Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.19 KB, 13 trang )

Họ và tên: Vũ Quỳnh Anh
Lớp: K55 Xã hội học
MSSV: 10030031

BÀI CUỐI KÌ
MÔN XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH
Đề bài: Chọn một lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học gia đình để phân tích.
1. Đặt vấn đề

Già hóa là một thành tựu của quá trình phát triển. Nâng cao tuổi thọ là một trong
những thành tựu vĩ đại của loài người. Con người sống lâu hơn nhờ điều kiện tốt hơn về chế
độ dinh dưỡng, vệ sinh, tiến bộ y học, chăm sóc y tế, giáo dục và đời sống kinh tế. Hiện nay
có tới 33 quốc gia đạt được tuổi thọ trung bình trên 80 tuổi; trong khi đó, năm năm trước đây,
chỉ có 19 quốc gia đạt con số này. Hiện nay, Nhật Bản là nước quốc gia duy nhất có trên 30%
dân số già; nhưng đến năm 2050, dự tính sẽ có 64 nước có trên 30% dân số già như Nhật Bản.
Quá trình biến đổi nhân khẩu học này không ngừng đem lại những cơ hội cũg như dân số già
hóa với sức khỏe, an sinh và năng động cả về kinh tế và xã hội có thể có những đóng góp
không ngừng cho xã hội.(Liên hợp quốc, 2010)
Tuy nhiên già hóa dân số cũng tạo ra những thách thức về mặt xã hội, kinh tế và văn
hóa cho các cá nhân, gia đình, xã hội và cộng đồng trên toàn cầu. Như Tổng Bí thư Liên hợp
quốc Ban Ki – moon đã chỉ ra: “Ảnh hưởng về kinh tế và xã hội của hiện tượng già hóa dân
số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ với tác động với cá nhân người cao tuổi và gia
đình dòng họ, mà còn tác động rộng hơn tới toàn xã hội và cộng đồng toàn cầu theo những
cách thức chưa từng có”. Đây chính là cách thức mà chúng ta lựa chọn để giải quyết các thách
thức cũng như tận dụng tối đa các cơ hội mà dân số già hóa nhanh chóng mang lại nhằm xác
định liệu xã hội có được hưởng lợi hay không từ cơ cấu dân số già. Với số lượng người cũng
như tỷ trọng người cao tuổi trong dân số ngày càng gia tăng nhanh chóng ở ngày càng nhiều
quốc gia, điều quan trọng là cần nâng cao năng lực của xã hội nhằm giải quyết các thách thức
đặt ra từ chuyển đổi cơ cấu nhân khẩu học. (Liên hợp quốc, 2010)
Ở Việt Nam, công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình ở nước ta sau gần 50 năm thực
hiện đã đạt được những kết quả quan trọng. Tốc độ gia tăng dân số quá nhanh đã được khống


chế. Tổng tỷ suất sinh giảm từ 6.39 con năm 1960 xuống còn 3.8 con trong năm 1990; 2.08
con năm 2008 và 2.03 con năm 2009. Trong khi đó, theo báo cáo thống kê bảo vệ sức khỏe
thế giới năm 2010 của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tuổi thọ trung bình của thế giới là 71
tuổi. Việt Nam hiện là một trong số những quốc gia có tuổi thọ bình quân cao của thế giới.
Tuổi thọ trung bình của Việt Nam tăng đáng kể trong các thập kỉ qua là tín hiệu đáng mừng.
Tuy nhiên, tuổi thọ tăng làm cho tỷ lệ người cao tuổi tăng nhanh hơn. Năm 1979, tỷ lệ người
cao tuổi ở nước ta là 6.7%, đến năm 2007 tăng lên 9.2 %, năm 2008 là 9.9%; tuổi thọ khỏe
1


