Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thực trạng tăng trưởng kinh tế của việt nam trong gia đoạn 2001 – 2010 2001 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.91 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Tháng 2 năm 2010, WB đã công bố Việt Nam thoát khỏi danh sách các
nước thu nhập thấp, đây là một kết quả rất đáng trân trọng, thể hiện nỗ lực của
Việt Nam trong vòng nhiều năm theo đuổi chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh.
Tuy nhiên Việt Nam vẫn nằm trong nhóm thu nhập thấp Châu Á. Điều này đặt ra
một vấn đề: để tiếp tục có những cải thiện đáng kể mức thu nhập dân cư, tăng
trưởng nhanh vẫn là điều cần phải làm đối với Việt Nam trong thời gian tới. Tuy
nhiên, để không rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, thì bài toán tăng trưởng nhanh
phải được giải như thế nào? Những câu hỏi này đòi hỏi chúng ta cần phải nhìn lại
và xem tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt được dựa trên kết quả nào, mô hình
gì và trong tương lai, nó phải được cải thiện như thế nào. Bài Tiểu luận đề cập
những vấn đề xung quanh chủ đề này.

II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong gia đoạn 2001 –
2010
1. Các kết quả đạt được:
1.1. Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao và ổn định trong nhiều năm
Giai đoạn 2000 – 2009, nếu không kể 2 năm cuối do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, nhìn chung, chúng ta đã duy trì được tốc độ tăng trưởng
nhanh. Nếu tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2000 – 2005 là 7,5% năm 2006
đạt 8,17% thì năm 2007, con số này đã đạt 8,48% cao hơn năm 2005. Nếu nhìn xa
hơn, có thể nói, hai thập kỷ qua, chúng ta có bước tiến khá dài, là năm thứ 27 có
tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục, trong vòng 22 năm đổi mới, tốc độ tăng bình
quân 6,8%. Tốc độ tăng trưởng nói trên thuộc nhóm đầu châu lục và cả trên thế
giới. Đây là một yếu tố cơ bản để đảm bảo Việt Nam vượt được ngưỡng nước
đang phát triển có thu nhập thấp.
1.2. Cấu trúc tăng trưởng có dấu hiệu đúng xu thế hơn.
1


Có thể thấy, tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp gần như ổn định trong


suốt 7 năm liền, năm 2009, có dấu hiệu khôi phục sau khi bị suy giảm khá nhiều ở
năm 2007 do ảnh hưởng suy thoái kinh tế. Tuy hai năm 2007 và 2009, tốc độ tăng
trưởng bị sụt giảm, nhưng nhìn chung, tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ có xu
hướng gia tăng nhanh hơn cả. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp có xu hướng giảm
khá nhiều theo thời gian. Do có sự thay đổi tích cực trong tốc độ tăng trưởng kinh
tế theo ngành, nên cơ cấu ngành kinh tế nước ta có dấu hiệu chuyển dịch theo xu
thế tích cực, trong đó: tỷ trọng khu vực công nghiệp tăng lên, tỷ trọng khu vực
nông nghiệp giảm xuống, ngành dịch vụ bắt đầu có dấu hiệu gia tăng tỷ trọng cả
theo GDP và lao động.
1.3. Hiệu quả đầu tư mặc dù thấp nhưng đang có xu hướng tăng lên
Bảng NSLĐ của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2008

GDP (tỷ

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007


2008

2009

31,21

32,49

35,09

39,8

45,36

53,11

61,02

71,26

89,1

95,4

37,61

38,57

39,51


40,57

41,57 42,527 43,347

44,2

44,92

45,68

829,83 842,5

888,0

980,1

1091

1249

1047,8 1611,1 1983,5 2088,4

5,4

5,5

11,2

14,48


12,71

USD)
Lao động
(triệu)
NSLĐ
(USD/LĐ)
Tốc độ

-

1,52

14,44

23,1

5,3

tăng NSLĐ
(%)
(Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê)

Nếu không kể hai năm ảnh hưởng bơi suy thoái kinh tế, thì suất đầu tư tăng
trưởng (hệ số ICOR), phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đã từng bước được
cải thiện. Nếu trung bình thời kỳ 2001 – 2005 ICOR là 5,16 thì năm 2006 giảm
xuống còn 5, và năm 2007 giảm xuống còn là 4,76 thấp nhất từ năm 2000 trở lại
2



