Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở phần ba lịch sử việt nam (1858 1918) lịch sử 11 (cơ bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.73 KB, 24 trang )

Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

MỤC LỤC
1. Mở đầu…………………………………………………………………2
1.1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………2
1.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………2
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………...3
1.4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………….3
2. Nội dung ………………………….. ………………………………….3
2.1. Cơ sở lí luận ……………………………..………………………….3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm….5
2.3. Các giải pháp đã sử dụng ………………………………………….6
2.4. Hiệu quả……………………………………………………………...19
3. Kết luận, kiến nghị……………………………………………………20
- Kết luận…………………………………………………………………20
- Kiến nghị……………………………………………………………….21
Tài liệu tham khảo……………………………………………………….22
Danh mục các đề tài SKKN……………………………………………..23

Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

1


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

1. MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài:
Khoa học nói chung, khoa học lịch sử nói riêng đóng vai trò quan trọng


trong việc giáo dục thế hệ trẻ, nhằm trang bị, rèn luyện cho các em kiến thức, kĩ
năng, thái độ để vận dụng, ứng xử trong cuộc sống. Do vị trí, chức năng của
môn lịch sử như vậy và trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự phát triển như vũ bão của công
nghệ thông tin thì đổi mới phương pháp dạy học là hết sức cần thiết. Để việc đổi
mới phương pháp dạy học đạt hiệu quả đòi hỏi người giáo viên trong quá trình
dạy - học phải có kiến thức sâu rộng, có kĩ năng sư phạm, đặc biệt phải có tình
cảm nghề nghiệp.
Với chương trình, sách giáo khoa lịch sử hiện hành có nhiều bài nội dung
kiến thức nặng nề, khô khan, khó nhớ, khó học. Nếu giáo viên vẫn duy trì
phương pháp truyền thụ một chiều, dạy kiến thức mang tính thông báo đồng
loạt, nhồi nhét thông tin thì sẽ hạn chế khả năng tiếp thu của học sinh, học sinh
hoàn toàn thụ động trong lĩnh hội kiến thức đồng thời cũng sẽ thụ động trước
những khó khăn thách thức của cuộc sống. Nhất là trong bối cảnh môn lịch sử
gặp nhiều khó khăn càng làm cho học sinh không hứng thú học tập hoặc hiểu
kiến thức lịch sử một cách nông cạn, rời rạc, khó đạt những mục tiêu đề ra về
kiến thức, thái độ, kĩ năng, không đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học.
Để mang lại hiệu quả cao trong dạy học thì trong quá trình dạy học có
nhiều phương pháp. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học nói chung, dạy
học lịch sử nói riêng là một biện pháp quan trọng nhằm làm cho bài học thêm
sinh động, giúp học sinh dễ nhớ, dễ hiểu, phát huy được năng lực, rèn luyện các
kĩ năng học tập bộ môn. Rất cần những đồ dùng trực quan khoa học, vừa sức,
kích thích tư duy và hứng thú học tập.
Qua thực tiễn dạy học tôi thấy rằng việc sử dụng đồ dùng trực quan nhất
là nhóm đồ dùng trực quan quy ước để dạy học ở phần ba – Lịch sử Việt Nam
(1858 – 1918) là thực sự cần thiết. Đây là phần đề cập đến cả một giai đoạn có
nhiều biến động trong lịch sử dân tộc, với rất nhiều sự kiện, nhiều nhân vật.
Sách giáo khoa, một số tài liệu, thư viện nhà trường cũng đã giới thiệu để giáo
viên tham khảo, vận dụng, tuy nhiên chưa có tài liệu nào trình bày đầy đủ, có hệ

thống hay bàn sâu về vấn đề này. Vì vậy thông qua đề tài này tôi muốn đúc kết
những biện pháp mà mình đã sử dụng, góp phần phục vụ quá trình dạy học của
bản thân đồng thời mong muốn đồng nghiệp quan tâm chia sẻ để nâng cao chất
lượng dạy học môn lịch sử trong trường trung học.
- Mục đích nghiên cứu:
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

2


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

Việc tích cực sử dụng đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học ở phần
ba – Lịch sử Việt Nam (1858 – 1918) nhằm giúp học sinh nắm kiến thức một
cách dễ dàng, có hệ thống, giúp các em rèn luyện khả năng tự học, tự sáng tạo,
tích cực chủ động trong học tập, rèn luyện kĩ năng thực hành bộ môn.
Việc sử dụng đồ dùng trực quan và sự kết hợp các biện pháp dạy học khác
nhau khắc phục tình trạng dạy chay và lối truyền thụ một chiều, phù hợp với
tâm sinh lí học sinh, đơn giản dễ hiểu, làm cho giờ học lịch sử nhẹ nhàng, sinh
động, hấp dẫn, tạo hứng thú học tập, khơi dậy ở học sinh niềm đam mê lịch sử,
khắc phục tình trạng ngại sử, sợ sử của học sinh hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài làm rõ việc sử dụng nhóm đồ dùng trực quan quy ước trong dạy
học phần 3 (Lịch sử Việt Nam 1858 – 1918) – SGK Lịch sử 11 (Cơ bản) nhằm
phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh; phân tích, nhận định những tác
dụng của việc áp dụng biện pháp trên đối với việc nâng cao chất lượng dạy học
môn lịch sử
Đề tài được áp dụng đối với học sinh khối 11 (Cơ bản) ở các lớp
11C1,2,3,4 năm học 2016 – 2017, sử dụng sách giáo khoa lịch sử 11 cơ bản.

- Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài tôi đã tiến hành các phương pháp cơ bản sau:
+ Phương pháp khảo sát, đối chiếu chất lượng, kết quả học tập của học sinh.
+ Phương pháp kiểm tra, thống kê, xử lí số liệu, thu thập thông tin, nghiên cứu
tài liệu (SGK, chuyên đề tập huấn dạy học, tài liệu tham khảo).
+ Tiến hành thao giảng dự giờ rút kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo xác định: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và
học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi
nhớ máy móc. Tập trung cách dạy học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ
sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực.
Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý
các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”
[5 – 1]
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

3


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

Quan điểm nêu trên tạo tiền đề, cơ sở và môi trường pháp lý thuận lợi cho
việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới đồng bộ phương pháp dạy
học trong đó có dạy học tích cực.
Các nhà khoa học giáo dục Việt Nam cũng đã định hướng tổng quát về

đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực là:
“Dạy học lấy người học làm trung tâm”.

