Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một vài kỹ năng sử dụng kênh hình ở bài 19, 21, 23 lịch sử việt nam(1858 1918), sách giáo khoa lớp 11 chương trình cơ bản ở trường THPT quan sơn 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.03 KB, 20 trang )

Trêng THPT Quan S¬n 2
kiÕn kinh nghiÖm

S¸ng

MỤC LỤC
I. MỞ
ĐẦU...........................................................................................................
1.1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................
1.2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................
1.3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................
1.4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM...................................................
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh
nghiệm.......................................................
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.......................
2.2.1. Tình hình đặc điểm trường THPT Quan Sơn 2..........................................
2.2.2. Vài nét khái quát về tình hình giảng dạy và học tập môn Lịch sử khối 11
của học sinh trường THPT Quan Sơn 2...............................................................
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.............................................
2.3.1. Giải quyết vấn đề.......................................................................................
2.3.2. Các biện pháp để tổ chức thực
hiện............................................................
2.3.2.1. Bài19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (từ năm
1858 đến trước năm 1873)...........................................................................
2.3.2.2. Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam

1
1
2
2


2
3
3
3
3
3
4
4
5
5

trong những năm cuối thế kỷ

6

XIX........................................................................
2.3.2.3. Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỷ

1

XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914).......................................................
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm............................................................

3
1

2.4.1. Chất lượng giảng dạy và giáo dục..............................................................

5
1


2.4.2. Giúp đồng nghiệp.......................................................................................

5
1

2.4.3. Góp phần nâng cao chất lượng...................................................................

5
1

2.4.4. Chất lượng nhận thức của học sinh nâng lên rõ nét...................................

5
1
5

Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

1


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
III. KẾT LUẬN....................................................................................................

1
7


I. MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng đã nêu rõ “thực sự coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội,
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Thực hiện các chính sách ưu
tiên, ưu đãi đối với giáo dục và đào tạo”. Đó là những định hướng hết sức
đúng đắn đối với sự nghiệp giáo dục của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do vậy, việc quan tâm đến sự
nghiệp giáo dục và đào tạo đối với một quốc gia là hết sức cần thiết. Trong
thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm độc lập đầu tiên của nước
VNDCCH, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ân cần dặn dò thế hệ trẻ Việt Nam:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
được vẻ vang với các cường quốc năm châu hay không chính là nhờ một phần
lới công học tập của các cháu”.
Cùng với các chính sách về sự phát triể kinh tế, các chính sách về giáo
dục của Đảng và Nhà nước cũng luôn được đưa ra kịp thời, đặc biệt là trong
các nghị quyết trung ương Đảng. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm, chăm lo đến
sự nghiệp giáo dục của Đảng và Nhà nước ta. Trình độ dân trí của nước ta tuy
có phát triển, nhất là mấy năm gần đây, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp.
Chính vì vậy, bên cạnh sự nỗ lực, phấn đấu của Đảng và Nhà nước đối với
việc nâng cao dân trí. đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đòi hỏi phải có
sự phối hợp của các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng có liên quan và
đặc biệt phải có sự đồng tình ủng hộ của toàn dân.
Dưới thời Pháp thuộc, nền giáo dục của nước ta là nền giáo dục ngu
dân. Bác Hồ đã từng viết: “Trường lập ra không phải để giáo dục cho thanh
niên An Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực mở mang trí tuệ và phát
triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ càng đần độn thêm” Ngay

sau khi nước VNDCCH ra đời thì một vấn đề nổi lên trước mắt cần phải giải
quyết đó là diệt giặc dốt, đó là thời kỳ vô cùng khó khăn đối với sự nghiệp
giáo dục. Nhưng dù khó khăn tới đâu. Đảng và Nhà nước cũng tìm cách để
khắc phục để đưa sự nghiệp giáo dục - đào tạo đi lên.
Công cuộc đổi mới đất nước và thực tiễn thời đại đang đặt ra cho nhân
dân ta và đặc biệt là thế hệ trẻ những nhiệm vụ trọng đại: Đẩy tới một bước sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đi đôi với việc đổi mới và
nâng cao trình độ văn hoá giáo dục, khoa học - công nghệ vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, phấn đấu để dần sánh
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

2


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
vai với các cường quốc năm châu. Sứ mệnh lịch sử đó đòi hỏi con người Việt
Nam phải có tri thức về mọi mặt. Hồ Chủ tịch dạy rằng: “Muốn xây dựng
XHCN, trước hết cần phải có con người XHCN”.
Trong thời gian qua, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được đề
cập và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, quản lý giáo dục, giáo
viên trực tiếp giảng dạy. Nhìn chung đều khẳng định, đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là rất quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục. Với tình hình chung, đổi mới phương pháp
giảng dạy của bộ môn Lịch sử cũng đã được sự quan tâm đúng mức. Nhiều
phương pháp mới theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh đã được sử
dụng.
Việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử là sự kết hợp hài

hoà, nhuần nhuyễn của cả hệ thống phương pháp, mỗi phương pháp đều có
vai trò nhất định riêng. Trong đó phương pháp khai thác kênh hình trong sách
giáo khoa Lịch sử phục vụ cho giảng dạy, góp phần tích cực đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay.
Kênh hình trong sách giáo khoa không những minh hoạ, làm cơ sở cho
việc tạo biểu tượng lịch sử mà còn là một nguồn cung cấp kiến thức cho học
sinh, vì một số bài viết trong sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để bỏ ngỏ,
yêu cầu học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, lược đồ, sơ đồ... để tìm
tòi, khám phá những kiến thức mới, cần thiết liên quan đến nội dung bài học.
Ngoài ra việc khai thác tốt kênh hình sẽ tạo nên một không gian sinh động
trong giờ học, giúp học sinh chủ động tiếp thu kiến thức và học sinh sẽ nhớ
kĩ, hiểu sâu hơn những kiến thức đã học. Bên cạnh đó, còn góp phần phát
triển kĩ năng quan sát, phân tích, nhận xét, đánh giá và tư duy ngôn ngữ cho
học sinh.
Hiện tại, nhà trường rất ít tài liệu và không có đề tài liên quan về khai
thác kênh hình trong dạy học Lịch sử. Vậy, làm thế nào để khai thác tốt, nhằm
phát huy đúng vị trí, vai trò của kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử thì kĩ
năng khai thác kênh hình của giáo viên đóng vai trò quyết định. Từ những lý
do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Một vài kỹ năng sử dụng kênh hình ở
bài 19, 21, 23, Lịch sử Việt Nam (1858 - 1918), SGK lớp 11, đối với lớp
11A1 trường THPT Quan Sơn 2”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kênh hình
nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học Lịch sử, tôi tìm hiểu kiến thức
trong các bài 19, 21, 23 SGK lớp 11, đề xuất các nguyên tắc, giải pháp sử
dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian trong dạy, học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Quá trình khai thác và sử dụng kênh hình trong các bài 19, 21, 23
chương trình 11 để tạo biểu tượng dạy học cho học sinh lớp 11A1 trường
THPT Quan Sơn 2.