mạnh của Việt Nam là 66 xếp thứ 166/172 nước trên thế giới. Việt Nam đã bước vào tình
trạng già hóa dân số và xu hướng này vẫn tiếp tục diễn ra trong các thập kỷ tới. Dự báo đến
năm 2020, tỷ lệ người cao tuổi của nước ta sẽ tăng lên mức xấp xỉ 15% và đến năm 2030 sẽ ở
mức 18% (khoảng 17 triệu người). Theo quy ước của Liên hiệp quốc, quốc gia có 10% dân số
từ 60 tuổi trở lên được xác định là quốc gia có cơ cấu dân số già. Như vậy nước ta thuộc
nhóm nước có cơ cấu dân số già, trong tương lai chúng ta phải đối mặt với vấn đề già hóa dân
số. Nhiều quốc gia trên thế giới bước vào tình trạng già hóa dân số khi họ đã giàu, thu nhập
bình quân đầu người rất cao. Việt Nam bước già hóa dân số khi thu nhập bình quân đầu người
mới ở mức thấp, khoảng 1000 USD/năm. Vì vậy việc chăm sóc và phát huy vai trò của người
cao tuổi càng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. (Phạm Thắng & Đỗ Khánh
Hỷ,2009)
Việc sống khỏe, sống thọ không chỉ là mong muốn cơ bản của con người mà còn là
một trong những trụ cột chính của phát triển. Sức khỏe yếu làm suy yếu quốc gia ở tất cả các
cấp độ, thúc đẩy và góp phần làm quốc gia tụt hậu. Trong bối cảnh già hóa dân số, số người
cao tuổi sẽ ngày càng nhièu hơn. Việc tiếp tục duy trì một dân số khỏe mạnh sẽ trở thành
thách thức đối với các nhà lập kế hoạch và hoạch định chính sách. Mỗi nhóm tuổi của dân số
có những hành vi khác nhau, với những hệ quả kinh tế rõ ràng: Nhóm dân số trẻ đòi hỏi đầu
tư chiều sâu cho giáo dục và y tế, nhóm dân số mới bước vào tuổi lao động cung ứng nguồn
lao động và tăng tích lũy và nhóm người cao tuổi đòi hỏi chăm sóc sức khỏe và thu nhập từ
lương hưu. Khi quy mô của mỗi nhóm dân số thay đổi tương quan với những biến động dân

số thì những đòi hỏi của những hành vi kinh tế của những nhóm này cũng thay đổi theo.
(Phạm Thắng & Đỗ Khánh Hỷ,2009)
Lương hưu là một thách thức đặc biệt vì hiện nay nhiều nước trả lương hưu từ nguồn
thuế thu được. Theo tính toán để có thể trang trải các dịch vụ chăm sóc suốt những năm tuổi
già với mức như hiện tại, người lao động Nhật Bản sẽ phải dành ít nhất 35% thu nhập để tiết
kiệm, tích lũy. Do quy mô dân số hưởng lương hưu tăng lên, ngân sách dành cho quỹ lương
hưu tăng lên và có khả năng chiếm đến 20% GDP của Nhật Bản vào năm 2030 trong bối cảnh
tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên gần bằng tỷ lệ dân số lao động, khoảng 45% tổng dân số. Ở Việt
Nam, vào năm 2005 hơn 73% người cao tuổi sống ở nông thôn, là nông dân và làm nông
nghiệp. Trong tổng số người cao tuổi thì chỉ có khoảng 16 – 17% người cao tuổi được hưởng
chế độ lương hưu hoặc mất sức, hơn 10% các cụ hưởng trợ cấp xã hội dành cho những đối
tượng có công với nước. Như vậy còn trên 70% người cao tuổi sống bằng lao động của mình,
bằng nguồn hỗ trợ của con cháu và gia đình. Trong khi đó, năng suất và hiệu suất lao động ở
nông thôn, nông nghiệp còn rất thấp, ít có tiết kiệm để chi tiêu khi tuổi già. (Phạm Thắng &
Đỗ Khánh Hỷ,2009)
Vấn đề cung cấp tài chính cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ ngày càng trở nên quan
trọng nhất là với những quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu bệnh tật sang các
bệnh mãn tính (như tiểu đường, các bệnh về tim mạch, ung thư). Trong năm 2004, chi phí y tế
trung bình đầu người là 91 đô la Mỹ tạo các quốc gia đang phát triển và 15 đô la Mỹ ở các
quốc gia chậm phát triển (Ngân hàng thế giới 2007). Hiện nay, tổng chi cho y tế ở Việt Nam
khoảng 5 – 6% GDP và tính theo đầu người khoảng 45 USD/người/năm. Tuy nhiên, chi công
2


chỉ chiếm khoảng 30% tổng chi y tế, là một tỷ lệ thấp so với các nước có thu nhập thấp và
trung bình trên thế giới. Ở nhiều quốc gia đang phát triển, tình hình diễn biến xấu đi do thiếu
khả năng đóng góp từ các nguồn lực khác và ngày càng thiếu cán bộ y tế hơn do lương thấp
không đủ sống, điều kiện làm việc thiếu thốn,…Việt Nam đang trong tiến trình hoàn thiện nền
kinh tế thị trường đồng thời đẩy mạnh việc chủ trương xã hội hóa công tác y tế, thu hút các
thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Người cao tuổi là một trong

