SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG KẾT HỢP CÁC PHƯƠNG PHÁP: ĐÀM THOẠI
GỢI MỞ, NÊU VẤN ĐỀ, ĐÓNG VAI VÀ TRÒ CHƠI SƯ
PHẠM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
TRONG DẠY HỌC BÀI 18. ĐÔ THỊ HÓA
ĐỊA LÍ 12 - CHUẨN.
Người thực hiện: LÊ THỊ THẮM
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Địa lí
THANH HOÁ, NĂM 2017
MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................3
1.1 Lí do chọn đề tài.................................................................3
1.2. Mục đích nghiên cứu.........................................................3
1.3. Đối tượng nghiên cứu........................................................4
1.4. Phương pháp nghiên cứu...................................................4
2. PHẦN NỘI DUNG......................................................................5
2.1. Cơ sở lí luận.......................................................................5
2.1.1. Phương pháp dạy học đàm thoại gợi mở....................5
2.1.2. Phương pháp nêu vấn đề............................................5
2.1.3. Phương pháp đóng vai................................................6
2.1.4. Trò chơi sư phạm.........................................................6
2.2. Thực trạng của vấn đề......................................................7
2.2.1. Thuận lợi.....................................................................7
2.2.2. Khó khăn.....................................................................7
2.3. Giải pháp giải quyết vấn đề..............................................8
2.3.1. Phương pháp dạy học đàm thoại gợi mở ...................8
2.3.2. Phương pháp nêu vấn đề............................................9
2.3.3. Phương pháp đóng vai..............................................10
2.3.4. Trò chơi sư phạm.......................................................11
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm...............................14
2.4.1. Kết quả chung của tiết học.......................................14
2.4.2. Kết quả xếp loại cụ thể của hai nhóm thực nghiệm và
đối chứng............................................................................14
3. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..................................................16
3.1. Kết luận...........................................................................16
3.2. Kiến nghị.........................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................17
2
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài.
Không có một phương pháp dạy học nào là vạn năng. Mỗi phương pháp
dạy học đều có tác động tích cực đối với một số mặt học tập của học sinh. Chính
vì vậy trong một bài học cần phải có sự phối hợp hợp lí các phương pháp dạy
học khác nhau. Việc xác định hay lựa chọn các phương pháp dạy học có một vị
trí quan trọng trong thiết kế bài dạy, vì nó có tính quyết định đến việc thực hiện
mục tiêu và chất lượng dạy học.
Ở nước ta, mục tiêu giáo dục đã có những thay đổi quan trọng. Trong dạy
học, đã chú trọng, đề cao vai trò, lợi ích của người học để người học tự phát
triển. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, đề cao hoạt động tích cực, tự giác,
sáng tạo của học sinh trong quá trình nhận thức dưới sự tổ chức, điều khiển, chỉ
đạo của giáo viên.Trong dạy học địa lí mục tiêu về nhận thức thường có bốn cấp
độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao. Mỗi một mục tiêu cụ thể
thông thường phải thực hiện bằng một hay một số phương pháp dạy học thích
hợp.
Thực tế cho thấy, để giờ học đạt được mục tiêu giáo dục, không nhàm chán,
không có vài học sinh quay ngang, quay dọc, hay một vài học sinh ngáp ngủ,
lim dim, thậm chí có em đã gục xuống bàn…. thì việc kết hợp các phương pháp
dạy học là rất cần thiết. Cần phải cân nhắc thật kĩ việc lựa chọn phương pháp
sao cho phù hợp với nội dung, đối tượng dạy học. Không có một phương pháp
nào thích hợp với tất cả các nội dung. Mỗi phương pháp dạy học chỉ thích ứng
với một nội dung nhất định và phù hợp với đối tượng cụ thể.Vì vậy khi lựa chọn
phương pháp phải căn cứ vào nội dung bài dạy, lớp dạy.
Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận giáo viên lạm dụng một, hai phương pháp
cho một bài dạy. Do phương pháp không phù hợp với nội dung hoặc sử dụng
một phương pháp dẫn đến sự nhàm chán, kết quả là tiết dạy đó không đạt được
mục tiêu giáo dục đề ra. Qua nghiên cứu bài học và thực tế giảng dạy, tôi nhận
thấy rằng khi dạy bài 18. Đô thị hóa Địa lí 12 – Chuẩn, sử dụng kết hợp bốn
phương pháp: đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề, đóng vai, trò chơi tiếp sức
mang lại hiệu quả cao ở những lớp được áp dụng. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn viết
sáng kiến kinh nghiệm: “Sử dụng kết hợp phương pháp đàm thoại: gợi mỡ,
nêu vấn đề, đóng vai, trò chơi nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy
học bài 18. Đô thị hóa - Địa lí 12 – Chuẩn”. Với những kiến thức của bản thân
về vấn đề này còn nhiều hạn chế nhất định, sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong được quý thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp đón đọc và đóng góp động
viên chân thành để sáng kiến ngày hoàn chỉnh hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
3
- Phục vụ chương trình đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
- Phát huy tính tích cực nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục của học sinh
trong học tập.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu sự kết hợp các phương pháp đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề,
đóng vai, trò chơi tiếp sức nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài
18. Đô thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn.