1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

3


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
- Tổng hợp, nghiên cứu các tài liệu có liên quan, tham khảo
các tư liệu hướng dẫn, được sự giúp đỡ của các đồng nghiệp
và sự tìm tòi, học hỏi, các biện pháp khai thác kênh hình sách
giáo khoa Lịch sử lớp 11 và thực hiện bài giảng trên lớp.
- Phương pháp quan sát, nhận xét, mô tả, tường thuật, phân tích, nhận định,
đánh giá, vẽ lược đồ, tường thuật, miêu tả, so sánh, rút ra qui luật, bài học lịch
sử.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả học sinh.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình trong các bài 19, 21, 23
chương trình 11 để tạo biểu tượng dạy học cho học sinh lớp 11A1 trường
THPT Quan Sơn 2, là hướng cho học sinh những cách học có hiệu
quả. Trong một thời gian ngắn các em có khả năng nắm được
kiến thức từ kênh hình kết hợp với kênh chữ để hiểu bài học,
không những thế mà còn mở rộng, hệ thống hoá được các
kiến thức đã học và vận dụng vào thực tế. Hình thành và tìm
tòi kiến thức là nhiệm vụ của người học. Người học phải chủ
động, tìm hiểu khai thác tư liệu có trong sách giáo khoa như:
lược đồ, biểu đồ, tranh ảnh... với các tư liệu sưu tầm khác để

rút ra kiến thức lịch sử. Sự sáng tạo trong học tập là con
đường dẫn đến sự thành công trên con đường tiếp nhận tri
thức.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Tình hình đặc điểm trường THPT Quan Sơn 2:
Trường THPT Quan Sơn 2 được sự quan tâm của Sở GD&ĐT, Huyện
uỷ, HĐND, UBND và các ban, ngành trong huyện; nhân dân trong huyện đã
có nhận thức tích cực về giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giảng
dạy và học tập.
Lãnh đạo nhà trường luôn đoàn kết, sáng tạo, làm việc khoa học tạo
được sự tin tưởng của cấp trên và nhân dân. Đội ngũ CBGV – NV hầu hết trẻ,
khoẻ, nhiệt tình, năng động tâm huyết với nghề. Tuy nhiên, do nhà trường
mới thành lập nên mọi mặt còn gặp rất nhiều khó khăn: Chế độ chính sách
cho CBGV – NV và học sinh còn nhiều bất hợp lý; cơ sở vật chất, trang thiết
bị dạy học thiếu thốn; trường nằm trên địa bàn kinh tế chậm phát triển, lại ở
xa các trung tâm. Chất lượng đầu vào của học sinh quá thấp...ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng giáo dục.
2.2.2. Vài nét khái quát về tình hình giảng dạy và học tập môn Lịch sử
khối 11 của học sinh trường THPT Quan Sơn 2:
Công tác giảng dạy – học tập môn Lịch sử trường THPT Quan Sơn 2
nhìn chung đạt kết quả ngày càng khả quan. Các em có ý thức trong học tập
và hiểu được ý nghĩa của môn học, chất lượng bài kiểm tra từ 15 phút trở lên
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

4


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng

kiÕn kinh nghiÖm
ngày càng cao. Tuy nhiên, chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn còn hạn
chế nhiều và còn khoảng cách rất xa so với các trường miền xuôi, đa số các
em vẫn còn bở ngỡ với phương pháp dạy học đổi mới. Một bộ phận không
nhỏ cha, mẹ học sinh và học sinh còn nhận thức không đúng về vai trò của bộ
môn cho đó là môn phụ đã ảnh hưởng đến việc học tập.
Một số tiết học giáo viên chỉ huy động một số học sinh khá, giỏi trình
bày lược đồ, bản đồ và khám phá tranh ảnh mà chưa giành cho đối tượng học
sinh yếu, kém. Cho nên, đối tượng học sinh này ít được chú ý hoặc không
được tham gia hoạt động, điều này làm cho các em thêm tự ti về năng lực của
mình và cảm thấy chán nản môn học.
Sự hạn chế của giáo viên về kỹ năng khai thác kênh hình. Từ đó, nhằm
giảm bớt số lượng học sinh yếu kém và nâng cao chất lượng dạy và học của
của bộ môn, bản thân tôi đã thấy được điều đó và cố gắng đưa ra các phương
pháp học tập tích cực, Đặc biệt, là kỹ năng khai thác kênh hình.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Giải quyết vấn đề:
Những năm gần đây, chúng ta nói nhiều đến việc “dạy học lấy học sinh
làm trung tâm”. Đây là một tư tưởng, một quan điểm mới về cách tiếp cận về
hoạt động dạy học. Quan điểm này trở thành những nguyên tắc dạy học nhằm
phát huy mọi khả năng của học sinh trong học tập, khắc phục tình trạng “dạy
học lấy giáo viên làm trung tâm” đã tồn tại hàng nhiều thế kỷ. Quan điểm này
xuất phát đúng rằng trong quá trình dạy học (giáo dục nói chung), học sinh
vừa là đối tượng ,vừa là chủ thể của nhận thức.Tuy nhiên, không nên quá
nhấn mạnh vào vai trò tự học, tự nhận thức của học sinh mà hạ thấp, coi
thường vai trò của giáo viên. Vì vậy, một nhà giáo dục Đức cho rằng: “Đối
với chúng tôi, việc dạy học tập trung vào học sinh không phải là kiểu dạy học
lý tưởng, mà nếu thực hiện nó thì ta được tất cả, hoặc không làm thì thu về số
không. Dạy học tập trung vào học sinh là một quá trình, trong đó thầy và trò
cùng nhau làm giảm dần mối quan hệ điều khiển, chỉ huy và bị điều khiển, bị

chỉ huy một chiều. Thầy và trò cùng nhau học tập, làm cho tất cả những gì
thuộc về thuật ngữ “dạy học” đều được vận hành. Nó tạo ra mối quan hệ
không có sự sợ hãi, chia sẻ và thông hiểu lẫn nhau”.
Quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm” được hiểu là trong quá trình
dạy học, các thầy, cô giáo có vai trò giáo dục, hướng dẫn học sinh, phát huy
tính chủ động, tích cực của học sinh, để tiếp thu kiến thức, bồi dưỡng quan
điểm, tư tưởng, phát triển năng lực tư duy và hành động. Do đó, phương pháp
“lấy học sinh làm trung tâm” không phải là từ bỏ những phương pháp truyền
thống để tìm phương pháp hoàn toàn mới, trong đó học sinh phải trả lời nhiều
câu hỏi thầy đưa ra. Vấn đề ở chỗ, từ khả năng nhận thức của học sinh, từ
những dạng bài, giáo viên đưa ra các phương cách thích hợp.
Do vậy, khi giảng dạy chúng ta vẫn phải kết hợp các phương pháp hợp
lý, linh hoạt tạo sự sinh động, hứng thú cho học sinh. Dưới đây là một vài kỹ
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

5


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
năng sử dụng kênh hình ở các bài 19, 21, 23, Lịch sử Việt Nam (1858 - 1918),
SGK lớp 11, đối với lớp 11A1 trường THPT Quan Sơn 2”.
Để việc sử dụng tranh ảnh, thống nhất và có hiệu quả nhằm phát huy
được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn và
theo quan điểm đổi mới dạy học, thiết bị đồ dùng dạy học là một nguồn nhận
thức lịch sử chứ không chỉ là minh hoạ cho bài học, xin được nêu một số kỹ
năng về việc sử dụng tranh, ảnh lịch sử để dạy học Lịch sử cho học sinh lớp
11A1.

