòng tín dụng bị tắt nghẽn.
• Khó giảm lãi suất cho vay.
V: BIỆN PHÁP:
Trước những tác động tiêu cực do lạm phát gây ra đòi hỏi chính phủ phải có
những chính sách phù hợp nhằm kiềm chế lạm phát.
• Một là, chính phủ cần thực thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ năng động
và hiệu quả trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế:
+ Hạ lãi suất cho vay để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trong nước
và xuất nhập khẩu, cung cấp hàng hóa cho nền kinh tế
+ Hạn chế giải chấp chứng khoán , đề nghị các ngân hàng, Cty chứng khoán
tạm ngừng giải chấp, tiếp tục gia hạn hoặc NHNN hỗ trợ tài chính thông qua
hoạt động tái chiết khấu để tạo thanh khoản cho các NH
+ Xử lý cầu đầu tư nước ngoài: Giữ tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào
TTCK VN như hiện nay (49%-đối với CP các ngành khác, riêng CP ngành NH là
30% ) nhưng tháo gỡ thủ tục hành chính.


+Mở rộng đối tượng kiều bào nước ngoài mua nhà ở Việt Nam: Hiện nay, Quốc
Hội đang dự thảo nghị định cho người VIỆT NAM định cư ở nước ngoài mua nhà
ở VN. Đây là một giải pháp tốt đáp ứng được nguyện vọng của bà con xa xứ
nhưng cũng là một biện pháp cứu được sự đóng băng của thị trường bất động
sản.
+Tiếp tục siết chặt chi tiêu công đối với các dự án không hiệu quả: đề nghị

Quốc Hội và Chính phủ tiếp tục cắt giảm để tập trung vào đầu tư xuất khẩu góp
phần thăng bằng cán cân thương mại.
+Phòng chống giảm phát.
• Hai là, đề xuất với Chính phủ thành lập quỹ kích cầu để kích thích tiêu dùng để
kích thích nền kinh tế phát triển tránh xu hướng giảm phát trong thời gian tới.
Trước thực trạng nền kinh có dấu hiệu giảm phát, cần phải giảm tốc độ tăng lãi
suất huy động của ngân hàng, duy trì tốc độc tăng trưởng 7% là hợp lý. Bên
cạnh đó, Chính phủ cần phải bố trí ngân sách quỹ kích cầu để kích thích tiêu
dùng để kích thích nền kinh tế phát triển tránh xu hướng giảm phát trong thời
gian tới. Trước mắt cần đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, tăng năng suất lao động
làm cho giá trị của nền kinh tê “thật” không bị thoát li giá trị của nó do nền kinh tế
“ảo” (các hàng hóa của nền kinh tế ảo là các chứng từ có giá: chứng khoán,
quyền chọn mua, quyền chọn bán…)
• Ba là, tiết kiệm chi phí sản xuất xã hội và chi tiêu công và tư Giảm mức tăng
chi phí phải thực hiện tiết kiệm trong sản xuất xã hội. Để làm được điều này, bản
thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo định mức, kiểm tra
chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo đúng quy cách, phẩm chất, chủ động nghiên
cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp, nhất là đối với vật tư nguyên liệu nhập
khẩu. Một giải pháp giảm mức tăng chi phí khác có thể áp dụng là hoàn thiện
công nghệ, đổi mới công nghệ, cải tiến tố chức quản lý nhằm tăng năng suất lao
động. Đồng thời tiết kiệm chi tiêu công của nhà nước, từng gia đình, cá nhân.


• Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát phát huy tính công khai minh bạch của
chi tiêu công.. Cần soát xét lại các chương trình, dự án đầu tư, hoạt động chi
tiêu cả trung ương và địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, kiểm tra
tiến độ thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các
dự án, các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hoàn thành dứt
điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng. Chủ động
điều chỉnh kế hoạch triển khai các dự án đầu tư, tập trung ngân sách vào những

công trình cấp thiết, những chương trình không cấp thiết nên chuyển vào những
năm sau. Công khai minh bạch, thông qua sự giám sát chi tiêu công của các tổ
chức phi Chính phủ, các đoàn thể chính trị xã hội và tổ chức quần chúng.
• Năm là, phải quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị
trường. Tích cực thu hút ngoại tệ trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết kiệm
ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn; thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền Việt với
một số ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạnh chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam như USD, EURO, Yên, Nhân dân tệ... đảm bảo tác động khách quan
vào xuất nhập khẩu, không gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Khuyến khích chi
tiêu không dùng tiền mặt, đặc biệt là khách nước ngoài, cần tạo cơ chế để nhóm
khách này có thể giam gia, nhất là đối với thị trường chứng khoán, thị trường bất
động sản.
• Sáu là, Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc
cho dân, thu hồi tiền mặt. Hoạt động này có tác dụng rất tích cực làm giảm
nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông và tác động trực tiếp tới giảm lạm phát.
Trong trường hợp cấp bách hiện nay, không nên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu
qua trung gian. Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán trực
tiếp cho dân. Bán trực tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất
đối với người mua sẽ cao hơn, thu hút được nhiều người tham gia. Có thể tổ
chức thành những chiến dịch phân phối tín phiếu, trái phiếu trong thời gian cụ


thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với sự tuyên truyền cổ động mạnh mẽ để động
viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội tham gia.
• Bảy là, đẩy mạnh phong trào sản xuất cung cấp sản phẩm dịch vụ cho xã hội,
hạn chế những tệ nạn xã hội, giải quyết các vấn đề thuộc an sinh xã hội cho
người nghèo, đối tượng chính sách trong xã hội. Lạm phát năm 2007 vượt mức
hơn 12%/năm, chỉ số giá tiêu dùng chỉ trong 2 tháng đầu năm đã phi mã tới hơn
6% so với cuối năm ngoái. Cho đến tháng 11 năm 2008, lạm phát lại diễn biến
phức tạp sang chiều hướng có những đấu hiệu giảm phát, vì vậy kiểm soát lạm

phát là một nhiệm vụ mục tiêu hàng đầu của Chính phủ và toàn dân tộc Việt
Nam.
- Chính sách tài chính - tiền tệ năng động và linh hoạt
- Tiếp tục hi sinh tăng trưởng kinh tế để ưu tiên kiềm chế lạm phát
- Hạn chế tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, xã hội
- Quản lý chặt chẽ chi tiêu công
- Quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị trường
- Chính phủ nên bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc cho dân, thu hồi
tiền mặt.
- Thực hành tiết kiệm.



×