[29 – 2]

Trong dạy học tích cực, dưới sự thiết kế, tổ chức, định hướng của giáo
viên người học được tham gia vào quá trình hoạt động học tập từ khâu phát hiện
vấn đề, tìm giải pháp cho vấn đề đặt ra, thực hiện các giải pháp và rút ra kết
luận. Quá trình đó giúp người học lĩnh hội nội dung học tập đồng thời phát triển
năng lực sáng tạo.
Đổi mới phương pháp dạy học tích cực có nghĩa là hoạt động học tập phải
thực hiện trên cơ sở kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động hợp tác, trong
mối quan hệ tương tác giữa thầy và trò, trò – trò trong môi trường học tập thân
thiện an toàn.
Dạy học lịch sử là một hệ thống gồm nhiều phương pháp, có quan hệ
gắn bó với nhau, trong đó phương pháp trực quan có một vai trò quan trọng
trong việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh. Đồ dùng trực quan được sử
dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia nhiều giác quan của người học, sẽ kết
hợp hai hệ thống tín hiệu : tai nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dễ
hiểu, nhớ lâu, gây được những mối liên hệ thần kinh tạm thời phong phú, gây
hứng thú, phát triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, qua đó phát huy
được tính tích cực chủ động học tập cho học sinh.
Về mặt lí luận dạy học, nguyên tắc trực quan là một trong những
nguyên tắc cơ bản, nhằm tạo biểu tượng cho học sinh, trên cơ sở đó hình
thành khái niệm lịch sử dựa trên quan sát hiện vật trực tiếp hay đồ dùng trực
quan minh họa sự vật. Trong dạy học lịch sử, lời nói của giáo viên có vai trò
rất quan trọng để tạo biểu tượng, hình thành khái niệm lịch sử, nhưng điều
này không thể thay thế cho việc sử dụng đồ dùng trực quan. “Trong dạy học
lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học
sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử của

học sinh”
[1 – 3]
So với lời nói của giáo viên, các phương tiện trực quan có ưu thế hơn:
tạo ra hình ảnh lịch sử cụ thể, sinh động, chính xác hơn, giúp học sinh thuận
lợi hơn trong việc tạo biểu tượng lịch sử, hiểu sâu sắc bản chất của các sự
kiện lịch sử, là phương tiện hữu hiệu để hình thành các khái niệm lịch sử, từ
đó giúp các em nắm vững các qui luật phát triển của xã hội. Thông qua các
hình ảnh trực quan có tác dụng hình thành và hoàn thiện những phẩm chất
đạo đức, cảm xúc thẩm mĩ, tình cảm của học sinh
4
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

U-sin-xki, nhà giáo dục học Xô viết trước đây khẳng định: “Hình ảnh được
giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh mà chúng ta thu
nhận được bằng trực quan”.
[2 – 3]
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong dạy học lịch sử ở mọi cấp học, phương pháp sử dụng đồ dùng trực
quan có vai trò to lớn, thực sự cần thiết để nâng cao hiệu quả dạy học. Tuy
nhiên, việc sử dụng đồ dùng trực quan như thế nào để có hiệu quả là một vấn đề
không phải đơn giản. Hiện nay, việc dạy học lịch sử ở trường THPT vẫn còn tình
trạng ít sử dụng đồ dùng trực quan hoặc sử dụng mang tính hình thức. Các tiết
dạy lịch sử còn chậm đổi mới, thiếu sinh động, làm cho học sinh căng thẳng,
không hứng thú. Hơn nữa, trong sách giáo khoa, tài liệu lịch sử đồ dùng trực còn
hạn chế về số lượng lẫn chất lượng, một số trường học chưa có phòng chức
năng, phòng thực hành bộ môn, trong đó có trường THPT Hoàng Lệ Kha.

Đối với trường THPT Hoàng Lệ Kha, Ban giám hiệu nhà trường là những
người đi tiên phong trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Nhà trường đã
từng bước cải thiện điều kiện cơ sở vật chất tạo thuận lợi cho hoạt động đổi mới
phương pháp dạy học, đồng thời khuyến khích sự chủ động sáng tạo trong hoạt
động tự làm thiết bị dạy học của giáo viên và học sinh. Đối với tổ chuyên môn
trong nhà trường, đã tổ chức các buổi sinh hoạt trao đổi, thảo luận về các biện
pháp nâng cao chất lượng môn học Lịch sử. Bản thân mỗi giáo viên dạy Lịch sử
có nhận thức đúng đắn về đổi mới phương pháp dạy học, xác định rõ sự cần
thiết và có mong muốn thực hiện đổi mới, đồng bộ phương pháp dạy học và
kiểm tra đánh giá. Mặc dù có những cố gắng như vậy nhưng nhìn chung hiệu
quả đổi mới phương pháp dạy học của nhà trường chưa cao: nhiều học sinh còn
thụ động trong việc học tập, khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã
học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế, kết quả kì thi
học sinh giỏi tỉnh năm học 2016 - 2017 còn thấp, điểm thi THPT Quốc gia môn
Sử chưa đồng đều.
Xuất phát từ việc nhận thấy sự cần thiết đổi mới phương pháp dạy học,
những ưu điểm của đổi mới dạy học theo hướng tích cực cũng như sự quan tâm
của các cấp quản lý giáo dục thôi thúc tôi tìm hiểu, tiếp cận biện pháp dạy học
trên nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử của nhà trường.
Phần lịch sử Việt Nam (1858 – 1918) cung cấp cho học sinh những hiểu
biết về một thời kì lịch sử oanh liệt của dân tộc - thời kì nhân dân ta tiến hành
cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, đô hộ, xã hội Việt Nam có những biến
chuyển quan trọng. Thông qua tiếp nhận kiến thức, giáo dục cho học sinh lòng
yêu nước, ý thức đấu tranh vì độc lập của dân tộc, rút ra những bài học lịch sử,
có thái độ đúng đắn đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và hòa bình, có kĩ năng
ứng xử đúng đắn trong lao động, học tập, cuộc sống. Tuy nhiên ở phần này các
bài học có nhiều sự kiện, được trình bày theo một mô típ, dễ gây sự nhàm chán,
5
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha



Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

nặng nề cho học sinh nếu chỉ sử dụng phương pháp dạy học thụ động, một
chiều. Mặt khác với thời lượng quy định cho bài học có hạn, kiến thức thì nhiều,
có những vấn đề cần sự chủ động tìm hiểu, tự suy nghĩ của học sinh để nắm
được các vấn đề một các toàn diện. Một số học sinh vì nhu cầu học gì thi nấy đã
học theo kiểu đối phó dẫn đến việc nhận thức các vấn đề còn hạn chế. Ví dụ:
Thái độ của nhân dân và triều đình trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm
lược (1858 – 1884), Đặc điểm của phong trào Cần vương, Điểm mới của khuynh
hướng cứu nước đầu thế kỉ XX…
Để các bài học sinh động, gây được hứng thú cho học sinh, rèn luyện cho
học sinh kĩ năng sống, kĩ năng giải quyết các tình huống thực tiễn thông qua vận
dụng tri thức tổng hợp đòi hỏi sự chủ động, sáng tạo của giáo viên trong quá
trình tổ chức dạy học.
Là một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT, tôi xác định
được vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích
cực, việc cần phải quan tâm sử dụng các phương tiện trực. Tôi đã cố gắng phát
huy những thuận lợi, khắc phục khó khăn, đề ra cho mình những kế hoạch và
biện pháp thực hiện, đem lại những kết quả nhất định. Mặc dù kinh nghiệm chưa
nhiều song tôi mạnh dạn trình bày những vấn đề mà mình đã thực hiện.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng:
2.3.1. Nắm vững những dấu hiệu đặc trưng của dạy học tích cực:
- Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh và chú trọng
rèn luyện phương pháp tự học.
- Tăng cường hoạt động học tập của mỗi cá nhân, phối hợp với học hợp
tác.
- Dạy và học chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của học sinh, nhu
cầu và lợi ích xã hội.

- Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tòi.
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
2.3.2. Nắm vững nguyên tắc sử dụng đồ dùng trực quan:
- Lựa chọn đồ dùng trực quan phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học.
- Tìm hiểu nội dung, ý nghĩa từng loại đồ dùng trực quan, sử dụng đồ
dùng trực quan đúng lúc và chọn vị trí thích hợp cho các đồ dùng trực quan
nhằm tạo nên hiệu quả dạy học.
- Phát huy tính tích cực của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức.

Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

6


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

- Luôn kết hợp cùng phương pháp dùng lời: miêu tả, tường thuật, kể
chuyện, diễn giảng, giải thích...nhằm làm rõ nội dung, ý nghĩa của sự kiện lịch
sử minh họa qua các đồ dùng trực quan.
- Định hướng nhiệm vụ cụ thể nhằm hướng dẫn học sinh quan sát, tìm
hiểu nội dung bài học qua các hình ảnh trực quan.
- Sử dụng đồ dùng trực quan như là kênh thông tin hình ảnh có giá trị
khoa học, thẩm mĩ và giáo dục tư tưởng cho học sinh.
- Đồ dùng trực quan được chia thành ba nhóm chính:
+ Nhóm đồ dùng trực quan hiện vật: bao gồm các di tích lịch sử, cách
mạng, những di vật khảo cổ và những di vật của các thời kì lịch sử.
+ Nhóm đồ dùng trực quan tạo hình: gồm mô hình, sa bàn và các loại
phục chế khác, hình vẽ, tranh ảnh, phim tư liệu lịch sử lấy chủ đề về lịch sử
+ Nhóm đồ dùng trực quan qui ước gồm: bản đồ lịch sử, lược đồ, sơ đồ,

đồ thị, niên biểu…
2.3.3. Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy học phần ba – Lịch sử Việt Nam (1858 – 1918):
* Sử dụng lược đồ, tranh ảnh để hình thành kiến thức mới:
- Ý nghĩa của việc sử dụng lược đồ, tranh ảnh:
+ Phần ba - Việt Nam (1858 – 1918) khá nhiều lược đồ tranh ảnh ở trong
sách giáo khoa hoặc sử dụng phần mềm PowerPoint để trình chiếu. Đó là nguồn
tư liệu quý giá phản ánh chân thực lịch sử, bởi vậy việc khai thác triệt để các
lược đồ tranh ảnh sẽ tạo điều kiện để giáo viên thực hiện tốt mục tiêu đổi mới
phương pháp dạy học.
+ Trong quá trình dạy học tôi quan niệm rằng những đồ dùng đó không
đơn thuần chỉ để minh họa làm cho kiến thức trở nên sinh động mà nó còn có tác
dụng là một trong những nguồn nhận thức quan trọng của việc truyền bá lịch sử,
học sinh có điều kiện chủ động, tích cực tham gia vào quá trình nhận thức lịch
sử một cách tốt nhất.
- Cách khai thác một số lược đồ, tranh ảnh cụ thể:
+ Sử dụng lược đồ để đặt và giải quyết vấn đề:
Ví dụ 1: Ở bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt
Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX. Khi dạy học các giai đoạn phát triển của
phong trào cần vương, giáo viên có thể thực hiện như sau:
Giáo viên nêu vấn đề: Các giai đoạn của phong trào Cần vương diễn ra
như thế nào và có những đặc điểm gì?

Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

7


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)


