Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đề cương nhà nước pháp luật đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.54 KB, 20 trang )

ĐỀ CƢƠNG NHÀ NƢỚC PHÁP LUẬT
1. BẢN CHẤT VÀ NHỮNG ĐẶC TRƢNG (THUỘC TÍNH) CƠ BẢN CỦA
NHÀ NƢỚC.
Bản chất
1.2.1. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc kiểu nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, có bản chất khác với bản
chất của các kiểu nhà nước bóc lột. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa do cơ
sở kinh tế xã hội chủ nghĩa và đặc điểm quyền lực chính trị của chủ nghĩa xã hội
quy định.
Ra đời từ cách mạng tháng Tám năm 1945, ngay từ những ngày đầu, nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa- nay là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam- đã thể hiện bản chất của một nhà nước gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích
của nhân dân, của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Bản chất của nhà nước được xác định
trong hiến pháp năm 1992 ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ); “ Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ tri thức” ( điều 2).
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện qua
những đặc trưng cơ bản sau đây:

1


1.2.1.1. Nhân dân là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước
Nhà nước ta ngày nay là nhà nước do dân mà nịng cốt là liên minh cơng nơng và
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức thành. Chủ thể cao
nhất có quyền định đoạt quyền lực nhà nước là nhân dân. Không một cá nhân nào
hoặc một nhóm người nào có quyền quyết định quyền lực nhà nước.
Với tư cách là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước, nhân dân thực hiện quyền


lực dưới những hình thức khác nhau được Hiến pháp quy định. Hình thức cơ bản
nhất là nhân dân thông qua bầu cử để lập ra các cơ quan đại biểu của mình. “ Nhân
dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là
những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu
ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” ( Điều 6 Hiến pháp năm 1992). Nhân dân
còn thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên trong việc tham gia giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan
nhà nước.
1.2.1.2. Nhà nước là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết các dân tộc anh em
trên lãnh thổ Việt Nam
Tính dân tộc của Nhà nước ta là một vấn đề có tính lịch sử, là truyền thống lâu đời
và là nguồn sức mạnh của nhà nước. Ngày nay, tính dân tộc của nhà nước càng
được tăng cường do khả năng kết hợp thống nhất với tính giai cấp, tính nhân dân
và tính thời đại. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “ Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên
đất nước Việt Nam.

2


Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết tương trợ giữa các dân tộc,
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của đồng bảo dân tộc thiểu số” ( Điều 5 )
1.2.1.3. Nhà nước thể hiện tính xã hội rộng lớn
Nhà nước ta một mặt vẫn thể hiện tính giai cấp của mình, là nhà nước mà nền tảng
chính trị là sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mặt khác cũng thể hiện tính chất xã
hội một cách rộng rãi và sâu sắc.
Với quan điểm coi “ lợi ích của giai cấp cơng nhân với lợi ích của toàn dân tộc

trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhà nước ta đặc biệt quan tâm
đến việc giải quyết các vấn đề của toàn xã hội như: việc làm, thất nghiệp, xóa đói
giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, giúp đỡ người già cô đơn, trẻ mồ
côi… Nhà nước coi việc giải quyết các vấn đề xã hội là một trong những phương
hướng hoạt động cơ bản của nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường.
1.2.1.4. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mang tính thời đại. Đó là nhà nước trong đó mọi
chủ thể, kể cả nhà nước đều tuân thủ và chấp hành pháp luật. Tính chất nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta được thể hiện qua các dấu hiệu cơ
bản sau:

3


Thứ nhất, mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị- xã hội, tổ chức chính trị- xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và của mọi công dân
đều phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật.
Thứ hai, nhà nước đã và đang xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và
ngày càng hoàn thiện nhằm điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, trong đó
các đạo luật có vị trí tối thượng.
Thứ ba, nhà nước đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của nhân dân thông qua sự
quy định và bảo vệ của pháp luật.
Thứ tư, quyền lực của nhà nước là thống nhất, tập trung nhưng các quyền lực lập
pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rõ ràng có sự phân cơng, phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lực đó.
Tính chất pháp quyền của xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta được khẳng định trong
nhiều quy phạm pháp luật của Hiến pháp năm 1992 ( đã được bổ sung sửa đổi năm
2001 ).