- Sách giáo khoa Địa lí 12- Chuẩn.
- Học sinh khối 12, đặc biêt lớp 12C8, 12C9.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
4
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Phương pháp dạy học đàm thoại gợi mở.
- Đàm thoại gợi mở là phương pháp mà trong đó giáo viên biên soạn câu hỏi,
thông báo cho học sinh. Sau đó chia câu hỏi thành một số câu hỏi nhỏ hơn có
quan hệ logic với nhau tạo ra những cái mốc trên con đường thực hiện câu hỏi
lớn[1].
.
- Các yêu cầu đối với câu hỏi:
+ Câu hỏi phải có mục đích, dứt khoát, rõ ràng, tránh những câu hỏi không
nhằm vào mục đích cụ thể, chung chung[1].
.
+ Câu hỏi phải bám sát nội dung cơ bản[1].
.
+ Câu hỏi phải sát với trình độ học sinh. Tránh những câu hỏi học sinh
không thể trả lời được hoặc những câu hỏi dễ quá không cần phải suy nghĩ[1].
- Một số dạng câu hỏi:
+ Câu hỏi biết: nhằm yêu cầu học sinh nhắc lại, tái hiện lại kiến thức[1].
+ Câu hỏi hiểu: yêu cầu học sinh diễn đạt lại bằng ngôn ngữ của mình
những kiến thức đã học[1].
.
+ Câu hỏi vận dụng: yêu cầu học sinh phân tích, giải thích nguyên nhân hay
kết quả của một hiện tượng[1].
.
- Kỹ thuật sử dụng câu hỏi: Giáo viên nêu câu hỏi, thu hút sự chú ý của học
sinh, một vài em trả lời các em khác nhận xét bổ sung ý kiến. Cần tránh đàm
thoại gợi mở với cả lớp thành đàm thoại với một em. Giáo viên tỏ thái độ thân
mật, cởi mở, tin tưởng , khích lệ học sinh, chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh.
Sau khi học sinh trả lời giáo viên cần có nhận xét bổ sung và chuẩn kiến thức[1].
2.1.2. Phương pháp nêu vấn đề.
Dạy học nêu vấn đề là đặt trước học sinh một vấn đề hay một hệ thống
những vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa
biết, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề, kích thích hoạt động tư duy tích
cực của các em . Điểm mấu chốt của phương pháp dạy học nêu vấn đề là ở chỗ
làm thế nào để xuất hiện tình huống có vấn đề[1].
.
- Tình huống có vấn đề thường xuất hiện ở các trường hợp sau:
+ Vấn đề đặt ra có thể là một mâu thuẫn giữa những kiến thức đã có của
học sinh với những kiến thức mới[1].
.
5
+ Vấn đề đặt ra có thể là một nghịch lí, một sự kiện bất ngờ, một điều gì đó
không bình thường so với cách hiểu cũ của học sinh [1]. 1
+ Vấn đề đặt ra có thể là một sự kiện, một hiện tượng mới mà học sinh
không thể dùng những hiểu biết, những vốn tri thức cũ để giải thích được[1].
+ Vấn đề đặt ra trong trường hợp học sinh đứng trước sự lựa chọn một
phương án trong số nhiều phương án, mà xem ra phương án nào cũng hợp lí[1].
Có thể thấy phương pháp nêu vấn đề trong dạy học địa lí có một số nội
dung giống phương pháp đàm thoại gợi mở nhưng thực chất không hẳn là hoàn
toàn như vậy. Bỡi câu hỏi trong phương pháp nêu vấn đề bắt buộc phải chứa
đựng mâu thuẫn nhận thức[1].
.
2.1.3. Phương pháp đóng vai.
Phương pháp đóng vai là một phương pháp gây sự chú ý, thu hút người học
tham gia vào bài giảng. Đây cũng là một phương pháp tạo bầu không khí sôi nỗi
cho lớp học , từ đó người dạy và người học trở nên thân thiện, gần gũi với nhau
hơn, tác động tích cực để giờ giảng đạt hiệu quả cao[2].
