Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.94 KB, 10 trang )

Họ và tên: Hoàng Văn Sang
Mssv: 10030687

Bài tiểu luận cuối kì môn xã hội học gia đình
Đề bài: bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam

Bạo lực gia đình là một vấn đề với đầy đủ các khía cạnh giáo dục, sức khỏe, kinh tế
và pháp lí. Nó cũng là một vấn đề liên quan đến quyền con người, xuyên suốt từ các nền
văn hóa, tôn giáo và các đất nước khác nhau. Đây cũng là thực tế tại Việt Nam cũng như
các quốc gia khác. Nạn nhân bạo lực gia đình chủ yếu là nữ giới, do đó họ gặp rất nhiều
khó khăn khi tiếp cận với các dịch vụ pháp lý cũng như sự bảo vệ. Bạo lực gia đình đối
với phụ nữ là một vấn đề được xã hội đặc biệt quan tâm. Đây không còn là đề tài mới,
nhưng vẫn rất thời sự. Nạn bạo lực gia đình vẫn xảy ra đâu đó một cách khá thường
xuyên, để lại sự tổn hại xã hội nghiêm trọng.
Ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, sự bất bình đẳng giới dai dẳng và nền
văn hóa mà ở đó “sự thống trị” của nam giới đối với phụ nữ được chấp nhận, đã dung
túng, coi bạo lực gia đình là điều đương nhiên và phải giữ im lặng về điều đó. Trong bài
viết này chúng ta đi tìm hiểu về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam v
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1. Giải thích thuật ngữ
Theo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về giải thích thuật ngữ tại Điều
1 Khoản 2:
“Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có
khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia
đình”.
Bạo lực trong gia đình là hiện tượng một hay nhiều thành viên dùng quyền lực


và bạo lực trong cả một quá trình để thực hiện hành vi làm cho thành viên khác
trong gia đình đau đớn về thể xác, bị khủng hoảng về tinh thần và bị bế tắc về mặt xã
hội nhằm khuất phục, khống chế và kiểm soát người đó. Mặt khác, bạo lực gia đình


là hành vi cố ý. Mục đích của nó là để thiết lập và duy trì quyền lực và sự kiểm soát
đối với người khác. Bạo lực được dùng để đe dọa, hạ nhục hoặc khiến nạn nhân sợ
hãi.
Bạo lực gia đình có thể là một hành vi bạo lực đơn lẻ hoặc là tổng hợp của nhiều
hành động thông qua việc sử dụng các hành vi tấn công, kiểm soát.
2. Các đặc điểm để xác định một trường hợp là bạo lực gia đình
+ Cư xử hung bạo một cách có chủ ý, không phải tai nạn
+ Vi phạm quyền tự do cá nhân
+ Thủ phạm dùng vũ lực mạnh và đặc quyền của mình đối với nạn nhân
+ Gây ra những vết thương về thể xác và tinh thần
Các hình thức bạo lực
Bạo lực gia đình được chia làm bốn loại
Bạo lực thể xác (thân thể): Tấn công thân thể bao gồm cào, cấu, cắn, bóp cổ….
Bạo lực tình dục: Bao gồm các loạt hành vi ép buộc làm tình trong khi nạn nhân
không muốn, cưỡng ép làm tình bằng các cử chỉ hay đe dọa, cưỡng bức làm tình bằng
vũ lực. Một số kẻ hành hung đánh vào bộ phân sinh dục nạn nhân, hoặc không cho họ
sử dụng biện pháp tránh thai hay phòng ngừa bệnh lây nhiễm đường tình dục. Một số
nạn nhân không chắc hành vi tình dục này có thật là bạo lực hay không, trong khi người
khác cho là sự phản bội tột cùng.
Bạo lực về tâm lý: Có nhiều kiểu ngược đãi về tâm lý khác nhau
Đe dọa bạo hành và làm hại: Đe dọa bạo lực làm hại của kẻ hành hung có thể trực
tiếp nhằm vào nạn nhân hay người mà nạn nhân yêu quý, hoặc đe dọa tự tử. Đe dọa có
thể bằng lời nói trực tiếp hay với hành động. Kẻ hành hung có thể bạo lực với người
khác để khủng bố nạn nhân. Kẻ hành hung có thể cưỡng ép nạn nhân làm việc gì đó
phạm pháp và sau đó dọa làm lộ chuyện hay có thể buộc tội giả để chống lại họ
Tấn công tài sản, vật nuôi và các hành động hăm dọa khác
Bạo lực tinh thần: bạo lực tinh thần là chiến thuật khống chế những sự chửi bới hạ
nhục, lăng mạ nhiều lần phẩm giá của nạn nhân với tư cách cá nhân hay vai trò làm mẹ,
thành viên trong gia đình hay thành viên của cộng đồng. Tấn công bằng lời thường nhấn
mạnh đến những điểm tổn thương của nạn nhân. Bạo lực tinh thần bao gồm hạ nhục nạn