1.2.1.5. Nhà nước thực hiện chính sách hịa bình hữu nghị với các nước trên
thế giới.
Bản chất của nhà nước ta không chỉ thể hiện trong các đường lối chính sách đối nội
mà cịn được phản ánh trong các đường lối, chính sách đối ngoại.
Nhà nước ta thực hiện một cách nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với phương châm “ Việt Nam
làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
4


khu vực. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định” Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thực hiện chính sách hịa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu hợp tác với
tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau,
trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng
và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đồn kết hữu nghị và hợp tác với các nước
xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội” ( Điều 14 )
Đặc trƣng
1. Là 1 tổ chức quyền lực chính trị cơng cộng đặc biệt, có bộ máy chuyên thực
hiện cưỡng chế và quản lý những công việc chung của XH.
2. Thực hiện quản lý dân cư theo lãnh thổ.
3. Có chủ quyền quốc gia.
4. Ban hành pháp luật và thực hiện quản lý bắt buộc với công dân.
5. Quy định các loại thuế & thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc.
6.
2. HÌNH THỨC CHÍNH THỂ, HÌNH THỨC CẤU TRÚC NHÀ NƢỚC: KN
CƠ BẢN & PHÂN LOẠI.
Hình thức nhà nƣớc phản ánh cách thức tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi kiểu
nhà nước trong 1 hình thái KT – XH nhất định. Hình thức nhà nước bao gồm:

 Hình thức chính thể: Là cách thức tổ chức, trình tự thành lập và quan hệ
của các cơ quan quyền lực nhà nước tối cao cũng như mức độ tham gia của
nhân dân vào việc thiết lập các cơ quan này.

5


HÌNH THỨC CHÍNH THỂ
Qn chủ

Cộng hịa

Quyền lực NN tối cao tập trung Quyền lực NN tối cao thuộc về 1
toàn bộ hay 1 phần chủ yếu vào tay cơ quan tập thể được bầu ra trong
1 người đứng đầu NN theo nguyên thời hạn nhất định (VD quốc hội
tắc thừa kế (vua, quốc vương, của nhà nước CHXHCN).
hoàng đế).
Chuyên chế

Hạn chế

Quý tộc

đứng Quyền lực tối Pháp luật quy Quyền bầu cử

;Người

đầu nhà nước có cao
quyền


Dân chủ

lực

hạn.

của

NN định quyền bầu chỉ dành riêng

vô được phân chia cử cho công dân cho

giới

quý

cho người đứng để thành lập các tộc, do PL quy
đầu NN và 1 cơ cơ quan quyền định và bảo đảm
quan NN khác.

lực NN tối cao.

thực hiện.

 Hình thức cấu trúc: Là sự cấu tạo (tổ chức) NN thành các đơn vị hành
chính – lãnh thổ và tính chất quan hệ giữa các bộ phận cấu thành NN với
nhau, giữa các cơ quan NN ở TƯ với các cơ quan NN ở địa phương.

HÌNH THỨC CẤU TRÚC
Đơn nhất


Liên bang

Liên minh

 Là NN có chủ quyền  Gồm 2 hay nhiều Chỉ là sự liên kết
chung, có lãnh thổ

nước thành viên hợp tạm thời của 1 vài

toàn vẹn, thống nhất,

nhất. NNLB có chủ NN để thực hiện

các bộ phận hợp

quyền chung, đồng những

mục

đích

nhất định, sau khi
6


thành NN là các đơn

thời mỗi NN thành hoàn thành nhiệm


vị hành chính – lãnh

viên cũng có chủ vụ NN liên minh tự

thổ khơng có chủ

quyền riêng.