Các bước thực hiện: Để việc khai thác tranh ảnh có hiệu quả, phát huy
được tính tích cực của học sinh nhằm mục tiêu học sinh tự tìm hiểu nội dung
của tranh ảnh dưới sự hướng dẫn tổ chức của thầy, cần thông qua các bước:
Bước 1: Cho học sinh quan sát tranh ảnh để xác định một cách khái quát
nội dung tranh ảnh cần khai thác.
Bước 2: GV nêu câu hỏi nêu vấn đề, tổ chức hướng dẫn học sinh tìm hiểu
nội dung tranh ảnh.
Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh ảnh sau khi đã
quan sát, kết kợp gợi ý của GV và tìm hiểu nội dung trong bài học.
Bước 4: GV nhận xét, bổ sung HS trả lời, hoàn thiện nội dung khai thác
tranh ảnh cung cấp cho HS.
Cuối cùng, học sinh nắm được cách khai thác tranh ảnh và nội dung tranh
ảnh trong bài học.
2.3.2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện:
2.3.2.1. Bài19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (từ
năm 1858 đến trước năm 1873):
Trương Định nhận phong soái (tranh vẽ)

* Hướng dẫn học sinh:
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

6


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
- Miêu tả quang cảnh và tường thuật lễ phong soái cho Trương Định (Chú
ý: Phong cảnh ở vùng quê Nam Kỳ, nhân dân (bên phải của bức tranh) tham

dự rất đông, phấn khởi, hào hùng, mang theo cờ, trướng, các nghĩa binh với
vũ khí thô sơ, đại diện của nhà dân mặc áo dài, khăn xếp hay trang phục kiểu
nhà võ lúc bấy giờ...). Cảnh tượng này đối lập với cảnh quan quân triều đình
(phía trái bức tranh), viên quan ngơ ngác hoảng sợ; ngựa quay đầu lại, chuẩn
bị lên đường, quân lính nhớn nhác.
- Qua cảnh tượng trên, em suy nghĩ như thế nào về Trương Định?
* Học sinh trả lời, giáo viên chốt ý:
Trương Định sinh năm 1820, tại xã Tư Cung, nay thuộc huyện Sơn Tịnh,
tỉnh Quảng Ngãi. Ông là người cao lớn, nước da trắng, dáng người thanh tú,
theo cha là Trương Cầm đánh binh Gia Định vào tổ chức khi phá đất hoang ở
phía Nam. Ngay sau khi quân Pháp chiếm thành Gia Định (17 - 2 - 1859), ông
đã đưa đội quân đến đóng tại Thuận Kiều, phối hợp với quân đội chính quy
của triều đình xung phong đánh giặc.
Hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân Trương Định làm cho giặc Pháp và
triều đình lo sợ. Triều đình đã hạ lệnh bắt ông phải bãi binh, hai lần điều ông
đi nhận chức Lãnh binh ở An Giang và Phú Yên.
Khi nghe tin có sắc phong của triều đình, những nghĩa quân trung thành
cùng quần chúng nhân dân đã tập hợp xung quanh Trương Định, suy tôn
Trương Định làm chủ soái để giết giặc, cứu nước, cứu dân. Buổi lễ Trương
Định nhận phong soái diễn ra giản dị nhưng trang nghiêm tại một vùng nông
thôn Nam Kỳ, dưới sự chứng kiến của đông đảo nhân dân. Họ làm một lễ đài
bằng gỗ, trên đặt hương án, phía sau có bức trướng ghi dòng chữ Hán “Bình
Tây Đại Nguyên soái” (Vị nguyên soái đánh dẹp quân Pháp). Trong buổi lễ,
Trương Định giơ tay đón nhận thanh kiếm do một người già có uy tín, đại
diện cho nhân dân trao tặng và suy tôn ông làm Bình Tây Đại Nguyên soái.
Việc Trương Định kiên quyết không nhận sắc phong của triều đình và
đứng về nhân dân chống giặc Pháp đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo
quần chúng và làm cho đại diện của triều đình phải kinh ngạc.
Sau khi nhận chức do nhân dân phong, Trương Định đem đại quân về
đóng ở Gò Công. Từ đây, nghĩa quân có nhiều hoạt động, gây cho địch nhiều

thiệt hại.
2.3.2.2. Bài 21: Phong trào
yêu nước chống Pháp của nhân
dân Việt Nam trong những năm
cuối thế kỷ XIX:
1. Hình: Vua Hàm Nghi (1872 - 1943)

* Hướng dẫn học sinh: Giáo
viên hướng dẫn học sinh quan
sát bức ảnh vua Hàm Nghi và đặt
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

7


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
câu hỏi: Qua tìm hiểu em hãy nêu những sự hiểu biết về vua Hàm Nghi?
* Học sinh trả lời, giáo viên kết luận:
Hoàng tử, con Kiến Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, em ruột Nguyễn
Phúc Ưng Đăng (tức vua Kiến Phúc). Khi vua Kiến Phúc bị đầu độc chết, ông
được Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi, lấy hiệu năm là
Hàm Nghi, nên cũng gọi là vua Hàm Nghi. Ông không phải là con nuôi của
vua Tự Đức nên không thuộc diện để chọn làm vua. Sở dĩ ông được lên ngôi
vì còn nhỏ tuổi. Vả lại lúc đó khó tìm ra người hoàng tộc đủ điều kiện để làm
vua. Lẽ ra Ưng Ki (sau này là vua Đồng Khánh) được nối ngôi, nhưng ông
này không được cảm tình của Tường và Thuyết.
Ngày 23 - 5 - 1885, Tôn Thất Thuyết phản công quân Pháp tại kinh thành,