nhân trước mặt gia đình, bạn bè hay người lạ.
Cô lập: kẻ hành hung thường cố gắng kiểm soát nạn nhân về thời gian hoạt động


và tiếp xúc với người khác. Chiến thuật cô lập có thể trở thành bạo hành một cách công
khai hơn theo thời gian. Thông qua việc cô lập, một số kẻ hành hung đã tăng cường
kiểm soát về tâm lý tới mức họ quyết định mọi việc cho nạn nhân.
Sử dụng con cái. Một số hành vi bạo lực được hướng về hay dính líu đến con cái
nhằm kiểm soát hay trừng phạt nạn nhân (đánh đập con cái, sử dụng trẻ em vào tình dục,
bắt con cái phải chứng kiến bạo lực, lôi kéo con cái vào việc lăng mạ nạn nhân). kẻ hành
hung có thể sử dụng con cái để duy trì việc khống chế nạn nhân.
Trẻ em cũng bị lôi kéo vào các cuộc tấn công và đôi khi cũng bị tổn thương chỉ
đơn giản vi có mặt ở đó hay do đứa trẻ định căn ngăn việc đánh nhau.
Bạo lực kinh tế. kẻ hành hung kiểm soát nạn nhân thông qua việc kiểm soát sự
tiếp cận của họ với nguồn lực của gia đình: thời gian đi lại, ăn uống, quần áo, nơi ở, tiền
bạc. Bất kể ai là người kiếm tiền chủ yếu trong gia đình hay do cả hai người cùng đóng
góp thì kẻ hành hung luôn là người kiểm soát chi tiêu trong gia đình. Nạn nhân bị đẩy
vào vị trí phải xin phép người kiểm soát tiền bạc trong mọi chi tiêu cho nhu cầu cơ bản
của gia đình.

PHẦN II: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA BẠO LỰC
GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ

1. Thực trạng của bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam
Theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới năm 1999 ở một số tỉnh, trung bình có
khoảng 30% phụ nữ bị đánh đập, lạm dụng hay cưỡng bức theo nhiều hình thức, phần
lớn do chồng và những người thân trong gia đình; 15% các bà vợ bị chồng mình đánh;
gần 80% bị chồng chửi mắng; hơn 70% bị chồng bỏ mặc; gần 10% bị cấm tham gia các
hoạt động xã hội; gần 20% bị chồng cưỡng bức quan hệ tình dục.
Theo thống kê của toàn án nhân dân tối cao ở 18 tỉnh và thành phố trong những

năm 1992-2000, tại những địa phương này xảy ra 11630 vụ bạo lực gia đình.
Nghiên cứu của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam năm 2000 cho thấy có tới hơn 40%
trong mẫu khảo sát đã từng bị chồng đánh đập hoặc chửi mắng.
Theo nghiên cứu của tổng cục thống kê với sự hỗ trợ của WHO năm 2010:
Tỉ lệ bạo lực thể xác do người chồng gây ra cho phụ nữ Việt Nam từng kết hôn
như sau: 32% bị bạo lực thể xác trong cuộc đời và 6% bị bạo lực thể xác trong vòng 12
tháng trước điều tra.