những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Người cao tuổi sẽ phải đối mặt với
nhiều vấn đề tiềm ẩn, bao gồm cả nghèo đói do phải dành toàn bộ nguồn thu hạn chế của
mình cho các dịch vụ chăm sóc nói chung và chăm sóc sức khỏe nói riêng. Đói nghèo làm
tăng độ nhạy của bệnh tật, ngược lại bệnh tật là nguyên nhân chính của đói nghèo. Sức khỏe
kém có thể dẫn đến nghèo khổ và kìm hãm con người trong nghèo đói kể cả ở cấp độ gia đình
và quốc gia. Hiện tại tỷ lệ đói nghèo ở người cao tuổi Nhật Bản là trên 18%. Ở Việt Nam, do
phần lớn người cao tuổi sống cùng gia đình con cháu nên chưa có số liệu đánh giá tỷ lệ đói
nghèo ở người cao tuổi. Song nhìn chung, đời sống vật chất của người cao tuổi ở Việt Nam
còn rất khó khăn. Kết quả của một đề tài nghiên cứu năm 2000 của Vụ các vấn đề xã hội của
Quốc hội cho thấy, 60% số cụ được hỏi cho là khó khăn trong đời sống vật chất, 37% cho là
trung bình,1% dư dật. Tỷ lệ người cao tuổi sống ở Hà Nội cảm thấy không thoải mái cao gấp
5 lần so với tỷ lệ người cao tuổi ở Thanh Hóa mặc dù mức sống ở Hà Nội cao hơn Thanh
Hóa. Đa phần người cao tuổi là phụ nữ, những người này thường chịu tác động gấp đôi vì
những bất bình đẳng giới trong lao động, thu nhập và thụ hưởng các dịch vụ xã hội. (Phạm
Thắng & Đỗ Khánh Hỷ,2009)
Trong đề tài nghiên cứu về Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ của người cao tuổi ở Thái Bình,
đã đưa ra những khó khăn cần được hỗ trợ của người cao tuổi.
Biểu 1. Những khó khăn của người cao tuổi (đơn vị: %)

(Nguồn: Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ người cao tuổi ở Thái Bình hiện nay)
Dựa vào kết quả của nghiên cứu trên có thể thấy, những khó khăn của người cao tuổi
gặp phải nhiều nhất đó là về sức khỏe (chiếm 57.8%), khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày là
55.9%. Bên cạnh đó còn có những khó khăn trong sinh hoạt tâm linh (33.3%), trong vui chơi
giải trí (32.4%).
Nghiên cứu cũng đã xét về những khó khăn của người cao tuổi với độ tuổi, cho thấy
sự khác biệt về khó khăn của người cao tuổi ở các độ tuổi khác nhau. Từ số liệu của cuộc
nghiên cứu cho ta thấy, những người từ 60 tuổi trở lên đều gặp những khó khăn về sức khỏe,
và không có sự khác biệt khi so sánh 3 độ tuổi. Tuy vậy, trong sinh hoạt hàng ngày có sự khác
biệt giữa những người cao tuổi ở những độ tuổi khác nhau. Trong số người cao tuổi từ 80 tuổi
trở lên, 77.3% người cao tuổi thường gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt, người cao tuổi

trong độ từ 70 – 79 tuổi là 47.1%. Qua số liệu có thể thấy người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên
cũng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc vui chơi giải trí và sinh hoạt tâm linh.

3


Bảng 1. Tương quan tuổi – những khó khăn của người cao tuổi. (%)
Những khó khăn
Sức khỏe
Sinh hoạt hàng ngày
Vui chơi, giải trí
Sinh hoạt tâm linh

60 – 69 tuổi
58.6
55.2
24.1
34.5

70 – 79 tuổi
54.9
47.1
33.3
27.5

Từ 80 tuổi trở lên
63.6
77.3
40.9
45.5


(Nguồn: Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ người cao tuổi ở Thái Bình hiện nay )
Nhìn chung, người cao tuổi có nhiều khó khăn trong cuộc sống. Những khó khăn
chung của người cao tuổi là khó khăn về sức khỏe, sinh hoạt hàng ngày, vui chơi giải trí và
sinh hoạt tâm linh. Trong đó, họ thường gặp nhiều khó khăn về sức khỏe hơn cả. Thêm vào
đó, có tồn tại mối tương quan giữa những khó khăn về sức khỏe hơn cả. Thêm vào đó, có tồn
tại mối tương quan giữa những khó khăn của người cao tuổi về giới và độ tuổi.
Từ những vấn đề trên, tôi lựa chọn hướng nghiên cứu về nhu cầu dịch vụ hỗ trợ chăm
sóc sức khỏe cho người cao tuổi.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Lý thuyết nhu cầu của Maslow.

Abraham Maslow (1908 – 1970), một nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học
thuyết về thứ bậc nhu cầu con người và phát triển thuyết này vào những năm 50 của thế kỷ
XX. Theo Maslow, nhu cầu của con người là một chuỗi liên tiếp các nhu cầu từ bậc thấp đến
các bậc cao hơn.