nhưng thất bại, rồi đưa vua đi lập chiến khu ở Tân Sở (thuộc Cam Lộ, tỉnh
Quảng Trị) phát lệnh Cần Vương, tổ chức đánh Pháp cứu nước. Nhân dân
trong nước đều hưởng ứng. Lúc đó, ông lập chiến khu huyện Tuyên Hoá (tỉnh
Quảng Bình), nghĩa quân theo về rất đông như Tôn Thất Đạm, Tôn Thất
Nghiệp, Lê Trực,... Nghĩa quân gây thiệt hại nhiều cho quân Pháp.
Ngày 26 - 9 - 1880, vua Hàm Nghi bị Trương Quang Ngọc phản bội, bắt nộp
cho Pháp. Trong vòng vây quân thù, nhà vua cầm thanh gươm đưa cho Ngọc và
bảo rằng: “Mày giết ta đi, còn hơn đưa tao về nộp cho Tây”. Sau đó Pháp đưa
ông về Thuận An, rồi đưa lên tàu Biên Hoà đày sang An-giê-ri (Algerie), các cận
thần của nhà vua kẻ bị Pháp bắt, người trốn vào rừng tổ chức nghĩa quân tiếp tục
kháng chiến, Tôn Thất Đạm uống thuốc tự tử trong chiến khu. Vì cả ba anh em
ông đều làm vua, nên dân gian hồi đó có câu hát:
“Một nhà sinh đặng ba vua,
Vua sống, vua chết, vua thua chạy dài”
(Cả ba vua này đều là anh em ruột, con trai Kiến Thái Vương Nguyễn
Phúc Hồng Các, em vua Tự Đức. Vua sống là Đồng Khánh, vua chết là Kiến
Phúc, vua thua tức Hàm Nghi)
Sau đó Trương Quang Ngọc được Pháp thưởng một số tiền lớn, phong
làm Lãnh binh của đạo quân tay sai. Nhưng chẳng bao lâu, Ngọc bị nghĩa
quân Phan Đình Phùng giết chết tại nhà làm gương cho mọi người.
Vua Hàm Nghi mất ở An-giê-ri vào năm 1943, hưởng thọ 71 tuổi.
2. Hình: Tôn Thất Thuyết (1835 - 1913)

* Hướng dẫn học sinh:
Giáo viên hướng dẫn học sinh
quan sát bức ảnh Tôn Thất
Thuyết và đặt câu hỏi: Qua tìm
hiểu em hãy nêu những nét
chính về cuộc đời và sự nghiệp
của Tôn Thất Thuyết?

Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

8


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
* Học sinh trả lời, giáo viên kết luận:
Tôn Thất Thuyết sinh năm 1835, là con thứ hai của Đề đốc Tôn Thất Đính,
quê ở Xuân Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên, thuộc hoàng tộc.
Ông xuất thân võ tướng, năm 1873, giúp Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh
Phúc đánh thắng trận Cầu Giấy, giết tướng Pháp Gác-ni-ê. Năm 1875, trong
chiến thắng ở Tây Sơn, ông bắt sống tướng giặc Cờ Vàng là Hoàng Sùng Anh,
được phong làm Hữu Tham tri bộ Binh, tước Nam. Đến năm 1881, ông làm
Thượng thư bộ Binh; sau khi Tự Đức mất (1883), ông làm phụ chính đại thần,
cùng Nguyễn Văn Tường phế vua Dục Đức (Nguyễn Phúc Ưng Chân) lập vua
Hiệp Hoà (Nguyễn Phúc Hồng Dật), nhưng chỉ được 4 tháng, Nguyễn Phúc
Ưng Đăng lên ngôi, ông và Nguyễn Văn Tường lại mưu giết vua Hiệp Hoà
ngày 29 - 11 - 1883, lập vua Kiến Phúc. Được 8 tháng, Kiến Phúc mất (31 - 7
- 1884), ông lập em Kiến Phúc là Ưng Lịch lên ngôi, tức Hàm Nghi. Từ đây
ông càng ráo riết chuẩn bị chống giặc Pháp, Tướng Đơ-cuốc-xi (De Courcy)
rất căm ghét ông, muốn làm hại nhưng không được.
Đêm 4 - 7 - 1885, ông truyền lệnh tấn công doanh trại Pháp. Thất bại, ông
đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị rồi về miền Hương Khê (Hà Tĩnh) phát
động phong trào Cần Vương kháng Pháp cứu nước. Ông là linh hồn cuộc
kháng chiến. Hai người con ông là Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp là tướng bảo
vệ vua Hàm Nghi, sau đó đều hi sinh khi chống lại tay sai, quân xâm lược.
Về sau, ông ra Bắc rồi sang Trung Quốc với ý định cầu viện triều đình

Mãn Thanh. Việc không thành, ông đau khổ sống một mình trên ngọn đồi ở
Long Châu, thường vung gươm chém vào đá để trút nỗi căm hờn. Dân chúng
quanh vùng ấy gọi ông là “Tả xẹt lũ” (Đả thạch lão: Ông già chém đá).
Ông mất năm 1913 tại Long Châu, thọ 78 tuổi. Cả gia đình ông: Cha Tôn
Thất Đính bị lưu đày, mẹ và vợ ông mất nơi rừng núi, hai em trai ông là Tôn
Thất Hàm và Tôn Thất Lệ cùng hai con trai của ông là Đạm và Thiệp đều anh
dũng hi sinh vì nước, con rể là Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền cũng bôn ba
ở nước ngoài lo chống Pháp
3. Hình: Lược đồ địa bàn hoạt động của nghĩa quân Bãi Sậy

Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

9


Trêng THPT Quan S¬n 2
kiÕn kinh nghiÖm

S¸ng

* Hướng dẫn học sinh: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ và
đặt câu hỏi: Em hãy Tường thuật cuộc chiến đấu của nghĩa quân Bãi Sậy
chống lại sự tấn công của quân Pháp.
* Học sinh trả lời, giáo viên kết luận:
Khởi nghĩa Bãi Sậy là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của phong trào Cần
Vương ở đồng bằng Bắc bộ. Địa bàn của cuộc khởi nghĩa khá rộng, bao gồm
hầu hết các tỉnh ở vùng tả ngạn sông Hồng, nhưng căn cứ chính của nghĩa
quân là vùng Bãi Sậy thuộc tỉnh Hưng Yên, vì thế mà cuộc khởi nghĩa này
được gọi là khởi nghĩa Bãi Sậy. Cuộc khởi nghĩa gây cho Pháp nhiều thiệt hại,

Pháp phải tốn nhiều công sức mới đánh bại được.
Vùng Bãi Sậy thuộc các huyện Khoái Châu, Văn Giang, Yên Mĩ, Mĩ Hào
(Hưng Yên). Trước kia, Bãi Sậy là những cánh đồng rộng mênh mông và rất
màu mỡ của vùng đồng bằng Bắc bộ. Thời Tự Đức, do đê Văn Giang vỡ 18
năm liền, nhân dân không cày cấy được, phải bỏ hoang nên nhiều vùng trở
nên sình lầy, hoang vu, lau sậy mọc um tùm, cao đến 2m, biến vùng này thành
rừng lau sậy ngay giữa đồng bằng Bắc Bộ.
Bãi Sậy có vị trí rất trọng yếu, án ngữ những tuyến đường giao thông thuỷ
bộ quan trọng của vùng tả ngạn sông Hồng. Đường thủy có sông Hồng, sông
Đuống, sông Thái Bình. Đường bộ có các đường: Hà Nội - Hải Phòng, Hà
Nội - Bắc Ninh, Hà Nội - Hưng Yên - Thái Bình, Hà Nội - Nam Định. Vì địa
thế như vậy nên Bãi Sậy tuy là vùng đồng bằng nhưng lại rất hiểm trở bởi
những cánh rừng lau sậy rộng lớn, mọc um tùm, sình lầy, cộng vào đó là hệ
thống hầm chông, cạm bẫy của nghĩa quân đã làm cho vùng này càng trở nên
bí hiểm với những câu chuyện bí hiểm “cỏ biết cắn”, “rắn hai đầu”...
Điều kiện tự nhiên này lại rất thuận lợi cho nghĩa quân khi ẩn náu cũng
như khi tiến hành chiến đấu tấn công giặc, đặc biệt khi chống giặc càn quét.
Do đó, Nguyễn Thiện Thuật khi phát động khởi nghĩa đã chọn nơi này làm
căn cứ, để từ đây nghĩa quân có thể xuất phát đánh Hưng Yên, Hải Dương,
Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Phòng... rồi tản ra khắp vùng tả ngạn, khiến địch
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

10


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
không biết đâu mà lường.