đây. Nếu sử dụng chỉ tiêu tích luỹ tài sản hoặc tích luỹ tài sản cố định (?K) thay
cho chỉ tiêu tổng vốn đầu tư phát triển (I) thì hệ số ICOR của Việt Nam còn thấp
hơn (năm 2005 là 4,56; năm 2006 đạt 4,37 còn năm 2007 là 4,18. (Nguồn: Báo
cáo phát triển Châu Á năm 2008).
1.4. Năng suất lao động có xu hướng tăng cao hơn
Nếu không tính năm 2009 do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, kể
từ năm 2000 đến nay, tốc độ tăng năng suất của Việt Nam có xu hướng đạt trên
10%/năm. Năm 2009 tốc độ tăng trưởng năng suất lao động có chậm lại so với
năm 2008 nhưng vẫn cao hơn so với mức tăng năng suất lao động bình quân thời
kỳ đầu những năm 2000. Kết quả này đã làm tăng phần đóng góp của yếu tố tăng
trưởng theo chiều sâu vào tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
2. Các hạn chế và nguyên nhân
2.1. Các hạn chế
Mặc dù có những thành công đáng kể trong việc thực hiện mục tiêu tăng
trưởng và phát triển kinh tế, nhưng đối chiếu với mục tiêu, một số vấn đề sau đây
về hạn chế cần được xem xét đầy đủ hơn.
2.1.1. Tăng trưởng theo chiều rộng là chủ yếu
Biểu đồ 4 phản ánh: tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn và lao động gấp trên
3 lần so với tỷ trọng đóng góp của yếu tố TFP. Tỷ lệ đóng góp khoảng 20% vào
tăng trưởng của nhân tố TFP hiện thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu
vực, ví dụ như: Hàn Quốc là 32,2%; Đài Loan 35%; Inđônêsia 28%; Thái Lan
36%. Các nước phát triển tỷ lệ đóng góp của TFP vào kết quả tăng trưởng thường
chiếm cao hơn nhiều, từ 60 – 75%. Có thể khẳng định rằng, vai trò hạn chế của
yếu tố TFP đối với tăng trưởng là một rào cản lớn cho việc nâng cao hiệu quả tăng
trưởng kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu năng suất lao động, hiệu
quả đầu tư, và nhất là đến khả năng duy trì bức tranh tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn cũng như khả năng khai thác triệt để các tiềm năng của đất nước.
2.1.2. Tăng trưởng nhờ chú ý đến đầu tư, không chú ý đến hiệu quả đầu tư.
3



Việt Nam đã đạt được con số tích luỹ trong GDP cao vào loại nhất trên thế
giới (khoảng 40% GDP trong nhiều năm liền), bản thân vốn đầu tư lại được sử
dụng thiếu cân đối, đầu tư quá mức vào hình thành vốn vật chất, chậm và thiếu
đầu tư vào vốn con người và tiến bộ công nghệ, đầu tư Nhà nước có xu hướng
tăng trong khi hiệu quả lại thấp do được bảo lãnh bằng các chính sách của Chính
phủ. Tất cả đã làm cho một mặt, nền kinh tế ngày càng “nóng lên” và đứng trên
khía cạnh vĩ mô, nguy cơ bùng nổ lạm phát đang là mối đe doạ gần kề: mặt khác,
hiệu quả đầu tư rất thấp, hiện nay chúng ta đã phải mất tới 4,5 – 5 đơn vị vốn để
tạo ra 1 đơn vị tăng trưởng, trong khi đó Han Quốc hay Đài Loan trong thời kỳ
tăng trưởng nhan (8%/năm) nhưng đầu tư chỉ đạt 22% GDP.
2.1.3. Tăng trưởng dựa vào khai thác quá mức nguồn vốn tài nguyên hoặc
gia công chế biến, mang tính chất chạy đua ngắn hạn với hiệu quả năng lực cạnh
trang tăng trưởng có biểu hiện giảm sút
Quy mô và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế chủ yếu dựa vào khai
thác tài nguyên và sử dụng lao động giá rẻ, tác làm gia công, lắp ráp. Tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam hiện nay dựa vào tới hơn 70% từ tài nguyên, gồm có: dầu
thô, than đá, các khoáng sản, gỗ, gạo, thuỷ sản, cao su, cà phê. Một phần khác là
dựa vào các sản phẩm mang tính chất gia công sử dụng nguồn lao động vốn có giá
trị rất rẻ mạt, năng suất lao động xã hội còn rất thấp, trình độ khoa học, công nghệ
yếu kém, chi phí sản xuất trung gian còn cao và có chiều hướng gia tăng trong
những năm cuối. Điều đó thể hiện qua tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất (GO)
nhanh hơn khá nhiều so với tốc độ tăng trưởng giá trị giá tăng (GDP).
Có thể hình dung chúng ta đang thực hiện một mô hình tăng trưởng như
Nigeria, Brazin, Argentina trong những năm 1970, thoạt đầu là thần kỳ tăng
trưởng trong hàng chục năm liền với mô hình thay thế nhập khẩu, dựa vào khai
thác tài nguyên, được dẫn dắt bởi các chính sách hướng nội và sự can thiệp trực
tiếp mang tính chi phối của Nhà nước. Năng lực cạnh tranh yếu, sự tụt hậu của
Việt Nam trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng toàn cầu là báo
4