TỰ THỂ
HIỆN
HIỆN

TÔN TRỌNG
XÃ HỘI
AN TOÀN
VẬT CHẤT

Nhu cầu về vật chất – nhu cầu cơ bản của sự tồn tại: Bậc đầu tiên trong hệ thống thứ
bậc nhu cầu này rất cơ bản, rõ ràng và đặc biệt quan trọng, bao gồm: thức ăn đầy đủ, nước
4



uống, sưởi ấm, nhà ở và y tế cơ bản. Thiếu nhu cầu này, con người khó có thể tồn tại chứ chưa
nói đến việc có nhu cầu cao hơn.
Nhu cầu an toàn: An toàn là môi trường không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển và
lành mạnh, thể hiện bằng sự an toàn nghề nghiệp, việc tiếp nhận các dịch vụ y tế và bảo vệ
thân thể.
Nhu cầu xã hội – nhu cầu được công nhận (yêu thương và chấp nhận): Con người
chúng ta theo bản chất, luôn luôn tìm kiếm tình bạn, sự chấp nhận và tình yêu thương. Nếu
không có cảm giác được giao tiếp và quan hệ với mọi người thì chúng ta khó có thể tồn tại
được.
Nhu cầu tôn trọng: Đây là thứ bậc thức tư trong thang bậc nhu cầu của Maslow. Tôn
trọng là sự nhìn nhận đúng đắn về nhân phẩm hay chuẩn mực đạo đức”. Cũng nên có một sự
cân bằng giữa mức độ chúng ta cho phép bản thân tự đánh giá dựa trên những công nhận hay
phê bình từ bên ngoài và những giá trị phát sinh từ bên trọng mỗi chúng ta.
Nhu cầu tự thể hiện: Bậc cuối cùng và cao nhất trong hệ thống thứ bậc nhu cầu của
Maslow có tác động lớn nhất đến sự phát triển tâm lý và là bậc phức tạp nhất. Đó là nhu cầu
cho sự trưởng thành cá nhân, cơ hội của sự phát triển và học hỏi cá nhân – quá trình tự hoàn
thiện mình, có thể nói, là tất cả những gì có thể mang lại cơ hội cho con người nhằm nâng cao
năng lực cá nhân năng lực trí tuệ và phát triển toàn diện tiềm năng. (Lê Ngọc Hùng, 2011)
Trong phạm vi bài viết, tôi dùng luận điểm nhu cầu về vật chất để biện luận cho vấn
đề nhu cầu dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi.
2.2. Khái niệm Nhu cầu.
Nhu cầu là một trong những nguồn gốc nội tại sinh ra tính tích cực của con người.
Nhu cầu là một trạng thái tâm lý xuất hiện khi cá nhân cảm thấy cần phải có những điều kiện
nhất định để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình. Trạng thái tâm lý đó kích thích con
người hoạt động nhằm đạt được điều mình mong muốn.
Nhu cầu con người nảy sinh từ những thiếu hụt, những đòi hỏi tất yếu mà con người
thấy cần thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Đó là những mong muốn xuất phát từ bên trong cơ
thẻ trước sự hiện diện của những yếu tố khách quan môi trường. Nhu cầu trước hết là sự đòi
hỏi khách quan của con người như bản chất hoạt động của con người là có ý thức. Vì vậy mà

trước khi nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người, đã có sự
phản ánh con người. Nó định hướng cho suy nghĩ, ý chí, tình cảm cá nhân, nó xác định xu
hướng và kích thích con người hành động để thỏa mãn đòi hỏi của nhu cầu.
Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu của con người là động cơ thúc đẩy hoạt động, điều
chỉnh hành vi của từng cá nhân và tập thể trong xã hội nói chung. Nhu cầu là sự đòi hỏi của
các cá nhân, các nhóm xã hội muốn có nhữn điều kiện nhất định để sống và phát triển… Nhu
cầu quy định xu hướng lựa chọn các ý nghĩ, rung cảm và ý chí quần chúng. Nó quy định hoạt
động xã hội của cá nhân, của giai cấp, của tập thể.
3. Giải quyết vấn đề.
3.1. Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ vật chất của người cao
tuổi.
5


Như đã trình bày trong phần cơ sở lý luận, nhu cầu vật chất là nhu cầu cơ bản của sự
tồn tại, là bậc đầu tiên trong hệ thống thứ bậc nhu cầu.
Khi các quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, việc thay đổi lối sống và việc làm chắc
chắn sẽ dẫn những thay đổi về mô hình bệnh tật. Những thay đổi này thấy rõ nhất ở những
nước đang phát triển. Ở những quốc gia phát triển, mối quan tâm hàng đầu về sức khỏe là
phòng ngừa và điều trị các bệnh mãn tính như tim mạch, ung thư, tiểu đường, rối loạn chuyển
hóa, Alzheimer); là những lối sống thiếu lành mạnh (nghiện hút, lạm dụng rượu bia,..); là tăng
hiệu quả chăm sóc nội trú, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu có hiệu quả chi phí
cao, dịch vụ chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi. Trong khi đó, ở các quốc gia đang phát
triển thì một mặt phải tiếp tục giải quyết các bệnh lây nhiễm, suy dinh dưỡng và tai biến sinh
kỳ, mặt khác phải đương đầu với sự gia tăng nhanh chóng của các bệnh không lây truyền
trong điều kiện hệ thống chăm sóc sức khỏe còn thiếu thốn.
Tại Việt Nam, có 4 nhóm bệnh không lây nhiễm chủ yếu, đó là: Bệnh tim mạch, ung
thư, đái tháo đường (type 2), động kinh và trầm cảm. Các bệnh này nói riêng và bệnh không
lây nhiễm nói chung đang ngày càng tăng trong khi tỷ lệ tử vong do bệnh lây nhiễm giảm. Cụ
thể là nếu như năm 1996 bệnh lây nhiễm chiếm tỷ lệ mắc là 37%, trong đó chết là 33%; bệnh