 Có 2 hệ thống các cơ chuyển thành NN

quyền.
 Có 1 hệ thống các cơ
quan NN thống nhất
từ



giải tán hoặc có thể

đến

địa

phương.

quan NN – 1 của liên bang.
NNLB, 1 của NN
thành viên.
 Có 2 hệ thống PL:


 Có 1 hệ thống PL

của NN toàn LB và

thống nhất trên toàn

của nhà nước thành

lãnh thổ QG, cơng

viên, cơng dân có 2

dân có 1 quốc tịch.

quốc tịch.

3. CÁC CHỨC NĂNG: KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA NHÀ NƢỚC CHXHCN VN
(NỘI DUNG CHỦ YẾU, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỨC NĂNG) Ở NƢỚC TA HIỆN NAY.
Cũng như các nhà nước khác, Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
hai chức năng cơ bản: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
1.2.2.1. Chức năng đối nội
* Chức năng kinh tế
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, chức năng kinh tế của nhà nước có sự khác nhau
nhất định nhưng bao giờ nó cũng là chức năng cơ bản, quan trọng nhất của nhà nước
ta. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng
kinh tế của nhà nước Việt Nam có những nội dung chủ yếu sau đây:
7



- Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó,
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể phát triển nhiều hình thức hợp
tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nịng cốt; tạo mơi trường kinh doanh cho kinh tế
cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân phát triển; phát triển đa dạng kinh tế tư bản
nhà nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi.
- Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hồn thiện các loại thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế.
* Chức năng xã hội
Chức năng xã hội của nhà nước là toàn bộ các mặt hoạt động của nhà nước nhằm
tác động vào các lĩnh vực cụ thể của xã hội. Trong điều kiện đất nước đang chuyển
sang cơ chế thị trường, chức năng xã hội của nhà nước hướng vào những mục tiêu
cơ bản sau đây:
- Xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng và động lực đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước
coi trọng việc phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi
dưỡng nhân tài. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học và cơng
nghệ quốc gia, xây dựng nền khoa học công nghệ tiên tiến, phát triển đồng bộ các
ngành khoa học.
8


- Giải quyết việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. cải
cách chế độ tiền lương của cán bộ công chức, bảo đảm cho doanh nghiệp được tư
chủ trong việc trả lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả
của doanh nghiệp.

- Thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo; thực hiện các chính sách xã hội để
bảo đảm an toàn cuộc sống cho mọi thành viên cộng đồng; thực hiện chính sách ưu
đãi xã hội đối với người có cơng, chính sách cứu trợ xã hội đối với người gặp rủi
ro, bất hạnh; thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của nhân
dân, chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
4. PHÂN TÍCH NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA BMNN NƢỚC CHXHCN VIỆT NAM.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt nam là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo, là cơ sở cho tồn bộ q trình tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Bộ máy nhà nước ta nhìn chung hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nguyên tắc này được
qui định rất sớm trong điều 1 (Hiến pháp 1046) và điều 4 (Hiến pháp 1959)

- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Tuy nhiên trong
Hiến pháp năm 1946, nguyên tắc này chưa được qui định vì tình hình thực tế của
xã hội lúc bấy giờ chưa cho phép Nhà nước ta qui định công khai. Đến Hiến pháp
1959, nguyên tắc này đã được đề cập trong Lời nói đầu của Hiến pháp chứ chưa
thành 1 điều luật.
9


- Nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhìn chung bộ máy nhà nước theo hai bản hiến
pháp đều tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc này. Tuy nhiên, ở Hiến pháp
năm 1946, tổ chức Bộ máy Nhà nước có những nét giống với chính thể Cộng hồ
lưỡng tính, giống với nguyên tắc phân quyền trong bộ máy Nhà nước của các nước
tư sản khi thể hiện sự phân công các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp một
cách tương đối rõ ràng và độc lập, đặc biệt là Chính phủ có vị trí tương đối độc lập
và đối trọng với Nghị viện nhân dân. Mãi đến Hiến pháp 1959, nguyên tắc tập

trung dân chủ đã được thể hiện rõ bằng điều 4 của Hiến pháp 1959. Bắt đầu từ đây
tư tưởng tập quyền xã hội chủ nghĩa đã được thể chế hoá trong pháp luật nước ta.