Ngoài căn cứ chính ở Bãi Sậy, nghĩa quân còn xây dựng căn cứ ở Trại Sơn
(Kinh Môn - Hải Dương) và Hai Sông (Uông Bí, Yên Hưng - Quảng Ninh).
Đây là vùng rừng núi thuộc phía đông bắc Bắc bộ. Vùng này, nghĩa quân do
Đốc Tít (Nguyễn Đức Hiệu) chỉ huy (thực ra ông chỉ huy cả phong trào ở Hải
Phòng và Hải Dương).
Đốc Tít chọn Trại Sơn và Hai Sông làm căn cứ, vì đây là vùng rừng núi
rất hiểm yếu, lại có ba con sông bao bọc: sông Kinh Thầy, sông Hàn, sông
Con, tạo thành thế rất có lợi cho nghĩa quân ngay cả khi tấn công lẫn phòng
thủ...
Hưởng ứng Chiếu Cần Vương, nông dân khắp vùng tả ngạn sông Hồng đã
nổi dậy theo Nguyễn Thiện Thuật rất đông, như nông dân Thanh Oai (Hà
Tây), Lạc Đạo, Bần Yên Nhân, Khoái Châu, Văn Giang, Yên Mĩ (Hưng Yên);
Kẻ Sặt, Gia Lộc, Tứ Kì (Hải Dương); Trại Sơn, Mai Động, Hai Sông, Uông
Bí, Đông Triều (Quảng Ninh); Thuận Thành, Long Tài, Mậu Xá, Gia Bình,
Từ Sơn, Tiên Du, Đáp Cầu, Quế Dương (Bắc Ninh, Bắc Giang); Đa Phúc
(Vĩnh Yên); Gia Lâm (Hà Nội); Quỳnh Côi (Thái Bình); Thuỷ Nguyên, Cát
Bà (Hải Phòng)... Nhưng nơi hoạt động mạnh mẽ hơn cả là Văn Giang, Khoái
Châu, Yên Mĩ, Bần Yên Nhân, Kẻ Sặt, Bình Giang, Từ Sơn, Tiên Du và vùng
căn cứ Trại Sơn - Hai Sông.
Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy tuy có căn cứ là vùng Bãi Sậy và Trại Sơn - Hai
Sông (Bãi Sậy là căn cứ chính), nhưng căn cứ chỉ là nơi trú quân khi cần thiết,
sự hoạt động của nghĩa quân nhìn chung không tập trung ở căn cứ thường
xuyên, mà phân tán khắp nơi ở toàn vùng tả ngạn sông Hồng. Nghĩa quân lấy
lối đánh du kích làm chiến thuật cơ bản, bất ngờ tấn công vào những đồn bốt
lẻ, những toán quân tuần tiễu rồi nhanh chóng phân tán vào trong dân. Vì thế,
quân Pháp không thể nào biết được lực lượng chính của nghĩa quân ở đâu để
đàn áp. Chẳng hạn, năm 1885, nghĩa quân bất ngờ từ Chí Linh kéo về đánh
Hải Dương rồi nhanh chóng tản ra khắp nơi. Năm 1886, nghĩa quân cũng bất
ngờ tấn công Quỳnh Côi (Thái Bình); năm 1887, tấn công Kẻ Sặt, Bình Giang
(Hải Dương); năm 1888, tiến đánh Mĩ Hào (Hưng Yên)... rồi lặng lẽ phân tán

về căn cứ, hòa vào trong dân trên một địa bàn rộng lớn.
Ngay từ những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa, lợi dụng nghĩa quân còn
non yếu, Pháp đã tập trung lực lượng để tiến hành càn quét toàn vùng tả ngạn
sông Hồng, âm mưu nhanh chóng dập tắt cuộc khởi nghĩa.
Đầu năm 1885, một mặt Pháp huy động hai binh đoàn Nêgơriê và Đôniê
bất ngờ tấn công vào căn cứ chính của nghĩa quân ở Bãi Sậy; mặt khác lại huy
động hai binh đoàn do Phancôn và Phơrơ chỉ huy tiến hành càn quét Hải
Dương, Hải Phòng rồi sau đó tấn công căn cứ Trại Sơn - Hai Sông. Hai binh
đoàn do Muniê và Cali chỉ huy tiến hành càn quét Nam Định, Thái Bình. Cuối
năm 1885, Pháp lại huy động hai binh đoàn Đôniê và Gôđa tiến hành càn quét
lần thứ hai vào căn cứ chính của nghĩa quân ở Bãi Sậy.
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

11


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
Trước sự tấn công, càn quét của thực dân Pháp, ở khắp vùng tả ngạn sông
Hồng, đặc biệt là ở căn cứ chính Bãi Sậy, nghĩa quân đã bình tĩnh, khôn khéo
tận dụng địa hình hiểm trở của vùng lau sậy và hệ thống hầm chông, cạm bẫy
để che giấu lực lượng, không đối đầu mà chia thành nhiều tốp nhỏ phân tán
khắp vùng, khi có điều kiện thì bất ngờ tấn công những toán giặc đi lẻ, sau đó
lại nhanh chóng trà trộn trong dân, khiến giặc không biết đâu mà lường. Tình
trạng cứ thế kéo dài, lực lượng Pháp ngày càng hao tổn... để tránh khỏi bị tiêu
diệt, quân Pháp buộc phải rút lui. Do vậy, lực lượng nghĩa quân được bảo toàn.
Ở căn cứ Trại Sơn - Hai Sông, lúc đầu nghĩa quân buộc phải rút khỏi căn
cứ, sau đó dần dần trở về trà trộn vào trong dân để chuẩn bị cho những trận