Đối với bạo lực tình dục: trong số những người phụ nữ từng kết hôn, tỉ lệ bạo lực
trong cuộc đời và trong vòng 12 tháng trước điều tra lần lượt là 10% và 25%.
Đối với bạo lực tinh thần: trong số những phụ nữ từng kết hôn, tỉ lệ bạo lực trong
cuộc đời và trong vòng 12 tháng trước khi điều tra lần lượt là 54% và 25%.
Kết hợp hai loại bạo lực thể xác và bạo lực tình dục, 34% phụ nữ từng kết hôn cho
biết họ đã bị bạo lực thể xác hoặc bạo lực tình dục do chồng gây ra ít nhất một lần trong
đời, trong đó 9%cho biết bị bạo lực thể xác hoặc bạo lực tinh thần trong vòng 12 tháng
trước điều tra.
Kết hợp ba loại bạo lực thể xác, tình dục và tinh thần: 58% phụ nữ từng kết hôn
cho biết rằng họ đã từng bị ít nhất một trong ba loại bạo lực trong cuộc đời và 27% cho
biết họ từng bị cả ba loại bạo lực trên trong vòng 12 tháng trước điều tra.
Các số liệu mới được đưa ra đã nêu bật một thực trạng là đa số phụ nữ Việt Nam đều
có nguy cơ tiềm tàng bị bạo lực gia đình ở một hay một vài thời điểm nào đó trong cuộc
sống của họ. Tại một số vùng ở Việt Nam, cứ mười phụ nữ thì có bốn người nhận thấy gia
đình không phải là nơi an toàn đối với họ. Ví dụ, ở vùng Đông Nam Bộ, 42% phụ nữ cho
biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Tuy nhiên, mặc dù có sự
khác biệt giữa các vùng miền, khu vực, nhưng sự khác biệt lớn nhất có thể nhận thấy là
giữa các dân tộc, trong đó tỷ lệ phụ nữ cho biết họ đang hoặc đã từng là nạn nhân của bạo
lực gia đình dao động từ 8% (người H’Mong) đến 36% (người Kinh).
“Mặc dù bạo lực gia đình là một hiện tượng rất phổ biến nhưng vấn đề này vẫn bị
giấu diếm nhiều,” Bà Henrica A.F.M. Jansen, Trưởng nhóm nghiên cứu phát biểu. “Bên

cạnh sự kỳ thị và sự xấu hổ khiến cho phụ nữ phải giữ im lặng, nhiều phụ nữ còn nghĩ
rằng bạo lực trong quan hệ vợ chồng là một điều ‘bình thường’ và người phụ nữ cần bao
dung, nhẫn nhịn chịu đựng để gìn giữ sự êm ấm cho gia đình.” Thực tế là cứ hai phụ nữ
tham gia nghiên cứu thì có một người cho biết trước khi tham gia trả lời phỏng vấn phục
vụ nghiên cứu này, họ chưa từng nói cho ai biết về việc bị chồng mình bạo hành.
Phụ nữ có thai cũng là đối tượng có nguy cơ bị bạo hành. Theo báo cáo nghiên cứu,
khoảng 5% phụ nữ từng có thai cho biết họ đã bị đánh đập trong thời gian mang thai.
Trong hầu hết các trường hợp này, họ đã bị chính người cha của đứa trẻ mình đang mang
trong bụng lạm dụng.
2. Nguyên nhân của bạo lực gia đình
Rất khó để phân tích một cách rạch ròi các nguyên nhân gây nên bạo lực gia đình vì
bạo lực gia đình là tổng hợp của một loạt các yếu tố, các chiều tác động khác nhau từ điều
kiện kinh tế - xã hội khách quan đến nhận thức chủ quan của con người, từ những nhận


thức về văn hóa, gia đình đến nhân tố đạo đức và định hướng giá trị. Theo quan điểm
hành vi bạo lực là do các yếu tố xã hội hay các điều kiện khách quan có thể phân ra làm
các nhóm nguyên nhân sau:
Yếu tố nhận thức: Ảnh hưởng từ nền văn hóa phong kiến với những quan điểm
mang đậm màu sắc định kiến về giới, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã thấm vào tiềm thức
của các thế hệ hiện nay, tàn dư của nó vẫn còn tồn tại và được coi là một trong những
nguyên nhân cơ bản nhất của bạo lực gia đình.
Yếu tố kinh tế: Khó khăn về kinh tế cũng là một trong những nguyên nhân có thể
dẫn tới bạo lực gia đình vì khó khăn về kinh tế thường tạo ra các áp lực, căng thẳng, bế
tắc đối với thành viên gia đình và do đó dễ dẫn tới các mâu thuẫn, tranh chấp nếu không
biết cách xử lý phù hợp có thể gây nên bạo lực gia đình. Tuy nhiên không phải cứ có khó
khăn về kinh tế là nhất thiết phải có bạo lực gia đình. Thực tế cho thấy nhiều gia đình có
mức sống, thu nhập thấp nhưng gia đình vẫn hòa thuận và ngược lại có những gia đình
khá giả nhưng bạo lực vẫn xảy ra.
Tệ nạn xã hội: rượu chè, cờ bạc, ma túy, mại dâm…. Cũng là những nguyên nhân