- Ngun tắc bình đẳng đồn kết, tương trợ giữa các dân tộc. Nguyên tắc này đã
được qui định ngay từ trong điều 8 Hiến pháp 1946 và điều 3 Hiến pháp 1959.
- Nguyên tắc pháp chế xã hôị chủ nghĩa. Nguyên tắc này tuy chưa được qui định cụ
thể trong 2 bản Hiến pháp năm 1946 và 1959, nhưng tư tưởng của nó đã nằm trong
các điều luật của 2 bản hiến pháp.
Hoàn thiện các nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nƣớc trong Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992
Mơ hình tổng thể tổ chức bộ máy nhà nước trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992 tiếp tục khẳng định và phát triển, hoàn thiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992. Đây là
những nguyên tắc nền tảng quyết định bản chất của bộ máy nhà nước pháp quyền
XHCN bảo đảm tính liên tục và ổn định của mơ hình nhà nước. Do vậy việc tiếp
tục kế thừa, phát triển và hoàn thiện các nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước được thể hiện trong Dự thảo là tất yếu.
10


Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân - nguyên tắc thể hiện rõ bản chất dân
chủ của nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân
Nguyên tắc này được xác định ngay từ khi thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa với phương châm thực hiện chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân
dân và được khẳng định ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta - Hiến
pháp 1946: nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hịa. Tất cả quyền bính trong
nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo... Nguyên tắc này cũng đã được thể hiện nhất quán trong
tất cả các bản Hiến pháp và hình thức thể hiện ln gắn liền với các đặc điểm của
mỗi giai đoạn lập hiến khác nhau. Đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm

2001), nguyên tắc này được thể hiện một cách rõ hơn, xác định hơn: Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức... Dự thảo tiếp tục khẳng định chủ quyền nhân dân với việc làm rõ hơn vai trò
của nhân dân trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Theo đó: nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện
thông qua QH, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6 Dự
thảo).
Thực tiễn ở nước ta cho thấy, nguyên tắc toàn bộ quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân được bảo đảm thực hiện bởi sự kết hợp hài hòa giữa dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện. Nhân dân là chủ không bao hàm ý nghĩa nhân dân thực hiện toàn
bộ quyền lực nhà nước. Tùy vào từng lĩnh vực, từng phạm vi hoạt động, nhân dân
có thể tự mình thực hiện quyền lực nhà nước hoặc ủy quyền cho các cơ quan nhà
11


nước thay mặt mình để thực hiện quyền lực Nhà nước. Với ý nghĩa như vậy, bộ
máy nhà nước được tổ chức để thực hiện sự ủy quyền của nhân dân và ln đặt
dưới

dự

kiểm

tra,

giám

sát


của

nhân

dân.

Tổ chức quyền lực Nhà nƣớc hồn thiện theo nguyên tắc: thống nhất, phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
Hiến pháp năm 1992 hiện hành quy định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp nhưng lại chưa quy định việc kiểm soát lẫn nhau giữa ba
loại cơ quan này. Mặc dù vậy, mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước được thiết kế trên
cơ sở nguyên tắc này trong một mức độ nhất định đã hàm chứa những yếu tố của
sự kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc quy định chức năng,
thẩm quyền và mối quan hệ quyền lực giữa Quốc hội, Chủ tịch Nước, Chính phủ,
Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Chính quyền địa phương. Dự thảo đã
bổ sung một nội dung quan trọng vào nguyên tắc này là: kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Việc bổ
sung như vậy đã hoàn thiện nguyên tắc này và tạo cơ sở để khắc phục sự yếu kém
trong việc kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
quyền lực do nhân dân ủy quyền. Và với sự hoàn thiện này, nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước ta được xác định bởi 4 nội dung quan trọng: thống nhất quyền
lực, phân công quyền lực, phối hợp quyền lực và kiểm sốt quyền lực.
Cụ thể, tính thống nhất của quyền lực nhà nước được xác định bởi chính chủ thể
duy nhất và tối cao của quyền lực là nhân dân. Quyền lực tập trung ở nhân dân,
nhân dân ủy quyền cho bộ máy nhà nước những phạm vi quyền hạn nhất định.
Tính thống nhất của quyền lực nhà nước cịn được xác định và bảo đảm bởi tính hệ
12



