Mục lục
Đề tài: Bạo lực tình dục giữa chồng đối với vợ trong gia đình
Việt Nam hiện nay
1. Dẫn nhập
1
Gia đình không chỉ mang lại sự êm ấm, hạnh phúc, bình yên cho mỗi cá nhân mà nó còn
mang lại sự bình ổn cho xã hội. Nó còn được gọi với cái tên thân thương “tổ ấm gia đình”. Nếu
tổ ấm gia đình bao hàm ý nghĩa của một giá trị sống thì bạo lực gia đình (BLGĐ) chính là một sự
sai lệch. Nó diễn ra giữa những người thân, những người cùng huyết thống, những người cùng
chung sống với nhau dưới một mái nhà của gia đình, nơi được coi là tổ ấm của hạnh phúc và
những yêu thương, trìu mến. Thật đáng buồn khi trong xã hội hiện nay BLGĐ đang diễn ra ngày
càng nhiều với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Trong bài viết xin đề cập đến một trong những
hình thức bạo lực gia đình đang gây ra những tổn thương vô cùng nghiêm trọng hiện nay đó là
bạo lực tình dục.
1.1. Khái niệm về BLGĐ
BLGĐ là một dạng thức của bạo lực trong xã hội. Đó là việc các thành viên trong gia
đình vận dụng sức mạnh để xử lý các vấn đề gia đình. Nó là khái niệm để chỉ bất kỳ một hành
động bạo lực nào của thành viên trong gia đình gây ra hoặc có thể gây ra hậu quả làm tổn hại
hoặc gây đau khổ cho thành viên khác trong gia đình về thân thể, tình dục hay tâm lý. Nếu gia
đình là một thiết chế xã hội đặc biệt, là hình thức thu nhỏ của xã hội thì BLGĐ cũng là một hình
thức thu nhỏ và đặc biệt của bạo lực xã hội.
BLGĐ tuy chỉ diễn ra trong phạm vi gia đình nhưng không dễ gì xóa bỏ nó. Thực tế cho
thấy rằng có bao nhiêu dạng thức và kiểu loại trong các mối quan hệ gia đình thì cũng có bấy
nhiêu thứ BLGĐ tương ứng với chúng. Trong việc thực thi các chức năng của gia đình ta thấy
BLGĐ có thể diễn ra trong hoạt động chăm sóc, nuôi dạy con cái, chăm sóc người già, trong hoạt
động lao động sản xuất và trong việc xử lý các mối quan hệ tình cảm trong gia đình. BLGĐ diễn
ra ở nhiều mức độ khác nhau, có thể gây ra đau khổ, tổn thương về mặt thể xác, thậm chí chết
người, nhưng cũng có thể chỉ là những giọt nước mắt và sự chịu đựng âm thầm. Các dạng bạo
lực trên có thể xảy ra đối với bất kỳ thành viên nào trong gia đình. Theo chiều lịch đại đó là bạo
lực thế hệ và theo chiều giới tính là bạo lực giới.
Bạo lực thế hệ: “Dạng bạo lực thế hệ trong gia đình đã phản ánh lại việc xử lý các quan
hệ và mâu thuẫn thế hệ trong quá trình thực hiện các chức năng của nó. Nó thường biểu hiện
trong những quan niệm và hành vi của ông bà, cha mẹ đối với con cháu hoặc ngược lại. Vê
phương diện này bạo lực thường diễn ra dưới dạng cha mẹ đánh đập con cái, trừng phạt hoặc
giết chết con cái hoặc con cái bỏ rơi, đối xử tàn bạo, đánh đập, giết hại ông bà, cha mẹ.” (theo
Lê Thị Quý- Đặng Vũ Cảnh Khanh, Bạo lực gia đình- một sự sai lệch giá trị).
Bạo lực giới: “Quan hệ giới trong gia đình là một trong những quan hệ cơ bản tạo nên
sự tồn tại cơ bản của một gia đình. Vê thực chất nó là mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới
trong gia đình mà trung tâm là mối quan hệ vợ chồng. Nhìn chung bạo lực giới trong gia đình
thường diễn ra dưới dạng vợ hoặc chồng dùng sức mạnh và bạo lực trong việc xử lý các mối
quan hệ giữa họ với nhau. Trong xã hội còn tồn tại sự bất bình đẳng giới, quyên hành trong tay
nam giới thì bạo lực giới trong gia đình trường là bạo lực của người chồng đối với người vợ,
trường hợp ngược lại có thể diễn ra nhưng không phổ biến” (theo Lê Thị Quý- Đặng Vũ Cảnh
Khanh, Bạo lực gia đình- một sự sai lệch giá trị).
Có nhiều cách phân chia các hình thức BLGĐ khác nhau như:
2
Cách phân chia thành hai loại: Bạo lực nhìn thấy được (hành vi đánh đập về thể chất,
cưỡng ép tình dục) và bạo lực không nhìn thấy được (sỉ nhục, chửi bới, thờ ơ, lãnh đạm).
Cách phân chia thành ba loại: Bạo hành thể xác, bạo hành tinh thần và bạo hành tình dục.