không lây nhiễm theo thứ tự là 50% - 43% thì đến năm 2005, bệnh lây nhiễm giảm còn 25% 16%; còn các bệnh không lây nhiễm tăng tỷ lệ người mắc lên 62%, trong đó chết là 61%.
Theo Bộ Y tế (Vụ Điều trị) trong những năm gần đây, tỷ lệ người mắc các bệnh không lây
nhiễm phải nhập viện có xu hướng tăng cao. Số nhập viện điều trị các bệnh không lây nhiễm
(huyết áp, tim mạch, các bệnh về nội tiết,…) chiếm tới 61% (năm 2001 tỷ lệ này là 54%).
Trong khi tỷ lệ các bệnh do nguyên nhân lây nhiễm đang giảm mạnh thì ngược lại tỷ lệ mắc
bệnh không lây nhiễm lại gia tăng đến mức báo động. Điều đáng nói là những bệnh này có
liên quan mật thiết tới lối sống như hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, dinh dưỡng bất hợp lý và
ít vận động. Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động chương trình phòng chống một số bệnh không
lây nhiễm giai đoạn 2002 – 2006 đã cho thấy điều đó. (Phạm Thắng & Đỗ Khánh Hỷ,2009)
Theo kết quả điều tra toàn quốc, trong khoảng 82 triệu người Việt Nam thì có tới 6.7
triệu người bị tăng huyết áp. Tỷ lệ người mặc bệnh đái tháo đường là 2.7%, tại các thành phố
lớn là 4.4%. Trong đó, 64% người mắc bệnh đái tháo đường không được phát hiện. Với bệnh
ung thư, mỗi năm có khoảng 100.000 – 150.000 bệnh nhân ung thư mới mắc và 75.000 người
chết vì ung thư và con số này có xu hướng ngày càng gia tăng. Về bệnh tâm thần, tỷ lệ mắc
bệnh động kinh trong cộng đồng chiếm khoảng 0.33% dân số và tỷ lệ trầm cảm là 2.8% dân
số. Bệnh không lây nhiễm có chung các yếu tố nguy cơ và các yếu tố nguy cơ này được chia
thành 3 nhóm: nhóm thứ nhất là các yếu tố nguy cơ về hành vi lối sống bao gồm hút thuốc lá,
lạm dụng rượu, chế độ dinh dưỡng không hợp lý (như ăn ít rau, nhiều thịt) và thói quen ít vận
động. Nhóm thứ hai là các yếu tố môi trường bao gồm môi trường tự nhiên, môi trường chính
trị, môi trường xã hội và môi trường kinh tế. Nhóm thứ ba là các yếu tố nguy cơ không thay
đổi được như tuổi, giới tính, chủng tộc….Điều đáng nói là các nguy cơ bệnh không lây nhiễm
tăng dần theo tuổi do sự phơi nhiễm trong một thời gian dài của các cơ quan bộ phận chức
năng của cơ thể và giảm khả năg hệ thống miễn dịch. Các bệnh kông lây nhiễm thường có
6


thời gian tiềm tàng kéo dài với các tình trạng tiền bệnh như thừa cân, béo phì, tăng huyết áp,
rối loại glucose máu và một số rối loạn chuyển hóa khác. (Phạm Thắng & Đỗ Khánh
Hỷ,2009)
Bảng 2. Tỷ lệ một số bệnh tim mạch thường gặp, theo nhóm tuổi . (%)

Nhóm tuổi
Bệnh
60 – 74
≥ 75
Tăng huyết áp
42
54.6
Suy vành
9.9
10.0
Suy tim
5.7
9.6
Suy tĩnh mạch
16.6
14.8
(Nguồn: Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu
tuổi tại Việt Nam )
Bệnh không lây nhiễm nói chung đang gây ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của xã hội.
Bệnh không chỉ có tỷ lệ tử vong cao mà tỷ lệ tàn tật cũng rất lớn. Mặc dù tỷ lệ tử vong cao do
bệnh tăng dần theo tuổi nhưng tỷ lệ tử vong ở nhóm người trẻ tuổi cũng không phải là ít.
Bảng 3. Tỷ lệ một số bệnh nội tiết – chuyển hóa thường gặp theo tuổi. (%)
Nhóm tuổi
Bệnh
60 – 74
≥ 75
Đái tháo đường
5.7
4.2
Rối loạn lipid máu