thống của quyền lực nhà nước. Bởi quyền lực nhà nước là một phạm trù phức tạp
bao gồm nhiều nội dung quan hệ mật thiết với nhau và được thể hiện thông qua ba
bộ phận quyền cơ bản cơ bản: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Ba quyền này hợp thành một hệ thống thống nhất, vừa phân định với nhau vừa lệ
thuộc vào nhau, chi phối, tương tác lẫn nhau trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước.
Bộ máy nhà nước ta không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập nơi việc
phân chia quyền lực kèm theo sự đối trọng quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Bản chất của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta là phân
cơng gắn liền với phối hợp và sự kiểm sốt quyền lực không nhằm tạo nên sự đối
trọng (trong không ít trường hợp là sự đối đầu giữa các nhánh quyền lực dẫn đến
nguy cơ làm tê liệt hoạt động của bộ máy nhà nước như đã xảy ra ở một số nước
theo tam quyền phân lập) mà chủ yếu là điều kiện để thực hiện tốt sự phân công, sự
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước
thống nhất.
Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992 được thiết lập theo cách tiếp cận nguyên
tắc tổ chức quyền lực nhà nước như vậy là hồn tồn phù hợp với đặc điểm chính
trị nước ta. Sự bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước vào nguyên tắc này
là một bước hoàn thiện quan trọng trong Dự thảo. Tuy nhiên, việc bổ sung nội
dung này hồn tồn khơng đặt ra nhu cầu phải cấu trúc lại bộ máy nhà nước để
thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước như một số ý kiến đã nêu ra trong q
trình thảo luận về mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước trong Dự thảo. Việc bổ sung
này vẫn tiếp tục khẳng định tính phù hợp của mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước đã
được khẳng định trong Hiến pháp hiện hành và tiếp tục kế thừa trong Dự thảo. Dĩ
nhiên để thực hiện được mục tiêu kiểm soát quyền lực cần thiết phải điều chỉnh lại
13


một số nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, qua

đó hồn thiện mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan này để vừa bảo đảm sự
thống nhất của toàn bộ bộ máy nhà nước, vừa bảo đảm vị trí, vai trị của từng thiết
chế quyền lực từ Quốc hội, Chủ tịch Nước, Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân, Chính quyền địa phương đến các thiết chế Hiến định độc lập.
Song song việc điều chỉnh lại một số thẩm quyền, nhiệm vụ của các cơ quan thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Dự thảo cũng đã Hiến định một số
thiết chế độc lập như Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán
Nhà nước nhằm tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Việc bổ sung các thiết chế Hiến định độc lập trong Dự thảo là một bước hồn thiện
quan trọng trong việc bảo đảm tính ổn định của mơ hình tổng thể bộ máy nhà nước
hiện hành vừa là một bước phát triển của bộ máy nhằm đáp ứng một cách hiệu quả
yêu cầu của chế độ pháp quyền trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Tập trung dân chủ - nguyên tắc đặc thù của mô hình bộ máy Nhà nƣớc
XHCN
Nguyên tắc này được Hiến định và được quy định nhất quán trong việc tổ chức mơ
hình tổng thể bộ máy nhà nước và tổ chức của từng thiết chế quyền lực cụ thể
trong các bản Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đến Hiến
pháp năm 1992. Trên cơ sở này, Luật Tổ chức QH, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật
Tổ chức HĐND, UBND đều đã có quy định cụ thể về các cách thức tổ chức và
hoạt động của từng cơ quan để xử lý hài hịa tính dân chủ và tập trung phù hợp với
tính chất của từng loại cơ quan trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tập trung dân chủ có thể xem là nguyên tắc đặc thù của mơ hình bộ máy nhà nước
XHCN. Với nguyên tắc này, toàn bộ bộ máy nhà nước đều được tổ chức và hoạt
14