Trong bài viết này sử dụng cách phân chia hình thức BLGĐ thành bốn dạng như sau:
Bạo lực thân thể: là những hành vi ngược đãi, đánh đập hoặc sỉ nhục của một hay nhiều
thành viên khác trong gia đình đối với một hay nhiều thành viên khác trong gia đình gây tổn
thương tới sức khỏe, tinh thần, tính mạng của các thành viên.
Bạo lực lao động hoặc kinh tế: là việc dùng sức mạnh để đe dọa, áp đặt hoặc lừa mị
nhằm bóc lột lao động, chiếm giữ và kiểm soát tài chính của một hay một nhóm người đối với
một hay một nhóm người khác trong gia đình. Dạng bạo lực này đưa đến sự phân công lao dộng
và hưởng thụ bất hợp lý giữa các thành viên trong gia đình.
Bạo lực tâm ly: là những lời nói, thái độ, hành vi nược đãi hoặc sỉ nhục của một hay
nhiều thành viên trong gia đình làm tổn thương tới nhân phẩm, sức khỏe, tinh thần của một hay
nhiều thành viên khác. Bạo lực tâm lý còn là sự áp đặt, chỉ đạo hoặc xâm phạm tới nguyện vọng,
ý thích, thị hiếu riêng của mỗi người.
Bạo lực tình dục: là những hành vi cưỡng ép hoặc dùng bạo lực để thỏa mãn tình dục
của một người hoặc một nhóm người khác. Bạo lực tình dục còn bao hàm cả việc ép vợ sinh
nhiều con, sinh con trai hoặc không được sử dụng các biện pháp tránh thai.
1.2. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ và các hình thức biểu hiện.
Trong bài viết này đề cập đến vấn đề BLGĐ đối với phụ nữ ở Việt Nam, tập trung vào
vấn đề bạo lực gia đình của người chồng đối với người vợ trong khía cạnh tình dục, với mục đích
cung cấp thông tin cho người đọc có được cái nhìn sâu hơn về bản chất của vấn đề bạo lực tình
dục đối với phụ nữ, tính tiến triển của nó, và tiến tới giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới trong
tương lai.
Trước khi đi vào nội dung chính, cần hiểu khái niệm về BLGĐ đối với phụ nữ. Khái niệm
này được nêu trong Tuyên ngôn về loại trừ bạo lực chống lại phụ nữ do Đại hội đồng Liên Hiệp
Quốc thông qua năm 1993. Theo đó, BLGĐ đối với phụ nữ gồm “ bất kỳ một hành động bạo lực
dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến, hoặc có khả năng dẫn đến những tổn thất vê mặt thân thể, tình
dục, hay tâm lý, hay những đau khổ của phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như
vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tùy tiện sự tự do (của phụ nữ), bất kể trong đời sống
riêng tư hay bên ngoài của cộng đồng” diễn ra trong gia đình. (Nguyễn Hữu Minh- Trần Thị
Vân Anh, Bạo lực gia đình đôi với phụ nữ ở Việt Nam Thực Trạng, diễn tiến và nguyên nhân.
United Nations, 1995: 73).
Trong các hình thức bạo lực của người chồng đối với người vợ bài viết sẽ đề cập tới một
trong bốn loại bạo lực đó là bạo lực tình dục (BLTD).
2. nội dung chính.
2.1. Bạo lực tình dục hiện nay đang diễn ra như thế nào.
BLGĐ luôn đi liền với cuộc sống gia đình tuy nhiên ở từng giai đoạn khác nhau nó lại có
mức độ biểu hiện khác nhau. Trong vài chục năm về trước BLGĐ được nhiều người coi là
“chuyện vặt”, “chuyện nội bộ”, “ vợ chồng đóng cửa bảo nhau”. Trong thời đại hiện nay, nhờ có
những cuộc đấu tranh trên các diễn đàn, và đặc biệt là cuộc đấu tranh của phụ nữ vì sự bình
3
đẳng, phát triển và BLGĐ được nhìn nhận như một sự trở ngại của phát triển và là sự vi phạm
không thể chấp nhận đối với phụ nữ.
Kết quả điều tra bất bình đẳng giới (2005) cho thấy:
Trong điều tra bất bình đẳng giới, thông tin thu được từ BLGĐ thể hiện ở ba chỉ báo:
chửi, đánh và ép quan hệ tình dục.
Trước hết, xét về tình hình mâu thuẫn giữa vợ và chồng, có 46% cặp vợ chồng thừa nhận
có cãi nhau trong 12 tháng trước khi điều tra. Như là hệ quả của những mâu thuẫn gia đình trước
đó, có 22% cho biết bị chồng chửi; 5,2% bị đánh và 24,2% phụ nữ bị ép quan hệ tình dục.
Bảng tần suất các loại hình bạo lực (%)
Mức độ
Chửi
Đánh
Ép QHTD
Có
22
5,2
24,2
Không
78
94,8
75,8
Tổng số
100,0
100,0
100,0
N
4147
4159
2225
Qua điều tra cũng cho thấy học vấn có tác động không nhỏ tới nạn bạo lực trong gia đình.