đánh sau này.
Trong suốt năm 1886, tình hình trở nên yên tĩnh, không có trận càn nào
của Pháp đáng kể. Sang năm 1887, Pháp có tiến hành một số trận càn vào Kẻ
Sặt, Bình Giang (Hải Dương) nhưng đôi bên đều không bị thiệt hại nhiều.
Năm 1888, Pháp lại huy động một lực lượng quân rất lớn thêm cả lực
lượng quân ngụy do Hoàng Cao Khải chỉ huy mở một đợt càn quét lớn vào ba
tỉnh: Hưng Yên, Hải Dương và Bắc Ninh. Trong đợt càn quét này, Pháp đã tập
trung dồn lực lượng tấn công vào tỉnh Hưng Yên, đặc biệt là vùng căn cứ
chính Bãi Sậy ở huyện Khoái Châu, Văn Giang, Yên Mĩ, Mĩ Hào. Kết quả,
cuộc càn quét này đã gây cho nghĩa quân những tổn thất nghiêm trọng.
Năm 1889, Pháp dồn lực lượng tấn công quyết liệt vào căn cứ Hai Sông Trại Sơn. Sau một tháng chiến đấu quyết liệt, nghĩa quân tuy đã gây cho Pháp
nhiều thiệt hại, nhưng viện binh Pháp ngày càng nhiều, chúng xiết chặt bao
vây và tấn công quyết liệt, lực lượng nghĩa quân suy giảm dần, cuối cùng Đốc
Tít phải ra hàng. Từ đó, nghĩa quân tan rã dần, chủ tướng là Nguyễn Thiện
Thuật phải chạy sang Trung Quốc tìm Tôn Thất Thuyết. Cuộc khởi nghĩa bị
thất bại.
4. Hình: Lược đồ khởi nghĩa Yên Thế

Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

12


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
* Hướng dẫn học sinh: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ và
đặt câu hỏi: Miêu tả căn cứ khởi nghĩa Yên Thế theo lược đồ? Tường thuật
cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế chống các cuộc tấn công của quân

Pháp, giai đoạn 1884 - 1892?
* Học sinh trả lời, giáo viên kết luận:
Miêu tả căn cứ khởi nghĩa Yên Thế theo lược đồ:
Trong phong trào vũ trang chống Pháp ở Bắc Kì cuối thế kỉ XIX, bên
cạnh những cuộc khởi nghĩa do văn thân, sĩ phu lãnh đạo, còn có các cuộc
đấu tranh vũ trang tự phát của nông dân mà tiêu biểu là Phong trào nông dân
Yên Thế (Bắc Giang) với thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám, đại bản doanh của nghĩa
quân Yên Thế đóng ở Phồn Xương.
Căn cứ Yên Thế ở miền Tây Bắc Bắc Giang, là một vùng có địa thế hiểm
trở, núi rừng rậm rạp, nhưng giao thông thuận lợi. Từ Yên Thế có thể thông
sang Thái Nguyên, Tam Đảo và tỏa về miền trung du Phúc Yên, Vĩnh Yên,
Bắc Ninh.
Phía Bắc Yên Thế là những dãy núi hiểm trở như một bức tường thành
kiên cố, nhưng lại vừa có cảnh quan thơ mộng. Phía đông Yên Thế là con
sông Thương giống như một đường ranh giới tự nhiên. Phía tây bắc Yên Thế
tiếp giáp với những khu rừng rậm rạp của tỉnh Thái Nguyên. Phía Tây là
những miền đất quang đãng, điểm đây đó một vài ngọn đồi và những cánh
rừng thưa thớt. Phía nam giáp các huyện khác của Bắc Giang.
Địa hình Yên Thế là vùng đất cao, nhiều đồi và cây rừng rậm rạp; lối đi là
những đường mòn, quanh co lúc ẩn lúc hiện. Địa hình rừng núi như thế đã tạo
điều kiện hết sức thuận lợi cho nghĩa quân chiến đấu. Quân Pháp đã phải thừa
nhận rằng: “Đó là nơi lí tưởng để đánh phục kích chống lại quân đội chúng ta.
Quân của Thám có thể kéo ta vào một nơi rất rậm rạp, có những đường hào
xung quanh đầy chướng ngại vật, rồi bất ngờ tấn công chúng ta, nhưng cũng
biến rất nhanh mà không để lại một dấu vết nào”.
Tường thuật cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế chống các cuộc tấn
công của quân Pháp, giai đoạn 1884 - 1892:
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế được chia làm 4 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1884 - 1892, nghĩa quân còn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự
phối hợp và chỉ huy thống nhất. Căn cứ Hố Chuối bị quân Pháp tấn công 4

lần, cuối cùng nghĩa quân rút khỏi căn cứ.
Giai đoạn 1893 - 1897, nghĩa quân 2 lần đình chiến với Pháp, xây dựng lại
căn cứ Hố Chuối và mở rộng hoạt động ra các vùng của Bắc Ninh, Bắc Giang.
Giai đoạn 1898 - 1908, nghĩa quân đã xây dựng căn cứ Phồn Xương vững
mạnh. Nghĩa quân vừa sản xuất, tự túc lương ăn, vừa tăng cường sắm sửa vũ
khí, luyện tập và lập thêm nhiều đồn khác, như đồn Tú Lệ.
Giai đoạn 1909 - 1913, quân Pháp tập trung lực lượng tấn công căn cứ
Yên Thế. Nghĩa quân vừa chống đỡ vừa chuyển dần sang các vùng lân cận.
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

13


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
Dựa vào địa hình hiểm trở của Yên Thế, Hoàng Hoa Thám đã chỉ huy
nghĩa quân chống lại nhiều cuộc tấn công của quân Pháp. Trong đó, có một số
trận tiêu biểu chống lại 4 đợt tấn công của quân Pháp trong giai đoạn 1884 1892 như sau:
Cuộc tấn công lần thứ nhất bắt đầu ngày 8 - 12 - 1890. Địch đưa một lực
lượng gồm 77 lính lê dương, 66 lính khố đỏ tấn công Hố Chuối. Mặc dầu có
đại bác 80 li yểm hộ, địch vẫn không chống nổi sự phản kích dữ dội của nghĩa
quân. Cuối cùng chúng phải tháo chạy về Nhã Nam.
Bốn ngày sau, chúng tổ chức cuộc tấn công thứ hai với lực lượng gồm
300 quân. Nhưng dưới sự chỉ huy của Đề Thám, nghĩa quân chiến đấu gan dạ,
đã bẻ gãy cuộc tấn công của địch. Cuộc chiến đấu diễn ra suốt một ngày, đến
tối, quân Pháp phải tháo chạy về Nhã Nam.
Sau 10 ngày chuẩn bị, ngày 22 - 12, địch tấn công lần thứ ba với lực
lượng gấp đôi lần trước (589 quân). Cuối cùng, địch vẫn phải thu quân chạy

về Nhã Nam. Từ đó chúng khiếp sợ, gọi cho nghĩa quân của Đề Thám là
“Tiểu đoàn bất khả xâm phạm”, “Tiểu đoàn anh dũng”. Đồng thời, địch cũng
quyết tiêu diệt bằng được căn cứ Hố Chuối, tiếp tục tổ chức cuộc tấn công
mới.
Cuộc tấn công lần thứ tư (3 - 1 - 1891) có quy mô lớn hơn. Số quân đông
tới 1000 tên, chưa kể phu khuân vác, có đại bác yểm trợ. Cuộc chiến diễn ra
trong 6 ngày. Quân ta chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt nhiều địch. Song trước ưu
thế về lực lượng của địch, nghĩa quân không cố thủ mà rút lui để bảo toàn lực
lượng. Khi địch hùng hổ tiến vào căn cứ, chỉ thấy một đồn trống rỗng.…
2.3.2.3. Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu
thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914)
Hình 1. Phan Bội Châu (1867 - 1940)