hiệu của sự tụt hậu xa hơn và khả năng duy trì tăng trưởng trong dài hạn của đất
nước.
2.2. Những nguyên nhân chủ yếu
2.2.1. Quan điểm chạy đua theo mục tiêu tăng trưởng nhanh và căn bệnh
thành tích trong kinh tế
Trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế, yêu cầu tăng trưởng
nhanh đối với nền kinh tế nước ta là mang tính sống còn, chúng ta không thể thoát
khỏi tình trạng tụt hậu xa hơn mà hiện nay đang thực sự lâm vào nếu không đẩy
tốc độ tăng trưởng nhanh lên. Với tiềm lực tài chính có hạn, năng lực bộ máy chưa
đủ cao, ngay tức thời chính phủ khó có thể đồng thời giải quyết tốt như mong
muốn cả hai việc, vừa tập trung để tạo ra và củng cố các cơ sở nền tảng của tăng
trưởng, lại vừa đáp ứng đòi hỏi tăng trưởng cao. Trong trường hợp này, chúng ta
thay vì phải chọn phương án hướng tới mục tiêu tăng trưởng trong dài hạn và hiệu
quả ngày càng cao tức là củng cố các cơ sở nền tảng của tăng trưởng thì lại đi vào
lựa chọn phương án cho tăng trưởng ngắn hạn. Nhiều nhà kinh tế đã quan niệm
rằng chỉ cần đầu tư, nhất là đầu tư vào vốn vật chất ở mức cao sẽ đạt tăng trưởng
như mong đợi. Theo phương án này, Chính phủ đã phải căng mình lên với những
thách thức ngắn hạn và luôn phải chạy theo nó để đối phó, nhất là tìm kiếm nguồn
lực tài chính, sử dụng các chính sách mang tính chất chữa cháy nhằm khuyến
khích đầu tư như: trợ cấp vốn, ưu đãi lãi suất, bảo lãnh cho vay, bảo hộ sản xuất
trong nước, miễn giảm thuế tràn lan, hỗ trợ doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay, xu
hướng tăng đầu tư để đạt thành tích tăng trưởng cao đã trở thành một căn bệnh
nghiêm trọng trong toàn nền kinh tế. Trong các bộ, ngành và các địa phương,
trong các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, đầu tư phát triển đang trở thành một
cuộc đua tranh quyết liệt. Trong nhiều trường hợp, ẩn sau cuộc chạy đua đó, hình
thành một động cơ mạnh mẽ nhất của nó là căn bệnh thành tích mà lợi ích cục bộ
giành được từ chiếc bánh đầu tư Nhà nước. Chính vì thế, trong những năm qua,
cho dù Chính phủ và khu vực doanh nghiệp Nhà nước đã đốc sức tối đa cho tăng