Phụ nữ có trình độ học vấn cao bị bạo lực thấp hơn so với nhóm học vấn khác. Cụ thể có tới
37,1% phụ nữ mù chữ và 30,2% là phụ nữ tiểu học bị chửi, trong khi tỉ lệ này giảm dần xuống
còn 22,4% ở nhóm trung học cơ sở và 17,4% ở nhóm Trung học phổ thông. Đến nhóm có trình
độ Cao đẳng- Đại học tỉ lệ này chỉ còn 9,6%. Việc bị ép QHTD ở nhóm phụ nữ mù chữ cao hơn
so với các nhóm khác. Tuy nhiên, tỉ lệ bị ép QHTD ở bốn nhóm trình độ không có sự chênh lệch
đáng kể. Như vậy kết quả cho thấy việc phụ nữ có học vấn cao sẽ nhận được sự tôn trọng của
chồng hơn trong QHTD.
Kết quả cho thấy biểu hiện của BLGĐ có sự khác biệt giữa hai khu vực thành thị và nông
thôn.
Bảng thể hiện các loại hình bạo lực theo khu vực (%).
Khu vực
4
Các loại bạo lực
sinh sống
Nông thôn
Thành thị
Chửi
Đánh
Ép QHTD
21,2
5,4
21,0
23,2
4,9
29,3
Như vậy, nhìn chung BLGĐ đang diễn ra ở mọi nơi, mọi khu vực cả ở nông thôn và đô
thị. Nhìn chung tỉ lệ phụ nữ ở nông thôn bị chồng bạo lực cao hơn so với phụ nữ thành thị. Do
những hạn chế về mặt nhận thức, cũng như quan niệm gia trưởng còn nặng nề ở nông thôn hơn
so với ở đô thị.
Kết quả Nghiên cứu Quốc gia về Bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam năm
2010 – Do tổng cục thống kê thực hiện đã đưa ra những kết quả quan trọng liên quan đến vấn đề
BLGĐ. Tỷ lệ bạo lực thể xác và tình dục là chỉ tiêu quan trọng về bạo lực do chồng gây ra và
được sử dụng để so sánh quốc tế.
Tại Việt Nam cũng như nhiều nước khác phụ nữ cho biết bị bạo lực tình dục cũng cho
biết bị bạo lực thể xác. Tỷ lệ bạo lực tình dục hoặc thể xác hoặc cả hai trong đời và hiện thời trên
toàn quốc lần lượt là 34% và 9%.
5
Phụ nữ gặp khó khăn hơn khi tiết lộ những trải nghiệm bạo lực tình dục so với những trải
nghiệm bạo lực thể xác. Tương tự như vậy, việc nói về bạo lực tình dục trong hôn nhân được
xem như một chủ đề không phù hợp. Tuy nhiên, trong các buổi phỏng vấn có 10% phụ nữ từng
kết hôn cho biết họ đã từng bị bạo lực tình dục trong đời và 4% trong 12 tháng qua. Đáng chú ý
là bạo lực tình dục hiện tại không thay đổi nhiều ở những nhóm tuổi khác nhau (tới 50 tuổi) và
trình độ học vấn của phụ nữ.
6
Tỉ lệ phụ nữ bị bạo lực tình dục có sự khác biệt ở những độ tuổi khác nhau, cao nhất ở
nhóm tuổi từ 45-49 cho thấy ở độ tuổi này cơ thể phụ nữ có những thay đổi lớn về mặt thể chất,
ở giai đoạn tiền mãn kinh, duy giảm nội tiết tố nữ là giai đoạn phụ nữ dễ mắc những căn bệnh
nhiều nhất cho thấy sự suy giảm về mặt thể lực. Trong độ tuổi này ham muốn tình dục ở nữ giới
đã giảm đi rất nhiều trong khi ở độ tuổi này sức khỏe nam giới vẫn còn khá ổn định, nhu cầu tình
dục còn cao. Ở những độ tuổi trẻ hơn ở nữ giới tỉ lệ bị chồng gây bạo lực tình dục ít hơn, ít nhất
ở độ tuổi 18- 24 tuổi, ở độ tuổi này là độ tuổi kết hôn của các cặp vợ chồng, tình trạng sức khỏe
đảm bảo, nhu cầu đời sống tình dục ở cả vợ và chồng đều cao và khả năng đáp ứng cho cả hai
bên được đảm bảo nên tỉ lệ bạo lực tình dục thấp nhất ở độ tuổi này. Ở độ tuổi 25- 29 tỉ lệ bạo
lực tình dục tăng mạnh là do ở độ tuổi này là độ tuổi sinh đẻ của phụ nữ, họ dành nhiều thời gian
trong việc mang thai cũng như chăm sóc con cái, việc đáp ứng nhu cầu tình dục của chồng trong
thời gian này bị hạn chế. Đặc biệt trong thời gian mang thai, nhiều ông chồng vẫn ép vợ mình
QHTD trong khi phụ nữ không muốn, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Trên các trang mạng, diễn đàn nói nhiều đến vấn đề BLGĐ. Một nghiên cứu “Thực trạng
