Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Sử dụng một số di tích lịch sử ở thanh hóa vào dạy bài 19 những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm ở các thế kỉ x XV lớp 10 THPT chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH SỬ Ở THANH HÓA VÀO
DẠY BÀI 19: NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI
XÂM Ở CÁC THẾ KỶ X- XV. LỚP 10 THPT CHƯƠNG
TRÌNH CHUẨN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền
Chức vụ: giáo viên
SKKN Thuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử

Thanh Hóa, năm 2017

1


Mục lục

Trang

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

3

2. Mục đích nghiên cứu

4



3. Đối tượng nghiên cứu

4

4. Phương pháp nghiên cứu

4

II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của đề tài

5

2. Thực trạng vấn đề

6

3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề

8

4. Hiệu quả thực nghiệm của đề tài

17

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1 Kết luận

18


2. Kiến nghị

18

2


I. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Lịch sử không chỉ đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội mà còn là
công cụ giáo dục tư tưởng, tình cảm, phẩm chất đạo đức của con người. Đó là
giáo dục lòng yêu nước, trung thành tổ quốc, với dân tộc, với cách mạng, với
Đảng…. là việc noi gương người xưa để hành động cho hôm nay.
Trong hệ thống các môn học ở trường Trung học phổ thông (THPT) dạy
học lịch sử có ưu thế và ý nghĩa quan trọng, trong việc góp phần đào tạo nhân
cách con người. Để nâng cao chất lượng môn học, khắc phục tình trạng chán nản
của học sinh đối với môn học, đặc biệt trong những năm gần đây, qua các kỳ thi
tốt nghiệp và đại học thì chất lượng môn lịch sử là một trong những bộ môn có
điểm thi thấp. Vì vậy cải tiến, đổi mới, áp dụng phương pháp dạy học mới nhằm
thu hút sự đam mê của học sinh đối với môn học lịch sử là điều cần thiết.
Ở trường THPT Yên Định 2 phần lớn các em học sinh chỉ xem môn học lịch
sử là môn học phụ, đứng sau các môn: ngữ văn, toán, lý, hóa…nên các em chưa
giành nhiều thời gian cho việc học tập và nghiên cứu môn học. Hơn thế nữa
trong dạy học lịch sử hiện nay, chúng ta vẫn còn khan hiếm đồ dùng trực quan
sinh động, các em học sinh lĩnh hội kiến thức chủ yếu ở mức độ tư duy trừu
tượng, chưa tạo cho các em được sự lôi cuốn, sức hấp dẫn, dẫn đến sự mệt mỏi,

chán nản và tiếp thu kiến thức mới một cách thụ động.
Là một giáo viên trực tiếp dạy học lịch sử, trong tôi cũng đang có những suy
nghĩ về việc dạy học lịch sử hiện nay. Tôi cũng mong tìm ra con đường biện
pháp tích cực để áp dụng trong công việc của mình đang làm và tìm ra nhiều
hướng đi hơn cho tư duy của bản thân trong quá trình dạy lịch sử.
Hiện nay ở trường tôi đã áp dụng rất nhiều phương pháp dạy học, nhiều
phương tiện kĩ thuật mới và bước đầu mang lại những hiệu quả thiết thực cho
quá trình dạy và học lịch sử, quá trình sử dụng công nghệ thông tin trong dạy
học là một xu thế hiện nay đã mang lại hiệu quả đáng kể. Hay áp dụng nguyên
tắc dạy học liên môn, dạy học theo vấn đề, dạy học theo nhóm, dạy học theo
qua các chương trình học lịch sử... đã góp phần tích cực vào quá trình tìm ra con
đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn lịch sử.
Thanh hóa là vùng đất địa linh nhân kiệt, cái nôi của nhiều cuộc khởi nghĩa,
trong đó có khởi nghĩa Lam Sơn và nhiều những di tích lịch sử qua các triều đại mãi
vẫn lưu danh cho đến ngày nay.[1] Trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 10
THPT, các em học rất nhiều bài lịch sử việt Nam thời phong kiến qua các triều đại
Lý, Trần, Hồ, Lê sơ…thì trong đó có nhà Tiền Lê, Nhà Hồ, Nhà Lê Sơ ở Thanh Hóa.
Vì vậy tôi nghĩ rằng di tích lịch sử không chỉ là tài liệu lịch sử quý hiếm, mà
còn là một bằng chứng khoa học trung thực về quá khứ, một phương tiện dạy
học hiệu quả nhằm thu hút sự đam mê của học sinh đối với môn học.
Ghi chú([1]tài liệu được lấy từ lịch sử Thanh hóa cổng thông tin giáo dục 24h
3