* Hướng dẫn học
sinh: Giáo viên hướng
dẫn học sinh quan sát
bức ảnh Phan Bội Châu
và đặt câu hỏi: Qua tìm
hiểu tài liệu và bức
tranh em hãy trình bày
cuộc đời và hoạt động
yêu nước của Phan Bội
Châu?
* Học sinh trả lời,
giáo viên kết luận:
Phan Bội Châu sinh
ngày 1 - 12 - 1867, tại
làng Đan Nhiễm, huyện
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH


14


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Phan Bội Châu có tên là Phan Văn San, sau đổi là
Phan Bội Châu, hiệu Sào Nam và nhiều biệt hiệu khác: Hải Thu, Thị Hán,
Độc Tĩnh Tử, Hãn Mạn Tử... Ông nổi tiếng thông minh từ nhỏ, năm 1900, đỗ
Giải nguyên(1) trường thi Nghệ An, nhiệt tình yêu nước. Ngay từ năm 17 tuổi,
Phan Bội Châu đã hưởng ứng phong trào Cần vương, ông viết bài hịch Bình
Tây thu Bắc rồi cùng bạn là Trần Văn Lương thành lập đội “Sĩ tử Cần vương”
ở quê nhà.
Từ sau khi đỗ Giải nguyên, ông càng dốc tâm trí lo việc cứu nước, giao
kết với chí sĩ khắp nơi. Năm 1904 vận động thành lập hội Duy tân, năm sau
cùng Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc, rồi Nhật Bản gây dựng phong trào Đông
du. Năm 1908, bị trục xuất khỏi Nhật, ông trở lại Trung Quốc rồi sang Xiêm
(nay là Thái Lan) xây dựng căn cứ hoạt động ở nước ngoài.
Sau Cách mạng Tân Hợi (1911) ông trở lại Trung Quốc thành lập “Hội
Việt Nam Quang Phục” và Hội “Chấn Hoa Hưng Á”. Năm 1911 ông bị Long
Tế Quang bắt giam ở Quảng Châu. Ra tù, ông càng tích cực hoạt động. Năm
1922, Phan Bội Châu cải tổ Hội Việt Nam Quang Phục thành lập Đảng Việt
Nam Quốc dân.
Đến năm 1925 ông bị tay sai Pháp bắt cóc tại Thượng Hải, giải về nước.
Chúng định thủ tiêu kín, nhưng việc bại lộ phải đưa ra xét xử trước Hội đồng
đề hình của chúng, kết án khổ sai chung thân. Nhân dân toàn quốc đấu tranh
đòi ân xá cho ông. Toàn quyền Va-ren (Varenne) buộc ra lệnh ân xá nhưng bắt
ông an trí tại Huế (Bến Ngự). Từ đấy ông không còn hoạt động chính trị gì
được nữa, chỉ còn niềm an ủi được nhân dân vẫn hướng lòng tôn kính với biệt

danh “Ông già Bến Ngự”.
Ngày 29 - 10 - 1940 ông mất tại lều tranh Bến Ngự Huế, thọ 73 tuổi.
2. Hình: Phan Châu Trinh (1872 - 1926)

* Hướng dẫn học sinh: Giáo
viên hướng dẫn học sinh quan sát
bức ảnh Phan Châu Trinh và đặt
câu hỏi: Qua tìm hiểu tài liệu và
bức tranh em hãy trình nêu nhận
xét (cách để tóc, cổ áo, đôi mắt,
khuân mặt...) và nêu khái quát
cuộc đời và hoạt động yêu nước
của Phan Châu Trinh?
* Học sinh trả lời, giáo viên
kết luận:
Quan sát bức chân dung Phan
Châu Trinh, chúng ta nhận thấy
đầu tóc cắt ngắn, áo cổ thấp, theo
kiểu áo dài của sĩ phu Việt Nam
(

Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

15


Trêng THPT Quan S¬n 2
S¸ng
kiÕn kinh nghiÖm

lúc bấy giờ, nhưng đã được cải tiến. Qua đó có thể thấy rõ một biểu hiện của
xu hướng canh tân đất nước, học hỏi bên ngoài của Phan Châu Trinh. Ông có
đôi mắt sáng, hơi sâu, khuôn mặt rắn rỏi, thể hiện quyết tâm đấu tranh cứu
nước.
Ông sinh ngày 9 - 9 - 1782 tại Quảng Nam. Là con trai thứ ba của ông Phan
Văn Bình và bà Lê Thị Chung. Năm 1881, ông bắt đầu đi học. Năm 1894 và
1897 đi thi nhưng đều không đạt. Năm 1900 đỗ Cử nhân cùng với Huỳnh Thúc
Kháng và Phan Bội Châu nhưng ông không ra làm quan. 1901 dạy học ở nhà
sau khi đỗ Phó bảng. Từ 1904 - 1922 hoạt động yêu nước, viết sách báo, thành
lập các tổ chức yêu nước theo xu hướng Duy Tân. Trong thời gian này ông chủ
yếu sống ở Pháp viết và hoạt động. Tháng 5 - 1925 về nước, ông mất ngày 24 3 - 1926.
Lòng yêu nước của Phan Châu Trinh được thể hiện dưới nhiều hình thức,
với nhiều mức độ khác nhau. Trước hết, đó là lòng yêu nước thương dân, đau
xót cho giống nòi điêu linh, bực bội vì sĩ phu mê muội, quan lại bất tài, triều
đình thối nát. Ông bất bình vì nhân dân bị chà đạp bởi bọn quan lại phong kiến.
Lòng yêu nước của ông còn bộc lộ ở tình cảm hồn nhiên đẹp đẽ, trong sáng đối
với quê cha, đất tổ. Các tác phẩm văn thơ của ông rất phong phú: thơ ca, quốc
âm, tác phẩm chính luận chữ Hán, các bài báo, thư tín, bài diễn thuyết.
Phan Châu Trinh là người khởi xướng và lãnh tụ của phong trào Duy tân
vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ông để lại dấu ấn không chỉ
trên quê hương Quảng Nam mà trở thành niềm tự hào của dân tộc ta. Mặc dù
ông chưa nhìn thấy rõ kẻ thù của dân tộc ta cho nên ông chủ trương dựa vào
Pháp để canh tân đất nước. Nhưng chính hoạt động giáo dục lòng yêu nước
trong nhân dân của ông đã có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào đấu tranh
chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908.
Phan Châu Trinh là một trong những nhân vật lịch sử vĩ đại về tâm huyết
và nhân cách, về tầm nhìn và cách xử lý những vấn đề chủ yếu của dân tộc và
trong sáng tạo nghệ thuật thơ văn. Cuộc đời ông, sự nghiệp ông là biểu tượng
của lòng yêu nước nhiệt thành, tư tưởng canh tân đất nước.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