5


trưởng, song tốc độ tăng trưởng mà nền kinh tế đạt được mặc dù đã cao nhưng còn
dưới mức tiềm năng và chất lượng tăng trưởng, song tốc độ tăng trưởng mà nền
kinh tế đạt được mặc dù đã cao nhưng còn dưới mức tiềm năng và chất lượng tăng
trưởng chậm được cải thiện và sự lãng phí nguồn lực trở thành khá phổ biến.
2.2.2. Những hạn chế về nguồn lực tăng trưởng theo chiều sâu
Thứ nhất, vốn tài chính hiện đang thiếu xét trên cả 3 nguồn đầu tư. Nguồn
vốn Nhà nước dựa vào các khoản thu từ ngân sách chưa được cải thiện do ngân
sách Nhà nước của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng bội chi, các doanh nghiệp
Nhà nước làm ăn chưa thực sự có hiệu quả nên phần dành cho tái đầu tư chưa
nhiều. Nguồn vốn của dân cư và doanh nghiệp Nhà nước còn chiếm tỷ tọng thấp,
chủ trương xã hội hoá triển khai thực hiện còn rất chậm, vốn nằm trong dân chủ
yếu vẫn không dùng để đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài mặc dù có dấu hiệu khởi sắc nhưng vẫn chưa đạt được mức
năm 1996, 1997 và tỷ trọng ngày càng giảm dần trong tổng vốn đầu tư. Năm 1997,
FDI chiếm 28% tổng đầu tư xã hội trong khi năm 2005 chỉ còn 14,5%; năm 2006
đạt 16,2% và năm 2006, 2007, 2008, 2009 cũng không đạt tới con số của năm
1997.
Thứ hai, vốn con người còn nhiều yếu tố bất cập: hàng năm số người bước
vào tuổi lao động đòi hỏi giải quyết việc làm vẫn tăng khoảng 1 triệu người, trong
khi đó tỷ lệ thất nghiệp nếu quy đổi cả thất nghiệp trá hình vẫn ở mức 2 con số,
đây là một áp lực lớn cho nền kinh tế trong việc thực thi chiến lược phát triển và
áp dụng công nghệ hiện đại; mặt khác lao động thuộc ngành nông – lâm – ngư
nghiệp hiện vẫn chiếm tỷ trọng lớn (năm 2006 là 56,8% và năm 2007 là 55,0%;
năm 2008, 2009 vẫn còn trên 51%), cao hơn nhiều so với các nước: Singapore
0,3%; Philipines: 37,4%; Malaisia 18,4%; Inđônêsia 43% và Thái Lan 48%. Đây
là rào cản lớn để thay đổi, chuyển giao công nghệ tiên tiến, để chuyển dịhc cơ cấu
ngành kinh tế theo hướng hiện đại và có hiệu quả. Một rào cản đáng nói nhất về

vốn con người là sự bất hợp lý trong cơ cấu lao động nếu xét theo góc độ chất
6


lượng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo hiện còn rất thấp, mới chỉ đạt 28%, thậm chí
không đạt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra (năm 2005 là 30% và năm 2010 là 40), lực
lượng cán bộ khoa học đầu đàn, đội ngũ doanh nhân giỏi còn rất thiếu là một khó
khăn để phát triển các ngành đủ sức cạnh tranh trong hội nhập. Ngay cả đối với
lao động đã qua đào tạo thì cơ cấu cũng chưa hợp lý, nếu xét cơ cấu hợp lý theo
cấp đào tạo: cử nhân, trung cấp, công nhân, chuẩn mực của thế giới 1/4/10 trong
khi đó ở nước ta hiện nay là 1/0,98/3,02, chúng ta đang thiếu hẳn một đội ngũ thợ
lành nghề để thực hiện vận hành một nền kinh tế hiện đại.
Thứ ba, trình độ khoa học công nghệ hết sức thô sơ và lạc hậu: Trình độ
khoa học – công nghệ mặc dù đã được nâng cao lên nhờ sự gia tăng của khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trong nước.
Một số ngành đã tiếp thu được với trình độ công nghệ tiên tiến trên thế giới như
các ngành bưu chính viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí. Tuy nhiên, trình độ
công nghệ của nền kinh tế nói chung, kể cả của ngành công nghiệp nói riêng cũng
còn rất thấp, ví dụ, trong ngành cơ khí, thiết bị lạc hậu tới 4 thập kỷ so với mặt
bằng thế giới, công nghệ trong ngành sử dụng để sản xuất công cụ, hàng tiêu
dùng, máy động học … hầu hết đều ra đời từ trước thập kỷ 80 của thế kỷ trước và
có tới 30% có tuổi thọ hơn nửa thế kỷ. Tỷ trọng daonh nghiệp có công nghệ cao
của Việt Nam mới đạt 20,6% thấp xa so với con số tương ứng 29,1% của
Philippine, 29,7% của Inđônêsia, 30,8% của Thái Lan, 51,1% của Malaysia, 73%
của Singapore.
2.2.3.Chính sách đầu tư và những hạn chế trong quản lý, sử dụng vốn đầu
tư.
Sự bất hợp lý trong chính sách đầu tư đã gây ra những méo mó trong phân
bổ và sử dụng nguồn vốn này. Trong thời gian qua, chúng ta đã quá tập trung vào
đầu tư vốn vật chất, trong khi đó đầu tư cho vốn nhân lực, công nghệ và những

yếu tố nền tảng cho tăng trưởng dài hạn còn chưa thực sự được coi trọng. Vốn đầu
tư cho phát triển khoa học công nghệ, điều tra cơ bản, môi trường hiện nay (thời
7


kỳ 2001 – 2005) ở nước ta mới chỉ chiếm 0,9% cho giáo dục đào tạo 3,8%; cho
giao thông vận tải và bưu điện là 13,9% so với tổng vốn đầu tư xã hội (không
hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho thời kỳ này); tỷ lệ vốn đầu tư vào các lĩnh
vực này tương ứng năm 2007 là: 1,5%; 4,5%; 12%. Năm 2009 tương ứng là
0,63%; 2,7% và 14,7% trong khi đó vốn đầu tư cho gia tăng tài sản sản xuất chiếm
tới