Với những lý do cấp thiết nói trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Sử dụng một
số di tích lịch sử ở Thanh Hóa vào dạy Bài 19: Những cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm ở các thế kỷ X- XV lớp 10 trung học phổ thông” (chương trình
chuẩn).
2. Mục đích nghiên cứu
Giới thiệu hệ thống các di tích có mặt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, nhằm giúp

các em hiểu được gía trị, trách nhiệm, niềm tự hào về quê hương và trách nhiệm của
bản thân mình trong việc giữ gìn và bảo vệ các khu di tích của lịch sử dân tộc nói
chung và của tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các khu di tích lịch sử, để dạy học lịch
sử Việt Nam lớp 10 THPT chương trình cơ bản.
Những di tích được lựa chon trong đề tài: Đền thờ Lê Hoàn,Thành Nhà
Hồ, Khu di tích Lam kinh (Lê Lợi) và những di tích khác như đền thờ nhà Tiền
Lê, Bà Triệu … có liên quan đến bài dạy.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài chủ yếu là vận dụng các phương pháp
nghiên cứu bộ môn: Đọc, phân tích các tài liệu về lý luận môn học, tâm lý học,
các tài liệu văn hóa có liên quan, tham quan thực tế.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của đề tài
Nhận thức lịch sử là một yếu tố quan trọng để hành động có hiệu quả trong
hiện tại. Như Ph.Enghen đã nói: “Lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy
bắt đầu từ đấy”[2] Các nhà sử học cổ đã khẳng định: “Lịch sử là cô giáo của
cuộc sống”, “Lịch sử là bó đuốc soi đường đi đến tương lai”[3] .Vậy ở trường
THPT học sinh nhận thức lịch sử như thế nào?
Trong học tập lịch sử ở trường THPT học sinh không chỉ biết mà còn phải
hiểu lịch sử để rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt động thực tiễn. Cũng như
việc học các môn học khác ở trường THP, học tập lịch sử là một quá trình nhận
thức, một quá trình thu nhận thông tin và sử dụng thông tin, mà mỗi học sinh
phải tự thực hiện cùng với dự hướng dẫn của các thầy cô giáo và những phương
tiện học tập khác.
V.L.Lênin đã nêu : “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ
tư duy trừu tượng đến thực tiễn”[4]
Trước hết học sinh phải nhận thức những sự kiện, quá trình cụ thể của lịch sử
(thế giới, dân tộc và địa phương). Sự tiếp xúc của học sinh với quá khứ mang tính

chất gián tiếp (thông qua giáo viên, tài liệu..) tạo nên những biểu tượng lịch sử. Đó
là giai đoạn nhận thức cảm tính trong học tập lịch sử. Ở giai đoạn tiếp theo, bằng
sức mạnh của tư duy trừu tượng, học sinh sẽ tự hình thành trong đầu óc mình
những tri thức trừu tượng khái quát nhờ hoạt động “xử lí” những tri thức cụ thể.
Đây là giai đoạn nhận thức lí tính của học tập lịch sử.[5] Ở đây học sinh tiến hành
việc hình thành các khái niệm, nắm hệ thống khái niệm.
[2].Tài liệu lấy từ triết học Mác-Leenin.[3] trích từ danh ngôn lịch sử. [4]. Triết
học Mác-Leenin. 1[5]. Tài liệu lấy từ cổng thông tin điện tử giáo dục 24h
4


Trong giai đoạn tiếp theo nữa, học sinh học cách vận dụng tri thức đã học (kể cả tri
thức trừu tượng khái quát) để tạo ra trong tư duy những mối liên hệ mới giữa
những tri thức cũ và những
điều mới, chưa biết và sau đó là sử dụng kiến thức về quá khứ để hiểu ngày nay, để
hành động trong thực tiễn, phù hợp với yêu cầu, trình độ, nhiệm vụ của mình.
Như vậy, quá trình học tập lịch sử được thực hiện theo quy định chung của
việc nhận thức lịch sử: không trực tiếp quan sát được hiện thực quá khứ, không
thể tiến hành thí nghiệm lịch sử như đối với các bộ môn tự nhiên, công nghệ.
Nhưng lịch sử lại có các di tích lịch sử để chứng minh cho quá khứ hào hùng
của dân tộc.[6] Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải kết hợp tốt các
phương tiện dạy học nhằm khơi dậy sự đam mê của học sinh đối với bộ môn,
tránh sự trùng lặp nhàm chán, trừu tượng. Do đó việc sử dụng các di tích lịch sử
trong giảng dạy sẽ phát huy tính tích cực của chủ thể nhận thức – học sinh. Kết
hợp với việc giảng dạy học tập của giáo viên tạo ra hiệu quả dạy học tốt nhất.
2. Thực trạng vấn đề
Ngoài ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống, di tích lịch sử còn có ý nghĩa
quan trọng đối với bộ môn lịch sử ở trường THPT. Nhưng sử dụng các di tích
lịch sử như thế nào cho phù hợp với nội dung dạy học ở trường phổ thông là vấn
đề mà cần phải đặt ra để nghiên cứu.