dẫn đến bạo lực gia đình. Khi sử dụng các chất kích thích như rượu, ma túy nam giới có
nguy cơ giải quyết những khó khăn bằng hành vi bạo lực.
Mâu thuẫn gia đình: những mâu thuẫn gia đình như người vợ không đáp ứng được
nhu cầu tình dục của chồng, do tình cảm vợ chồng rạn nứt, hay do không sinh được con
trai cũng dẫn đến nguy cơ bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn
chế. Trình độ nhận thức và sự hiểu biết về pháp luật trong một bộ phận người dân còn
thấp cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình vẫn còn tiếp tục xảy ra.
Nhiều người do thiếu hiểu biết về pháp luật nên cho rằng cha mẹ có quyền đánh đập, chửi
mắng con cái, chồng có quyền đánh vợ…Nhiều phụ nữ, người già cũng không nhận thức
được đầy đủ quyền của mình nên không dám đấu tranh mà cam chịu bạo lực. Tuy nhiên,
cũng giống như nguyên nhân về kinh tế, bạo lực gia đình cũng vẫn xảy ra ở cả những gia
đình mà thành viên có trình độ học vấn cao, am hiểu về pháp luật.
Sự quan tâm của cộng đồng tới phòng, chống bạo lực gia đình còn chưa đầy đủ.
Cộng đồng và các gia đình vẫn coi bạo lực gia đình là vấn đề riêng tư trong mỗi gia đình
và người ngoài không nên can thiệp. Chính vì vậy, phản ứng của cộng đồng đối với các
hành vi bạo lực gia đình còn thờ ơ, chưa mạnh mẽ. Việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn
và xử lý hành vi bạo lực gia đình còn chưa kịp thời, nghiêm minh, vì thế bạo lực vẫn tiếp
tục xảy ra mà không bị ngăn chặn.


Có rất nhiều nguyên nhân về kinh tế, văn hóa và xã hội lý giải tại sao một
người phụ nữ lại có thể lựa chọn sống chung với bạo lực. Những lý do này rất hợp
lý, chẳng hạn: họ không có nơi nào để đi, không thể nào nuôi sống bản thân và con cái
nếu rời đi, cảm thấy xấu hổ hoặc tủi nhục vì đã từng bị lạm dụng, bị bạo lực; hoặc
sợ rằng bạn bè, gia đình và cộng đồng sẽ chế nhạo họ vì bị bạo lực, bị lạm dụng.
Nạn nhân có thể miễn cưỡng rời đi vì lý do tình cảm hoặc vì lý do tôn giáo. Ngoài ra,
việc họ rời đi để lại những rủi ro đáng kể. Nạn nhân sợ rằng chồng họ sẽ đe dọa
làm hại mình, làm hại chính bản thân anh ta, làm hại con, bạn bè hoặc gia đình.
Nghiên cứu cho thấy, nạn nhân thường gặp nguy hiểm nhất, thậm chí bị tấn công

đến mức tử vong nếu họ cố gắng rời đi. Và nạn nhân là người duy nhất có thể đánh
giá xem khi nào rời đi thì an toàn.
Như vậy không thể đưa ra được một nguyên nhân nào chung nhất để lý giải cho hiện
tượng bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Bạo lực giới có thể xảy ra ở bất kỳ nhóm đối tượng
nào, trong hoàn cảnh gia đình nào. Tuy vậy, cũng có thể nhận thấy rằng, trong tất cả
những yếu tố trên, yếu tố được coi là nguyên nhân gốc rễ và là yếu tố căn bản nhất gây ra
nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ là yếu tố nhận thức.Bạo lực gia đình đối với phụ nữ
chính là sự biểu hiện của bất bình đẳng giới trong gia đình, là sản phẩm của chế độ ra
trưởng. Các yếu tố khác như tệ nạn xã hội, mâu thuẫn trong gia đình hay do kinh tế chỉ là
những yếu tố làm gia tăng nguy cơ bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
3. Hậu quả của bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Hậu quả với nạn nhân

• Ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần cũng như hạnh
phúc của nạn nhân. (Phụ nữ từng bị bạo lực về thể xác và tình dục thường yếu
so với phụ nữ chưa từng bị bạo lực. Phụ nữ bị bạo lực gia đình thường gặp
khăn trong việc đi lại, thực hiện các hoạt động hàng ngày, chịu đau đớn,
giảm trí nhớ, luôn buồn rầu và có ý nghĩ tự sát, đối với phụ nữ mang thai thì
năng sảy thai, thai chết lưu hoặc nạo phá thai cũng là khó tránh)

hơn
khó
suy
khả

• Bạo lực càng trở nên thường xuyên và nghiêm trọng nếu nó còn tiếp tục.
• Do tính chất phức tạp của bạo lực gia đình nên nạn nhân khó tìm ra bằng
chứng để chứng minh hay tố cáo hành vi bạo lực.
Hậu quả đối với gia đình
• Ảnh hưởng đến kinh tế gia đình

• Các mối quan hệ bị tổn hại
• Giảm khả năng lao động của phụ nữ
• Tác động đến tâm lý của những người trong gia đình, đặc biệt là những đứa


trẻ khi chứng kiến cảnh bạo lực
• Giảm giá trị các điều kiện sống của phụ nữ và trẻ em
Hậu quả đối với xã hội
•Giảm sự đóng góp của nạn nhân cho xã hội
•Tăng áp lực cho hệ thống y tế
•Nếu người gây ra bạo lực không phải chịu trách nhiệm trước cộng đồng
thì có nghĩa là hành vi bạo lực được chấp nhận và điều đó sẽ dẫn
đến những hình thức bạo lực nghiêm trọng hơn.
Hậu quả đối với chính người gây ra bạo lực
• Chịu những chế tài hành chính hoặc hình sự vì chính những hành vi vi
phạm do họ gây ra.
• Bị mất mặt, xấu hổ trước cộng đồng.
• Bạo lực có thể dẫn đến cái chết của chính người gây ra bạo lực

PHẦN III: XU HƯỚNG TRONG TƯƠNG LAI CỦA BẠO LỰC GIA
ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ

Bạo lực gia đình đã và đang là một vấn đề chưa thể giải quyết một cách triệt
để. Nó để lại những hậu quả nghiêm trọng cho nạn nhân và làm giảm sự phát triển
của xã hội. Liệu trong tương lai vấn đề bạo lực gia đình đối với phụ nữ có thuyên
giảm hay nó vẫn tiếp tục tồn tại như ngày nay?
Để có thể trả lời câu hỏi này và đưa ra xu hướng trong tương lai, ta sẽ tìm hiểu
những nội dung sau đây:
Yếu tố nhận thức:
Như trong phần nguyên nhân gây ra bạo lực gia đình đối với phụ nữ đưa ra,

yếu tố nhận thức là yếu tố có vai trò mấu chốt trong nạn bạo hành gia đình. Nước
chúng ta có hằng ngàn năm lịch sử phong kiến nên bị ảnh hưởng với những quan
điểm mang đậm màu sắc định kiến về giới, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã thấm
vào tiềm thức của các thế hệ hiện nay, tàn dư của nó vẫn còn tồn tại và được coi là
một trong những nguyên nhân cơ bản nhất của bạo lực gia đình. Tuy nhiên, những
tư tưởng mang đập bản sắc phong kiến trọng nam kinh nữ đang dần bị loại bỏ.
Công bằng giới ngày càng được nhấn mạnh. Sự thay đổi có thể thấy rõ từ trong hệ