đưa tin về BLGĐ trên các báo điện tử ở Việt Nam hiện nay” của Phạm Hương Trà, tạp chí gia
đình và giới (số 4/2012). Nghiên cứu đã thực hiện khảo sát những bài báo đăng tải trên các trang
Web như: Dantri.com, Vnexpress.com, Hanoimoi.com …trong tổng số 470 bài báo đề cập tới
BLGĐ, đề cập nhiều nhất tới bạo lực của chồng đối với vợ (64,9%), gấp 2 lần so với những bài
báo về bạo lực của vợ với chồng (28,5%). Trên thực tế số vụ bạo hành của chồng đối với vợ là
rất phổ biến và số vụ xảy ra cao gấp nhiều lần so vơi những vụ bạo hành vợ đối với chồng. Sở dĩ
những bài báo về bạo lực giữa vợ đối với chồng được đề cập khá nhiều trên các trang báo là bởi
đây là hiện tượng vốn được coi là “ngược đời” trong xã hội Việt Nam, vì vậy nó cũng được đặt
với những tiêu đề như “ bạo hành ngược” để thu hút nhiều sự quan tâm của công chúng do từ
7
trước tới nay ta cảm thấy quen thuộc với những vụ bạo lực của chồng lên vợ, nên khi có những
vụ bạo hành của vợ lên chồng là một điều rất lạ và thu hút sự quan tâm của đông đảo công
chúng. Các bài báo tập trung khá nhiều đến bạo lực thân thể trong khi những hình thức bạo lực
khác ít được đề cập. Trong tổng số 554 bài báo thì có tới 358 bài đề cập đến bạo lực thể chất. Có
thể do các hành vi bạo lực thể chất dễ bị phát hiện hơn các hành vi bạo lực khác. Những hành vi
như bạo lực tình dục, bạo lực tâm lý được xem là vấn đề tế nhị, khó chia sẻ đối với nhiều chị em.
Báo chí cũng lảng tránh bình luận về vấn đề này bởi sự nhạy cảm và sự khó truyền tải nội hàm
của sự việc, do đó tỉ lệ các bài viết về hành vi BLTD được đăng tải trên các báo mạng chỉ chiếm
9,7%. Những biểu hiện liên quan đến BLTD được nhà báo nhắc đến tập trung ở những hình thức
như
ép
quan
hệ
tình
dục
(46 bài), lạm dụng tình dục (22 bài), trong khi những hình thức khác như ép sinh thêm con trai
hoặc không cho dùng các biện pháp tránh thai lại được ẩn đi. Như vậy có thể thấy BLGĐ nói
chung và BLTD nói riêng đã được đăng tải trên những trang mạng khác nhau, vấn đề này đã và
đang nhận được sự quan tâm của đông đảo công chúng, qua đó rung lên hồi chuông về vấn đề
bất bình đẳng giới trong gia đình. Tuy nhiên qua kết quả nghiên cứu ta thấy vấn đề BLTD vẫn có
sự dè dặt trong quá trình chia sẻ của những nạn nhân mà đa phần là phụ nữ bởi sự tế nhị, riêng tư
của nó, sự dè dặt còn được thể hiện trong cách nhìn nhận của báo chí về vấn đề này, những bài
báo vẫn có xu hướng đứng trên lập trường, định kiến có lợi cho nam giới.
Nghiên cứu “Thực trạng bạo lực tình dục và cách ứng phó” của Trung tâm Nghiên cứu
khoa học Giới, Gia đình, Phụ nữ và Vị thành niên (CSAGA) năm 2011 đối với 165 nạn nhân bị
bạo lực gia đình tại một số xã ở huyện Thạch Thất (Hà Nội), huyện Tân Lạc (Hòa Bình), phường
Phúc Xá (Ba Đình, Hà Nội) cho thấy, hơn 85% số các chị thường xuyên bị chồng và bạn tình
cưỡng ép quan hệ tình dục bất cứ lúc nào mà không quan tâm đến cảm xúc hay thái độ của vợ.
Rượu cũng là nhân tố “tiếp tay” đắc lực cho BLTD. Có đến 43% số phụ nữ trong khảo sát
cho biết đã bị BLTD khi chồng say xỉn. Tỷ lệ này ở phụ nữ di cư cao gấp 3 lần phụ nữ ở địa
phương. Đặc biệt, 60% số chị em bị ép buộc quan hệ tình dục trong thời kỳ kinh nguyệt hoặc
đang đau ốm, 43% bị ép “thực hành” như trong phim khiêu dâm…
“Bạo lực gia đình đã khó phát hiện và ít phụ nữ dám lên tiếng tố cáo, BLTD lại càng khó
hơn. Hầu hết chị em đều coi đó là nỗi xấu hổ, tủi nhục và chỉ dám âm thầm chịu đựng” – bà
Nguyễn Vân Anh – chuyên viên Viện Nghiên cứu xã hội ISDS cho biết.