Thế hệ trẻ ngày nay được thừa hưởng một khối lượng lớn các di tích lịch sử
văn hóa của dân tộc, được tạo dựng trong suốt một chiều dài lịch sử oanh liệt.
Nhưng thực tế cho thấy thực trạng các di tích lịch sử hiện nay không được các
thế hệ trẻ quan tâm đến đặc biệt là các em học sinh ở các trường THPT, thêm
vào đó là các di tích đang phải đối mặt với nhiều thảm họa, bị phá hủy theo thời
gian, hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt, chiến tranh kéo dài đó là hơn nghìn
năm đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, hơn 80 năm dưới ách thống
trị của thực dân Pháp, hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước… nhiều di
tích đã bị tàn phá nặng nề.
Sau cách mạng tháng 8/1945 đến ngày 23/11/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
ký sắc lệnh bảo tồn tất cả các di tích trên toàn việt Nam “Pháp lệnh bảo vệ di
tích lịch sử - văn hóa” của nhà nước quy định. “Di tích lịch sử văn hóa và các
danh lam thắng cảnh phải được giáo dục vào truyền thống dựng nước và giữ
nước của nhân dân Việt Nam. Góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội và lòng tự hào dân tộc, phục vụ công tác nghiên cứu khoa học,
nghệ thuật và thăm quan du lịch”.[7]
Đất nước đang được đổi mới từng ngày, đời sống vật chất tinh thần của con
người ngày càng được nâng cao, tầng lớp thanh niên hiện nay đang chạy theo xu
thế của thời đại, chạy theo cuộc sống vật chất lãng đi kho tàng văn hóa của dân
tộc, vì vậy hiện nay các khu di tích còn nhiều vấn đề bất cập như:
Tình trạng xuống cấp của các khu di tích.
[6] Đoạn tư liệu này do tác giả tự viết. [7].Đoạn trích lấy từ pháp lệnh bảo tồn
di tích lịch sử của hội đồng nhà nước 1984
5


Sử dụng các di tích còn nhiều sai lệch, ví dụ: Các di tích tín ngưỡng tôn giáo đáp
ứng đời sống tâm linh của con người thì được tôn đạo, tu sữa như: chùa, đền thờ,
đình làng… ngược lại các khu di tích cách mạng thì chưa được chú ý đúng mức.[8]
Học sinh ở các trường phổ thông thì chỉ học trên lý thuyết mà ít có cơ hội

tiếp xúc, khái thác các di tích lịch sử, nhiều di tích còn “hiện đại hóa” do việc
tôn tạo, năng cấp làm mất đi những yếu tố cổ kính của các di tích.
Nguy hiểm hơn là học sinh là lứa tuổi cần phải được giáo dục ý thức, đạo đức
qua các di tích nhưng các hình ảnh của di tích thì học sinh lại không có dấu ấn gì vì
chỉ được nghe qua những lời tường thuật trừu tượng của các thầy cô giáo mà không
có những hình ảnh thực sinh động của di tích. Trong khi đó đền thờ, miếu mạo thì
lại có ảnh hưởng rất lớn bởi cuộc sống tâm linh, bói toán của gia đình. Vì vậy ý
nghĩa giáo dục truyền thống đạo đức, niềm tự hào dân tộc, ít được phát huy trong
những dịp thăm quan, tham gia lễ hội ở các di tích lịch sử, mà hầu hết các em chỉ
theo gia đình đi cầu tài, cầu lộc qua các đền chùa vào những ngày đầu năm lễ hội.
Trong khi đó, theo quy luật của nhận thức: Từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.[9] Di tích lịch sử là những
chứng từ gốc, là phương tiện quan trọng, góp phần tạo biểu tượng cho học sinh,
di tích được xem là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Do rút ra được vấn đề từ
những thực trạng trên tôi đã mạnh dạn áp dụng vào giảng dạy và viết sáng kiến
kinh nghiệm “Sử dụng một số di tích lịch sử ở Thanh Hóa vào dạy Bài 19:
Những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm ở các thế kỷ X- XV lớp 10 trung học
phổ thông”
3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
Những vấn đề nêu trên tôi đã áp dụng vào dạy Bài 19: Những cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm ở các thế kỷ X- XV lớp 10 THPT chương trình cơ bản.
1.kiến thức
- Gần 6 thế kỷ đầu thời kỳ độc lập, nhân dân Việt Nam phải liên tiếp tổ chức
những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc.
- Với tinh thần dũng cảm, truyền thống yêu nước ngày càng sâu đậm, nhân dân
ta đã chủ động sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn đánh lại các cuộc chiến tranh
xâm lược
- Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại đó, không chỉ nổi lên những trận quyết chiến
đầy sáng tạo mà còn xuất hiện một loạt các nhà chỉ huy quân sự tài năng.
-Trình bày được những nét khái quát, diễn biến kết quả ý nghĩa của các cuộc

kháng chiến chống tống, chống minh, chống mông… giành thắng lợi
2.Tư tưởng
- Giáo dục lòng yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của tổ quốc
- Bồi dưỡng ý thức đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc
- Bồi dưỡng niềm tự hào dân tộc và lòng biết ơn với các thế hệ tổ tiên, các Anh
hùng dân tộc đã chiến đấu quên mình vì tổ quốc.
3. Kỹ năng
Rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ trong học tập, bồi dưỡng kỹ năng phân tích,
tổng hợp, đánh giá…
[8]Ví dụ này tác giả lấy từ giáo dục 24h. [9]triết học Mác-Lênin
6