động trong sự phối kết hợp giữa các yếu tố dân chủ và tập trung với hàng loạt các
hình thức và chế độ như: bầu cử, bổ nhiệm kết hợp với phê chuẩn một số chức
danh trong bộ máy; mô hình tổ chức hội đồng, ủy ban để kết hợp chế độ lãnh đạo
tập thể, cá nhân phụ trách; thiểu số phục tùng đa số; cấp dưới phục tùng cấp trên;

thảo luận dân chủ, quyết định theo đa số... Dĩ nhiên, tùy theo từng loại thiết chế
quyền lực nhà nước mà xác định nội hàm cụ thể của nguyên tắc tập trung dân chủ
để vận dụng quy định cho phù hợp với tính chất, vị trí của Quốc hội, Chính phủ,
các cơ quan tư pháp, của HĐND và UBND. Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước loại bỏ các khả năng hình
thành các thiết chế quyền lực hoạt động thuần túy và triệt để theo chế độ thủ
trưởng hay thuần túy theo chế độ dân chủ hội đồng như mơ hình tổ chức bộ máy
nhà nước ở một số nước trên thế giới. Phân tích mơ hình tổ chức và hoạt động của
các thiết chế cụ thể như Quốc hội hay Chính phủ theo các quy định của Hiến pháp
và luật về tổ chức cho thấy sự kết hợp giữa dân chủ và tập trung vừa tạo nên sự
tương đồng, vừa thể hiện các đặc thù trong cấu trúc tổ chức và mối quan hệ giữa
các bộ phận bên trong cấu trúc của mơ hình thiết chế quyền lực. Do vậy, về cơ bản
dù là Quốc hội với mơ hình hoạt động theo chế độ dân chủ nghị trường hay Chính
phủ theo chế độ lãnh đạo tập trung thống nhất đều phải tuân thủ yêu cầu phối kết
hợp giữa dân chủ và tập trung, giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, giữa tự
chủ và lãnh đạo, giữa bình đẳng và phục tùng trong các quan hệ thực thi quyền lực
nhà nước. Có thể thấy rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải tạo lập mơ
hình tổ chức bộ máy có tính tổ chức, thống nhất cao, vừa không tập trung quá
nhiều quyền lực vào bất kỳ cơ quan nào, vừa tạo cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt
động của các thiết chế quyền lực trong quá trình thực hiện quyền lực nhân dân theo
quy định của Hiến pháp.

15


Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc - nguyên tắc xuyên suốt tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nƣớc
Đảng lãnh đạo Nhà nước là vấn đề có tính ngun tắc xuyên suốt lịch sử hình
thành và phát triển của bộ máy nhà nước ta. Hiến pháp năm 1946 thông qua thiết
chế Chủ tịch Nước để xác định sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước với

vai trò, uy tín và tài năng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đứng đầu Đảng ta
đồng thời là Người đứng đầu Nhà nước. Hiến pháp 1959 khẳng định vị trí, vai trị
lãnh đạo của Đảng trong Lời nói đầu và Hiến pháp 1980, 1992 đã ghi nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng trong một điều khoản của Hiến pháp - Điều 4 Hiến pháp.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là sự lãnh đạo chính trị, Đảng không làm
thay công việc của Nhà nước, tôn trọng, đề cao Nhà nước và khơng ngừng phát
huy tính sáng tạo, chủ động của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương
lĩnh chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công
tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực
và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và đồn thể.
Đảng khơng làm thay cơng việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị....
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện trên các phương diện:
xây dựng và quyết định đường lối phát triển đất nước, tạo cơ sở để Nhà nước thể
chế hóa thành luật pháp và các chủ trương chính sách cụ thể; thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị;
kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức
trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.

