Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận (các trường phái triết học cổ đại nội dung và ý nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.87 KB, 36 trang )

A. LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền triết học Hy Lạp cổ đại là thời kỳ đầu nền của triết học phương tây. Một
giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng của triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn
bộ hệ thống triết học phương tây sau này.Triết học Hy lạp đã tồn tại cách chúng ta
hơn hai nghìn năm . Từ đó đến nay, sự phát triển của xã hội cũng như nhận thức
của con người đã trãi qua những bước nhãy vọt dài và đạt được những thành tựu
khổng lồ, vượt rất xa thời kỳ mà chúng ta nghiên cứu. Nhưng triết học cổ Hy lạp
không chỉ giúp chúng ta nắm được những điều kiện xã hội và văn hoá các quốc gia
cổ đại này – một trong những cái nôi của văn minh nhân loại – mà còn hiểu được
cội nguồn của tư tưởng và văn hóa phưong Tây tiếp theo đó . Mặc dù dưới dạng sơ
khai, nhưng các trường phái triết học Hy lạp đại đã chứa đựng những mầm mống
của mọi dạng thế giới quan sau nầy . Nhiều vấn đề do các nhà triết học thời kỳ này
đặt ra cho đến nay vẫn còn nhiều ý nghĩa. Nghiên cứu trường phái triết học Hy lạ
cổ đại cho chúng ta hiểu được cội nguồn lịch sử và bản chất của nhiều vấn đề
hiện đại.
Cho đến nay hiện nay nhiều nước trên thế giới vẫn xuất hiện các công trình
nghiên cứu những di sản quý báu của triết học cổ Hy Lạp . Những di sản ấy có ảnh
hưởng to lớn đối với tiến trình phát triển tư tưởng và văn hoá phương Tây nói
riêng và nhân loại nói chung .
Chính vì vậy em đi nghiên cứu đề tài “ Các trường phái triết học Hy Lạp cổ
đại- nội dung và ý nghĩa” nhằm nghiên cứu khái quát nhất về các trường phái triết
học thời kỳ này và đưa ra một số hạn chế, thành tựu và ý nghĩa của nó.Do quá trình
làm bài còn nhiều thiếu sót, cũng như kiến thức và tài liệu chưa được đầy đủ em
mong được sự góp ý và chỉnh sửa và bổ sung của thầy, cô để đề tài được thực sự
hoàn chỉnh hơn.


2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
2.1 Mục đích:
Đề tài có mục đích nghiên cứu khái quát các hệ thống các trường phái triết


học của nền triết học cổ đại Hy Lạp, và nêu bật nên giá trị, ý nghĩa, vận dụng hệ
thống tư tưởng này trong thực tiễn.
2.2 Nhiệm vụ:
Để thực hiện được những mục đích đã đưa ra ở trên thì đề tài có nhiệm vụ
sau:
- Làm rõ cơ sở, điều kiện và đặc trưng của triết học Hy Lạp.
- Nghiên cứu hệ thống trường phái triết học Hy Lạp cổ đại.
- Ý nghĩa, thành tựu, hạn chế triết học Hy lạp cổ đại.
3. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi của đề tài:
3.1 Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp logic lịch sử kết hợp sử dụng các phương
pháp tổng hợp, so sánh, khái quát và hệ thống hoá.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
Với mục tiêu đã xác định trên, phạm vi của đề tài này chỉ nghiên cứu hệ thống
các trường phái triết học đó ở trong các sách, báo, trong các bài viết về triết học.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở bài, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài kết cấu theo
ba phần phần I, II, và III tương ứng nội dung nghiên cứu của đề tài.


B. NỘI DUNG
I. Điều kiện ra đời, đặc trưng của triết học Hy Lạp cổ đại
1.1. Điều kiện ra đời.
*Về tự nhiên
Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây là quốc gia
rộng lớn có khí hậu ôn hòa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng (Balcans),
miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy Lạp được chia
làm ba khu vực. Bắc, Nam và Trung bộ.
Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành
phố lớn như Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng

lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo
Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển.
Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa
Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu Á là đầu mối giao
thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi
như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một
nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng.
Nơi có nhiều triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ.
*Về kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả và
lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay
bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.
Thế kỷ VIII – VI BC, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại
là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ
sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ
sở hữu tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao động
trong nông nghiệp, giữa nghành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Xu hướng chuyển


sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét. Sự phát triển mạnh mẽ
của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII BC là lực đẩy quan trọng cho
trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận. Engels đã nhận xét: “Phải có
những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao
động lớn lao hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước
Hy Lạp giàu có. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy Lạp,
không có khoa học và công nghiệp Hy Lạp”.
*Về chính trị - xã hội
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa
ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành
lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ.

Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành
phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại.
Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện
địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại,
và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là
thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen.
Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển
nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế
Sparte đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn
khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc
chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của
thành Athen. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế,
chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các
cuộc nỗi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc
khác nhau, không có ngôn ngữ chung, không có quyền hạn, không được tham gia
vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía Bắc Hy


Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II BC, Hy Lạp
một lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục
được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa.
Engels đã nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì
không có Châu Âu hiện đại được”. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao đổi
hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên thường
xuyên. Chính vì thế tầm nhìn của họ cũng được mở rộng, những thành tựu văn hóa
của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực,
những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón nhận, “Những người Hy
Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán

lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình
thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại.
Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất phong
phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc
sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực
lượng tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ đại.
Về nghệ thuật, đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị.
Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá
nghiêm tại thành bang Athen.
Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học, thiên văn, vật lý… được các
nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra. Và đặc
biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
1.2. Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp
Triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất của nhận thức nhân
loại từ PTSX thứ nhất đến PTSX thứ hai ở phương Tây vì vậy ở đó đã dung chứa
hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức
về tự nhiên, về con người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc


nhưng cũng vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…Ph. Ăngghen nhận xét như
sau: “Chính vì trong các hình thức muôn vẻ của triết học Hi Lạp đã có mầm mống
và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.
Triết học Hi Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định con
người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy, con người ở
đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo đức,
giao tiếp và nhận thức.
Triết học Hi Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà biện chứng sơ khai,
cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất thường xuyên vận
động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng biện chứng của
triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Gắn

bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác
nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống
nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô
thống trị.
II. Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại
2.1. Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milet- trường phái Heraclite,
trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái Nguyên tử
luận.
2.1.1. Trường phái Milet
Trường phái triết học Milet là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ
Lonie, một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu
Á, nằm giữ huyết mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm
kinh tế, văn hóa của thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem là quê hương của
nhiều trường phái triết học của triết gia nổi tiếng.


Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như: Thales và Anaximandes.
Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã đặc nền móng do sự hình
thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ xung và làm phong
phú thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh của
các mặt đối lập v.v… Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất phát từ thế
giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một thời nguyên vật
chất duy nhất.
+Thales (625-547 TrCN )
Thales xuất thân từ một gia đình thương nhân giàu có, ông có điều kiện đi du
lịch ờ nhiều nước như Ai cập, Babilon, quen biết nhiều nhà triết học phương Đông,
qua đó tiếp thu được nhiều kiến thức mới mẻ và công lao của ông là nâng tri thức
đó lên trình độ khoa học.

Từ một số phương pháp đo đạc ruộng đất sau mỗi trận lụt do sông Nil gây ra
ở Ai cập, Thales đã làm cho hình học trở thành môn khoa học. Trong đó định lý
Thales trong toán học đến nay nay vẫn còn nguyên giá trị. Từ những kinh nghiệm
chiêm tinh, phỏng đoán thiên văn học Babilon, ông đã giải thích đúng hiện tượng
nhật thực, khám phá ra lịch một năm có 12 tháng và có 365 ngày. Ông cho rằng trái
đất như một các đĩa khổng lồ trôi trên nước và có 5 vùng. Hiện tượng động đất
được ông giải thích là sự đụng chạm giữa trái đất và sóng biển trong bão tố. Đó là
cách giải thích ngây thơ chưa có cơ sở khoa học, nhưng ở thời bấy giờ, nó có ý
nghĩa về thế giới quan duy vật. Talét hiểu biết rộng và tinh thông nhiều nghề : Ong
là người đầu tiên của Hylạp chế tạo được đồng hồ chạy bằng thuỷ lực, ông còn là
nhà thiết kế tượng đài, nhà thờ, xây dựng cầu cống, chế tạo vũ khí.
Thành tựu nổi bật của Ta lét là quan niệm triết học duy vật. Ông cho rằng
nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong thế giới. Mọi vật đều sinh
ra từ nước và khi phân huỷ lại biến thành nước.Theo Ta lét, vật chất ( nước ) tồn
tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng, sinh ra và chết


đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, trong đó mọi vật biến đổi không
ngừng mà nước là nền tảng.
Những quan niệm triết học duy vật của ông giải thích giới tự nhiên tuy còn
mộc mạc thô sơ, nhưng có ý nghĩa vô thần, chống lại thế giới quan tôn giáo đương
thời và chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng tự phát.
Ta lét xứng đáng được người đời sau gọi ông là “nhà triết học đầu tiên””nhà
toán học đầu tiên””nhà thiên văn học đầu tiên”. Song, nhà khoa học đầu tiên nầy
cũng chưa thoát khỏi ảnh hưởng của quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên
thuỷ khi ông cho rằng, thế giới đầy rẫy những vị thần và khi không giải thích được
hiện tượng từ tính của nam châm, ông khẳng định nó có linh hồn.
+ Anaximăngđrơ ( 610 –546 TrCN ):
Anaximăngđrơ là nhà triết học duy vật, bạn của Ta lét. ông là người sáng tạo ra
đồng hồ mặt trời, vẽ bản đồ địa lý về bề mặt trái đầt về biển Hy lạp, làm ra quả địa

cầu giúp cho ông việc xác định phương hướng trong các cuộc hành trình. Ong là
người theo thuyết địa tâm, coi quả đất là trung tâm của vũ trụ. Sự vận động xoay
tròn của quả đất là nguyên nhân sinh ra nóng lạnh
Anaximanđrơ là người Hy lạp đầu tiên nghiên cứu vấn đề phát sinh và phát
triển của các loài động vật. Theo ông, động vật phát sinh ở dưới nước, sau nhiều
năm biến hoá và sau nhiều biến động của thiên nhiên, một số giống loài dần thích
nghi với đời sống trên cạn, phát triển trở nên phong phú và hoàn thiện dần. Con
người hình thành từ sự biến hoá của cá. Phỏng đoán nầy còn chưa có căn cứ khoa
học, song tính chất biện chứng về sự phát triển của các giống loài động vật được
ông đề cập đến, đã bác bỏ quan niệm mục đích luận
Khác với Ta lét khi giải quyết vấn đề bản thể luận triết học, ông cho rằng,
cơ sở của sự hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ một dạng vật chất đơn nhất, vô
định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn – Đó là Apâyrôn. Các tác giả thời cổ đại đã có
những giải thích khác nhau về Apâyrôn : Đó là cái mang tính vật chất, là hỗn hợp


các yếu tố như đất, nước, lữa, không khí,là các trung gian giữa lữa và không khí, là
cái không xác định.
Theo Anximanđrơ, Apâyrôn không chỉ là nguồn gốc sinh ra vạn vật mà
đồng thời là cơ sở vận động của vạn vật, nhờ Apâyrôn nãy ra những mặt đối lập
nhau như : nóng- lạnh, khô – ướt, sinh ra – chết đi … Như vậy ông đã bác bỏ
quan niệm về sự đồng nhất tuyệt đối, không có khác biệt của sự vật.
Anaximanđrơ cũng là người đầu tiên nêu ra và giải quyết quan hệ giữa cái
toàn thể và cái bộ phận. Theo ông, cái bộ phận luôn luôn biến đổi, còn cái toàn thể
thì bất biến, ông cho rằng, tổng thể vật chất thì không thể chuyển thành một tổng
thể vật chất nào khác nó, còn các dạng vật chất cụ thể thì thường xuyên biến đổi,
chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác.
Như vậy nếu so với Ta lét, Anaximanđrơ có một bước tiến xa hơn trong sự
khái quát trừu tượng về phạm trù vật chất. ở Ta lét, vật chất đầu tiên là nước mang
ít tính trừu tượng hơn so với Anaximanđrơ là Apâyrôn – một chất vô định hình

mà người ta không thể trực quan thấy được. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học Hy
lạp cổ đại vật chất không bị đồng nhất với một vật thể cụ thể. Đó là một bước tiến
mới về trình độ tư duy trừu tượng của người Hy lạp Cổ đại.
2.1.2. Trường phái Heraclit : (540 – 575 BC)
Theo những nhà kinh điển Mác – Lênin, Hêraclít là người sáng lập ra phép
biện chứng, hơn nữa ông là người xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy
vật. Phép biện chứng của Hêraclit chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống
các luận điểm khoa học, nhưng hầu hết các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng
đã được ông đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý.
Heraclit là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép
biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Heraclit vào kho tàng tư
tưởng của nhân loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt ngày
đêm”.