- Các bước thực hiện:
+ Biên soạn kịch bản: nội dung kịch bản phải liên quan đến nội dung bài
học. Có thể kịch bản đơn giản chỉ là ý tưởng[2].
+ Chọn diễn viên và giao nhiệm vụ cho diễn viên: căn cứ vào nội dung và
các nhân vật trong kịch bản, giáo viên chọn diễn viên phù hợp với vai diễn[2].
+ Thực hiện vai diễn: người học nhập vai và thể hiện vai diễn. Cả lớp cùng
quan sát. Giáo viên quan sát và cắt vở diễn đúng lúc[2].
+ Trao đổi với người học về vở diễn: Sau màn diễn, giáo viên trao đổi, hỏi
đáp cùng cả lớp những nhận xét, suy nghĩ quanh nội dung, những vấn đề thể
hiện[2].
+ Giáo viên tổng kết: kết nối ý kiến người học với mục đích kịch bản, bổ
sung ý kiến và định hướng vào nội dung bài học[2].
Lưu ý: về thời gian, kịch bản cần kịch tính, hấp dẫn, chọn diễn viên phù
hợp, diễn viên cần có đủ thời gian để chuẩn bị, diễn viên tránh quay lưng xuống
lớp khi diễn. Giáo viên bố trí lớp học sao cho cả lớp cùng quan sát được..Khi
tuyên bố chấm dứt giáo viên phải dứt khoát[2].
.
2.1.4. Trò chơi sư phạm.
Trò chơi sư phạm là hoạt động bổ trợ cho giờ giảng, bao hàm sự tham gia
tích cực của người học về thể chất và tinh thần của người học vào các vận động
thể chất và tinh thần nhất định, nhằm tạo không khí vui vẻ thoải mái trong lớp
học, khiến người học tiếp thu bài học hiệu quả[2].2
1
Trong trang này nội dung được tham khảo ở tài liệu tham khảo số 1.
6
Trò chơi sư phạn ngoài mục đích giải trí còn gắn với mục tiêu học tập, là
hình thức học mà chơi, chơi mà học, việc học trở nên tích cực, chủ động, tự giác
hơn, từ đó giúp người học thích thú, nhớ lâu hơn[2].
- Các yêu cầu cần thiết của trò chơi: luật chơi, người điều khiển trò chơi,
trọng tài, hình thức thưởng – phạt[2].
- Lưu ý: Trò chơi phải phù hợp với đối tượng chơi. Trò chơi cần mang tính
giáo dục cao, mục đích chơi định hướng tới mục đích giáo dục. Khi trò chơi kết
thúc , giáo viên cần cùng người học rút ra nội dung của bài học[2].
.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
2.2.1. Thuận lợi.
- Ban Giám hiệu Trường THPT Yên Định 2 rất quan tâm đến vấn đề đổi mới
phương pháp giảng dạy và nâng cao hiệu quả giáo dục.
- Học sinh Trường THPT Yên Định 2 có truyền thống hiếu học, ham hiểu biết
nên việc ứng dụng sáng kiến vào trong giảng dạy có nhiều thuận lợi hơn.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật ngày càng đổi mới, hiện đại, đáp ứng yêu cầu giảng
dạy (trang bị thêm nhiều phòng máy, thiết bị trợ giảng…)
- Qua khảo sát điều tra giáo viên dạy môn Địa lí ở các Trường THPT Yên
Định 2( 3 giáo viên), Trường THPT Yên Định 1 ( 3 giáo viên), Trường THPT
Yên Định 3 (2 giáo viên) và Trường THCS&THPT Thống Nhất ( 2 giáo viên),
thì có tới 60% giáo viên quan niệm là rất quan trọng và 30% quan niệm là quan
trọng khi kết hợp các phương pháp đàm thoại gợi mở, nêu vấn đề, đóng vai và
trò chơi sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18.Đô thị
hóa- Địa lí 12- Chuẩn. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc kết hợp các
phương pháp đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề, đóng vai, trò chơi sư phạm nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18. Đô thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn.
2.2.2. Khó khăn.
- Vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên ( chiếm 10% ) cho rằng không qun
trọng lắm việc kết hợp các phương pháp đàm thoại gợi mở, nêu vấn đề, đóng vai
và trò chơi tiếp sức nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18.Đô
thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn. Họ cho rằng chỉ cần đổi mới phương pháp dạy học là
đủ.
- Không phải bài học Địa lí nào cũng có thể áp dụng các phương pháp trên
trong giảng dạy. Có những bài, những nội dung thích hợp với các phương pháp
đó nhưng lại có những bài, những nội dung không phù hợp, giáo viên phải là
2
Trong trang này: phần tiếp theo của mục 2.1.2 được tham khảo ở TLTK số 1. Mục 2.1.3 và mục 2.1.4 được
tham khảo ở TLTK số 2.