Ho¹t ®éng cña thÇy
vµ trß
Hoạt động 1: Cá nhân
Giáo viên: Đầu thế kỷ X, nhân dân
Việt Nam đã giành lại được quyền
độc lập tự chủ, lật đổ hoàn toàn chế
độ đô hộ hơn nghìn năm bắc thuộc
cảu các triều đại phong kiến
phướng Bắc. Nhưng chẳng bao lâu
sau chiến thắng Bạch Đằng năm
938, nhân dân ta đã phải đương đầu
với hai lần xâm lược của nhà Tống.
Giáo viên đặt câu hỏi: Vậy
nguyên nhân nào nhà Tống sang
xâm lược nước ta vào thời điểm
này?
Sau khi học sinh trả lời xong,

giáo viên sẽ chốt lại và giới thiệu
về Lê Hoàn và cuộc kháng chiến
chống quân Tống của Ông

Lê Hoàn quê ở Ái Châu Thanh
Hóa, là viên tướng trẻ tài năng, cha
mẹ mất sớm, Lê Hoàn được một
người quen trong làng nhận làm
con nuôi, ngay từ rất nhỏ ông đẫ là
người học hành rất thông minh và
hiểu biết, ngoài thời gian đi học
ông phải đi chăn trâu, cắt cỏ. Làm
quan cho nhà Đinh dưới thời Đinh
Bộ Lĩnh.
Đến năm 26 tuổi Lê Hoàn đã nhận
chức thập đạo tướng quân, coi sóc
10 đạo binh của cả nước. Người
thanh niên chưa đầy 30 tuổi, đã trở
thành một đại nguyên soái của
quốc gia đang thời kỳ trứng nước.
Sau khi Đinh tiên Hoàng cùng con
trai là Đinh Liễn bị Sở Thích giết
hại, Đinh Toàn còn nhỏ mới 6 tuổi
lên ngôi Lê Hoàn được mọi người
tín nhiệm và giao trách nhiệm làm
nhiếp chính cho Vua Đinh Toàn.

Kiến thức cơ bản
I. Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Tống

1. Kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê
- Năm 980, nhà Đinh gặp khó khăn, Vua Tống
vội cử quân sang xâm lược nước ta.
- Năm 981, dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn và
nhân dân ta đã đánh tan quân Tống ngay trên
vùng Đông Bắc, nhà Tống buộc phải rút quân,
bỏ mộng xâm lược.

Đền thờ Lê Hoàn nằm ở địa phận làng Trung
Lập xã Xuân Lập, Huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa.
Ngày lễ hội truyền thống hàng năm là ngày 7/3
đến 9/3 âm lịch.
+ Nguyên nhân thắng lợi
7


Dương Thị làm Hoàng Thái Hậu,
cùng coi việc triều chính.
Giữa lúc nhà Đinh đang gặp khó
khăn thì Vua Tống cử quân sang
xâm lược nước ta. Thập đạo tướng
quân Lê Hoàn được nhiều tướng
lĩnh và bà thái hậu họ Dương tôn
lên làm Vua chỉ đạo cuộc kháng
chiến chống Tống.
Năm 981 quân Tống tiến vào nước
ta. Với ý chí quyết chiến bảo vệ
độc lập của tổ quốc, quân và dân
Đại Cồ Việt đã chiến đấu anh dũng,
đánh tan quân Tống xâm lược ngay

trên vùng đất Đông Bắc.
Nhà Tống buộc phải rút quân, bỏ
mộng xâm lược nước ta, quan hệ
Việt -Tống trở lại bình thường.
(Giáo viên cho học sinh quan sát
đền thờ Lê Hoàn tại Thọ Xuân
Thanh Hóa)

- Chiến thắng nhanh chóng
- Trước nguy cơ bị xâm lược, Thái hậu Họ
Dương đã đặt quyền lợi của dân tộc lên trên
quyền lợi của dòng họ, nhường ngôi cho Lê
Hoàn.
- Quyết tâm chiến đấu của nhân dân và sự chỉ
đạo tài giỏi của Lê Hoàn.

2. Kháng chiến chống Tống thời Lý(10751077)
- Trước âm mưu đó nhà lý đã tổ chức kháng
chiếnqua hai giai đoạn:
+ Giai đoạn 1:
- Lý Thương Kiệt tổ chức thực hiện chiến lược
“tiên phát chế nhân” đem quân đánh trước chặn
thế mạnh của giặc.
- Năm 1075 quân triều đình cùng các dân tộc
miền núi đánh sang đất Tống, Châu Khâm, Châu
Liên, Ung Châu sau đó rút về phòng thủ.

CH: Em hãy cho biết nguyên
nhân thắng lợi của cuộc kháng
chiến?