a,Về khởi nguyên của vũ trụ
- Lửa là khởi nguyên của thế giới, lửa tạo ra từng sự vật cụ thể hàng ngày gần
gũi cho đến những hành tinh xa lắc. “Thế giới này chỉ là một đối với mọi cái,
không phải do thần thánh hay do con người tạo ra nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ
là ngọn lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy và mức độ của
những cái đang lụi tàn”.
- Lửa là cơ sở làm nên sự thống nhất của thế giới. “Thế giới chỉ là một ngọn lửa
đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”. Các hiện tượng tự nhiên như nắng mưa, các
mùa,…theo ông không phải là những hiện tượng thần bí mà chỉ là những trạng thái
khác nhau của lửa. “Cái chết của lửa chỉ là sự ra đời của không khí, cái chết của
không khí chỉ là sự ra đời của nước. Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí
sinh ra từ cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí”.
-Thế giới vận động theo trật tự mà ông gọi là logos: logos khách quan và logos
chủ quan quan hệ với nhau như là quan hệ giữa khách thể và nhận thức. Và như

vậy thì sự phù hợp với logos khách quan là tiêu chuẩn để đánh giá tư duy con
người. Đây là một đóng góp có giá trị của Heraclit cho phép biện chứng sau này.
b,Về sự vận động là phổ biến
Quan niệm về vận động đã được một số nhà triết học trước đó đề cập nhưng
phải đến Heraclit thì mới tồn tại với tư cách là học thuyết về vận động với câu nói
nổi tiếng “không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
Quan niệm về vận động của ông có nội dung cốt lõi là tư tưởng về sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập.
Thứ nhất, thống nhất là sự đồng nhất của cái đa dạng và là sự hài hoà giữa các
mặt đối lập. Đồng nhất được xem là giới hạn theo nghĩa cùng tồn tại trong một
tương quan để so sánh, nếu thiếu thì không còn sự so sánh nữa như là không thể
quý sức khoẻ khi

không biết

mặt đối lập của nó là bệnh

tật.

Tính chất của sự đồng nhất là tương đối. Bản chất của sự vật chỉ có thể được xác
định trong mối liên hệ với các sự vật khác. Nhưng ở những tương quan khác nhau


sẽ cho những kết quả so sánh khác nhau. “Con khỉ đẹp nhất trong loài khỉ cũng
không thể so sánh với con người. Con người sáng suốt nhất so với Thượng đế cũng
chỉ là con khỉ xét về trí tuệ, sắc đẹp”.
Thứ hai, mỗi sự vật, mỗi hiện tượng trong quá trình biến đổi đều trải qua các
trạng

thái


đối

lập



chuyển

thành

các

mặt

đối

lập

với

nó.

Ông viết: “Cùng một thứ ở trong ta như sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già, vì sau
khi

biến

đổi


cái

này

trở

thành

cái

kia



ngược

lại”.

Thứ ba, Đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ là sự đối lập mà còn là sự thống
nhất

giữa

các

mặt

đối

lập,




điều

kiện

của

tồn

tại

Trái với quan điểm đang thịnh hành lúc bấy giờ xem đấu tranh như một hiện tượng
hoàn toàn tiêu cực, như là sự xung đột giữa các lực lượng mù quáng bất động
mang tính chất phá huỷ, Hêraclit khẳng định đấu tranh sẽ tạo ra một trật tự hài hoà
về

sự

thống

nhất.

Theo ông, cái vốn có ở trong hài hoà là đấu tranh và đó là điều kiện để hài hoà. Ở
đâu không có sự khác biệt thì ở đó không có sự thống nhất. Đấu tranh là nguồn gốc
của mọi cái đang hiện hữu, là khởi nguyên sáng tạo của sự sống và tồn tại. Vì vậy
đấu

tranh




phổ

biến

tất

yếu.

Từ quan niệm về dòng chảy, về vận động là phổ biến, Heraclit đã kháiinh ra một
khái niệm triết học mới đó là Độ. Độ là cái tạo ra sự hài hoà, tính chu ky, tính ổn
định, sự biến đổi của sự vật hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Với cách
hiểu

như

vậy,

độ

chính



logos

của


logos.

Với nội dung triết học được diễn đạt bằng hình ảnh là điểm mạnh đồng thời cũng là
hạn chế của Heraclit. Hình ảnh so với khái niệm là cùng một lúc có thể thu tóm
được các mặt đối lập, biểu diễn được cái chung và cái riêng, gây được những ấn
tượng trực quan sinh động, những mối liên tưởng so sánh nhưng do tính chất đa
nghĩa của nó, khó có thể diễn tả chính xác bản chất của vấn đề vì vậy thường phải
viện dẫn đến những nghịch lý, châm ngôn, một kiểu làm quen thuộc của văn học
chứ không phải triết học.


c,Về nhận thức luận và nhân bản học.
Về mặt nhận thức. Theo ông, nhận thức khởi đầu từ cảm tính thông qua các giác
quan để con người nhận thức các sự vật cụ thể. Ông cũng nhận thấy vai trò không
giống nhau giữa các giác quan trong nhận thức “mắt và tai là người thầy tốt nhất
nhưng

mắt

tốt

hơn

tai”.

Ông chia nhận thức thành hai cấp độ là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính chỉ là sự tiếp cận với logos nhưng không chắc chắn. Nhận thức
lý tính là con đường đạt tới chân lý nên ông đề cao.
Về nhân bản học. Con người là sự thống nhất cả hai mặt đối lập ẩm ướt và lửa.
Linh hồn của con người là biểu hiện của lửa. Lửa đưa con người đến điều thiện,

làm cho con người trở nên hoàn hảo, lửa là thôi thúc ở trong tim để ngăn ngừa
những cám dỗ vì chống lại khoái cảm còn khó hơn chống lại sự giận dữ.
Theo ông, hạnh phúc không phải là sự hưởng lạc về mặt thể xác thoả mãn dục
vọng mà ở chỗ phải biết vượt lên trên mình biết nói, biết suy nghĩ, hành động theo
logos.
Heraclit được xem là mọt trong những người sáng lập ra phép biện chứng. Giá trị
mà ông để lại chính là những vấn đề mà ông đã đặt ra.
Mác và Angghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá trị triết học của Hêraclit,
coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy lạp cổ đại. Tuy nhiên Mác
và Angghen cũng vạch rỏ những hạn chế, sai lầm đó là tính chất phản dân chủ, thù
địch với nhân dân của Hêraclit.
2.1.3-Trường phái đa nguyên
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật
Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagoras ( 500 – 428 TCN ) cố vượt qua
quan niệm đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Milet - trường phái
Héraclite xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng.
Empedocles thừa nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và