73,5%

thời

kỳ

2001



2005



70%

năm


2009.

(Nguồn: tính toán từ niên giám thống kê 2005 – TCTK và sổ tay KH 2007, 2009).

Nếu chỉ tập trung đầu tư vốn vào tải sản, mà ít cải thiện công nghệ và vốn
con người thì nguồn tài sản đó cũng không phát huy hết tác dụng và không tăng
đóng góp vào tăng trưởng, năng suất lao động bị thấp đi đầu tư kiểu như hiện nay
chỉ có tác dụng tăng trưởng tức thì, nhưng do không phát huy tác dụng nên tài sản
hình thành không đóng góp vào tăng trưởng dài hạn. Bài học rút ra từ khủng
hoảng tài chính ASEAN, dẫn đến sự gián đoạn trong tăng trưởng kinh tế cũng là
xuất phát từ nguyên nhân sâu xa là sự mất cân đối trong đầu tư vào nguồn vốn vật
chất so với đầu tư vốn con người và công nghệ. Một bất cập khác trong chính sách
là việc sử dụng quá nhiều nguồn vốn đầu tư từ Nhà nước. Đầu tư từ nguồn vốn
này trong thời gian qua không những chiếm tỷ trọng cao mà còn có phần tăng lên
tương đối so với các thành phần khác, hiện nay chiếm trên 50% tổng vốn đầu tư
xã hội, trong số này phần vốn từ ngân sách khoảng gần 50%. Tỷ trọng lớn của đầu
tư Nhà nước cho thấy sự phụ thuộc của tăng trưởng vào nguồn vốn này, và điều đó
có thể dẫn đến đẩy ngân sách Nhà nước vào tình trạng căng thẳng. Đầu tư Nhà
nước trong thời gian qua vẫn chưa đóng được vai trò tạo điều kiện để thu hút các
nguồn vốn đầu tư khác, mà ngược lại, còn lấn áp các nguồn này, ảnh hưởng tới
tính hiệu quả và khả năng mở rộng tăng trưởng trong tương lai.
III. Định hướng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn tới
Thời kỳ từ sau 2010 trở đi, Việt Nam bước vào thời kỳ chiến lược mới, triển
vọng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta được dự báo bằng những con số thực sự
lạc quan và có căn cứ, đáng tin cậy, nhưng đó chỉ là một vế của bài toán phát triển.
8


Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh không phải luôn đồng nghĩa với một nền kinh
tế mạnh, nhất là khi chúng ta đang sống trong một thế giới hội nhập và cạnh tranh

khốc liệt. Việc tìm ra quan điểm đúng đắn trong việc lựa chọn mô hình và chính
sách tăng trưởng phù hợp cho giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế là điều quyết
định cho phép xác định rõ triển vọng của nền kinh tế, tạo sức hấp dẫn và khả năng
duy trì sự phát triển dài hạn.
1. Duy trì tốc độ tăng trưởng cao vẫn được xem là mục tiêu hàng đầu của
Việt Nam sau 2010
Tăng trưởng cao, tăng liên tục trong suốt thời gian dài nhưng do xuất phát
điểm quá thấp nên thu nhập bình quân đầu người vẫn chỉ tiến từng bước chậm
(hiện đứng thứ 7 khu vực, thứ 35 Châu Á và 137 trên thế giới). Hơn nữa, dù đã có
kết quả khả quan nhưng theo các chuyên gia tính toán, nếu duy trì được tốc độ
tăng trưởng như vừa qua, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam để bằng
mức hiện tại của các nước sau đây thì số năm phải phấn đấu là: Inđônêsia (5 năm);
Philipines (8 năm); Thái Lan (20 năm); Malaysia (24 năm); Singapore (40 năm).
Đó là phép tính đặt trong trường hợp các nước đó “đứng yên”, còn theo quy luật
phát triển, khi kinh tế họ cũng tiếp tục tăng trưởng là cực khó để tính bao nhiêu
năm nữa sẽ đuổi kịp. Do đó, dù tăng trưởng cao và mục tiêu thoát nhóm những
nước nghèo nhất thế giới sắp vượt qua nhưng nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
vẫn là nguy cơ lớn. Không gì khác, buộc chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
2. Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng, từ đó có sự thay đổi trong
cách tiếp cận hệ chính sách và giải pháp giải quyết vấn đề
Trước hết và đóng vai trò quyết định là có một tư duy đúng về mô hình tăng
tưởng kinh tế cần hướng tới. Cốt lõi của tư duy này là: giải quyết vấn đề tốc độ
tăng trưởng phải trên nền tảng giải quyết vấn đề chất lượng tăng trưởng.
Theo đó, trong dài hạn, cần chấm dứt quan điểm phải đạt được tốc độ tăng
trưởng nhanh với mọi giá theo mô hình tăng trưởng nhờ khai thác chiều rộng, tăng
9