Hoạt động 2: cá nhân, cả lớp
Giáo viên đặt câu hỏi:
Nguyên nhân quân Tống xâm lược
nước ta?
Vào những năm 70 của thế kỷ XI,
trong lúc Đại Việt đang phát triển
thì nhà Tống bước vào giai đoạn
khủng hoảng, phía bắc bị người
Lưu, Hạ xâm lấn. Trong nước nông
dân nổi dậy ở nhiều nơi. Trước tình
hình đó, Tể tướng Vương An Thạch
đã khuyến khích Vua Tống sai quân
xâm lược nước ta: “Nếu thắng, thế
8


Tống sẽ tăng, các nước Hạ, Lưu sẽ
phải kiềng nể”. Tin quan Tống
chuẩn bị xâm lược được tiết lộ về
nước.
CH: Vậy trước âm mưu xâm
lược của quân Tống Nhà lý đã
làm gì để đối phó ?
Trước tình hình đó Thái Hậu ỷ Lan
cùng Vua Lý triệu tập các đại
trhaanf để bàn bạc. Thái úy Lý
thường Kiệt đã chủ trương: “Ngồi
yên đợi giặc không bằng đem quân
đi đánh trước để chặn mũi nhọn

của giặc”.
Được sự tán đồng của triều đình và
sự ủng hộ nhiệt liệt của quân sỹ,
năm 1075, Thái úy Lý Thường
Kiệt- người chỉ đạo cuộc kháng
chiến, đã kết hợp lực lượng quân
đội của triều đình với lực lượng
dân binh của các tù trưởng dân tộc
ít người phía bắc, mở cuộc tập kích
các kho lương của chúng trên đất
Tống như Châu Khâm, Châu
Liêm…Và đây là một hành động tự + Giai đoạn 2:
- Chủ động lui về phòng thủ đợi giặc
vệ của quân và dân ta.
- Năm 1077 ba mươi vạn quân Tống kéo sang bị
đánh bại trên bờ sông Như nguyệt, ta chủ động
giảng hòa và kết thúc cuộc kháng chiến.
CH: Kháng chiến chống Tống thời
Lý được coi là cuộc kháng chiến
rất đặc biệt trong lịch sử. Em cho
biết nét đặc biệt đó là gì?
Đó là có giai đoạn diễn ra ngoài
lãnh thổ của nước ta

9


Năm 1077, 30 vạn quân Tống tràn
sang nước ta, bawnff trận quyết
chiến

trên
bờ
sông
như
nguyệt(Sông cầu- Bắc Ninh) quân
ta do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ
huy đã đánh tan quân Tống xâm
lược. Và bài thơ bất hủ đã ra đời
mãi mãi vang vọng non sông.
“Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Như đắng hành khan thủ bại hư”

Hoạt động 3: Cả lớp, cá nhân
II. Kháng chiến chống Mông – Nguyên thời
Giáo viên: Tốm tắt về sự phát triển nhà Trần thế kỷ XIII.
của quân Mông –Nguyên, 1 bộ tộc
- Từ năm 1258 – 1288 quâm Mông –
Nguyên 3 lần xâm lược nước ta.
của người Mông cổ xâm lược Nam
Tống làm chủ vùng đất rộng lớn,
- Các Vua Trần cùng nhà quân sự Trần
lập nên nhà Nguyên là một thế lực
Quốc Tuấn đã lãnh đạo nhân dân cả nước
10


hung bạo chinh chiến khắp Á,Âu.
đánh giặc giữ nước.

Thế kỷ XIII đã 3 lần đem qn đi + Lần thứ nhất(1258)
xâm lược Đại Việt. Sau đó giáo - Đơng Bộ Đầu (bên sơng Hồng từ dốc hàng than
viên nêu những thắng lợi tiêu biểu đến dốc Hóc Mai Ba Đình – Hà Nội)
của cuộc kháng chiến.
Dưới thời Trần, nhân dân Đại Việt
phải đối đầu với một thử thách
hiểm nghèo. Trong vòng 30 năm
phải tiến hành 3 lần kháng chiến
chống qn xâm lược Mơng –
Ngun hung bạo(1258,1285,12871288)

Kinh hành Thắng Long ba
lần bò quân xâm lược
tàn phá, bộ chỉ huy
kháng chiến có lúc bò
kẹp giữa hai gọng kìm
của quân xâm lược, từ
Nam đánh lên và từ
Bắc đánh xuống. Nhưng,
với ý chí kiên cường,
với truyền thống yêu
nước sâu sắc, nhân
dân Đại Việt đã thực
hiện lệnh của triều
đình “nếu có xâm lược
thứ ba.

+ Lần thứ 2(1285)
- Với truyền thống u nước sâu sắc, nhân dân
Đại Việt đã thực hiện lệnh của triều đình “Nếu

có giặc ngồi đến,phải liều chết mà đánh,nếu sức
khơng địch nổi thì cho phép lẫn tránh vào rừng
núi, khơng được đầu hàng”. Cuối cùng chúng đã
thất bại trong trận Đơng Bộ Đầu, Chương
Dương, Hàm Tử..