không khí. Anaxagorax cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt
giống”. Anaxagorax xem “ mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái”.[5]
Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn chế.
Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết
này vẫn còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính.
2.1.4-Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện
trong trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III BC. Leucippe là người sáng lập và
Đêmôcrít là người kế thừa và phát triển.
Leucippe (500 – 440 BC), ông cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ những
nguyên tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn

về số lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được.
Tư tưởng của ông không được hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông đã để lại qua
những trang viết của các học trò ông tổng hợp. Démocrite (460 – 370 BC) là học
trò của Leucippe đã kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một phương
diện mới. Theo ông vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử
và chân không. Hai thực thể này là căn nguyên của các sự vật hiện tượng.
+ Đêmôcrít ( 460 – 370 TrCN ), Đêmôcrit xây dựng học thuyết nguyên tử
luận về thế giới. Theo ông khỡi nguyên của thế giới không phải là một sự vật cụ
thể nào đó như nhiều học thuyết trước đó đã quan niệm mà là các nguyên tử ( theo
tiếng Hy lạp cổ : nguyên tử – atoma – nghĩa là các phần tử nhỏ nhất, đơn vị ) tức
tồn tại và khoảng không, tức cái không – tồn tại. Nếu như các nhà triết học phái E
lê phủ nhận các không-tồn tại, thì Đêmôcrit và các nhà nguyên tử luận – theo nhận
xét của Aritốt- thậm chí còn cho rằng “cái tồn tại có thực không hơn gì cai không –
tồn tại, bởi vì sự vật tồn tại không mảy may hơn gì khoảng không, và cả hai đều là
nguyên nhân vật chất”. Cái không – tồn tại chính là khoảng không trống rỗng, nó
không ảnh hưởng gì tới các sự vật ( tức là tồn tại ) trong nó cả.


Giữa tồn tại ( tức là các nguyên tử ) và cái không tồn tại ( tức khoảng
không ) có nhiều đặc tính khác nhau. Các nguyên tử thì đậm đặc hoàn toàn, còn
khoảng không thì hoàn toàn trống rỗng. Các nguyên tử thì rất đa dạng trong khi
khoảng không thì thuần nhất. các nguyên tử bao giờ cũng có kích thước, hình dạng
nhất định, nhưng khoảng không lại vô tận và không có hình dạng nào cả.
Nguyên tử, theo Đêmôcrit, là hạt vật chất nhỏ nhất, tới mức không thể phân
chia thêm được nữa. Chúng tồn tại vĩnh viễn, và trong lòng chúng không hề có vận
động. Các nguyên tử có nhiều hình dạng khác nhau như hình cầu, hình tam giác,
hình cong, hình lõm…Chính sự đa dạng về hình thức của chúng là yếu tố tạo nên
sự đa dạng của các sự vật mà chúng cấu thành.Các nguyên tử không chỉ khác nhau
về hình dạng mà cả về trình tự và thể trạng nữa. Chúng không có màu sắc, âm
thanh, mùi vị ….Các đặc tính nầy là kết quả sự tác động của các nguyên tử lên các

giác quan con người. các nguyên tử không thể biến thành nhau. Chúng vận động
trong khoảng không tựa như những hạt bụi trong chuyển động trong không khí mà
chúng ta nhìn thấy được qua những tia nắng mặt trời. Chính nhờ có khoãng không
mà có chổ để cho các nguyên tử vận động . Vận động là bản chất của các nguyên
tử, diễn ra do sự va chạm giữa chúng và cũng tồn tại vĩnh viễn như bản thân
nguyên tử vậy.
Dưới con mắt của Đêmôcrit, mọi sự vận động trong thế giới chúng ta đều
được tái tạo từ các nguyên tử và khoảng không. Sự xuất hiện hay mất đi của vật
này hay vật khác là kết quả việc kết hợp hay phân tán của các nguyên tử. Mọi biến
đổi của sự vật thực chất là sự thay đổi trình tự sắp xếp của các nguyên tử tạo nên
chúng. Còn bản thân mỗi nguyên tử thì không thay đổi gì cả. Như vậy, một mặt
Đêmôcrit duy trì các ngiyên lý bảo tồn “tồn tại” của Pácmênit, coi các nguyên tử
là bất biến, vĩnh viễn, mặt khác lại ủng hộ quan điểm của Hêcralit cho rằng mọi sự
vật đều biến đổi không ngừng.
Vũ trụ nói chung, theo Đêmôcrit, là khoãng không vô cùng tận trong đó
chứa đựng vô số thế giới khác nhau được cấu thành từ vô vàn các loại nguyên tử.


Không bàn đến các vấn đề nguồn gốc của các nguyên tử và vũ trụ nói chung,
Đêmôcrit tìm cách giải thích sự hình thành các thế giới khác nhau trong vũ trụ.
Theo ông, các thế giới nầy sinh ra đều có căn nguyên của chúng. Vì mức độ phân
bố các nguyên tử trong khoảng không đều không đều nhau, nên ở khoảng không
nào chứa nhiều nguyên tử thì chúng thường xuyên va chạm vào nhau, tạo thành
các luồng gió xoáy tròn, đẩy các nguyên tử nặng và to quy tụ vào thành tâm. Các
nguyên tử nhẹ và nhỏ hơn thì bị đẩy ra vùng ngoại biên. Nhờ đó, các hành tinh, kể
cả trái đất được tạo nên. Lữa, không khí, ánh sáng, nhờ những luồng gió xoáy –do
chuyển động của các nguyên tử theo hình xoáy tròn – đã tạo ra bầu trời. Các hành
tinh cũng thuộc về thế giới chúng ta. Mỗi thế giới tựa như một hình cầu được
khép kín bởi các nguyên tử hình cong. Các thế giới cũng nằm trong quá trình biến
đổi, vận động không ngừng.


2.2-Chủ nghĩa duy tâm
Giai đoạn Hy Lap cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái
triết học Pytago, trải qua trường phái duy lý Êlê và đạt được đỉnh cao trong trường
phái duy tâm khách quan của Platon, tức thế giới ý niệm.
2.2.1-Trường phái Pytago
Phái Pytago đã có những cống hiến giá trị về toán học và khoa học tự nhiên
như xây dựng định lý về tổng các gốc của một tam giác, định lý Py ta go. Về âm
nhạc phái nầy đã giải thích độ cao âm thanh của một sợi dây chấn động là phụ
thuộc vào độ dài của dây ấy. Về lý luận nghệ thuật tạo hình phái nầy đã có những
đóng góp giá trị về quy định tỷ lệ số lượng đúng đắn giữa các bộ phận của những
toà nhà, những công trình kiến trúc. Phái nầy cũng đã nêu lên tư tưởng về tính quy
luật của các hiện tượng tự nhiên bằng lý thuyết về “sự nhịp nhàng của các cầu thế