Giáo viên hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề bằng việc hoạt động theo
nhóm: Quan sát Hình 61. Lược đồ những địa điểm diễn ra các cuộc khởi nghĩa
trong phong trào Cần vương, kết hợp theo dõi SGK rút ra nhận xét
Giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày kết quả và rút ra kết luận về: Thời
gian, lãnh đạo, lực lượng, kết quả, đặc điểm nổi bật của mỗi giai đoạn trong
phong trào Cần vương. Qua quan sát lược đồ SGK học sinh thấy rằng ở giai
đoạn thứ nhất của phong trào Cần vương (1885 – 1888): bùng phát mạnh mẽ,
rộng khắp nhiều cuộc khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Giai đoạn hai, phong
trào quy tụ thành những trung tâm lớn, tập trung ở Bắc Trung Kì và Bắc kì với
các cuộc khởi nghĩa điển hình như Bãi Sậy, Ba Đình, Hùng Lĩnh, Hương Khê.
Ví dụ 2: Ở bài 24 – Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914 – 1918):
GV nêu vấn đề: Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ
1911 – 1918 đã diễn ra như thế nào? Quá trình đó có gì khác so với những
người đi trước?
GV hướng dẫn học sinh trình bày trên lược đồ Hành trình tìm đường cứu
nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc(1911 – 1914) và rút ra kết luận: Khác với các
bậc tiền bối hướng con đường cứu nước sang phương Đông (Trung Quốc, Nhật
Bản), Nguyễn Ái Quốc quyết định sang phương Tây, đến nước Pháp xem Pháp
và các nước làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào mình. Từ 1911 – 1918 Nguyễn
Ái Quốc đã đi qua nhiều nước tư bản, đế quốc, thuộc địa và phụ thuộc: Pháp,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Tuynidi, An giê ri, Đa hô mây, Xê nê gan, Công gô,
Mĩ, Anh. Qua những năm bôn ba đã giúp Người nhận rõ bạn và thù: “ở đâu bọn
đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu những người lao động cũng bị áp
bức bóc lột dã man” Cách mạng tháng Mười Nga thành công, làm chấn động
hoàn cầu, có ảnh hưởng quyết định đến cuộc đời hoạt động của Người.
Như vậy thông qua lược đồ các em dễ hình dung hơn về buổi đầu hoạt
động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đồng thời cũng dễ dàng rút ra được những
điểm mới trong con đường cứu nước của Người, giúp các em rèn luyện kĩ năng

thực hành bộ môn: làm việc với tranh ảnh, tư liệu lịch sử.
Với việc sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học đặt và giải quyết
vấn đề tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính tích cực, sáng tạo, phát triển
năng lực nhận thức, năng lực giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy học này góp
phần quan trọng trong việc phát triển năng lực cơ bản của học sinh, đó là năng
lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo. Trong một xã hội đang phát triển nhanh
theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì việc phát hiện sớm và giải quyết
hợp lí những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành
đạt trong cuộc sống ở bất kì lĩnh vực nào.

Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

8


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

+

Lược đồ Hành trình tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
(1911 – 1914)
+ Giáo viên sử dụng câu hỏi mở để phát huy tính tích cực của học sinh thông
qua các tranh ảnh, lược đồ:
Trong quá trình hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức ở trên lớp tôi đã sử
dụng triệt để những tranh ảnh có trong sách giáo khoa và khai thác tranh ảnh
bằng hệ thống câu hỏi gợi mở và để học sinh luôn tự suy nghĩ tự rút ra những
kết luận trước các vấn đề giáo viên đưa ra đồng thời giúp đỡ tận tình học sinh
giải quyết các câu hỏi một cách khoa học.
Ví dụ : Ở bài 19. Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược

(Từ năm 1858 đến trước năm 1873):
+ Khi hỏi học sinh “Tại sao thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu
tấn công đầu tiên?”. Giáo viên định hướng cho học sinh suy nghĩ kết hợp với
quan sát Hình 49. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng năm 1858.
Với việc quan sát hình ảnh học sinh có thể trả lời được một trong những nguyên
nhân Đà Nẵng là một cảng biển sâu rộng thuận lợi cho tàu thuyền của Pháp vào
ra dễ dàng.
+ Quan sát Hình 51. Trương Định nhận phong soái em có suy nghĩ gì?
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

9


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

HS trả lời, GV chốt ý: Qua hình ảnh Trương Định nhận phong soái chúng
ta thấy được lòng yêu nước nồng nàn của người con vùng đất Quảng,quyết tâm
của Trương Định trong việc tổ chức nhân dân kháng chiến, sự tin tưởng ủng hộ
của nhân dân đối với Trương Định. Ngọn cờ Bình Tây đại nguyên soái làm cho
kẻ thù khiếp sợ, cổ vũ nhân dân, trở thành hình ảnh đẹp trong lòng nhân dân
miền Nam.
+ Quan sát hình 54. Cửa Ô Quan Chưởng (Hà Nội) cho biết tại sao cửa ô
này lại có tên như vậy? Quan sát hình 55. Nguyễn Tri Phương nêu hiểu biết của
em về nhân vật này?
Từ việc quan sát và đọc tư liệu SGK học sinh biết được khi địch nổ súng
đánh thành Hà Nội, khoảng 100 binh sĩ triều đình dưới sự chỉ huy của một viên
chưởng cơ đã chiến đấu và hi sinh tới người cuối cùng tại cửa ô Thanh Hà (sau
được đổi tên thành Ô Quan Chưởng). Nguyễn Tri Phương là tổng đốc thành Hà
Nội. Khi giặc đánh thành, thì ở trong thành ông đã đốc thúc quân sĩ chiến đấu

dũng cảm. Khi bị trọng thương, bị giặc bắt ông khước từ sự chữa chạy của Pháp,
nhịn ăn cho đến chết. Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng hi sinh trong chiến đấu.
Nhìn chung tranh ảnh trong sách giáo khoa của chương này có tác dụng
rất lớn trong việc giáo dục đạo đức lý tưởng, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn cho học sinh nên trong quá trình dạy học tôi đã tận dụng triệt
để thông qua trình chiếu là chủ yếu với tinh thần cho học sinh chủ động khai
thác, bày tỏ suy nghĩ cảm nhận qua hình ảnh tạo sự hứng thú cho các em trong
học tập, thu hút các em tham gia vào quá trình tự học, tự khám phá. Với việc sử
dụng công nghệ thông tin và phương pháp đặt câu hỏi mở có tác dụng khuyến
khích, kích thích tư duy của học sinh, hướng học sinh tập trung vào nội dung bài
học, đồng thời giúp học sinh ghi nhớ kiến thức và tự kiểm tra kiến thức của
mình sau khi nhận câu hỏi từ giáo viên. Học sinh có thể tự đánh giá mức độ hiểu
bài của mình qua các câu hỏi để kịp thời bổ sung kiến thức thông qua việc trả lời
của bạn và kết luận của giáo viên. Để có những câu hỏi tốt đòi hỏi giáo viên phải
có sự chuẩn bị, có kĩ năng đặt câu hỏi và kĩ năng hỏi. Đồng thời khi sử dụng để
đạt hiệu quả của giờ học cần kết hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học như kĩ
thuật khăn phủ bàn, mảnh ghép, sơ đồ tư duy, hoạt động nhóm… để thay đổi
hoạt động tăng cường sự tham gia của học sinh tạo cảm giác thoải mái cho
người học.
* Sử dụng sơ đồ để củng cố kiến thức:
- Ý nghĩa của việc sử dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử:
Đồ dùng trực quan nói chung, sơ đồ nói riêng là một phương tiện quan
trọng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Tác dụng của nó chúng ta không
thể phủ nhận, đối với bộ môn lịch sử khi đặc trưng của môn học là không thể
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