11


Hỏi HS: Đặc điểm
nổi bậc của 3 lần
kháng chiến chống
Mông-Nguyên?
Thực hiện chiến lược
sáng suốt “vườn không
nhà trống”

+ Lần thứ 3(1287-1288)
.
Qn dân nhà Trần đã đẩy lùi qn xâm lược
tiêu biểu nhất là trận Bạch Đằng năm 1288 đè
bẹp ý trí xâm lược của qn Mơng – Ngun,
Chiến thắng Bạch Đằng bảo vệ vững chắc nền độc lập
mãi mãi ghi sâu vào
lòch sử đấu tranh anh
hùng của dân tộc Việt
Nam, kết thúc thắng lợi
cuộc
kháng
chiến

chống quân xâm lược
Mông - Nguyên của
nhân dân ta.
Cùng thời gian này,
năm 1282, quân Mông –
nguyên
dong
thuyền
đánh
vào
Cham-pa.
Quân dân Cham-pa rut lui
khỏi kinh thành và sau
đó, dưới sự chỉ huy
của Thái tủ Ha-ri-gít,
tập trung lực lượng đánh
lui quân xâm lược. Một
bộ phận của chúng
12


phải rut lên phía Bắc,
theo sự điều động của
nhà Nguyên đánh vào
phái nam của Đại Việt.

Giáo vên đặt câu hỏi:
Em hãy nêu ngun nhân thắng lợi
của kháng chiến chống qn Mơng
– Ngun?

Học sinh suy nghĩ trả lời
Giáo viên bổ sung kết luận:
- Nhà Trần có Vua hiền, tướng giỏi,
triều đình quyết tâm đồn kết nội
bộ và đồn kết nhân dân chống
xâm lược.
-Nhà trần vốn được lòng dân bởi
những chính sách kinh tế của mình, + Ngun nhân thắng lợi
nhân dân đồn kết bên cạnh triều - Nhà Trần có Vua hiền, tướng giỏi, triều đình
đình vâng mệnh kháng chiến.
quyết tâm đồn kết nội bộ và đồn kết nhân dân
chống xâm lược.
-Nhà trần vốn được lòng dân bởi những chính
sách kinh tế của mình, nhân dân đồn kết bên
cạnh triều đình vâng mệnh kháng chiến.
Hoạt động 3: Cá nhân, cả lớp
III.Phong trào đấu tranh chống qn xâm
Giáo viên cho học sinh thấy cuối lược Minh và khởi nghĩa Lam Sơn.
thế kỷ XIV nhà Trần suy vong. + Nhà Hồ (1400-1407)
Năm 1400 nhà Hồ được thành lập,
giới thiệu thành nhà Hồ, thuộc
Huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa.
Đây là kinh thành của nước Việt
Nam từ năm 1398 đến 1407.
Thành nhà Hồ do Hồ Q Ly- lúc
bấy giờ là tể tướng dưới triều Trần
cho xây dựng vào năm 1397.
Thành xây xong Hồ Q Ly ép Vua
Trần Thuận Tơng rời đơ từ kinh
thành Thăng Long(HN) về Thanh

Hóa. Thánh 2/1400. Hồ Q Ly lên
ngơi Vua thay nhà Trần và đặt tên
nước là Đại Ngu(1400-1407).
13


Thành nhà Hồ được coi là tòa
thành đá duy nhất còn lại ở Đông
NamÁ. Ngày 27/6/2011UNESCO
đã công nhận thành nhà Hồ là di
sản văn hóa thế giới.
Năm 1407 cuộc kháng chiến chống
quân Minh của nhà Hồ bị thất bại,
nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà
Minh.
Chính sách bạo ngược của nhà
Minh tất yếu làm bùng nổ các cuộc
đấu tranh của nhân dân… tiêu biểu
là cuộc khởi nghĩa Lam sơn của Lê
Lợi.
Giáo viên giới thiệu về địa danh
Lam sơn.
Khu di tích Lam Sơn nằm trong
khu vực rộng lớn thuộc xã Xuân
Lam, Huyện Thọ Xuân, cách thành
phố Thanh Hóa khoảng 50km về
phía Tây.
Lam Sơn xưa có núi rừng trùng
điệp, nối liền một dãi với núi rừng
hiểm trở miền Tây Thanh Hóa, bao

gồm các huyện, Ngọc Lạc, lang
Cháng,Cẩm Thủy, Quan Hóa,
Thường Xuân…
Lam Sơn có sông Chu chảy qua địa
phận huyện Thọ Xuân theo hướng
Tây nam rồi lợn vòng sang phía
đông ngay trước Lam Sơn họp lưu
với sông Mã ở ngã Ba Bông(thuộc
địa phận giáp danh 5 huyện Thiệu
Hóa, Yên Định, Đông Sơn, Hoàng
Hóa, hà Trung) rồi theo nhiều
nhánh đổ ra biển.
Đất Lam Sơn còn là nơi hội tụ hào
kiệt khắp nơi trong tỉnh Thanh Hóa
và các nơi trong nước tìm về dưới
cờ của Bình Đinh Vương Lê Lợi.
Từ năm (1418-1427) đất Lam Sơn
cùng với rừng núi Thanh Hóa đã
riễn ra nhiều cuộc chiến đấu ác liệt
giữa nghĩa quân Lam Sơn với giặc
Minh.