trưởng nhờ dốc sức vào tăng khối lượng vốn đầu tư và vào khai thác tài nguyên;

chuyển dần sang mô hình tăng trưởng dựa vào hiệu quả của bền vững, tập trung
nhiều hơn, quyết liệt hơn vào mục tiêu chấtlượng dài hạn. Cụ thể là, cần chú trọng
nâng cao hiệu quả đầu tư, hướng vào các điểm cực tăng trưởng dài hạn của nền
kinh tế t rên cơ sở nguyên lý phân phối nguồn lực đóng vai trò quyết định, tuân
theo quy luật tự do cạnh tranh lành mạnh. Từ những tư duy về mô hình tăng
trưởng kinh tế hợp lý, thực hiện đẩy mạnh cải cách thể chế, chú trọng tạo lập
những cơ sở nâng cao năng lực cạnh tranh củng cố các cơ sở tăng trưởng dài hạn.
tuy nhiễn cũng cần phải xác định rõ lộ trình cho việc thực hiện chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, trước mắt, một sự kết hợp theo kiểu “lưỡng nan” trong điều kiện
chúng ta đồng thời phải thực hiện của 2 nhiệm vụ tăng trưởng nhanh và tăng
trưởng hướng về chất lượng trở nên hợp lý hơn và trong quá trình đó hướng dần
sự phát triển theo đúng quy luật của nó.
3. Nâng cao hiệu quả tăng trưởng trên cơ sở tái cấu trúc tăng trưởng
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển có nhiều lợi thế về tài nguyên và
nguồn lao động, tuy vậy, những dấu hiệu của lợi thế ấy cũng đang có biểu hiện
giảm sút dần; mặt khác khi đã gia nhập tổ chức thương mại quốc tế, sức ép của
cạnh tranh quốc tế buộc chúng ta phải quan tâm đến hiệu quả của tăng trưởng,
hiệu quả của các hoạt động kinh tế, nếu không sẽ luôn luôn gặp bất lợi, chịu thua
thiệt trong các mối quan hệ thương mai, và cuối cùng sẽ bị thất bại trên các đấu
trường quốc tế, nếu không sẽ luôn luôn gặp bất lợi, chịu thua thiệt trong các mối
quan hệ thương mại, và cuối cùng sẽ bị thất bại trên các đấu trường quốc tếm thậm
chí trên cả chính sân nhà. Cần phải nâng cao hiệu quả tăng trưởng, chuyển hướng
hoạt động của nền kinh tế theo các khía cạnh chiều sâu của sự phát triển, cụ thể là:
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học công nghệ, tăng cường ảnh
hưởng của nhân tố TFP, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động,
hướng hoạt động của nền kinh tế theo các ngành, các lĩnh vực tạo nhiều giá trị gia
tăng, giảm chi phí trung gian, chủ động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng
10