thống giáo dục của chúng ta. Bình đẳng giới được tuyên truyền, giáo dục cho các
em học sinh ngay tại nhà trường. Nhà nước cũng xây dựng những chính sách nhằm
làm phù hợp hơn cho việc giảng dạy, tuyên truyền cho thế hệ trẻ về bình đẳng giới.
Thế hệ trẻ bị không còn mang nặng tư tưởng phong kiến, nho giáo về trọng nam
khinh nữ. Trong thời kì hội nhập thế giới và các phương tiện truyền thông đại chúng
phát triển mạnh, các em có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn với những nền văn minh lớn,
với sự tiến bộ xã hội, mà bất bình đẳng giới hay trọng nam khinh nữ bị coi là lạc
hậu và đang bị triệt tiêu. Thế hệ tương lai của chúng ta đang có những cái nhìn mới
về bình đẳng giới. Tuy chưa thể thoát khỏi hoàn toàn hệ tư tưởng phong kiến trọng
nam khinh nữ nhưng dù sao đó cũng là những thay đổi tích cực để giảm bớt sự bất
bình đẳng dẫn đến bạo lực gia đình.
Vị thế, vai trò của người phụ nữ trong xã hội hiện đại được nâng cao.
Với quan niệm cho rằng phụ nữ chỉ cần ở nhà lo việc bếp núc, chăm lo chồng
con nên phụ nữ bị phụ thuộc nhiều vào nam giới. Khi họ phụ thuộc nhiều vào người
chồng làm cho người chồng thấy mình là người có quyền lực tạo điều kiện cho bạo
lực gia đình phát triển. Tuy nhiên, xã hội hiện đại ngày nay không còn mang nặng
tư tưởng việc lớn chỉ có nam giới có thể làm. Phụ nữ ngày nay cũng tham gia vào
các hoạt động kinh tế, chính trị.
Trải qua 12 nhiệm kỳ Quốc hội, nước ta được đánh giá là nước có tỷ lệ nữ Đại
biểu quốc hội khá cao từ 24 - 27%. Riêng trong Khóa XIII tỷ lệ nữ Đại biểu quốc hội
là 24,4%, đứng thứ 2 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chất lượng nữ Đại

biểu quốc hội ngày một nâng lên, các nữ Đại biểu quốc hội Việt Nam đã và đang
tham gia tích cực các hoạt động của Quốc hội và đóng góp quan trọng vào sự phát
triển KT - XH của đất nước. Nhằm phát huy hơn nữa vai trò, kỹ năng của các nữ Đại
biểu quốc hội, trong nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XII (2007-2011), tổ chức nữ Đại biểu
quốc hội Việt Nam đã ra đời. Tiếp đó, ngày 4/10/2011, UBTVQH đã có Nghị quyết số
265/NQ - UBTVQH13 về việc thành lập Nhóm nữ Đại biểu quốc hội Việt Nam Khóa
XIII. Nhận định về vai trò của Nhóm nữ Đại biểu quốc hội Việt Nam trong quá trình
phát triển kinh tế-xã hội nói chung và vai trò của của nữ Đại biểu quốc hội trong việc
thực hiện bình đẳng giới, Chủ nhiệm Ủy ban Về các Vấn đề xã hội, Chủ tịch Nhóm
nữ Đại biểu quốc hội Việt Nam Trương Thị Mai cho rằng, việc ra đời của Nhóm nữ
Đại biểu quốc hội Việt Nam đã tạo diễn đàn để các nữ Đại biểu quốc hội giao lưu,
trao đổi, thảo luận về vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới; tạo diễn đàn để các nữ Đại
biểu quốc hội trao đổi, thảo luận về lồng ghép giới trong công tác lập pháp, giám sát;
nâng cao kỹ năng cho nữ Đại biểu quốc hội trong việc phân tích, nhận biết về vấn đề
giới, thẩm tra lồng ghép giới trong xây dựng, thực thi pháp luật...