7
người nghiên cứu sách giáo khoa, tìm tòi, phát hiện và sử dụng sao cho phù
hợp3.
- Vẫn còn một bộ phận nhỏ học sinh còn lười học, đôi khi sẽ quấy rối giờ học
nếu giáo viên giảng dạy không dứt khoát. Ví dụ như đối với phương pháp đóng
vai, học sinh cố tình kéo dài vỡ diễn gây mất thời gian, hay ở trò chơi sư phạm
quan trọng hóa phần thắng- thua gây mất đoàn kết, ảnh hưởng đến không khí
học tập trong lớp cũng như ảnh hưởng đến giờ học của lớp khác.
- Một bộ phận nhỏ học sinh cho rằng môn Địa lí là môn phụ nên không chú ý
học, không tích cực tham gia các hoạt động học, từ đó gây khó khăn cho giáo
viên trong quá trình thực hiện các phương pháp.
- Một bộ phận giáo viên ngại áp dụng các phương pháp như đóng vai và trò
chơi tiếp sức nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18.Đô thị hóaĐịa lí 12- Chuẩn vì sợ ảnh hưởng tiếng ồn đến lớp bên cạnh.
2.3. Giải pháp giải quyết vấn đề.
Một số phương pháp như đóng vai hay trò chơi tiếp sức còn tương đối mới
mẻ đối với học sinh nên trước khi thực nghiệm tôi đã tiến hành giảng dạy không
áp dụng các phương pháp trên ở hai lớp 12C1, 12C2, kết quả đạt được chưa cao.
Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn áp dụng ở lớp 12C8 (lớp thực nghiệm) và 12C9
(lớp đối chứng) cụ thể như sau:
2.3.1. Phương pháp dạy học đàm thoại gợi mở .
* Câu hỏi áp dụng cho mục a trong phần 1. Đặc điểm
- Câu hỏi lớn: Chứng minh quá trình đô thị hóa của nước ta diễn ra chậm
chạp, trình độ đô thị hóa thấp?
- Hệ thống câu hỏi nhỏ phục vụ trả lời câu hỏi lớn:
+ Đô thị đầu tiên của nước ta xuất hiện vào thời gian nào? Có tên là gì?
→ Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Đô thị đầu tiên của nước ta
xuất hiện từ rất sớm – thế kỉ III trước CN đó là thành Cổ Loa của nước Âu Lạc.)
+Quá trình đô thị hóa giữa các thời kì và giữa hai miền Nam- Bắc có giống
nhau không?
→ Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức bằng việc sử dụng trò chơi sư
phạm ở phần 2.3.4).
+ Tại sao quá trình đô thị hóa giữa các thời kì và giữa hai miền Nam- Bắc
không giống nhau?
→ Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Do ảnh hưởng nặng nề bỡi
chiến tranh, tốc độ phát triển kinh tế còn chậm.
+ Chứng minh trình độ đô thị hóa ở nước ta thuộc loại thấp?
3
Trong trang này: phần tiếp theo của mục 2.1.4 được tham khảo từ TLTK số 2, phần còn lại “của” tác giả
8
→ Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Cơ sở vật hạ tầng còn nghèo
nàn, lạc hậu, xuống cấp đặc biệt là hệ thống giao thông, điện, nước, các công
trình phúc lợi, đa số các đô thị loại nhỏ, đời sống dân cư còn thấp.
* Câu hỏi áp dụng cho phần b, c mục 1. Đặc điểm.
- Dựa vào bảng 18.1 SGK , nhận xét sự thay đổi số dân thành thị và tỉ lệ dân
thành thị của nước ta giai đoạn 1990-2005? Tại sao có sự thay đổi đó?
→ Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Số dân thành thị và tỉ lệ dân
thành thị của nước ta tăng liên tục trong giai đoạn 1990-2005. Tốc độ tăng số
dân thành thị năm 2005 là 172,8% so với năm 1990. tỉ lệ dân thành thị tăng từ
19,5% năm 1990 lên 26,9% năm 2005. Nguyên nhân: kết quả của quá trình
CNH_HĐH; mở rộng địa giới của một số thành phố, thị xã; dân di cư vào các đô
thị…..
- Dựa vào bảng 18.2 SGK , nhận xét sự phân bố đô thị và số dân đô thị giữa
các vùng trong cả nước năm 2006?
→ Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Vùng có số lượng đô thị nhiều
nhất là trung du và miền núi Bắc Bộ- 167 đô thị- gấp 3 lần vùng có số lượng đô
thị thấp nhất là Đông Nam Bộ. Số dân đô thị đông nhất thuộc về Đông Nam Bộ
và thấp nhất Tây Nguyên. Đa số đô thị nước ta là đô thị nhỏ và trung bình, đô thị
là thành phố rất ít.
* Lưu ý: Khi đặt câu hỏi, giáo viên cần thu hút sự chú ý của tất cả các em.
Khi một em trả lời phải khéo léo lôi cuốn sự chú ý của các em khác. Giáo viên
phải quan tâm đến tất cả học sinh khi gọi học sinh trả lời. Giáo viên phải thể
hiện được sự thân mật, cởi mở, tin tưởng học sinh. Học sinh chủ động trả lời và
lĩnh hội kiến thức.
2.3.2. Phương pháp nêu vấn đề.
Như tôi đã trình bày ở phần cơ sở lí luận, câu hỏi nêu vấn đề phải là câu hỏi
đặt trước học sinh một vấn đề hay một hệ thống những vấn đề nhận thức có chứa
đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển học sinh vào tình
huống có vấn đề, kích thích hoạt động tư duy tích cực của các em. Việc xây
dựng các câu hỏi có vấn đề phải dựa vào những tình huống có vấn đề thì mới có
thể xây dựng câu hỏi nêu vấn đề. Đối với bài này có thể xây dựng được các câu
hỏi nêu vấn đề lồng ghép với phương pháp đàm thoại gợi mở ở các nội dung
sau:
- Phần a và c trong mục 1. Đặc điểm. Các tình huống có vấn đề như sau:
Tình huống có vấn đề thứ nhất là:
+ Đô thị đầu tiên của nước ta xuất hiện từ rất sớm (thế kỉ III Trước công
nguyên) mà hiện nay tỉ lệ dân thành thị của nước ta mới chỉ đạt 26,9%.Tại sao
lại như vậy? Điều đó có mâu thuẫn không và nó chứng tỏ được điều gì?
9
→ Học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Mặc dù đô thị đầu
tiên của nước ta xuất hiện từ rất sớm nhưng đến nay tỉ lệ dân thành thị của nước
ta mới chỉ đạt 26,9% ( thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới). Điều
đó chứng tỏ quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra chậm chạp.
Tình huống có vấn đề thứ hai là:
+ Đông Nam Bộ là vùng có số lượng đô thị ít nhất, vậy có phải là vùng có số
dân đô thị thấp nhất, quy mô dân số/ đô thị sẽ thấp nhất? Ngược lại Trung du và
miền núi Bắc Bộ có số lượng đô thị nhiều nhất thì sẽ là vùng có số dân đô thị
đông nhất và quy mô dân số/ đô thị sẽ cao nhất?
→ Học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Đông Nam Bộ có số
lượng đô thị ít nhất nhưng lại là vùng có số dân đô thị cao nhất nên số dân thành
thị/ đô thị cao nhất thuộc về Đông Nam Bộ. Trung du và miền núi bắc Bộ: có số
lượng đô thị nhiều nhất nhưng không phải là vùng có số dân đô thị đông nhất
nên số dân thành thị/ đô thị thấp nhất thuộc về Trung du và miền núi bắc Bộ.
Điều đó chứng tỏ sức hấp dẫn và quá trình đô thị hóa ở Đông Nam Bộ cao hơn
nhiều so với Trung du và miền núi Bắc Bộ và với các vùng khác trong cả nước.
* Lưu ý: Nội dung trong sách giáo khoa Địa lí hiện nay thường ít chứa đựng
các vấn đề nhận thức. Đây là một trong những khó khăn cho giáo viên khi áp
dụng phương pháp nêu vấn đề. Để khắc phục điều này, giáo viên cần tìm tòi,
phát hiện và xây dựng tình huống có vấn đề trong từng nội dung, từng đơn vị
kiến thức nếu có thể.
2.3.3. Phương pháp đóng vai.
Phương pháp này áp dụng cho mục 2. Mạng lưới đô thị. Cụ thể:
- Bước 1. Biên soạn kịch bản: Nội dung của kịch bản là nội dung của mục 2.
- Bước 2: Chọn diễn viên và giao nhiệm vụ cho diễn viên.
+ Giáo viên chọn một vài em hoặc cho cả lớp chuẩn bị kĩ nội dung hỏi trước
ở nhà sau đó giáo viên sẽ chọn ngẫu nhiên một em.
+ Giáo viên chọn một số em hoặc cũng có thể là cả lớp chuẩn bị nội dung trả
lời và xác định các nội dung trên bản đồ treo tường sau đó cử ngẫu nhiên một
em.
- Bước 3: Thực hiện việc đóng vai.