16


Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là điều kiện quan trọng để bộ máy nhà
nước thể chế hóa đúng và tổ chức thực hiện đúng đường lối chính trị của Đảng để
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Tất nhiên, sự
lãnh đạo của Đảng đối với QH, HĐND, Chính phủ, các cơ quan hành chính nhà
nước, các cơ quan tư pháp có những đặc thù khác nhau, phù hợp với tính chất, đặc
điểm và thẩm quyền của từng loại cơ quan nhà nước. Đối với bộ máy nhà nước,
nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước phải được quán triệt đầy đủ cả trong tổ chức
bộ máy, cả trong thực tiễn hoạt động thực thi công quyền. Hiệu quả, hiệu lực hoạt

động của bộ máy nhà nước phụ thuộc vào hiệu quả lãnh đạo của Đảng và việc chấp
hành sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động nhà nước.
Quán triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam, việc xây dựng mơ hình tổng thể bộ máy nhà nước
nói chung và mơ hình tổ chức, hoạt động của từng thiết chế quyền lực Nhà nước
nói riêng phải thể hiện được mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước sao cho vừa bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, vừa bảo đảm vai trò của các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Đảng thực hiện quyền lực
chính trị của mình thơng qua bộ máy nhà nước và bộ máy các tổ chức chính trị - xã
hội trong hệ thống chính trị.
Về phương diện lý luận, cần nhận thức rằng, trong mối quan hệ với Nhà nước,
quyền lực của Đảng luôn là quyền lực chính trị. Việc Đảng trở thành Đảng cầm
quyền, khơng bao hàm ý nghĩa quyền lực chính trị của Đảng trở thành quyền lực
nhà nước. (Quyền lực chính trị của Đảng cầm quyền và quyền lực nhà nước là hai
phạm trù khác nhau, mặc dù liên quan mật thiết với nhau. Quyền lực chính trị của
Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với Nhà nước được thể hiện trên hai phương
diện: quyền định hướng chính trị cho tổ chức, hoạt động của Nhà nước và quyền sử
17


dụng bộ máy Nhà nước để đạt được các mục tiêu chính trị của mình). Vì lẽ đó, khi
một Đảng chính trị trở thành Đảng cầm quyền, Đảng khơng thể tổ chức mình thành
Nhà nước. Điều này có nghĩa là Đảng cầm quyền không thực hiện quyền lực nhà
nước và phải thông qua bộ máy nhà nước để thực hiện Cương lĩnh chính trị, chủ
trương, đường lối của mình.
Đảng cầm quyền là nắm quyền lãnh đạo chính trị để Nhà nước thực hiện quyền lực
nhà nước, Đảng không làm thay cơng việc của Nhà nước. Do vậy khơng có sự
phân định thẩm quyền giữa Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước. Nội dung sự lãnh đạo chính trị của Đảng cầm quyền chính là quyền xác định
đường lối chính trị, các chủ trương, chính sách, làm cơ sở cho các hoạt động nhà