”, mà theo Lê nin, phái Py tha go đã phỏng đoán về sự giống nhau giữa thế giới vĩ
mô và thế giới vi mô.
Về mặt triết học, phái Py tha go đặc biệt quan tâm tới vấn đề bản chất và
khởi nguyên của thế giới. Nếu như trường phái Milê coi cơ sở của thế giới là
những nguyên thể vật chất nước, lữa, không khí, thì phái Py tha go coi bản chất và
nguyên khởi của mọi sự vật là những “con số ”. Mọi các trên thế giới đều chỉ là
hiện thân của các con số và con số có trước mọi vật.
Py tha go cho rằng : Số 1 ( đơn vị ) sinh ra điểm, số 2 sinh ra đường, số 3 tạo
ra diện tích, số 4 tạo ra thể tích.
Trong khi luận giải về những con số, phái Py tha go đã thần thánh hoá
chúng. Họ coi số 4 là số kỳ lạ, có tính chất thần thánh, con số 10 là số hoàn thiện
nhất, là cơ sở tính toán mọi vật. Đơn vị là nguồn gốc phát sinh chung nhất, phổ
biến nhất của mọi sự vật, coi đơn vị là “người mẹ thần thánh”. Phái Py tha go
không chỉ coi con số là khởi nguyên của mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, mà còn
là nền tảng, bản chất của các hiện tượng ý thức. Linh hồn con người cũng được cấu

thành từ các con số. Con số tồn tại vĩnh viễn thì linh hồn con người cũng bất tử,
linh hồn chỉ tạm trú trong cơ thể sống, và sau khi chết, linh hồn nhập vào một cơ
thể khác theo luật luân hồi.
Trong khi sùng bái con số, biến chúng thành những lực lượng thần bí thống
trị hiện thực, phái Py tha go cũng có những quan niệm biện chứng về mối quan hệ
giữa số chẳn và số lẻ, số hữu hạn và số vô hạn, giữa tính thống nhất và tính nhiều
vẻ, vận động và đứng im. Xuất phát từ cặp đối lập số chẳn và số lẻ, họ nêu ra 10
cặp đối lập cơ bản : Giới hạn và không giới hạn – Chẳn và lẻ – Đơn và đa – Phải
và trái – Đực và cái – Động và tĩnh – Thẳng và cong – Sáng và tối – Tốt và xấu –
Tứ giác và đa diện.
Nhìn chung phái Py tha go là một trong những trường phái triết học mang
tính duy tâm khách quan, bao chứa những yếu tố tư duy khoa học, pha trộn với ảo
tưởng tôn giáo thần bí.


3.2.2-Trường phái Êlê
Trường phái Ê lê là một trường phái triết học ra đời trong cuộc đấu tranh
gay gắt giữa phe chủ nô quý tộc chuyên chế và phe dân chủ chủ nô. Những quan
điểm triết học của phái nầy phải trãi qua một quá trình tiến hoá nhất định. Trong
học thuyết của Xê nô phan – người sáng lập ra phái Ê lê – còn có những yếu tố
duy vật, đến Pác mê nic, Dê nông là những đại biểu chủ yếu của phái Ê lê thì chủ
nghĩa duy tâm đã rõ rệt. Trường phái triết học Ê lê xuất hiện đã đánh dấu một dạng
thế giới quan mới được hình thành, nó chú ý tới những vấn đề triết học theo nghĩa
hẹp của danh từ này.
+Xê nô phan ( 570 –478 TrCN )
Xê nô phan là nhà thơ kiêm triết gia, sinh ở Iônia, nhưng khi lớn lên ông đã
đi nhiều và sống ở nhiều thành phố của Hy lạp. Ong là người sáng lập ra trường
phái triết học Ê lê. Quan điểm triết học của ông không viết bằng văn xuôi mà viết
bằng thơ. Tác phẩm chủ yếu của ông là Châm biếm gồm 5 tập. Ngày nay người ta
chỉ sưu tầm được một số đoạn thơ của ông được trích trong tác phẩm của Arixtôt.

Xê nô phan đưa ra quan niệm thế giới là một khối duy nhất bất sinh bất diệt.
Thế giới không phải do thần thánh sáng tạo ra. Ong là người đầu tiên cho rằng,
không phải thần thánh sáng tạo ra con người, mà chính con người đã nghỉ ra, sáng
tạo ra các vị thần thánh theo trí tưởng tượng và theo hình tượng của mình. Vì thế,
mỗi dân tộc có quan niệm riêng về thần thánh của mình, “Nếu như bò, hoặc ngựa,
hoặc sư tử cũng có tay và nếu cũng giống như con người có thể dùng tay để vẽ thì
ngựa đã quan niệm thần như ngựa, bò đã hình dung những đấng bất tử theo hình
ảnh bò ”. Tư tưởng nầy của Xê nô phan có yếu tố hợp lý về bản chất của tôn giáo,
về ảnh hưởng của các điều kiện xã hội, văn hoá tới tôn giáo.
Xê nô phan thừa nhận thế giới không do thần thánh sinh ra. Nhưng ông lại
thần thánh hoá giới tự nhiên, coi giới tự nhiên chính là thánh và thánh gắn liền với
tất cả, không do ai sinh ra và tồn tại vĩnh viễn.Thánh đặc trưng cho sự thống nhất
tối cao của toàn bộ thế giới. Do hạn chế lịch sử, Xê nô phan chưa phải là nhà duy


vật triệt để. Có nhà nghiên cứu cho rằng, học thuyết về thánh của Xê nô phan
chính là phiếm thần luận, đó chỉ là hình thức có tính chất cổ điển để diễn đạt tư
tưởng vô thần của ông. Xê nô phan đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị cho
chủ nghĩa vô thần cổ Hy lạp.
+ Pác mê nít ( Cuối TK VI – đầu tk V TrCN )
Pác mê nít là học trò của Xê nô phan, xuất thân trong một gia đình thượng
lưu trí thức ở Ê lê. Những quan điểm triết học của ông được trình bày bằng thơ.
Ong là nhân vật trung tâm của trường phái Ê lê.
Khái niệm trung tâm trong triết học của Pác mê ních là “tồn tại “ hết sức
trừu tượng, mà theo đánh giá của Hê ghen là điểm xuất phát thực sự của triết học.
Theo Pác mê nít có hai cách nhìn thế giới :
Một là : “với cách nhìn cảm tính”thì thế giới vô cùng đa dạng phong phú, mọi
sự vật biến đổi không ngừng và vô cùng sinh động. Nhưng bằng con đường cảm
tính đơn thuần không thể khám phá ra bản chất đích thực của thế giới.
Hai là:với cách nhìn triết học phù hợp với trí tuệ lý tính, tức là chân lý, thì