2.4.1. Chất lượng giảng dạy và giáo dục của bản thân không ngừng nâng
lên.
2.4.2. Giúp đồng nghiệp có thêm tài liệu và kinh nghiệm khai thác, sử
dụng kênh hình trong các bài 19, 21, 23 chương trình 11.
2.4.3. Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của nhà trường.
2.4.4. Chất lượng nhận thức của học sinh nâng lên rõ nét:
Năm học 2015 – 2016 tôi trực tiếp giảng dạy lớp 11A1 và 11A2. Lớp
11A1 tôi khai thác kênh hình như trên và có kết quả cao hơn lớp 11A2 về việc
học sinh vận dụng kiến thức, học sinh khắc sâu sự kiện, học sinh rèn luyện kỹ
năng thực hành:
Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

16


Trêng THPT Quan S¬n 2
kiÕn kinh nghiÖm

S¸ng
Kết quả

Lớp

Học sinh vận dụng kiến
thức %

Học sinh khắc
sâu sự kiện %


Học sinh rèn luyện
kỹ năng thực hành
%

11A1

87

89

92

11A2

23

26

32

Học lực:

11A1

Tổng
số học
sinh
36

11A2


35

Lớp

Giỏi
SL
%
5
13,9
0

0

Khá
SL
%
26 72,2

Học lực
T.Bình
SL
%
4 11,1

12

13

34,3


37,1

Yếu
SL
1

%
2,8

7

20,0

Kém
SL
%
0
0
3

8,6

Kết quả về khẳ năng trình bày kênh hình:
Lớp

Tổng số
học sinh

11A1


36

11A2

35

khẳ năng trình bày
Biết trình bày tốt
Biết trình bày
Không biết trình bày
Biết trình bày tốt
Biết trình bày
Không biết trình bày

Số lượng

Tỷ lệ

21/36
15/36
0/36
5/35
22/35
8/35

58,3
41,7
00
14,3

62,8
22,9

Ghi chú

Học sinh có cảm hứng hơn khi học bài, và các em đã có sự chủ động
hơn trong các hoạt động học tập.
Phát huy khả tư duy lôgíc cho các em.
Kích thích sự tò mò, suy ngẫm, hăng say phát biểu ý kiến của các em.
Tạo không khí hứng khởi, sôi nổi trong tiết học.
Rèn luyện kỹ năng quan sát, mô tả, bình luận…cho các em.

Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

17


Trêng THPT Quan S¬n 2
kiÕn kinh nghiÖm

S¸ng

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
“Dạy tốt” và “học tốt” luôn là mục tiêu đề ra cho ngành giáo dục và
đào tạo, đặc biệt là giáo dục phổ thông, là cơ sở vững chắc cho sự phát triển
con người mới XHCN. Đồng thời cũng là nguồn dự trữ để tuyển chọn, đào
tạo con người và đội ngũ cần thiết cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
Trên đây, là một vài kỹ năng sử dụng kênh hình ở các bài 19, 21, 23

chương trình 11 để tạo biểu tượng dạy học cho học sinh lớp 11A1 trường
THPT Quan Sơn 2.
Qua quá trình giảng dạy tôi đã tổng kết những kinh nghiệm như sau:
Khi dạy học nếu chỉ chú ý khai thác kênh chữ mà coi nhẹ việc khai táhc
kênh hình thì hiệu quả không cao. Tiết học trầm lắng, học sinh không hào
hứng học tập, nhiều em không nhớ kỹ, hiểu sâu kiến thức lịch sử nên không
phát huy tính tích cực, tự giác, tu duy của các em
Qua những câu hỏi đàm thoại gợi mở, tôi đã tạo được sự gần gũi, thân
thiện giữa giáo viên và học sinh.
Bài học nhẹ nhàng, như những câu chuyện lịch sử lôi cuốn, thu hút học
sinh tránh được những tiết học khô khan, nhàm chán, không khí buổi học sôi
nổi, hiệu quả.
Qua thực nghiệm, việc ứng dụng đề tài vào năm học 2017 – 2018 cho
toàn học sinh khối 11 sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Đế tài sẽ được phát triển mở rộng phạm vi nghiên cứu.
2. Kiến nghị:
2.1. Đề xuất với trường:
Nhà trường cần tạo điều kiện để năm học tới nhóm Lịch sử phối, kết
hợp với Đoàn trường tổ chức các chương trình ngoại khóa tái hiện lịch sử dân
tộc xuyên suốt chiều dài dựng nước và giữ nước.
2.2. Đề xuất với Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hoá:
Cần tổ chức lồng ghép các đợt tập huấn về kỹ năng khai thác kênh hình
trong môn Lịch sử cho giáo viên./.

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Quan Sơn, ngày 20 tháng 05 năm 2017
TÔI CAM ĐOAN KHÔNG COPPY

Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng

Tæ: XH

18


Trêng THPT Quan S¬n 2
kiÕn kinh nghiÖm

Nguyễn Mạnh Cường

S¸ng

Nguyễn Văn Cương

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các tài liệu về kênh hình trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ
thông – Lịch sử Việt Nam.
2. Một số chuyên đề Lịch sử Việt Nam, Lịch sử thế giới và phương pháp dạy
học Lịch sử – Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
3. Hướng dẫn chuẩn kiến, thức kỹ năng môn Lịch sử lớp 11 – Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam.
4. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 11.
5. Phương pháp dạy học lịch sử của Giáo sư Phan Ngọc Liên.
6. Tìm hiểu cách khai thác kênh hình qua các tiểu luận trên mạng Internet.
7. Một số tài liệu tham khảo khác.

Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

19



Trêng THPT Quan S¬n 2
kiÕn kinh nghiÖm

S¸ng

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT
Họ và tên tác giả: Nguyễn Văn Cương.
Chức vụ và đơn vị công tác: Thư ký Hội đồng, trường THPT Quan Sơn 2.
TT
1
2
3

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp của giáo viên chủ
nhiệm trong việc chỉ đạo, xây dựng tập
thể lớp 10A2, trường THPT Quan Sơn 2
Một số biện pháp nâng cao hoạt
động ngoài giờ lên lớp ở trường THPT
Quan Sơn 2
Giới thiệu khái quát khu di tích lịch
sử Lam Kinh vào giảng dạy cho học sinh
lớp 10 trường THPT Quan Sơn 2”.

Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH


Cấp đánh
giá xếp
loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

Sở
GD&ĐT

Loại C

2012

Sở
GD&ĐT

Loại C

2013

Sở
GD&ĐT


Loại C

2015

20


Trêng THPT Quan S¬n 2
kiÕn kinh nghiÖm

Ngêi thùc hiÖn: NguyÔn V¨n C¬ng
Tæ: XH

S¸ng

21



×