Thời gian qua, với sự nỗ lực của Quốc hội, Chính phủ, và của chính bản thân, mỗi
nữ Đại biểu quốc hội đã có những đóng góp tích cực vào việc hiện thực hóa mục tiêu
bình đẳng giới, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Theo Báo cáo phát triển con người
năm 2011 của Liên Hợp Quốc, Việt Nam có chỉ số bình đẳng giới xếp thứ 48/187 quốc
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Theo Bộ trưởng Bộ lao động thương binh và xã hội
Chủ tịch Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam Phạm Thị Hải Chuyền,
trong những năm gần đây Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc trong việc thực hiện
bình đẳng giới. Việt Nam được Ngân hàng Thế giới đánh giá là quốc gia có tốc độ thu
hẹp khoảng cách về giới nhanh nhất trong 20 năm gần đây của khu vực Đông Nam Á.
Việc thực hiện Công ước CEDAW và các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) trong
đó có mục tiêu thứ 3 về tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ cũng
chính là sự nỗ lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Thống kê cho thấy việc thực hiện bình đẳng giới đã đạt được nhiều kết quả khả

quan trên nhiều lĩnh vực. Trong đời sống chính trị, tỷ lệ nữ tham gia vào Đại biểu quốc
hội Khóa XIII đạt 24,4%, tỷ lệ nữ HĐND từ cấp tỉnh đến cấp xã đều tăng so với nhiệm
kỳ trước và đạt trên 20% ở mỗi cấp. Trong lĩnh vực lao động việc làm cũng đạt được kết
quả khá ấn tượng. Từ năm 2006 đến nay, cả nước đã tạo việc làm cho 8,065 triệu lao
động, trong đó, lao động nữ chiếm 48,2%. Tỷ lệ nữ tham gia điều hành, quản lý doanh
nghiệp đạt hơn 20%. Trong lĩnh vực y tế, cùng với tiến bộ y học và các chính sách của
ngành y tế, phụ nữ ngày càng có điều kiện tiếp cận hơn với các dịch vụ y tế, tỷ lệ tử vong
bà mẹ giảm mạnh từ 233/100.000 trẻ sơ sinh sống (năm 1999) xuống còn 67/100.000 trẻ
sơ sinh sống (năm 2011)... Ngoài ra, trong các tiếp cận phúc lợi kinh tế, xã hội và văn
hóa; quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình; phòng chống mua bán bóc lột phụ nữ mại dâm
và bạo lực gia đình cũng đã đạt được những kết quả nhất định nhờ sự nỗ lực của tất các
cấp, các ngành và của toàn xã hội.
Có thể nhận thấy vị thế xã hội của nữ giới ở nước ta hiện nay đang tăng dần lên.
Phụ nữ đã chứng tỏ được khả năng của mình. Họ cũng có thể tham gia vào hoạt động
kinh tế để trang trải cho cuộc sống của gia đình cũng như có thể tham gia vào bộ máy
chính trị, quản lý. Vị thế của phụ nữ được nâng lên cao hơn, họ không còn phụ thuộc quá
nhiều vào nam giới từ đó làm hài hòa mối quan hệ trong gia đình, giảm bớt được tỉ lệ bạo
lực gia đình vì nam giới không còn quyền quyết định tuyệt đối đối với phụ nữ.
Sự can thiệp của nhà nước bằng pháp luật và các chính sách tuyên truyền, vận
động mọi người chống bạo lực gia đình.
Các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người, chống lại hành vi bạo
lực nói chung và hành vi bạo lực gia đình nói riêng tương đối đầy đủ. Các chế tài, hình


phạt giành cho người có hành vi bạo lực gia đình cũng là một yếu tố răn đe, làm giảm bớt
đi phần nào nạn bạo hành gia đình. Bên cạnh hình thức răn đe bằng pháp luật nhà nước
còn tổ chức các cuộc vận động, tuyên truyền cho người dân pháp luật, về bình đẳng giới
để người dân có thể nhận thức được như thế nào là bạo lực gia đình và hiểu rằng bạo lực
gia đình là một hành vi sai trái, vi phạm pháp luật.
Dựa trên những yếu tố trên có thể đưa ra nhận định về xu hướng trong tương lai của

bạo lực gia đình. Theo cá nhân tôi cho rằng, với sự tiến bộ xã hội, vị thế của phụ nữ ngày
càng được nâng cao, tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong tương lai sẽ có xu
hướng giảm dần. Khoẳng cách bất bình đẳng nam nữ sẽ ngày một bị thu hẹp và thay vào
đó là sự bình đẳng xã hội.



×