48.2
37.1
Rối loại đường huyết đói
6.8
6.7
Béo phì
22.0
8.9
(Nguồn: Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu
tuổi tại Việt Nam)
Ở Việt Nam, bệnh không lây nhiễm còn nghiêm trọng hơn do bệnh nhân thường đến
bệnh viện để khám và điều trị ở giai đoạn muộn. Trong khi đó, các biện pháp phòng chống
bệnh tật còn hạn chế do nhận thức chưa cao. Bên cạnh đó, người bệnh cũng không được theo
dõi và điều trị có hệ thống do dịch vụ khám chữa bệnh chưa đáp ứng được nhu cầu.
Theo kết quả nghiên cứu của đề tài Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ của người cao tuổi ở
Thái Bình cho thấy sự đánh giá của người cao tuổi về sức khỏe của họ. Trong tổng số 102
người trả lời, chỉ có 9,8 % cho rằng mình khỏe, số người đánh giá sức khỏe mình bình thường
chiến 49%. Đáng chú ý là tỷ lệ người cao tuổi thấy sức khỏe của họ yếu chiếm tỉ lệ khá cao
(41,2%).
Bảng 4. Đánh giá về tình trạng sức khỏe. (%)
Tình trạng sức khỏe
Số lượng
Tỷ lệ %
Khỏe
10
9.8
Bình thường
50
49.0
Yếu

42
41.2
(Nguồn: Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ người cao tuổi ở Thái Bình hiện nay )
Cũng trong đề tài nghiên cứu Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ của người cao tuổi ở Thái
Bình kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra xét về tương quan giới, chúng ta có thể thấy rằng, có sự
khác biệt tương đối trong sự đánh giá về tình trạng sức khỏe giữa nam và nữ. Nữ thường đánh
7


giá tình trạng sức khỏe thấp hơn nam. 52.5% số người cao tuổi nữ cho rằng sức khỏe mình là
bình thường và chỉ có 5% cho rằng họ có sức khỏe tốt. Trong khi đó, có đến 12,9% trong tổng
số nam giới đánh giá sức khỏe mình là tốt. Dưới đây là bảng số liệu thu được từ kết quả
nghiên cứu của đề tài.
Bảng 5. Tương quan giới và sự đánh giá về tình trạng sức khỏe của người cao
tuổi. (%)
Giới
Sức khỏe của NCT
Nam
Nữ
Khỏe
12.9
5
Bình thường
46.8
52.5
Yếu
40.3
42.5
(Nguồn: Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ người cao tuổi ở Thái Bình hiện nay)
Đề tài cũng cho thấy tỷ lệ người cao tuổi mắc các bệnh là tương đối cao. Theo số liệu

từ kết quả nghiên cứu thu được có 75.2 % người mắc bệnh về xương khớp. Các bệnh về mắt
chiếm vị trí thứ hai trong thang bậc các bệnh thường gặp (40.2%). Tiếp đến là tim mạch và
huyết áp chiếm (38.1%). Bệnh cao huyết áp là mối lo ngại của người cao tuổi và gia đình có
ngừời cao tuổi do những biến chứng bất ngờ và khó lường trước. Ngoài ra, các bệnh về tiêu
hóa, các bệnh về suy giảm trí nhớ chiếm tỷ lệ trên 20%.
Ở các nước phát triển cũng như đang phát triển, bệnh mãn tính là nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới tàn phế và giảm chất lượng sống. Khả năng sống độc lập của người cao tuổi bị đe
dọa khi tình trạng tàn phế về thể lực và tâm thần của họ gây trở ngại trong sinh hoạt hàng
ngày. Nhiều người trở nên tàn phế ở tuổi già do cơ chế “hao mòn” của quá trình lão hóa (ví dụ
như thoái hóa khớp) hoặc do khởi phát một bệnh mãn tính vốn đã có thể phòng ngừa được (ví
dụ như ung thư phổi, đái tháo đường và bệnh mạch ngoại vi) hoặc do bệnh mang đặc tính
thoái hóa (ví dụ như sa sút trí tuệ). Dường như tàn phế nặng nề về thể lực và nhận thức tăng
mạnh ở nhóm tuổi già. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi xu hướng chung của thế giới cho thấy
nhóm tuổi từ 80 trở lên là nhóm dân số tăng nhanh nhất. Những tàn phế khác thường gặp ở
tuổi già là mất thị lực và thính lực. Trên toàn thế giới hiện có khoảng 180 triệu người bị tàn
phế về thị giác, 45 triệu người trong số đó bị mù hoàn toàn. Phần lớn những người này là
người cao tuổi bởi vì suy giảm thị lực và mù tăng rõ theo tuổi. Nhìn chung trên toàn thế giới
có khoảng 4% người từ 60 tuổi trở lên bị mù, 60% trong số họ sống ở vùn cận Sahara châu
Phi, Trung Quốc và Ấn Độ. Nguyên nhân chính gây mù và giảm thị lực ở người cao tuổi là
đục thủy tinh thể (gần 50% các trường hợp mù), tăng nhãn áp, thoái hóa điểm vàng và bệnh
võng mạc do đái tháo đường. (Phạm Thắng & Đỗ Khánh Hỷ,2009)
Theo thống kê của Bệnh viện Mắt Trung ương, tại Việt Nam có tới 70% số người mù
là do đục thủy tinh thể. Đáng nói là có tới 35% người mù do đục thủy tinh thể không biết bản
thân bị bệnh hoặc đây là bệnh có thể chữa được. Theo nghiên cứu của Viện Lão khoa Quốc
gia, ở người cao tuổi: 76.7% có giảm thị lực; 60.1% bị mắc bệnh giác mạc; 57.9% đục thủy
tinh thể, 50.5% có bệnh mi – giác mạc; 9% có tật khúc xạ.Giảm thính lực là một trong những
loại tàn phế thường gặp nhất, đặc biệt là ở người cao tuổi. Theo ước tính trên thế giới khoảng
50% những người ở độ tuổi từ 65 trở lên là bị giảm thính lực ở những mức độ khác nhau.
8