+ Khỉ nghĩa Lam sơn(1418) do Lê Lợi –
Nguyễn Trãi lãnh đạo

+ Các thắng lợi tiêu biểu:
- Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ Lam Sơn (Thanh
Hóa) được sự hưởng ứng của nhân dân vùng giải
phóng càng mở rộng từ Thanh Hóa vào Nam
- Chiến thắng Tốt Động đẩy quân Minh vào thế

bị động
- Chiến thắng Chi Lăng –Xương Giang đập tam
10 van quân cứu viện khiến giặc cùng quẫn tháo
chạy về nước.

14


Đồng bào các dân tộc ở Lam Sơn
là những chiến sĩ đầu tiên kiên
cường nhóm lên ngọn lửa khởi
nghĩa để sau này lan rộng ra toàn
quốc, giành thắng lợi cuối cùng cho
dân tộc ơt thế kỷ XV.
Sau khi giới thiệu xong giáo vên
dùng lược đồ nêu một số cuộc khởi
nghĩa tiêu biểu và học sinh theo dõi
trên lược đồ.
Giáo vên đặt câu hỏi:
Hãy rút ra đặc điểm của khởi nghĩa
Lam Sơn ?
Từ một cuộc chiến tranh ở địa
phương, phát triển thành cuộc đấu
trang giải phóng dân tộc.
Suốt cuộc khởi nghĩa tư tưởng
nhân nghĩa được đề cao.Có đại bản
doanh căn cứ địa

+ Đặc diểm:
- Từ một cuộc chiến tranh ở địa phương, phát

triển thành cuộc đấu trang giải phóng dân tộc
- Suốt cuộc khởi nghĩa tư tưởng nhân nghĩa được
đề cao
- Có đại bản doanh căn cứ địa

4. Cũng cố bài:
Giáo viên khái quát lại nội dung cơ bản cần nắm được qua bài học bằng
những câu hỏi tổng quát. Đặc điểm và nguyên nhân thắng lợi của các cuộc
kháng chiến chống xâm lược từ thế kỷ X- XV ?
Để học sinh nhớ được các địa danh khởi nghĩa giáo viên cho làm một số
bài tập bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
5. Dặn dò
Đọc trước bài mới ,làm bài tập về nhà trong sach giáo khoa, sưu tầm tranh
ảnh tài liệu học có lien quan đến bài mới
4. Hiệu quả thực nghiệm của đề tài
4.1.Trước khi áp dụng đề tài
Với đặc thù của môn lịch sử nói chung và bài những cuộc kháng chiến chống
giặc ngoại xâm trong lịch sử dân tộc từ X- XV nói riêng, khi chưa thay đổi
phương pháp dạy thì một điều dễ nhận thấy là các em không có hứng thú trong
quá trình học, đặc biệt là đối với các sự kiện lịch sử cụ thể, có thật đã riễn ra trong
quá khứ thì mơ hồ và tiếp thu một cách thụ động, không có sự đam mê, tò mò, tìm
tòi và tư duy. Đa số các em chỉ học đối phó để lấy điểm. Do vậy nếu không có
15


những hình ảnh, những di tích có thật về lịch sử của Ông Cha để lại thì sẽ không
giáo dục được ý thức đạo đức, không khơi dậy được niềm tự hào của dân tộc
trong mỗi học sinh, đồng thời các em cũng không có trách nhiệm trong việc bảo
vệ các khu di tích của lịch sử dân tộc, điều đó dẫn đến tình trạng xuống cấp của
các di tích lịch sử ở các địa phương hiện nay.

4. 2.Sau khi áp dụng đề tài
Qua tìm hiểu, thăm dò từ học sinh sau khi áp dụng đề tài này vào bài dạy thì
tôi đã nhậ được phản hồi sau đây :
- Học sinh rất hứng thú đối với tiết dạy, tiếp thu kiến thức mới tốt hơn, nắm được
kiến thức bài học nhanh hơn, hiểu và nhớ các sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá
khứ
- Học sinh hứng thú say mê, tích cực, chủ động đặt ra cho giáo viên rất nhiều câu
hỏi về các di tích lịch sử có ở địa phương mình sống, những câu hỏi mang tính tư
duy từ đó tạo cho các em sự tự tin trong giao tiếp và trong học tập.
- Trong quá trình lĩnh hội kiến thức của bài học các em liên hệ được thực tế ở địa
phương và biết giải thích các sự kiện lịch sử đã sảy ra trong quá khứ.
4.3 Kết quả kiểm nghiệm :
Trước khi dạy phương pháp trên tôi đã cho học sinh làm bài kiểm tra và kết quả
như nhau
Lớp
Sĩ số Điểm dưới 5 Điểm 5 ; 6 Điểm 7 ;8
Điểm 9 ;10
10 B9