hoá có dung lượng công nghệ cao trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế của đất nước
và thực hiện đồng bộ hoá quá trình khai thác và chế biến sản phẩm, Như thế chúng
ta sẽ chuyển dần từ việc tăng trưởng chiều rộng dựa vào khai thác tài nguyên, lao
động giá rẻ sang xây dựng các doanh nghiệp có thương hiệu, có năng lực cạnh
tranh quốc tế, thế giới, phát triển khoa học công nghệ, dựa voà đội ngũ lao động
có trình độ, trí thức.
4. Phải có tầm nhìn dài hạn trong mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Trên thực tế, để tranh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, các nước đang phát
triển bị cuốn hút vào vòng xoáy của cơn lốc tăng trưởng nhanh với hy vọng cải
thiện mức sống dân cư, làm cho bộ mặt nền kinh tế nhanh khởi sắc. Chúng ta
thường quan tâm đến việt đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm
trước để rồi gồng mình lên, bằng mọi giá thực hiện cho được mục tiêu này, Nhiều
nước, đã tạo được sự thần kỳ tăng trưởng trong hàng chục năm liền nhưng sau đó
rơi vào thảm hoạ trì trệ, suy thoái kéo dài, điều đó có nghĩa là trong ngắn hạn và
kể cả trung hạn tốc độ tăng trưởng có thể đạt được rất cao nhưng vẫn có thể thua
trong cuộc đua tranh phát triển dài hạn. Cần phải có cái nhìn dài hạn trong tăng
trưởng, quan điểm này đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách tăng trưởng
hướng đến các chính sách để tạo ra, duy trì và củng cố các cơ sở tăng trưởng dài
hạn như yếu tố vốn nhân lực, cơ sở hạ tầng kinh tế – kỹ thuật, một cấu trúc kinh tế
hợp lý, cân đối, không dựa trên cơ sở vay mượn. Theo thông điệp này, có thể phải
chấp nhận tạm thời trong một số năm trước mắt nền kinh tế không đạt được tốc độ
tăng trưởng cao như kỳ vọng vì phải dốc sức vào việc tạo lập và củng cố cơ sở
tăng trưởng dài hạn, nhưng suốt cả giai đoạn dài sau đó nó nhất định đạt được mục
tiêu tăng trưởng cao và bền vững.
5. Gần tăng trưởng với việc tạo tác động lan toả tích cực đến các đối
tượng ảnh hưởng
Quan điểm này muốn hướng tăng trưởng kinh tế tới các mục tiêu phát triển
bền vững. Theo đó, vấn đề quan trọng không phải là bám đuổi mục tiêu tăng
11



trưởng nhanh mà là duy trì một mục tiêu tăng trưởng hợp lý trong mối quan hệ
ràng buộc với những điều kiện về tài nguyên môi trường và các vấn đề xã hội.
Một mặt, đối với vấn đề tài nguyên môi trường, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi
với: bảo đảm sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng tái sinh
tài nguyên; phòng chống ô nhiễm môi trường, có phương án xử lý ô nhiễm, kỹ
thuật phòng chống và giải quyết hệ quả của ô nhiễm, có chính sách kinh tế phù
hợp áp dụng cho các cơ sở kinh tế gây ô nhiễm, thực hiện sự tham gia cộng đồng
trong vấn đề này; thực hiện quá trình đa dạng hoá sinh học hình thành những vùng
vệ tinh tạo yếu tố môi trường thuận lưọi cho những khu vực có ô nhiễm. Mặt khác,
đối với vấn đề xã hội, quá trình tăng trưởng kinh tế phải được kiểm soát thường
xuyên, chặt chẽ bởi các chỉ tiêu phát triển xã hội, trong đó trọng tâm là vấn đề xoá
đói giảm nghèo, công bằng xã hội, giải quyết việc làm, chỉ tiêu liên quan đến sự
phát triển toàn diện cho con người như: giáo dục, y tế, thể dục thể thao, văn hoá
nghệ thuật, cả chỉ số giới và dân tộc … Chính việc bảo đảm các chỉ tiêu xã hội và
môi trường sẽ là yếu tố tích cực củng cố, duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn.
6. Nâng cao năng lực cạnh tranh là yếu tố then chốt tạo nên chất lượng
tăng trưởng kinh tế cao
Trong nền kinh tế thế giới mở cửa, cạnh tranh và hội nhập ngày càng sâu
rộng, thì mục tiêu sống còn, thậm chí theo một nghĩa nào đó, còn quan trọng hơn
cả mục tiêu tăng trưởng 5% hay 10%, liên quan đến năng lực cạnh tranh và vị thế
trong hệ thống cạnh tranh. Nếu không đạt được mục tiêu này, nền kinh tế không
thể tồn tại với tư cách là một thực thể cạnh tranh, không có cơ may vươn lên, thoát
khỏi tình trạng tụt hậu phát triển, cho dù có thể đạt được tốc độ tăng trưởng rất
cao. Theo quan điểm này, điều quan trọng là không nên hướng tăng trưởng dựa
vào khu vực kinh tế Nhà nước và đầu tư Nhà nước, xoá bỏ thế độc quyền kinh
doanh và cơ chế hỗ trợ kinh doanh độc quyền như hệ thống giá, rào cản hành
chính, phát triển hệ thống kinh tế đa sở hữu. Để nâng cao năng lực cạnh trăng tăng
12



trưởng, Chính phủ cần có chính sách tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và
năng động, bảo đảm sự phát triển đồng bộ của các thị trường, phân công và phối
hợp chức năng tối ưu giữa các chủ thể thị trường mà quan trọng nhất là các thành
phần và khu vực kinh tế, một hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động theo
nguyên tắc không thiên vị xuất xứ thành phần của doanh nghiệp. Tất cả là nội
dung của quan điểm kết hợp tăng trưởng kinh tế với nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế.