Giảm thính lực cản trở cho giao tiếp. Tình trạng này có thể gây bối rối, tự ti, ngại tiếp xúc và
cách ly xã hội. Theo nghiên cứu của Viện Lão khoa Quốc gia, 40.11% người cao tuổi có giảm
thính lực. Các biến chứng do huyết áp tăng thường rất nặng nề như tai biến mạch máu não,
nhồi máu cơ tim, suy tim, suy thân, mù lòa… ảnh hưởng lớn đến người bệnh, gây tàn phế và
trở thành gánh nặng với gia đình và xã hội. (Phạm Thắng & Đỗ Khánh Hỷ,2009)
Khi dân số già đi, một trong những thách thức lớn của chính sách chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi là cân đối giữa tự chăm sóc (người cao tuổi tự chăm sóc mình), chăm sóc
không chính thức (người thân và bạn bè) và chăm sóc chính thức (dịch vụ y tế xã hội). Chăm
sóc chính thức bao gồm cả chăm sóc sức khỏe ban đầu, chủ yếu tại cộng đồng và chăm sóc tại
các cơ sở y tế hoặc nhà dưỡng lão. Trên toàn thế giới, việc chăm sóc người cao tuổi chủ yếu là
do cá nhân người cao tuổi hoặc những người chăm sóc không chính thức gồm người thân, bạn
bè, hàng xóm (chủ yếu là phụ nữ) cung cấp phần lớn sự hỗ trợ và chăm sóc cho người cao
tuổi. Kể cả khi đã có các dịch vụ chăm sóc chính thức thích hợp, chăm sóc không chính thức
vẫn đóng vai trò chủ yếu. Song hầu hết các quốc gia lại đầu tư cho nguồn lực tài chính theo
hướng ngược lại, nghĩa là phần lớn kinh phí dành cho chăm sóc người cao tuổi tại các cơ sở y
tế và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Cần đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng đối với hệ thống
chăm sóc chính thức qua các dịch vụ y tế xã hội. Ở nhiều nước, người cao tuổi nghèo và
người cáo tuổi sống ở nông thôn hiếm khi hoặc không thể tiếp cận được với các dịch vụ y tế
cần thiết. Tại nhiều vùng, giảm hỗ trợ của chính phủ đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
ban đầu dẫn tới thực trạng là trút sự căng thẳng về tài chính lên người cao tuổi và gia đình họ,
có thể gây xung đột giữa các thế hệ. (Phạm Thắng & Đỗ Khánh Hỷ,2009)
Nhu cầu chăm sóc y tế và xã hội của người cao tuổi ở Việt Nam là rất lớn, trong khi
những điều kiện tự thân của người cao tuổi ở Việt Nam có những đặc trưng rất hạn chế. Ví dụ
như: Tỷ lệ người cao tuổi sống độc thân tương đối cao ở cả 3 miền Bắc – Trung – Nam
(14.2%), dẫn đến hạn chế cả về hỗ trợ kinh tế, tinh thần từ phía gia đình, người thân và không
có người trợ giúp trong sinh hoạt hàng ngày. Về tình trạng kinh tế, thu nhập của người cao
tuổi còn rất thấp, hầu như không có nguồn tiết kiệm tích lũy từ lúc còn trẻ . Tình hình đặc biệt
khó khăn ở các vùng nông thôn và miền núi. Theo con số điều tra của Viện Lão khoa Quốc
gia tại ba địa bàn Hà Nội, Thừa Thiên Huế và Bà Rịa – Vũng Tàu trong nhiều lý do khiến