10


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử

Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

“trực quan sinh động” quá khứ. Đồ dùng trực quan là phương tiện giúp người
học có biểu tượng lịch sử để hình thành khái niệm, hiểu sâu sắc khái niệm.
Sơ đồ lịch sử được sử dụng hợp lý sẽ làm cho tiết học sinh động và đặc
biệt là kích thích nhận thức, phát triển tư duy, khả năng hoạt động độc lập của
học sinh, tăng sự chú ý tìm tòi, hấp dẫn đối với người học, giúp học sinh dễ nhớ,
nhớ lâu.
- Cách sử dụng sơ đồ:
Tùy vào nội dung từng bài học để giáo viên thiết lập những loại sơ đồ
khác nhau và sử dụng vào những thời điểm khác nhau như để tiếp nhận bài mới,
kiểm tra bài cũ, củng cố bài, làm bài tập...
Ở phần Lịch sử Việt Nam 1858 – 1918 tôi thường sử dụng phần mềm máy
tính để vẽ các sơ đồ, chủ yếu là ở các bài có nhiều sự kiện, nhiều đơn vị kiến
thức để củng cố bài học.
- Một số ví dụ cụ thể:
Ví dụ 1: Khi dạy bài 19,20. Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp
xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) và Chiến sự lan rộng ra cả nước,
cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1858 đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu
hàng. Đây là những bài học khá dài với nhiều nội dung sự kiện khó nhớ, giáo
viên có thể kết thúc bài học bằng cách đưa ra sơ đồ tự vẽ sẵn dưới đây (trang 11)
và nêu các câu hỏi:
Qua sơ đồ, nhận xét về quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp?
So sánh thái độ của nhân dân và triều đình Huế trong cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược.
Qua sơ đồ học sinh rút ra được nhận xét như sau:
1. Thực dân Pháp quyết tâm xâm lược nước ta, chúng đánh chiếm từng phần
đến chiếm toàn bộ. Cứ mỗi lần chiếm đất thực dân Pháp lại buộc triều đình Huế
kí hiệp ước thừa nhận quyền lợi của chúng.
2. Triều đình Huế không quyết tâm chống Pháp: để mất đất, thành, kí các điều

ước nhượng bộ, rồi cuối cùng đầu hàng thực dân Pháp xâm lược. Triều đình
Huế càng xích lại gần Pháp thì càng đối lập với nhân dân.
3. Nhân dân Việt Nam cùng với triều đình Huế chống Pháp. Khi triều đình thỏa
hiệp với thực dân Pháp thì nhân dân tự hình thành các trung tâm chống Pháp (ở
Nam Kì), chống cả triều đình lẫn Pháp (ở Trung Kì, Bắc Kì), nhân dân cả nước
chống Pháp. Từ năm 1883, ngọn cờ chống Pháp chuyển hẳn sang tay nhân dân.

Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

11


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

Sơ đồ các bước xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp và phong trào đấu tranh chống Pháp
(từ năm 1858 đến năm 1884)
Pháp đánh Đà Nẵng
(1858)

→ Gia Định →

3 tỉnh miền Đông Nam Kì

(1859)

→ 3 tỉnh miền Tây Nam Kì → Bắc Kì lần 1 →

(1861 - 1862)


(1867)

Điều ước Nhâm Tuất

Điều ước Giáp Tuất

1862

Triều đình Huế chống Pháp ở
Đà Nẵng (1858)

Nhân dân Việt Nam chống
Pháp ở Đà Nẵng

Bắc Kì lần 2

(1873)

(1882)

1874

→ Khi Pháp đánh →
3 tỉnh miền Đông
Triều đình nhượng bộ

(1867)

Hình thành các trung tâm
chống Pháp


(1883)

(1883 - 1884)

(1873)



Thuận An

Điều ước Hác măng và Pa tơ nốt

→ Mất Gia Định → Mất 3 tỉnh miền Tây Nam Kì → Khi Pháp đánh Bắc Kì lần 1 → Mất Bắc Kì
(1859)



Khởi nghĩa
Giáp Tuất

(1882)



Bắc Kì






Mất Thuận An
(1883)

Ngọn cờ chống Pháp chuyển
hẳn sang tay nhân dân

Gò Công, Tân An

Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

12


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

Ví dụ 2: Dạy bài 22- Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực
dân Pháp. GV In sơ đồ ra giấy A4 với những thông tin cơ bản, yêu cầu học sinh:
+ Hãy hoàn thiện sơ đồ dưới đây để thấy được sự chuyển biến về cơ cấu
kinh tế Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân
Pháp:
Cơ cấu kinh tế Việt Nam

Cuối thế kỉ XIX

[130 – 4]
Sau khi thu lại bài của học sinh để chấm hoặc nhận xét GV trình chiếu lên bảng
sơ đồ có điền đầy đủ thông tin về sự chuyển biến cơ cấu kinh tế Việt Nam đầu
thế kỉ XX như sau:

Cơ cấu kinh tế Việt Nam

Cuối thế kỉ XIX

+ Hãy hoàn thiện sơ đồ
dưới đây để thấy được sự chuyển
biến về xã hội Việt Nam dưới tác
động của cuộc khai thác lần thứ
nhất của thực dân Pháp:

Nông Thủ
Thương Giao Ngân
nghiệp công
nghiệp thông hàng
nghiệp
vận
tải

Cơ cấu xã hội Việt Nam

Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

13


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

Trong cuộc khai thác lần thứ nhất


Địa



Chủ

sản

Viên
chức

Học sinh có thể hợp tác trong học tập (hoạt động nhóm) hoặc sử dụng
khăn phủ bàn, hoạt động cá nhân để nắm lại kiến thức vừa học thông qua việc
hoàn thiện sơ đồ (như trang 14). Qua sơ đồ chúng ta thấy được dưới tác động
của cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội Việt Nam có sự
thay đổi. Đó là: Sự biến động của các giai cấp cũ (địa chủ phong kiến, nông dân)
và sự xuất hiện các giai cấp tầng lớp mới (công nhân, tư sản, tiểu tư sản).
Nguyên nhân của sự chuyển biến: Những chuyển biến trong nền kinh tế
Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác lần thứ nhất dẫn đến sự chuyển biến
xã hội.