+ Người diễn thứ nhất sẽ đóng vai hỏi: Nếu giả sử bạn là một hướng dẫn viên
du lịch, một người khách du lịch muốn biết về các đô thị, cách phân loại các đô
thị ở Việt nam thì bạn sẽ giới thiệu như thế nào? ( Ví dụ như: Dựa vào các tiêu
chí như: số dân, chức năng, một độ dân số…….mạng lưới đô thị nước ta được
phân làm mấy loại? Đó là những loại nào? Xác định trên bản đồ. Nếu căn cứ vào
cấp quản lí đô thị thì đô thị ở nước ta phân loại như thế nào? Xác định trên bản
đồ các đô thị đó?)
10
+ Người diễn thứ hai sẽ đóng vai trả lời và chỉ trên bản đồ treo tường hoặc
trên các slides.
- Bước 4: Trao đổi với người học về vở diễn.
Sau màn diễn, giáo viên trao đổi, hỏi đáp cùng cả lớp về những nhận xét , nội
dung về cách phân loại đô thị. Nhận xét về việc xác định các đô thị đó trên bản
đồ.
- Bước 5: Giáo viên tổng kêt, chuẩn kiến thức
→ Giáo viên chuẩn kiến thức:
Dựa vào các tiêu chí như số dân, chức năng, mật độ dân số…mạng lưới
đô thị nước ta phân làm 6 loại ( loại đặc biệt: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh; loại 1:
Hải Phòng, Đà Nẵng..; loại 2,3,4,5)
Căn cứ vào cấp quản lí: đô thị nước ta được phân làm hai loại là: đô thị
trực thuộc Trung ương và đô thị trực thuộc tỉnh.
* Lưu ý: chọn người diễn phải tự nhiên, diễn cảm, nhập vai diễn. Trong tình
huống này người trả lời nên vừa trả lời vừa chỉ trên bản đồ . Nếu có kiến thức về
du lịch thì có thể giới thiệu cho người khách những nét nổi bật của một vài đô
thị với chức năng chue yếu là du lịch, tuy nhiên không được diễn quá sâu phần
này. Giáo viên phải là người biết cắt vở diễn đúng lúc.
2.3.4. Trò chơi sư phạm..
* Trò chơi 1: Áp dụng cho đơn vị kiến thức : Quá trình đô thị hóa không
giống nhau giữa các thời kì và giữa hai miền Nam- Bắc. Cụ thể:
- Bước 1: Giáo viên chia lớp làm 2 nhóm ( dãy bên tay phải là nhóm 1, dãy
bên tay trái là nhóm 2). Mỗi nhóm cử 1 bạn đại diện nhóm lên chơi. Giáo viên là
trọng tài. Thời gian cho các đội chơi là 2 phút.
- Bước 2: Nội dung chơi: Ghép các bảng kiến thức ở cột A sao cho phù hợp
với cột B.
Thời kì
Đặc điểm
( Cột A)
(Cột B)
Thời Pháp thuộc
Do quá trình CNH-HĐH nên
quá trình đô thị hóa diễn ra
mạnh.
Sau cách mạng
Tháng Tám và
kháng chiến chống
Mỹ.
Hệ thống đô thị không có cơ hội
mở rộng, Pháp dùng chính sách
chia để trị nên mạng lưới đô thị
mang tính hành chính- quân sự.
11
Sau năm 1975.
Ở niềm Nam dân hồi hương,
trong cả nước dân cư được điều
động đi xây dựng vùng kinh tế
mới nên tỉ lệ dân thành thị thấp.
Hiện nay
Ở miền Nam do bị dồn dân vào
các thành phố, ở miền bắc dân
lánh nạn ở nông thôn trở về
thành phố, công cuộc xây dựng
và khôi phục kinh tế nên tỉ lệ
dân thành thị cao.
- Bước 3: Giáo viên phổ biến luật chơi: Đại diện của nhóm sẽ ghép hoặc nối
(tùy vào cách lựa chọn của giáo viên) nội dung ở cột A sao cho tương ứng với
nội dung ở cột B với thời gian nhanh nhất, đúng nhất. Đội nào nối được nhiều
nội dung đúng trong thời gian ngắn nhất sẽ là đội chiến thắng.
- Bước 4: Giáo viên chấm điểm và chuẩn kiến thức: mỗi nội dung đúng được
tính một điểm. Nhóm nào được nhiều điểm hơn thì nhóm đó sẽ thắng. Phần
thưởng cho nhóm thắng là một tràng vỗ tay giòn giã của cả lớp, hoặc để khích lệ
em tham gia chơi giáo viên có thể thưởng điểm cho bạn thắng cuộc và thưởng
tràng vỗ tay cho dãy thắng cuộc.