nước. Đảng cầm quyền thông qua bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước là công cụ,
phương tiện cầm quyền cơ bản nhất của Đảng. Do vậy để cầm quyền tốt, Đảng
phải chăm lo xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước, bảo đảm cho bộ máy nhà nước
thực hiện đúng các nhiệm vụ chức năng theo luật định của mình. Nghệ thuật cầm
quyền của Đảng chính là nghệ thuật sử dụng bộ máy nhà nước, nghệ thuật phát huy
các thế mạnh ưu việt của bộ máy nhà nước để tham mưu cho Đảng, để trực tiếp tổ
chức việc thực hiện các mục tiêu chính trị của Đảng.
5. NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN: KHÁI NIỆM, CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN,
QUAN ĐIỂM, NHIỆM VỤ VÀ Ý NGHĨA VIỆC XÂY DỰNG NNPQ TRONG
ĐIỀU KIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
 KHÁI NIỆM
NNPQ là 1 hệ thống thể chế hay 1 hình thức tổ chức NN mà ở đó mọi hoạt
động của bộ máy NN, công dân đều dựa trên cơ sở của ngự trị của 1 nền PL
dân chủ, bình đẳng, cơng bằng, khách quan, nhân đạo tất cả vì quyền lợi và
lợi ích chính đáng của con người.
18


 CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN
 Có 1 hệ thống PL hoàn chỉnh, phản ánh đúng yêu cầu khách quan
của quản lý NN và quản lý XH. Các đạo luật phải có vai trị tối
thượng trong hệ thống PL. NN & các thiết chế của nó phải được
xác định rõ ràng về mặt pháp luật, tất cả các cơ quan NN, các tổ
chức XH, viên chức và công dân phải tuân thủ nghiêm chỉnh và
triệt để PL.
 Mọi công dân đều bình đẳng trước PL, cơng dân có trách nhiệm
đối với NN và NN cũng có trách nhiệm đối với công dân. Quan hệ
giữa công dân và NN là quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
 Là 1 tổ chức thực hiện công quyền dựa trên nền tảng PL vững
chắc, các quyền tự do, dân chủ, các lợi ích chính đáng của con

người phải được PL bảo đảm và bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm
đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân do bất kỳ cơ quan
NN, người có chức quyền hay cơng dân nào thực hiện đều phải bị
phát hiện và nghiêm trị.
 Quyền lực NN về lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rõ
ràng, hợp lý cho 3 hệ thống các cơ quan NN tương ứng trong 1 cơ
chế kiểm tra, giám sát và chế ước nhau tạo thành cơ chế đồng bộ
bảo đảm sự thống nhất của quyền lực NN, nhân dân thực sự là chủ
thể tối cao của quyền lực NN.
6. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT: KHÁI NIỆM, NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT.
 KHÁI NIỆM

19


Là q trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật bằng hành vi
của mình thực hiện các quy định pháp luật trong thực tế đời sống.
 CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
7. VI PHẠM PHÁP LUẬT: KHÁI NIỆM, DẤU HIỆU, CẤU THÀNH CƠ
BẢN CỦA VPPL.
 KHÁI NIỆM
Là hành vi trái PL xâm hại các QHXH được PL bảo vệ do các chủ thể có
năng lực hành vi thực hiện 1 cách cố ý hoặc vô ý gây hậu quả thiệt hại cho
XH.
 CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA VPPL
 Hành vi (hành động hoặc không hành động) của con người, ý nghĩ, tư tưởng
chưa thể hiện thành hành vi bị PL cấm thì chưa thể gọi là VPPL.
 Có tính chất trái PL, tức là trái với yêu cầu cụ thể của các quy phạm PL hay
trái với tinh thần của PL.

 Có lỗi; có nghĩa là, VPPL là hành vi trái PL được thực hiện bởi chính những
chủ thể có khả năng nhận thức được hành vi trái PL của mình và hậu quả
thiệt hại mà hành vi đó có thể gây ra cho XH, nhưng vẫn thực hiện hành vi
đó. Do đó, lỗi chính là dấu hiệu thể hiện quan hệ, thái độ tâm lý tiêu cực của
chủ thể đối với hành vi trái PL của mình và đối với hậu quả của hành vi đó.
 Phải có đủ cả 3 dấu hiệu trên thì mới tồn tại VPPL, trong đó hành vi đóng
vai trị dấu hiệu hình thức, dấu hiệu chung, cịn tính trái PL và lỗi là tính chất
của hành vi.

20



×