Cơ cấu xã hội Việt Nam
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

14


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)


Trong cuộc khai thác lần thứ nhất

Địa
chủ
phong
kiến

Nông
dân

Địa
chủ
phong

Nông
dân

Công
nhân

kiến



Tiểu

sản


sản


Tiểu
thương
tiểu
chủ

Với phương pháp này có thể kiểm tra được nhiều học sinh cùng lúc, hoặc
kiểm tra hoạt động của các nhóm học sinh.
Qua thực tế giảng dạy, với kinh nghiệm sử dụng sơ đồ để cụ thể hóa kiến
thức và củng cố bài học bản thân tôi nhận thấy học sinh có hứng thú học tập hơn
và nắm vững kiến thức cơ bản nhanh hơn, nhiều em rất thích thú khi tự mình
thiết kế sơ đồ sau mỗi bài học để nắm bắt bài học nhanh chóng và nhớ lâu.
* Sử dụng bảng hệ thống để hướng dẫn học sinh khai thác bài mới, học bài
và làm bài tập ở nhà:
Một ưu thế của dạy học phần ba – Lịch sử Việt Nam (1858 – 1884) là việc
sử dụng các bảng hệ thống để giúp học sinh tiếp nhận kiến thức một cách dễ
dàng. Vì vậy trong quá trình dạy học ở phần ba tôi thấy rằng việc sử dụng các
bảng hệ thống để kiểm tra kiến thức của học sinh thực sự là một ưu thế. Bảng hệ
thống này do giáo viên hướng dẫn học sinh tự lập, hoặc giáo viên cung cấp mẫu
cho học sinh. Có thể là hoạt động của cá nhân học sinh hoặc dạy học hợp tác. Có
nhiều bảng hệ thống kiến thức đã sử dụng, dưới đây là một số ví dụ:
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

15

Viên
chức




Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

+ Lập bảng hệ thống các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào Cần
vương (theo mẫu):
Cuộc Lãnh
khởi
đạo
nghĩa
Khởi
Nguyễn
nghĩa Bãi Thiện
Sậy (1883 Thuật
– 1892)

Địa bàn

Hương
Khê
(1885
1896)

- Căn cứ - 1885 đến 1888:
chính:
Chuẩn bị lực lượng, xây
Hương Khê dựng căn cứ, chế tạo vũ
(Hà Tĩnh).
khí, tích trữ lương thực.
- Hoạt động - 1888 đến 1896:
rộng khắp 4

Chiến đấu quyết liệt, mở
tỉnh
Bắc
các cuộc tập kích, đẩy
Trung

lùi quân địch, chủ động
(Thanh Hóa,
tấn công thắng nhiều
Nghệ An, Hà
trận lớn, nổi tiếng...
Tĩnh, Quảng
Bình

Phan
Đình
- Phùng,
Cao
Thắng

Hoạt động chính

- Căn cứ
- 1885 đến 1887:
chính:
Bãi Nghĩa quân đẩy lùi nhiều
Sậy
cuộc càn quét, gây cho
(Hưng Yên) địch nhiều thiệt hại.
Từ

1888
đến1892:
- Hoạt động
sang cả Hải Nghĩa quân chiến đấu
Dương, Bắc quyết liệt, di chuyển linh
hoạt, đánh thắng một số
Ninh.
trận lớn.

Kết quả, ý
nghĩa
Khi quân Pháp
bao
vây,
Nguyễn Thiện
Thuật
phải
sang
Trung
Quốc, Đốc Tít
ra hàng (1889).
- Để lại những
kinh nghiệm
tác chiến ở
vùng
đồng
bằng
Phan
Đình
Phùng hi sinh,

đến 1896 khởi
nghĩa thất bại.
- Là cuộc khởi
nghĩa tiêu biểu
trong
phong
trào
Cần
Vương.

+ Lập bảng hệ thống các sự kiện chính thể hiện quá trình xâm lược Việt Nam
của thực dân Pháp (1858 – 1884) .
Thời gian
1/9/1859
2/1859
1861
1862

Sự kiện
Nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta
Tấn công Gia Định
Đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì
Buộc triều đình Huế kí Hiệp ước Nhâm Tuất
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

16


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)


1867
1873
1874
1882 - 1883
1883
1884

Đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì
Tiến đánh Bắc Kì lần thứ nhất
Buộc triều đình Huế kí Hiệp ước GiápTuất
Tiến đánh Bắc Kì lần thứ hai
Tấn công Thuận An. Kí với triều đình Huế Hiệp ước Hác- măng
Kí với triều đình Huế Hiệp ước Patơnốt

+ Lập bảng hệ thống kiến thức về phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân
dân ta (1858 – 1884)
Giai
Diễn biến chính
Tên nhân vật
đoạn
tiêu biểu
1858 - - Trên mặt trận Đà Nẵng, quân dân ta đã anh dũng Phạm
Văn
1862
chống trả, đẩy lùi các cuộc tấn công của địch, áp Nghị
dụng kế sách “thanh dã” - vườn không nhà trống,
gây cho pháp nhiều khó khăn. Sau 5 tháng, Pháp
chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà, kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh của chúng bước đầu bị thất Dương Bình

bại.
Tâm
- Khi Pháp đánh Gia Định, các đội dân binh chiến Trương
đấu dũng cảm, gây cho địch nhiều khó khăn khiến Định,Lê Huy,
chúng phải chùn bước
Trần
Thiện
- Khi Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì, Chính, Nguyễn
cuộc kháng chiến của nhân dân ta phát triển mạnh, Trung Trực
làm cho quân Pháp bị sa lầy trong cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam
1863 – - Trái ngược với thái độ của triều đình, nhân dân Trương Định
trước
Nam Kì không chịu khuất phục trước quân xâm
1873
lược, không chấp nhận hiệp ước Nhâm Tuất, tiếp
tục đứng lên chống Pháp. Tiêu biểu là hoạt động
của nghĩa quân Trương Định tại Tân Hòa (Gò Trương Quyền,
Công)
Nguyễn Trung
- Sau khi 3 tỉnh miền Tây Nam Kì rơi vào tay Pháp, Trực,
Phan
phong phong trào kháng chiến của nhân dân vẫn Tôn,
Phan
tiếp tục dâng cao. Nhiều hình thức kháng chiến Liêm, Nguyễn
được áp dụng: bất hợp tác với giặc, tị địa, khởi Hữu Huân...
nghĩa vũ trang, liên minh chiến đấu với nhân dân
Campu chia. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở ba tỉnh
miền Tây
1873 - - Khi Pháp đánh Hà Nội, 100 binh sĩ đã chiến đấu Nguyễn