13


IV. KẾT LUẬN:
Nằm trong chiến lược phát triển toàn diện, mục tiêu tăng trưởng nhanh
được nhấn mạnh và coi là trung tâm của sự ưu tiên. Việc nhấn mạnh mục
tiêu tăng trưởng nhanh trong giai đoạn hiện nay của Chính phủ Việt Nam là
điều hoàn toàn phù hợp với nhu cầu và khả năng thực hiện. Về nhu cầu, đó là
xuất phát từ mục tiêu cải thiện vị trí trong bảng xếp loại về thu nhập bình
quân đầu người, nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi danh sách các nước thu nhập
thấp trên thế giới, và chiến lược dài hạn là rượt đuổi các nước phát triển. Về
mặt khả năng, nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế của chúng ta còn khá lớn,
Việt Nam vẫn còn khá nhiều tiềm lực về tự nhiên, tài nguyên khoáng sản,
nguồn lao động để tạo ra nhiều lợi thế so sánh trong quá trình thực hiện mục
tiêu tăng trưởng nhanh. Trước kia chúng ta không có khả năng tăng trưởng
nhanh do còn thiếu khá nhiều các yếu tố, xem như là những rào cản cho thực
hiện mục tiêu này: sự thiếu hụt nguồn vốn cả về mặt tài chính lẫn nguồn vốn
vật chất; sự hạn chế về lực lượng lao động có tay nghề cao và công nghệ
hiện đại. Hiện nay những rào cản đó đã được tháo gỡ khi chúng ta đã gia
nhập các tổ chức thương mại quốc tế và khu vực. Sự hội nhập ngày càng đầy

đủ này đã giúp chúng ta thực hiện lợi thế các nước đi sau để thực hiện mục
tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh.

14


MỤC LỤC
I.MỞ ĐẦU
II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong gia đoạn 2001 –
2010
1. Các kết quả đạt được:
1.1. Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao và ổn định trong nhiều năm
1.2. Cấu trúc tăng trưởng có dấu hiệu đúng xu thế hơn.
1.3.Hiệu quả đầu tư có xu hướng tăng lên
1.4. Năng suất lao động có xu hướng tăng cao hơn
2. Các hạn chế và nguyên nhân
2.1. Các hạn chế
2.1.1. Tăng trưởng theo chiều rộng là chủ yếu
2.1.2.Tăng trưởng nhờ chú ý đến đầu tư, không chú ý đến hiệu quả đầu tư.
2.1.3. Tăng trưởng dựa vào khai thác quá mức nguồn vốn tài nguyên hoặc
gia công chế biến, mang tính chất chạy đua ngắn hạn với hiệu quả năng lực cạnh
trang tăng trưởng có biểu hiện giảm sút
2.2. Những nguyên nhân chủ yếu
2.2.1. Quan điểm chạy đua theo mục tiêu tăng trưởng nhanh và căn bệnh
thành tích trong kinh tế
2.2.2.Những hạn chế về nguồn lực tăng trưởng theo chiều sâu.
2.2.3. Chính sách đầu tư và những hạn chế trong quản lý, sử dụng vốn đầu

III. Định hướng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn tới
1. Duy trì tốc độ tăng trưởng cao vẫn được xem là mục tiêu hàng đầu của

Việt Nam sau 2010
15


2. Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng, từ đó có sự thay đổi trong
cách tiếp cận hệ chính sách và giải pháp giải quyết vấn đề
3. Nâng cao hiệu quả tăng trưởng trên cơ sở tái cấu trúc tăng trưởng
4. Phải có tầm nhìn dài hạn trong mục tiêu tăng trưởng kinh tế
5. Gần tăng trưởng với việc tạo tác động lan toả tích cực đến các đối
tượng ảnh hưởng
6. Nâng cao năng lực cạnh tranh là yếu tố then chốt tạo nên chất lượng
tăng trưởng kinh tế cao

IV. KẾT LUẬN:

16



×