45

25%

64,5%

10,5%

0%

10B10


45

22,7%

61,9%

15,4%

0%

Sau khi giảng dạy phương pháp trên tôi đã tiếp tục khảo sát và kết quả đạt được
như sau :
Lớp

Sĩ số

Điểm dưới 5

Điểm 5 ; 6

Điểm 7 ;8

Điểm 9 ;10

10 B9

45

8,3%


34,5%

41,7%

15,5%

10B10

45

4,5%

31,4%

50,5%

13,6%

Đây là kết quả đáng mừng, thể hiện sự hiểu biết của học sinh khi được nhận
biết các sự kiện lịch sử thông qua những khu di tích lịch sử có thật đang tồn tại
ở các địa phương mình đang sống hoặc ở tỉnh mình đang sinh sống. Tạo cho các
em có được những biểu tượng cụ thể trong quá trình tiếp thu bài mới một cách
nhanh nhất và đặc biệt là nhớ được các địa danh các nhân vật lịch sử hào hùng
của dân tộc.
Ghi chú(Tranh ảnh trong bài dạy tác giả lấy từ mạng và tài liệu kênh hình)
III. Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
16



Khi thực hiện đề tài này vào thực tế giảng dạy tại trường tôi đã thu được
kết quả chính sau đây :
- Nêu lên được thực trạng hiện nay của bộ môn Lịch sử nói chung, dạy bài Các
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc từ thế kỷ X- XV nói
riêng
- Nêu lên được một số cơ sở lý luận của việc vận dụng một số di tích lịch sử tỉnh
Thanh Hóa vào dạy bài : Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong lịch sử
dân tộc từ thế kỷ X- XV.
- Đưa ra được những biện pháp cụ thể để vận dụng một số di tích lịch sử tỉnh
Thanh Hóa vào dạy bài : Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong lịch sử
dân tộc từ thế kỷ X- XV.
- Đưa ra được những kết quả thực nghiệm để chứng minh cho tính thiết thực của
đề tài khi áp dụng vào thực tiễn giảng dạy. Vì vậy khi áp dụng đề tài vào thực
tiễn là hoàn toàn khả thi, phù hợp với đặc trưng của môn học.
2. Kiến nghị
Môn lịch sử hiện nay đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân
cách con người, giáo dục truyền thống yêu nước và niềm tự hào của dân tộc.
Tuy nhiên nếu chỉ nói bằng những bài học thuyết trình trên lớp thì học sinh sẽ
rất trừu tượng và không tạo được niềm đam mê của học sinh đối với môn học,
trong khi đó hiện nay ở các trường phổ thông ngoài những bản đồ câm treo
tường thì học sinh không còn có những hình ảnh nào khác để quan sát hay tìm
hiểu các sự kiện lịch sử đã diễn ra. Do vậy tôi mong muốn các cơ quan ban
ngành cần quan tâm hỗ trợ, cung cấp các tài liệu dạy học, những băng đĩa,
những phim tài kiệu lịch sử để phục vụ công tác giảng dạy.
Trong những giai đoạn tiếp theo, tôi cũng rất mong muốn vị trí và vai trò
của môn học lịch sử sẽ được nâng lên, để có thể xóa bỏ được định kiến xã hội
xem đây là môn học phụ chỉ cần lấy điểm để lên lớp. Tôi mong muốn rằng các
cấp các ngành quan tâm hơn nữa đến bộ môn lịch sử.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh hóa, ngày 25 / 5 / 2017
Tôi xin cam đoan đây là đề tài do mình
viết,không coppy sao chép của người
khác

Nguyễn Thị Huyền

DANH MỤC
17


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Huyền
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Yên định 2

TT

1.

Tên đề tài SKKN
Đổi mới phương pháp kiểm
tra đánh giá môn lịch sư ở

2.


trường THPT
Phương pháp sử dụng kênh
hình trong giảng dạy lịch sử

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)
Giám đốc sở
giáo dục và đào
tạo thanh hóa

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
C

Giám đốc sở
giáo dục và đào
tạo thanh hóa

C

Năm học
đánh giá xếp
loại
2008- 2009


2012-2013

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 10. Nhà xuất bản giáo dục
18


2. Sách giáo viên lịch sử lớp 10. Nhà xuất bản giáo dục
3. Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lớp 10. Nhà xuất bản
Hà Nội,2007
4. Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 1. Nhà xuất bản giáo dục, 2000
5. Chuẩn kiến thức kỹ năng lớp 10. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
6. Thế thứ các triều Vua Việt Nam. Nhà xuất bản giáo dục,
7. Một số vấn đề về lịch sử. Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội
8. triết học Mác- Lênin. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội
9. Bài tập lịch sử lớp 10. Nhà xuất bản giáo dục
10.Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh(Hội
đồng nhà nước). 1984
11. Tài liệu tìm hiểu qua mạng Intanet, cổng thông tin giáo dục 24h

19



×