Tri
1884
và hi sinh đế người cuối cùng tại ô Quan chưởng. Phương
Nhân dân chủ động đứng lên chống giặc. Trong
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

17


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

thành tổng đốc Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân sĩ
chiến đấu anh dũng. Cuối cùng ông đã hi sinh.
Nhân dân chủ động kháng chiến ở Nam Định,
Hưng Yên, thái Bình.
21/12/1873 quân ta phục kích địch ở Cầu Giấy. Gác
–ni-ê tử trận, quân giặc hoang mang
- Khi Pháp đánh Bắc kì lần thứ hai, chúng cũng vấp
phải tinh thần quyết chiến của nhân dân ta: Hoàng
Diệu chỉ huy quân triều đình chiến đấu bảo vệ
thành hà Nội. Nhân dân tự nguyện đứng lên chống
Pháp bằng nhiều hình thức. Trận cầu Giấy thứ
hai(19/5/1883) tiêu diệt đạo quân của Rivie

Hoàng

Viêm,
Lưu
Vĩnh Phúc

Hoàng Diệu

+ Lập bảng so sánh phong trào cần vương cuối thế kỉ XIX với phong trào giải
phóng dân tộc đầu thế kỉ XX:
Nội dung

Phong trào Cần vương

Phong trào đầu thế kỉ XX

Mục tiêu

Chống Pháp, giành độc lập, Chống Pháp, giành độc lập, xây
khôi phục lại trật tự phong kiến dựng chế độ chính trị, kinh tế

tiến bộ

Lãnh đạo

Văn thân sĩ phu (chịu ảnh Văn thân sĩ phu (chịu ảnh hưởng
hưởng của tư tưởng trung quân của tư tưởng tư sản)
ái quốc)

Hình thức

Đấu tranh vũ trang

Đấu tranh vũ trang, cải cách,
vận động sự giúp đỡ bên ngoài...


Lực lượng

Văn thân, sĩ phu, nông dân

Văn thân, sĩ phu, nông dân, tư
sản, tiểu tư sản...

Tính chất

Cứu nước theo lập trường Cứu nước theo khuynh hướng tư
phong kiến
sản

Bằng các bảng hệ thống kiến thức trên, với nhiệm vụ tự học, làm bài tập ở
nhà giúp học sinh củng cố kiến thức đã học ở trên lớp, rèn luyện, hoàn thiện kĩ
năng tư duy đồng thời dễ dàng tiếp thu bài học mới. Việc học sinh chuẩn bị
trước bài học mới giúp học sinh chủ động tiếp thu kiến thức mới, ngoài ra còn
có tác dụng giáo dục ý thức trách nhiệm và kích thích hứng thú học tập của học
sinh đối với môn học.
2.4. Hiệu quả:
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

18


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

Phương pháp trực quan là hệ thống cách thức, biện pháp giáo viên sử
dụng đồ dùng hoặc phương tiện trực quan nhằm huy động các giác quan của học

sinh tham gia vào quá trình nhận thức, làm cho việc tiếp thu kiến thức trở nên dễ
dàng và rèn luyện các kĩ năng cho học sinh. Đồ dùng trực quan là chiếc cầu nối
giữa quá khứ với hiện tại, là sự phản ánh khách quan, chân thực nhất về quá
khứ, có vai trò quan trọng trong việc tạo biểu tượng lịch sử, giúp nhận thức lịch
sử chính xác, khách quan và sinh động . Nhận thấy vai trò to lớn của của đồ
dùng trực quan trong dạy học như vậy tôi đã triệt để sử dụng các nhóm đồ dùng
trực quan và sử dụng theo hướng phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh
nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng dạy học.
Sau một thời gian triển khai sáng kiến kinh nghiệm đối với học sinh lớp
11 ở trường THPT Hoàng Lệ Kha, bản thân tôi thấy việc sử dụng đồ dùng trực
quan theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là hoàn toàn phù hợp và đã
đem lại những kết quả nhất định.
Qua việc phát phiếu thăm dò của học sinh về việc tích cực sử dụng đồ
dùng trực quan trong dạy học ở phần ba lớn các em học sinh đều cho biết: các
em dễ dàng lĩnh hội kiến thức mới, nắm vững những nội dung cơ bản, những
vấn đề lớn ở phần này, thích thú học tập.
Kết quả các bài kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì nội dung tập
trung vào các vấn đề ở phần này phần lớn đạt kết quả khá, tốt.
Chất lượng bộ môn lịch sử các lớp khối 11 năm học 2016 – 2017 mà tôi
đã áp dụng phương pháp dạy học trên so với năm học 2014 – 2015 được nâng
lên rõ rệt. Cụ thể là:
Năm
Số Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
học
lớp
8 - 10

6.5 – 7.9
5 - 6.4
3.4 - 4.9
SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

20142015

4

189

17

8,9

90


47,6

77

40,7

5

2,6

2016 2017

4

185

28

15,1

113

59,7

44

23,2

0


0

Các em học sinh tôi dạy ở lớp 11hứng thú tham dự kì thi chọn học sinh
giỏi cấp trường. Có 5 học sinh đạt giải kì thi chọn học sinh giỏi trường môn lịch
sử năm học 2016 – 2017.
Qua việc sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng tích cực thấy được những
ưu thế rõ ràng: Học sinh nắm vững kiến thức cơ bản của bài học, hiểu sâu hơn
các sự kiện lịch sử, hiểu được mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử trong sự phát
triển chung. Học sinh cảm thấy các bài học nhẹ nhàng, hứng thú, phát huy tính
19
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

tích cực, chủ động, sáng tạo. Từ việc tiếp nhận kiến thức các em biết được quá
khứ để tim hiểu hiện tại rút ra bài học cho hiện tại, hình thành tư suy mạch lạc,
khả năng giải quyết vấn đề.
Những kết quả đạt được là động lực thúc đẩy tôi tiếp tục cố gắng, nỗ lực,
khắc phục khó khăn, vững vàng bước tiếp trong sự nghiệp trồng người.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Kết luận:
Trong việc thực hiện nhiệm vụ dạy học môn Lịch sử có một điều tôi tâm
đắc: “Trước khi làm cho học sinh yêu môn của cô hãy làm cho các em yêu cô”.
Không ai phủ nhận được vai trò của môn Lịch sử, nhưng có một thực tế rằng: có
không ít học sinh sợ học sử, ngại học Sử. Và một lí do cơ bản là các em phải
nhồi nhét quá nhiều sự kiện, phải ghi nhớ máy móc. Làm thế nào để học sinh
yêu môn Sử, tiếp nhận môn Sử với một tinh thần thoải mái, thái độ tích cực?