khám phá ra bản chất đích thực của thế giới.
Pác mê nít

cho rằng, bản chất của mọi vật trong thế giới là “tồn tại “, “tồn

tại”là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của thế giới, bởi vì, mọi sự vật dù
rất khác nhau vẫn có điểm chung là tồn tại, tức chúng có thực, không thể có cái
không tồn tại, bởi vì,chúng ta không thể hình dung được nó là cái gì. Bản chất của
tồn tại là bất biến, vĩnh viễn và không thể mất đi được. Nó là sự đồng nhất với
chính bản thân nó. Tồn tại được chứa trong không gian, làm đầy không gian. Nó là
hữu hạn và có quãng tính. Không gian cũng có giới hạn và bất biến, tồn tại được
chứa trong không gian hoàn toàn bất biến, không lớn lên cũng không nhỏ đi.
Tồn tại là cái chỉ có thể nhận thức bởi tác dụng lý tính. Tư duy bao giờ cũng là
tư duy về tồn tại. Tư duy và tồn tại đồng nhất với nhau, chúng là một.
Học thuyết về tồn tại của Pác mênit đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát
triển tư tưởng triết học Hy lạp cổ đại. Điều đó thể hiện ở chỗ, ông không coi khởi


nguyên của thế giới là một sự vật cụ thể như các triết học thời đó quan niệm mà là
tồn tại một khái niệm triết học mang tính khái quát cao. Nhưng hạn chế trong học
thuyết về tồn tại của ông là ở chỗ, đã đồng nhất tuyệt đối giữa tư duy và tồn tại,
chưa có sự phân biệt giữa tư tưởng về đối tượng với đối tượng của tư tưởng. Quan
niệm nầy gần gũi với chủ nghĩa duy tâm, vì chưa phân biệt được ranh giới tương
đối giữa tinh thần và vật chất, và mang tính chất siêu hình, vì ông cho rằng “tồn
tại”là bất biến.
Về nhận thức luận, Pác mê nit đã sai lầm cho rằng, người ta không thể nhận
thức tồn tại bằng giác quan. Ông nói “Đừng tin vào sự chỉ dẫn của thị giác và của
thính giác ”
2.2.3-Trường phái duy tâm khách quan
Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ

Athen và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây
dựng bởi Socrate và Platon.
+Xô crát ( 469 – 399 TrCN )
Là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại, người thầy của Pla ton –
theo nhận xét của Hê ghen “là một bước ngoặc lịch sử vĩ đại”trong triết học cổ đại
Hy lạp và La mã, rất tiếc là ông không để lại cho chúng ta tác phẩm nào.
Cũng như các nhà nguỵ biện,Xôcrát đặc biệt quan tâm đến vấn đề con
người, coi đó là chủ đề chính trong các cuộc đàm thoại triết học của mình. Theo
nhận xét của Điôgien Laécxơ, Xôcrát khác với những nhà triết học trước đây, thờ ơ
với những vấn đề về thế giới tự nhiên, về khởi nguyên của vũ trụ…., mà chỉ lưu
tâm đến vấn đề con người. Ong là người đầu tiên hiểu rằng triết học không là gì
khác hơn là sự nhận thức của con người về chính bản thân mình. Luận điểm nổi
tiếng “Con người, hãy nhận thức chính mình ” trở thành câu nói cửa miệng trong
các buổi tranh luận triết học của ông. Tư tưởng của Xôcrát thực sự là một bước
tiến mới trong sự phát triển của triết học Hy – La cổ đại . Trước ông, các nhà triết
học chủ yếu bàn đến những vấn đề khởi nguyên của thế giới, về nhận thức luận.Bắt


đầu từ Xôcrát, đề tài con người trở nên một trong những chủ đề trọng tâm của
nghiên cứu triết học.
Đối với Xôcrát, nhận thức chính mình – tức là nhận thức bản thân mình –
không chỉ như một nhân cách, mà còn như một con người nói chung. Là học trò
của các nhà nguỵ biện nhưng Xôcrát không nhất trí với họ coi ý kiến chủ quan của
mọi người là tiêu chuẩn chân lý. Để có thể đàm thoại được thì giữa những người
tham gia đàm thoại phải có một “tiếng nói chung ”, một “ngôn ngữ chung ”nhất
định. “Ngôn ngữ chung ” đó mang tính khách quan, là nền tảng khách quan, nhờ
đó con người khám phá ra chân lý một cách đích thực mà ai cũng phải thừa nhận.
Xôcrát dường như tìm thấy các tầng khác nhau trong ý thức con người. Ngoài
những yếu tố chủ quan, thì trong ý thức con người có một nội dung khách quan,
ông tìm cách chứng minh rằng chính nội dung khách quan đó là cái cơ bản trong

ý thức. Phần nầy của ý thức được coi là lý tính. Nó không chỉ có khả năng đưa lại
ý kiến cá nhân mà cả những tri thức phổ biến mang lại tính tổng quát. Nhưng mỗi
người chỉ có được những tri thức chung đó bằng nổ lực của mình.Và Xôcrát khẳng
định đó là cơ sở chung, là chân lý khách quan trong các cuộc đàm thoại mà ai
cũng phải thừa nhận. Do vậy mỗi người không phải hoàn toàn tự do và tuỳ tiện
trong việc lựa chọn các ý kiến trái ngược nhau về sự vật, mà phải dựa vào nền tảng
chung khách quan đó.
Đối lập với các nhà nguỵ biện, Xôcrát cho rằng mỗi người đều có thể có ý
kiến, lập trường riêng của mình, nhưng chân lý thì chỉ có một – đó là cơ sở khách
quan chung của tri thức mà ai cũng phải thừa nhận.
Khám phá ra chân lý – theo Xôcrát – nghĩa là định nghĩa sự vật một cách
chặt chẽ,xây dựng khái niệm về nó. Nếu như các nhà triết học trước kia về cơ bản
sử dụng khái niệm một cách tự phát thì Xôcrát là người đầu tiên nhấn mạnh vai
trò đặc biệt của tri thức khái niệm trong nhận thức. theo ông, nhận thức sự vật
nghĩa là phải biết nó là cái gì. Chẳng hạn,người nào dù nói về cái thiện hay đến đâu
chăng nữa, nhưng không định nghĩa được cái thiện là gì thì tức là anh ta chẳng biết