Cũng trong bài báo “kiểu tra tấn bạo lực tình dục ở nông thôn” trên trang congdong.cz
cũng đã nêu lên những số liệu thống về bạo lực tình dục cùng những di chứng nặng nề của tình
trạng bạo lực tình dục đang diễn ra hiện nay. Vì bị bạo hành ở lĩnh vực “khó nói, khó chia sẻ”
nên nhiều chị em bế tắc tới mức có ý nghĩ tự tử, 40% số chị em đã “chết hụt” bằng các hình thức
khác nhau như uống thuốc sâu, thuốc ngủ, treo cổ tự tử, nhảy cầu, nhảy xuống sông…Ngoài ra,
nếu vẫn phải sống chung với những người chồng có xu hướng BLTD, chị em luôn sợ hãi khi
quan hệ tình dục, nhiều chị em đã bị tổn thương vùng kín, mệt mỏi, căng thẳng. Tuy nhiên, chỉ
có 10% số chị em tới các cơ sở y tế để thăm khám do họ xấu hổ, sợ hãi. Nhiều chị em vẫn cho
rằng việc “chiều chồng” vô điều kiện và không phản kháng là “nhiệm vụ” của người vợ. Theo
Báo cáo quốc gia về bạo lực gia đình Việt Nam 2010, gần 10% phụ nữ đã từng bị BLTD trong
8
gần 60% phụ nữ đã từng bị bạo lực. Còn theo điều tra của CSAGA, hơn 83% chị em cho rằng
việc họ bị ép buộc QHTD là một trong nguyên nhân khiến họ không hạnh phúc. Qua những số
liệu trên có thể thấy rằng vấn đề BLGĐ đã và đang nhận được sự quan tâm của đông đảo công
chúng. Nó đã và đang được đem ra xem xét trên các kênh truyền thông đại chúng, để từ đó thấy
được BLTD không chỉ là vấn đề của một người, mà còn là nỗi khổ tâm của nhiều chị em phụ nữ
trong xã hội hiện nay.
Trong nghiên cứu “Ép buộc tình dục trong hôn nhân từ quan điểm của nam giới” Vũ
Hồng Phong, tạp chí xã hội học (số 2/2006). Kết quả thu được cho thấy đa số nam giới khi được
hỏi đều không thấy thoải mái khi nghe cụm từ “ép buộc tình dục” trong hôn nhân, với họ chuyện
ép buộc trong tình dục chỉ diễn ra bên ngoài xã hội chứ không diễn ra trong gia đình, giữa vợ và
chồng. Theo họ đã là hôn nhân thì không có chuyện ép buộc. Ép buộc tình dục trong hôn nhân
thường được nam giới Nghệ An cho là hành vi ngoài hôn nhân, không tồn tại trong gia đình họ.
Theo họ những từ như “cưỡng ép” được cho là không thích hợpdể nói về quan hệ tình dục giữa
vợ và chồng, được coi là ngược đời. Ở một mức độ nào đó, ép buộc tình dục mà theo những
người đàn ông địa phương là một hiện tượng xấu vẫn xảy ra. Điều đáng quan tâm ở đây là nhiều
nam giới cho rằng nếu chuyện đó xẩy ra thì phụ nữ không nên làm to chuyện vì như vậy sẽ làm
ảnh hưởng tới danh dự của chồng và gia đình. Đa số nam giới đồng ý rằng QHTD diễn ra khi có
sự im lặng và không có phản kháng của phụ nữ được coi là “chiều”. Nhiều nam giới được hỏi
cho rằng phụ nữ nên chiều chồng bởi vì đã là vợ thì không được chống cự, hoặc vì đàn ông đã đi
làm cả ngày rồi nên vợ phải cho người chồng quan hệ như là “phần thưởng” cho công lao của họ.
Đa số nam giới khi được hỏi cũng cảm nhận được sự “ không mong muốn” của vợ mình khi
QHTD, nhưng họ vẫn tiếp tục quan hệ và dường như theo họ đó là việc bình thường và là một
hành vi có thể chấp nhận được. Chính những quan điểm thể hiện sự gia trưởng, đề cao yếu tố cá
nhân này của nam giới đã khiến cho nhiều người vợ lâm vào trạng thái tâm lý không vui, mệt
mỏi thậm chí thấy ghê sợ người chồng của mình, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tâm lý của
phụ nữ. Qua nghiên cứu này ta thấy rõ ràng BLTD đã và đang tồn tại trong mỗi gia đình, tuy
nhiên hầu hết nam giới lại không cho đó là một hình thức BLGĐ. Tuy nhiên nghiên cứu này mới
chỉ thấy được quan điểm của nam giới về vấn đề này mà chưa thấy được quan điểm của phụ nữ
về vấn đề này. Trong khi phụ nữ là nạn nhân của BLTD trong gia đình, việc nghiên cứu quan
niệm, thái độ của họ về vấn đề này là điều hết sức quan trọng và cần thiết.