Điều đó có nghĩa là trong quá trình dạy học người giáo viên phải thiết kế những
hoạt động học tập đảm bảo sự tham gia cao và tham gia tích cực của học sinh,
tác động đến tình cảm, thái độ của học sinh, đem đến cho các em niềm vui và sự
hứng thú. Người giáo viên không chỉ là người đem kiến thức đến cho các em mà
còn phải thắp lên trong các em ngọn lửa đam mê, dạy cho các em cách tìm kiếm,
chiếm lĩnh tri thức, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, có kĩ năng giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Để đạt được những mục tiêu dạy học trên đòi hỏi người giáo viên không
ngừng tìm tòi, suy nghĩ, tìm ra những phương pháp hiệu quả. Sử dụng một cách
tích cực, hợp lí đồ dùng trực quan là cách thức hiệu quả mà thầy cô nào cũng
cần tận dụng. Đó là một phương pháp phù hợp với lí luận dạy học, có khả năng
ứng dụng cao vào thực tế dạy học ở nhà trường.
Thông qua những hình thức dạy học tích cực, phong phú góp phần rèn
luyện cho các em phát huy tư duy độc lập, sáng tạo, phát triển các kĩ năng nhận
định, đánh giá, hiểu bản chất, kĩ năng tư duy, năng lực diễn đạt và kĩ năng thực
hành... Đây là cơ sở để sau này học sinh có phương pháp hoạt động thực tế năng
động trong cuộc sống. Đặc biệt các hoạt động ngoại khóa có tác dụng to lớn
trong việc giáo dưỡng và phát triển tư duy học sinh, các em yêu thích môn lịch
sử, từ đó góp phần quan trọng nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ
thông.
- Kiến nghị:
Về phía nhà trường:
+ Quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa về chủ đề lịch sử
gắn với những di sản, tạo điều kiện cho học sinh được trải nghiệm với di sản,
được khám phá, khai thác các di sản liên quan đến bài học, giúp các em vừa có
20
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử

Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

những hiểu biết về di sản, vừa hiểu sâu sắc nội dung bài học, từ đó học sinh
thêm yêu môn lịch sử, trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị các di sản.
+ Cần tăng cường hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, tạo
điều kiện cho hoạt động đổi mới dạy học của giáo viên và nghiên cứu khoa học
sáng tạo của học sinh.
+ Khuyến khích giáo viên và học sinh tự làm các đồ dùng dạy học tạo
điều kiện thuận lợi cho sự chủ động sáng tạo của giáo viên và học sinh, tăng
cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin.
Về phía Sở Giáo dục và đào tạo:
+ Có chủ trương đưa vào bài thi trắc nghiệm những câu hỏi có sử dụng
hình ảnh trực quan để rèn luyện ở học sinh kĩ năng làm việc với sử liệu, khai
thác đồ dùng học tập, nhận thức chân thực về lịch sử và tạo hứng thú đối với học
sinh trong quá trình học tập
+ Tạo điều kiện để các nhà trường xây dựng các mô hình trực quan về lịch
sử liên quan đến các danh nhân, các sự kiện có ý nghĩa trọng đại… ngay tại
khuôn viên trường học hoặc địa điểm thích hợp để giáo dục truyền thống cho
học sinh.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

Thanh Hoá, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Tác giả

Mai Thị Liên

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo.
2. “Dạy và học tích cực” – Dự án Việt Bỉ - Nhà xuất bản Đại học sư phạm
- 2010
Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

21


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

3. Bài viết “Sử dụng tốt phương pháp trực quan góp phần gây hứng thú,
phát huy tính tích cực học tập cho sinh viên chuyên ngành lịch sử ở bậc cao
đẳng và đại học” – Thạc sĩ Lê Ngọc Thanh – Bài đăng trên kỉ yếu Hội thảo
khoa học “Phát huy tính tích cực của sinh viên đại học – Đại học Bạc Liêu” –
2011 (Nguồn Iternet)
4. Bài tập trắc nghiệm và tự luận lịch sử 11 – NXB Giáo dục - 2007

Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

22


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH XẾP LOẠI TỪ C

TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Thị Liên
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

TT
1.

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Góp phần bồi dưỡng cho học
sinh niềm tin vào chế độ xã

Ngành GD cấp
hội chủ nghĩa thông qua tỉnh; Tỉnh Thanh
Hóa
giảng dạy một số bài trong

2.

2002 - 2003

C

2010 - 2011

C

2012 - 2013

C

2014 - 2015

SGK Lịch sử 12
Một số biện pháp nâng cao
Ngành GD cấp
tỉnh; Tỉnh Thanh
Chí Minh trong dạy học Lịch Hóa
hiệu quả tích hợp tư tưởng Hồ

3.

B

sử
Nâng cao hiệu quả giáo dục
Ngành GD cấp

tỉnh; Tỉnh Thanh
nhiệm ở trường THPT Hoàng Hóa
đạo đức học sinh lớp chủ
Lệ Kha, Hà Trung, Thanh

4.

Hóa
Dạy học theo định hướng
Ngành GD cấp
tỉnh; Tỉnh Thanh
chương IV. Lịch sử Việt Nam Hóa
phát triển năng lực học sinh ở

từ 1954 – 1975 (Lịch sử 12
chuẩn)
----------------------------------------------------

Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

23


Sử dụng đồ dùng trực quan theo hướng dạy học tích cực ở Phần ba – Lịch sử
Việt Nam (1858 – 1918) – Lịch sử 11 (Cơ bản)

Mai Thị Liên – Trường THPT Hoàng Lệ Kha

24




×