cái thiện là gì cả. Do đó, nếu không có khái niệm thì cũng coi như không có tri
thức. Khám phá ra chân lý đích thực về bản chất sự vật tức là phải hiểu nó ở mức
độ khái niệm. Tuy vậy ông cũng nhận thấy đây là một công việc không đơn giản và
bản thân ông vẫn thường khiêm tốn nói “Tôi biết rằng tôi không biết gì cả”.
Luận điểm nổi tiếng “Hãy nhận thức chính mình ” còn có nghĩa là xây dựng
những khái niệm về chuẩn mực đạo đức chung của mọi người. Triết học là sự nhận
thức thế nào về cái thiện, thế nào là các ác …Đặc biệt đề cao vai trò của tri thức
khái niệm trong hoạt động của con người, Xôcrát coi tri thức là nền tảng của đức
hạnh. Theo lới Diôgian Láecxơ, “Xôcrát nói rằng, chỉ mỗi điều thiện đó là tri thức,
và mỗi điều ác đó là sự dốt nát. Của cải và danh tiếng chẳng mang lại phẩm giá gì,
ngược lại, chỉ đem đế những điều ngu xuẩn”. Mọi hành vi vô đạo đức đều là kết
quả của sự dốt nát, kém hiểu biết, bởi lẽ nếu người nào biết thế nào là tốt thì anh ta

không bao giờ làm điều xấu. Vì vậy, con đường đi đến trí thức cũng chính là con
đường đi đến hoàn thành nhân cách đạo đức con người, con đường hướng con
người tới cái thiện, cái hạnh phúc.
Xuất phát từ việc thừa nhận tri thức khách quan, Xôcrát đi đến khẳng định
tính khách quan của các chuẩn mực đạo đức. Khác với các nhà nguỵ biện, ông coi
cái thiện và cái ác là hoàn toàn khác biệt nhau, cũng như không đồng nhất hạnh
phúc với cái lợi, mà coi hạnh phúc là đức hạnh. Chỉ có người nào biết đức hạnh là
gì mới thực sự có hạnh phúc. Cái ác và bất hạnh là kết quả của sự không hiểu biết
cái thiện.
Như vậy, triết học của Xôcrát chủ yếu bàn về con người dưới khía cạnh đạo
đức. Nhận thức chân lý, tri thức là nền tảng đạo đức học của ông. Công lao của
Xôcrát là đã bước đầu nhận thấy mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động đạo đức của con người. Nhưng ngoài khía cạnh nhận thức luận, vấn đề còn
liên quan đến các hoàn cảnh xã hội nữa. Đạo đức học duy lý của Xôcrát sau nầy
bị Aríxtốt phản đối, cho rằng việc hiểu biết về cái thiện và cái ác cũng như việc
vận dụng chúng trong từng tình huống cụ thể là hai việc khác nhau.


Mặc dầu vậy, triết học Xôcrát vẫn là một bước ngoặc lịch sử phát triển tư
tưởng triết học phương Tây cổ đại với việc coi con người là trung tâm của các vấn
đế thế giới quan. Đánh giá cao điều đó, C. Mác đã gọi các quan niệm của Xôcrát
là :”biểu tượng của triết học”.
+ Platon ( 427 – 347 TrCN ).
Là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng kiệt xuất của thời cổ đại,
người mà theo Hê ghen có ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển tư tưởng nói
chung, tới văn hoá tinh thần của nhân loại. ông là học trò của Xôcrát. Hiện nay hầu
như chúng ta còn giử lại được phần lớn các tác phẩm của Pla ton.
*Học thuyết về ý niệm - quan niệm về thế giới của Pla ton xuất phát về những
lập luận chính của ông.
Thứ nhất, xét về khía cạnh nhận thức luận, ông tiếp thu các quan niệm của Xô

crát, đặc biệt đề cao vai trò của tri thức khái niệm trong nhận thức, cho rằng tri
thức chân chính không dừng lại ở các tri thức về các sự vật cảm tính đơn lẽ, mà là
các tri thức lý tính mang tính chất bao quát. Không dừng lại ở đó, Pla ton đẩy quan
niệm của Xô crát đi đến cực đoan, cho rằng mọi sự vật trong thế giới chúng ta đều
chỉ tồn tại dưới dạng đơn lẻ, nhất thời, do đó các tri thức mang tính chất chung và
bao quát là thuộc về lĩnh vực tinh thần thuần tuý chứ không phải là tri thức thuộc
về các sự vật đó. Từ đây nhà triết học biến các tri thức của con người thành cái
không phải là sự phản ánh các sự vật, mà trái lại là bản chất của chúng. Đối với
ông tri thức, ý niệm về cai bàn chẳng hạn được coi là bản chất của những cái bàn
cụ thể mà hằng ngày chúng ta nhìn thấy. Do đó ngoài thế giới các sự vật, vật chất
chung quanh ta còn tồn tại một thế giới khác đó là thế giới của các ý niệm.
Thứ hai, xét về phương diện bản thể luận, nếu giả sử trên thế gian chỉ
tồn tại duy nhất các sự vật vật chất thôi thì theo Pla ton như thế` thế giới chúng ta
là một sự hổn độn, ô hợp. Đều nầy là không thể được. Trên thực tế mọi vật đều
phát triển theo những trình tự chung nhất định. Và ông coi các ý niệm là cơ sở quy
định những trình tự đó. Sự vật chỉ là hiện thân của ý niệm.


Các ý niệm, theo cách hiểu của Pla ton đó là các khái niệm, tri thức đã được
khách quan hoá. Chúng bị rứt ra khỏi ý thức của con người, hoà trộn vào thế giới
tư tưởng được coi là tổng thể các ý niệm tương tự. Các ý niệm được coi là tồn tại
nói chung, bất biến và vĩnh viễn. Chúng không phải được sinh ra từ cái gì đó hay
mất đi, mà tồn tại mãi mãi như thế từ xưa đến nay. Vì vậy những ý niện chung,
những tri thức mang tính khái quát cao đó cần phải tách biệt khỏi thế giới các sự
vật cảm tính đang sinh thành và biến đổi không ngừng. Ong nói”Cần phải ngăn
ngừa toàn bộ linh hồn khỏi những cái đang sinh thành. Khi đó khả năng nhận thức
của con người sẽ có thể trực giác được tồn tại”.
Như vậy phát triển quan niệm của Xô crát theo lập trường duy tâm khách
quan, Pla ton cho rằng, chỉ có các ý niệm là tồn tại thực sự. Cũng như Pác mênít,
ông coi tồn tại là vĩnh viễn bất biến, luôn luôn đồng nhất với chính bản thân mình.