Bảng chuẩn kiến thức của trò chơi.
Thời kì
Đặc điểm
( Cột A)
(Cột B)
Thời Pháp thuộc
Do quá trình CNH-HĐH nên
quá trình đô thị hóa diễn ra
mạnh.
Sau cách mạng
Tháng Tám và
kháng chiến chống
Mỹ.
Hệ thống đô thị không có cơ
hội mở rộng, Pháp dùng
chính sách chia để trị nên
mạng lưới đô thị mang tính
hành chính- quân sự.
Sau năm 1975.
Ở niềm Nam dân hồi hương,
trong cả nước dân cư được
điều động đi xây dựng vùng
kinh tế mới nên tỉ lệ dân
thành thị thấp.
Hiện nay
Ở miền Nam do bị dồn dân
12
vào các thành phố, ở miền
bắc dân lánh nạn ở nông thôn
trở về thành phố, công cuộc
xây dựng và khôi phục kinh
tế nên tỉ lệ dân thành thị cao.
* Trò chơi 2:
Căn cứ vào nội dung bài học cũng như cơ sở lí luận của trò chơi sư phạm,
mục 3 lại là phần cuối của bài học (theo nghiên cứu vào cuối tiết học, học sinh
thường ể oải), vì vậy để lấy lại không khí sôi nổi của tiết học, gây hứng thú cho
học sinh, việc áp dụng trò chơi sư phạm ở mục này theo tôi là hợp lí. Cách tiến
hành như sau:
- Bước 1: Giáo viên chia lớp làm 2 nhóm ( dãy bên tay phải là nhóm 1, dãy
bên tay trái là nhóm 2). Mỗi nhóm cử 5 bạn đại diện nhóm lên chơi ( 5 đại diện
là người chuẩn bị tốt nhất nội dung chơi). Lớp trưởng sẽ là người quản trò và là
trọng tài. Thời gian cho các đội chơi là 5- 7 phút.
- Bước 2: Nội dung chơi: Điền vào ô trống những tác động tích cực và tiêu
cực của đô thị hóa đến phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta.
- Bước 3: Giáo viên phổ biến luật chơi: 5 bạn đại diện của nhóm sẽ đúng
thành hàng dọc ở giữa của lớp học. Sau khi có hiệu lệnh của người quản trò hô
bắt đầu thì người đứng đầu của các nhóm sẽ lên bảng viết vào phần bảng của
nhóm mình( giáo viên đã chia sẵn) những tác động tích cực và tiêu cực của đô
thị hóa ở nước ta đến sự phát triển kinh tế xã hội. Sau khi người thứ nhất viết
xong về cuối vị trí hàng đứng thì người tiếp theo mới được lên viết. Cứ như thế
cho đến khi người quản trò hô hết giờ.( Các trường hợp vi phạm luật chơi:
không tính nội dung đó khi người chơi chơi trước khi tính thời gian, khi người
thứ nhất chưa về đúng vị trí người thứ hai đã tham gia chơi)
- Bước 4: Giáo viên yêu cầu cổ động viên chấm điểm: mỗi nội dung đúng
được tính một điểm, nếu học sinh ghi tác động tích cực thành tiêu cực hay
ngược lại thì không tính điểm, những nội dung phạm luật không tính điểm.
Nhóm nào được nhiều điểm hơn thì nhóm đó sẽ thắng. Phần thưởng cho nhóm
thắng là một tràng vỗ tay giòn giã của cả lớp, hoặc để khích lệ các em tham gia
chơi giáo viên có thể thưởng điểm cho 5 bạn thắng cuộc và thưởng tràng vỗ tay
cho dãy thắng cuộc. Sau đó giáo viên chuẩn kiến thức.
→ Giáo viên chuẩn kiến thức: Ảnh hưởng của đô thị hóa đến phát triển kinh
tế- xã hội
- Tích cực:
+ Đô thị hóa tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
nước ta.
13
+ Các đô thị ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội của các địa
phương, các vùng trong cả nước.
+ Các thành phố, thị xã là các thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và
đa dạng, là nơi sử dụng đông đảo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kĩ
thuật; có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, có sức hút đầu tư…..
+ Các đô thị có khả năng tạo ra được nhiều việc làm và thu nhập cho người
lao động.
- Tiêu cực:
+ Môi trường bị ô nhiễm
+ Việc quản lí trật tự, an ninh xã hội phức tạp.
+ Sự phân hóa giàu- nghèo sâu sắc.