Những nghiên cứu về BLGĐ nói chung và BLTD nói riêng đã và đang góp phần làm
sáng tỏ mức độ phổ biến của hành vi BLTD đối với phụ nữ. Tuy nhiên một số cuộc điều tra lớn ở
quy mô toàn quốc như Tổng điều tra bất bình đẳng giới 2005 và Kết quả Nghiên cứu Quốc gia về
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam năm 2010 đã cung cấp những số liệu tổng quát về
vấn đề BLGĐ tuy nhiên chưa được phân tích sâu. Ngoài ra những nghiên cứu giống như là
những bản chụp về các hiện tượng BLGĐ ở trạng thái tĩnh mà chưa chỉ ra được BLGĐ xuất hiện
và diễn tiến trong mỗi gia đình như thế nào? Các nghiên cứu tuy đã chỉ ra một số tương quan
nhất định về mặt định lượng giữa hành vi BLGĐ với các yếu tố liên quan đến điều kiện môi
trường sống, đặc điểm cá nhân, giới tính, hoàn cảnh gia đình nhưng chưa thấy rõ sự tiến triển từ
9
các khác biệt mâu thuẫn, từ mâu thuẫn đến hành vi bạo lực. Các nghiên cứu cũng chưa lý giải
được tại sao trong cùng một bối cảnh chung của cộng đồng, cuang chịu sự quy định của các điều
kiện pháp lý chung, hoàn cảnh gia đình như nhau nhưng BLGĐ chỉ xảy ra ở gia đình này mà
không xảy ra ở gia đình khác. Các nghiên cứu tập trung nhiều ở những hậu quả của BLGĐ mà
chưa quan tâm đến quá trình hình thành BLGĐ và sự cần thiết phải áp dụng những biện pháp để
hạn chế BLGĐ ở mức sớm nhất.
2.2. Những ly giải xung quanh vấn đề bạo lực tình dục.
Để lý giải cho vấn đề bạo lực tình dục, áp dụng quan điểm của lý thuyết mâu thuẫn có
liên quan đến vấn đề này dựa trên vấn đề bất bình đẳng giới: “ Một số nhà theo thuyết bình
quyên cho rằng nơi nào bất bình đẳng giới tồn tại thì nơi đó có một hệ thống xã hội gia trưởng
bởi nó điểu chỉnh và chấp nhận tình trạng bạo lực gia đình như là một trong rất nhiêu hình
thức của việc nô dịch hóa phự nữ trước nam giới. Vê cơ bản, nam giới thường bảo vệ nguồn lực
vượt trội của mình trước những người yếu thế hơn và rất nhiêu nguồn lực trong số đó đã chỉ ra
rằng người phụ nữ nên “ an phận ở vị trí của mình”.(Lê Thái Thị Băng Tâm- xã hội học gia
đình).
Bạo lực tình dục đã và đang tồn tại trong đời sống gia đình tuy nhiên không phải ai cũng
nhận ra loại bạo lực này. Những người nam giới luôn có suy nghĩ gia trưởng, đã là vợ chồng thì
không hề có sự cưỡng ép trong quan hệ tình dục, việc người vợ đáp ứng nhu cầu của chồng được
coi là bổn phận và nghĩa vụ. Với lối suy nghĩ ích kỉ đó trên thực tế nhiều anh chồng đã đánh đập
vợ không thương tiếc vì vợ không “chiều” minh. Như vậy trong thực tế bạo lực tình dục thường
đi liền với bạo lực thân thể khi người chồng không được thỏa mãn. Và ngay cả những người phụ
nữ- những nạn nhân của bạo lực tình dục cũng không nhận ra dạng bạo lực này, mà cứ cam tâm
chịu đựng, coi đó là một trong những giá trị mà người phụ nữ phải đảm nhận. Chính điều này đã
và đang làm cho tình trạng bạo lực tình dục này một diễn biến phức tạp và gây hậu quả nghiêm
trọng.
Báo cáo năm 2011 của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội cho thấy, khoảng 30%
phụ nữ Việt Nam bị bạo lực tình dục và 10-50% phụ nữ từng bị bạo lực tình dục trong đời. Bên
cạnh đó, theo thống kê của Cục Phòng chống HIV/AIDS (Bộ Y tế), hơn 70% các ca lây nhiễm
HIV là qua đường tình dục và 1/3 số người nhiễm HIV hiện nay là phụ nữ...
Trong bài báo “vòng luẩn quẩn của bạo lực gia đình” Bác sỹ Tú Anh cho biết: “ bạo lực
tình dục xảy ra khi tồn tại quan hệ bất bình đẳng giữa người vợ và người chồng. Thông thường
người chồng sẽ đòi hỏi quan hệ tình dục bất chấp mong muốn của vợ. Khi điêu đó xảy ra, người
vợ không được quyên thỏa thuận, thống nhất với chồng vê việc áp dụng các biện pháp tránh thai
hay phòng chống các bệnh lây truyên qua đường tình dục, trong đó có HIV”.