Nó là cái không phân chia được và chỉ được nhận thức duy nhất bằng lý tính, đồng
thời cách biệt khỏi thế giới các sự vật cảm tính. Nhưng khác với Pácmênit, Pla ton
không coi tồn tại là một cái gì đó hoàn toàn thuần nhất, mà là tổng thể của nhiều ý
niệm khác nhau như ý niệm đạo đức, thẩm mỹ, khoa học. Dù số lựong chúng
không phải là vô hạn. Không phải bất kỳ mọi hành động, sự vật nào cũng đều có ý
niệm. Hơn nữa ở Pla ton thế giới ý niệm chủ yếu mang tính đạo đức. Nó đối lập
với thế giới hiện thực không chỉ tựa như sự đối lập giữa bản chất với hiện tượng,
giữa bản chính với bản sao, mà còn thể hiện như sự đối lập giữa phúc lợi và cái ác.
Cho nên trong số tất cả các ý niệm thì ý niệm phúc lợi là tối cao nhất. Đó là ý
niệm của các ý niệm, là ngọn nguồn của chân lý, của các đẹp và sự hiền hoà trong
vũ trụ.Nó tựa như mặt trời dọi sáng, ban sức sống cho mọi ý niệm khác cũng như
cho mọi vật trong thế giới chúng ta. Ý niệm phúc lợi được coi là đấng tối cao của
hiệnthực. Sau nầy các học trò của Pla ton ví ý niệm phúc lợi của ông như thượng
đế, coi nó là thượng đế.
Coi các ý niệm là tồn tại nói chung, là tồn tại thực sự, Pla ton vẫn khẳng
định rằng các không- tồn tại cũng có thực. Cái không tồn tại chẳng phải là một cái


gì đó hoàn toàn đối lập với tồn tại, mà nó cũng là một khía canh của tồn tại. Bản
thân cái tồn tại cũng bao hàm cả “cái khác”với nó, tức cái không- tồntại, Ví dụ vật
chất ( theo tiếng cổ Hy lạp là Hylè ) theo Pla ton là cái không- tồn tại, bởi vì trên
thực tế không bao giờ chúng ta thấy vật chất tồn tại dưới dạng thuần tuý cả. Nhưng
thứ nhất vẫn có khái niệm vật chất nói chung ; Thứ hai bản thân sự vật cảm tính
vẫn là dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Vì vậy dưới con mắt của Pla ton, bản
thân vật chất nói chung cũng tồn tại vĩnh viễn và không phải do thế giới ý niệm
sản sinh ra, mặc dù nó không là các gì cả nhưng vẫn cần thiết.
Chính các ý niệm và vật chất là hai cơ sở tạo nên mọi sự vật trong thế giới
chúng ta. Nếu như các ý niệm là bản chất chung của mọi sự vật, đem lại sinh khí
cho chúng. Đồng thời là cơ sở thống nhất của toàn vũ trụ, thì vật chất là căn
nguyên tạo ra hình thù chất liệu cụ thể của mỗi sự vật, làm cho chúng đa dạng, cá

biệt, nhất thời và biến đổi không ngừng. Vì vậy các sự vật là một dạng trung gian
giữa ý niệm và vật chất.
Mối quan hệ cụ thể giữa thế gới ý niệm và thế giới các sự vật không được
Pla ton nói một cách rõ ràng. Ong chỉ thường xuyên nhần mạnh các ý niệm là
những cái có trước và là bản chất của mọi sự vật. Tuy nhiên trong quan niệm của
ông cũng toát lên các khía cạnh sau về mối quan hệ giữa chúng : Thứ nhất mọi sự
vật đều là sự mô phỏng các ý niệm, luôn hướng tới các ý niệm như là bản chất
chung và nền tảng nội tại của mình, là bản sao của các ý niệm. Thứ hai mọi sự vật
đều liên quan đến các ý niệm, bất kỳ sự vật nào cũng đều xuất hiện trong mối liên
hệ với các ý niệm.
Để hiểu rõ thêm quan niệm của Pla ton về thế giới, chúng ta hãy xem minh
hoạ của ông qua ví dụ “hang động ”. Thế giới ý niệm tưa như đoàn người đi qua
hang động. Các sự vật cảm tính tựa như những cái bóng của đoàn người đó in trên
vách đá. Còn vật chất thì tựa như những chất liệu tạo nên những cái bóng đó. Do
vậy chỉ có đoàn người là tòn tại thực sự, còn những cái bóng của họ cũng như chất
liệu thì phụ thuộc vào đoàn người đó.


Tóm lại trong quan niệm về thế giới, Pla ton theo lập trường duy tâm khách
quan, coi mọi sự vật chỉ là hiện thân của các ý niệm, hay theo ngôn ngữ của ông, là
cái bóng của ý niệm. bất kỳ sự vật nào cũng chỉ là sự thể hiện đặc thù các ý niệm
tương ứng dưới dạng vật chất. tuy nhiên về cơ bản Pla ton tách rời chúng và không
chổ nào làm rỏ mối quan hệ trên. Từ đây trong vũ trụ học Pla ton thừa nhận linh
hồn vũ trụ đem lại sinh khí và vận động cho toàn vũ trụ.
Mặc dầu vậy Pla ton đã thực hiện một bước vô cùng quan trong trong bước
chuyển triết học từ tư duy ẩn dụ tới tư duy khái niệm. Để giải thích một hiện tượng
nào đó, theo ông cần phải tìm ý niệm của nó. Nói cách khác phải hiểu sự vật ở mức
độ khái niệm, mức độ tư duy lý luận. Ở đây ông đóng vai trò to lớn trong việc
nghiên cứu bản chất của khái niệm cũng như trong sự phát triển tư duy lý luận của
nhân loại nói chung.

2.3-Chủ nghĩa nhị nguyên
Triết học Arixtốt.
Arixtốt, bộ óc bách khoa toàn thư của triết học cổ đạo Hy lạp, người đầi tiên
khám phá ra những quy luật sơ đẳng của tư duy biện chứng. Đây là một trong
những nhà triết học vĩ đại nhất thời cổ đại Hy lạp. Ong đã để lại cho nhận loại một
di sản triết học đồ sộ được viết bằng tiếng Hy lạp cổ, trong đó lớn nhất là tác phẩm
Siêu hình học.
Phê phán học thuyết Pla ton : Cũng như Xôcrát và Pla ton, Arixtốt đặc biệt
coi trọng vai trò của các khái niệm trong nhận thức, khẳng định đó là phương tiện
để nhận thức tồn tại.
Tuy vậy, Arixtốt có nhiều điểm không nhất trí với những người thầy của
mình. Với phương châm “Pla ton là người thầy nhưng chân lý quý hơn”. Arixtốt
phê phán mạnh mẽ học thuyết duy tâm của Pla ton về các ý niệm. Thứ nhất ông
phản đối các quan niệm của Pla ton coi các ý niệm như một dạng tồn tại độc lập,
tối cao, còn mọi sự vật cảm tính của thế giới chúng ta đều tồn tại ở cấp độ thấp
hơn. Thứ hai, Arixtốt phê phán Pla ton tách rời thế giới ý niệm với thế giới hiện


×