* Lưu ý: từng thành viên trong đội phải tham gia chơi một cách tích cực,
nhanh, chính xác. Khi người thứ nhất đã kết thúc phần chơi của mình thì người
thứ hai phải quan sát và xuất phát trong điều kiện nhanh nhất có thể ( nhưng
không vi phạm luật). Cả lớp có thể cổ vũ, khích lệ tinh thần các bạn tham gia
chơi. Cổ động viên không được nhắc nội dung chơi cho người tham gia chơi.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua trải nghiệm thực tế giảng dạy tại Trường THPT Yên Định 2, cùng với
sự cố gắng của bản thân, cộng tác của học sinh, giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp,
việc sử dụng kết hợp các phương pháp đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề, đóng vai
và trò chơi sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học bài 18. Đô thị hóa Địa lí 12- Chuẩn, đã đạt được kết quả nhất định.
2.4.1. Kết quả chung của tiết học.
- Tiết học Địa lí không còn nhàm chán, khô khan.
- Khắc phục được tình trạng ngủ gật, lim dim của một số đối tượng học sinh
đặc biệt vào cuối tiết học bằng phương pháp trò chơi sư phạm.
- Ý thức học tập của tất cả học sinh được nâng lên rõ rệt.
- Hiệu quả, chất lượng giờ học được nâng cao.
2.4.2. Kết quả xếp loại cụ thể của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng.
Căn cứ vào đối tượng, chất lượng học sinh, tôi đã tiến hành thực nghiệm ở
lớp 12C8 và lớp đối chứng là lớp 12C9 Trường THPT Yên Định 2 (đối tượng và
chất lượng học sinh ở hai lớp này tương đương nhau) trong năm học 2016-2017,
kết quả như sau:
Bảng kết quả kiểm tra sau thực nghiệm.
Xếp
Sĩ
Giỏi
Khá
14
Trung bình
Yếu
loại
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp
thực
nghiệm
(12C8)
38
10
26,3
20
52,6
12
21,1
0
0
Lớp đối
chứng
(12C9)
40
2
5
10
25
28
70,0
0
0
Qua bảng trên cho thấy, ở lớp thực nghiệm sử dụng kết hợp các phương
pháp đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề, đóng vai và trò chơi sư phạm nhằm nâng
cao hiệu quả trong dạy học bài 18. Đô thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn, chất lượng giáo
dục được nâng cao rõ rệt. Số lượng học sinh đạt khá giỏi chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn
so với lớp đối chứng (78,9% so với 30%), tỉ lệ học sinh đạt loại trung bình ở lớp
thực nghiệm thấp hơn hẳn (21,1 %) trong khi đó lớp đối chứng là 70 %. Điều đó
cho thấy kết quả khi kết hợp các phương pháp đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề,
đóng vai và trò chơi tiếp sức nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học bài 18. Đô
thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn, cao hơn rất nhiều.
15
3. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, việc kết hợp sử dụng các
phương pháp trong dạy học là điều hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to
lớn. Tôi cũng như nhiều đồng nghiệp khác ngày đêm chăn chở, từng ngày, từng
giờ, tìm tòi, nghiên cứu, ứng dụng các biện pháp sao cho phù hợp với nội dung,
với đối tượng học sinh nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, đạt mục tiêu mà ngành
giáo dục đã đề ra. Sự kết hợp các phương pháp đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề,
đóng vai và trò chơi sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học bài 18. Đô
thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn đã đạt được kết quả tốt. Tuy nhiên đây cũng mới chỉ là
một kết quả nhất định, áp dụng trong phạm vi rất nhỏ (một bài) vào sự nghiệp
giáo dục. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của bạn bè, đồng nghiệp, bạn
đọc để tôi có thêm nhiều kinh nghiệm hoàn thành tốt nhiện vụ được giao.
3.2. Kiến nghị.
Cơ sở vật chất kĩ thuật của Trường THPT Yên Định 2 ngày càng được trang
bị tiện nghi, hiện đại. Tuy nhiên, phần lớn các phòng học mức độ cách âm còn
kém nên đôi khi việc áp dụng các phương pháp như đóng vai hay trò chơi ảnh
hưởng đến lớp bên cạnh. Do đó nhà trường cần đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất
kĩ thuật để giáo viên có thể tổ chức tốt tiết học của mình mà không lo ảnh hưởng
đến lớp bên cạnh.
Xác nhận của Hiệu trưởng
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm
này là do tôi viết, không sao chép của
người khác.
Thanh hóa, ngày 10 tháng 05 năm 2017
Người viết
Lê Thị Thắm
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Vũ – Phương pháp dạy học Địa lý ở trường phổ thông. Tập 1.
Đại học sư phạm Huế.
2. Cẩm nang phương pháp sư phạm- NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
17