Cũng trong bài báo “vòng luẩn quẩn của Bạo lực gia đình” đã nêu lên nguyên nhân dẫn
đến bạo lực tình dục trong cuộc sống gia đình. Theo tác giả thì: “ Nguyên nhân sâu xa dẫn đến
bạo lực gia đình, trong đó có bạo lực tình dục chính là sự bất bình đẳng giới. Bạo lực gia đình
xuất phát từ hành vi và thái độ kéo dài hàng thế kỷ của xã hội mà trong đó phụ nữ bị cho là thấp
10
kém hơn đàn ông và so với đàn ông thì họ không xứng đáng để kiểm soát cuộc sống của chính
họ hay đưa ra các quyết định. Bạo lực đối với phụ nữ thường bị coi nhẹ như thể đó là điêu hết
sức bình thường trong xã hội, ngay cả đối với chính những nạn nhân bị bạo lực. Kết quả nghiên
cứu quốc gia phản ánh, 27% phụ nữ đồng ý với ý kiến “một người vợ tốt là người luôn biết
vâng lời ngay cả khi chị ta không đồng ý. Bên cạnh đó, tồn tại những lầm tưởng và quan niệm
sai lệch vê bạo lực gia đình khiến các chị em rơi vào “vòng luẩn quẩn”. Bạo lực gia đình, nhất
là bạo lực tình dục bị che dấu vì phụ nữ cho rằng chẳng hay ho gì, họ cảm thấy xấu hổ khi nói
ra chuyện này. Vì vậy trên thực tế những vụ bạo lực tình dục rất ít khi được người xung quanh
phát hiện”
Trong các hình thức BLGĐ, bạo lực tình dục và bạo lực tinh thần gây hậu quả nghiêm
trọng hơn cả đối với tinh thần và sức khoẻ của chị em. Những vết thương do bạo lực thể xác có
thể lành, những những ám ảnh mà bạo lực tình dục gây ra cho nạn nhân khó có thể phai mờ. Có
những phụ nữ bị bạo lực tình dục gây tâm lý lo sợ ngay cả khi chỉ nghe thấy tiếng bước chân của
chồng, của bạn tình.
2.3. xu hướng bạo lực tình dục trong tương lai
Việc đánh giá xu hướng tăng lên hay giảm đi của vấn đề bạo lực tình dục trong đời sống
gia đình là hết sức khó khăn vì thiếu số liệu thống kê về vấn đề này. Trong vòng mười năm trở lại
đây các nghiên cứu mới nói nhiều đến vấn đề BLGĐ nói chung và BLTD giữa chồng đối với vợ
nói riêng. Nói như thế không có nghĩa là trong quá khứ không tồn tại bạo lực tình dục mà cần
phải hiều vấn đề tình dục là vấn đề nhạy cảm, thậm chí là cấm kị khi nói trốn đông người. Không
những thế khác với những hình thức bạo lực khác, bản thân người phụ nữ có thể coi việc đáp ứng
nhu cầu tình dục của chồng trong khi bản thân không mong muốn là một nghĩa vụ. Do đã và
đang tồn tại trong đời sống vợ chồng, không những thế trong bối cảnh xã hội ngày nay tạo điều
kiện cho những người phụ nữ nói lên những suy nghĩ, cảm nhận thực của minh xung quanh vấn
đề nhạy cảm này.
Áp dụng thuyết nhu cầu của Maslow: Cấp độ thấp nhất và cơ bản nhất là nhu cầu thể chất
hay thể xác của con người gồm nhu cầu ăn, mặc, ở... Cấp độ tiếp theo là nhu cầu an toàn hay nhu
cầu được bảo vệ. Nhu cầu an toàn có an toàn về tính mạng và an toàn về tài sản. Cao hơn nhu
cầu an toàn là nhu cầu quan hệ như quan hệ giữa người với người, quan hệ con người với tổ chức
hay quan hệ giữa con người với tự nhiên. Con người luôn có nhu cầu yêu thương gắn bó. Cấp độ
nhu cầu này cho thấy con người có nhu cầu giao tiếp để phát triển. Ở trên cấp độ này là nhu cầu
được nhận biết và tôn trọng. Đây là mong muốn của con người nhận được sự chú ý, quan tâm và
tôn trọng từ những người xung quanh và mong muốn bản thân là một “mắt xích” không thể thiếu
trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc họ được tôn trọng cho thấy bản thân từng cá
nhân đều mong muốn trở thành người hữu dụng theo một điều giản đơn là “xã hội chuộng của
chuộng công”. Vì thế, con người thường có mong muốn có địa vị cao để được nhiều người tôn
trọng và kính nể. Vượt lên trên tất cả các nhu cầu đó là nhu cầu sự thể hiện. Đây là khát vọng và
11
nỗ lực để đạt được mong muốn. Con người tự nhận thấy bản thân cần thực hiện một công việc
nào đó theo sở thích và chỉ khi công việc đó được thực hiện thì họ mới cảm thấy hài lòng. Thuyết
nhu cầu sắp xếp nhu cầu con người từ thấp lên cao. Những nhu cầu ở cấp cao hơn sẽ được thỏa
mãn khi nhu cầu cấp thấp hơn được đáp ứng.
Như vậy theo thuyết nhu cầu của Maslow khi những nhu cầu ở mức thấp được thỏa mãn
thì con người sẽ tiến đến những nhu cầu ở mức cao hơn như nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu
được khẳng định và thể hiện bản thân. Áp dụng thuyết nhu cầu có thể cho rằng BLGĐ nói chung
và bạo lực tình dục nói riêng ở Việt Nam có chiều hướng giảm hơn so với trước do có sự cải
thiện về mức sống trong các gia đình và nhận thức của phụ nữ về quyền của mình cũng tăng lên,
bất bình đẳng giới được xóa bỏ nhờ việc ngày càng có nhiều cơ quan quan tâm tuyên truyền về
pháp luật và phòng chống bạo hành.
“nhiêu ý kiến trong cộng đồng cho rằng, những năm gần đây số vụ bạo hành giảm đi
đáng kể do nhiêu nguyên nhân: mức sống tăng lên,việc làm được giải quyết nhiêu hơn; địa vị
phụ nữ trong gia đình và ngoài cộng đồng được nâng lên; học vấn tốt hơn; sự can thiệp của các
dự án, công tác tuyên truyên được quan tâm thường xuyên hơn….” (trích:Nguyễn hữu MinhTrần Thị Vân Anh, bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam Thực trạng, diễn tiến và nguyên
nhân).
Trích số liệu từ thống kê tại các xã phường có hoạt động can thiệp của các ban, ngành và
chính quyền có sự giảm dần tại huyện Gia Lâm: Năm 2001 có 32 vụ đến năm 2002 có 16 vụ;
năm 2003 còn 10 vụ và 10 tháng đầu năm 2004 có 6 vụ. Số liệu khảo sát cán bộ y tế tại hai thời
điểm trước và sau can thiệp tại Gia Lâm cho thấy: trên 31% ý kiến đánh giá bạo hành gia đình
tăng so với 5 năm trước; trên 10% đánh giá tình trạng này không thay đổi và trên 43% cho rằng
có chiều hướng giảm (trước can thiệp, tỉ lệ này là 33,1%) và trên 15% ý kiến không đánh giá
được.( Lê Thị Phương Mai và cộng sự, 2002;2005)
BLGĐ nói chung và BLTD nói riêng đã và đang cản trở sự phát triển bền vững của xã
hội, vấn đề này sẽ không được giải quyết nều vẫn tồn tại vấn đề bất bình đẳng giới. Con người
luôn hướng tới xây dựng một xã hội đảm bảo sự công bằng, tiến bô, văn minh vì vậy chính bản
thân con người chúng ta phải có những hành động ngăn chặn, tiến tới xỏa các hình thức BLGĐ.
3. Kết Luận
Có thể thấy rằng BLTD đã tồn tại từ lâu trong đời sống vợ chồng, ca dao xưa đã từng
phản ánh tình trạng này qua những câu rất thực tế như: “Đang cơn lửa tắt cơm sôi- Lợn kêu con
khóc chồng đòi tòm tem”. Do tính nhạy cảm, tế nhị của vấn đề này mà việc bàn luận về vấn đề
này còn rất hạn chế, và đặc biệt trong xã hội truyền thống người phụ nữ không dám ca thán mà
chỉ biết cam chịu như đây là nghĩa vụ của người vợ trong gia đình. Trong xã hội hiện đại người
phụ nữ- nạn nhận chính của bạo lực tình dục có điều kiện để nói lên hiện trạng xoay quanh vấn
12
đề này, tuy sự chia sẻ còn hạn chế nhưng phần nào đã giúp người đọc có những nhận thức đúng
đắn về vấn đề này. Đồng thời có những cách khắc phục, giảm dần tình trạng này và những hậu
quả không mong muốn do nó gây ra.
BLGĐ là điểm nút cuối cùng của sự phá vỡ gia đình.Nó biến tổ ấm gia đình thành “tổ
lạnh”, thậm chí là nơi nguy hiểm hoặc địa ngục đối với mỗi thành viên. Trong bài viết đã cung
cấp những thông tin cụ thể liên quan đến vấn đề BLTD một trong những biểu hiện của BLGĐ.
Lý giải những nguyên nhân của vấn đề này để từ đó có những biện pháp khắc phục vấn đề này
trong xã hội, tiến tới hạn chế, xóa bỏ các hình thức BLGĐ trong tương lai. Để gia đình sẽ luôn
đảm nhận chức năng là nơi bình yên, hạnh phúc của mỗi người. Góp phần xây dựng một xã hội
tiến bộ, văn minh.
.
13
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Hữu Minh- Trần Thị Vân Anh (2009). “Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt
Nam. thực trạng, diễn biến và nguyên nhân”. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Vũ Hồng Phong .2006.“Ép buộc tình dục trong hôn nhân từ quan điểm của nam giới”,
tạp chí xã hội học (số 2/2006).
3. Lê Thị Quý- Đặng Vũ Cảnh Linh (2007). “Bạo lực gia đình- một sự sai lệch giá trị”.
Nxb Khoa học xã hội,Hà Nội.
4. Lê Thái Thị Băng Tâm (2012).” Xã hội học gia đình”.
5. Phạm Hương Trà. 2012. “Thực trạng đưa tin vê BLGĐ trên các báo điện tử ở Việt
Nam hiện nay”, tạp chí gia đình và giới (số 4/2012).
6. Nhật Thy. Ngày đăng 27-12-2012“Vòng luẩn quẩn của bạo lực gia đình” trang web:
/>7. Thanh Loan. Ngày đăng 1-12-2010 “tỷ lệ bạo lực gia đình tại Việt Nam ở mức cao”
trang web:
/>8.Diệu Linh. “kiểu tra tấn bạo lực tình dục ở nông thôn”
/>
14