người cao tuổi không được khám chữa bệnh, lý do chính là không đủ khả năng kinh tế
(45.3%), điều kiện đi lại khó khăn (17.3%), điều kiện y tế địa phương không đáp ứng được
16.5%, còn lại các lý do khác là 20.9%. Bệnh tật ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày chiếm tỷ
lệ rất cao, từ 53.5 % đến 73.5%. Tỷ lệ này khác nhau giữa các lứa tuổi, giữa nam và nữ, giữa
các vùng nghiên cứu. Số ngày ốm trung bình của một cụ già trong tháng là 2.04 ngày. Cao
nhất là ở Phương Mai là 2.83 ngày, rồi đến Phú Xuân là 1.64 ngày, cuối cùng là Hòa Long
1.48 ngày. Tương tự, số ngày nằm viện trung bình trong tháng là 0.77 ngày, cao nhất là ở
Phương Mai (1.32 ngày), Hòa Long (0.53 ngày), Phú Xuân (0.43 ngày). Do tình hình sức
khỏe và bệnh tật, có 24.9 % các cụ phải mời bác sỹ đến khám tại nhà (chủ yếu là ở Phương
Mai 49%, Phú Xuân 16.4%, Hòa Long 21.7%). Đa số người cao tuổi dùng thuốc theo đơn, tỷ
lệ này cao nhất ở Phương Mai 54.1%, Phú Xuân 27%, Hòa Long 24.3%. Nhìn chung khi cần
9


thiết thì hầu hết các cụ đề có thể tự uống (97.8%) chỉ có 1.8% là cần giúp đỡ ít nhiều, 0.4% là
không thể tự uống được thuốc. (Phạm Thắng & Đỗ Khánh Hỷ,2009)
Theo số liệu điều tra được của đề tài Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ của người cao tuổi ở
Thái Bình, có 29.4% người đi khám định kì và khám để chữa bệnh chiếm 70.6%. Khi có vấn
đề về sức khỏe, tỷ lệ người cao tuổi đến khám tại các bệnh viện lớn chiếm tỷ lệ khá cao
(70.6%) trong đó, chỉ có 2% người cao tuổi chọn khá tại phòng khám tư nhân.
Biểu 2. Nơi khám bệnh. (%)
(Nguồn: Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ người cao tuổi ở Thái Bình hiện nay)
Cũng theo kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy, khi mắc bệnh thì phần lớn người
cao tuổi năm điều trị tại nhà là 60.8%, tại các cơ sở y tế là 39.2%. Tỷ lệ người cao tuổi được
con cái và bà con họ hành chăm sóc chiếm tỷ lệ rất cao (98%). Ở những gia đình có người
giúp việc thì 63.7 % người cao tuổi được những người này chăm sóc.
Biểu 3. Người chăm sóc khi ốm đau. (%)
(Nguồn: Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ người cao tuổi ở Thái Bình hiện nay)
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ lao động nữ tham gia trực tiếp vào các
hoạt động kinh tế tương đối cao, song chủ yếu ở thị trường lao động phổ thông, không chính

thức nên tỷ lệ thực hiện bảo hiểm xã hội thấp, kể cả bảo hiểm y tế. Lao động cực nhọc hơn,
nhiều giờ hơn, thu nhập thấp hơn, chi tiểu cho nhu cầu cá nhân ít hơn, kể cả nhu cầu chăm sóc
sức khỏe. Phụ nữ có lợi thế hơn về tuổi thọ nhưng dường như họ phải hứng chịu nhiều hơn về
bạo lực trong gia đình và phân biệt đối xử trong giáo dục, thu nhập, ăn uống, việc làm, chăm
sóc sức khỏe, thừa kế, bảo hiểm xã hội và quyền lực chính trị. Ngay cả khi thực hiện chức
năng duy trì giống nòi, không phải phụ nữ nào cũng được chăm sóc chu đáo và có chế độ ăn
đủ dinh dưỡng. Những bất lợi tích lũy này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của phụ nữ, là
nguy cơ gây tàn phế và là những nguyên nhâ khiến cho phụ nữ dễ lâm vào cảnh nghèo, nhất
là khi về già. Phụ nữ còn có nhiều cơ may hơn so với nam giới sống đến độ tuổi rất già, độ
tuổi mà tàn phế, bệnh tật rất phổ biến mà hầu như không còn khả năng tự chăm sóc mình. Hầu
hết người cao tuổi đều có nguyện vọng được chăm sóc tại nhà. Nhưng những người chăm sóc
(thường là phụ nữ cao tuổi) cũng cần được hỗ trợ mới có thể đảm đương được công việc này.
(Phạm Thắng & Đỗ Khánh Hỷ,2009)
Hiện nay, mạng lưới y tế của Việt Nam từ trung ương đến địa phương đã được củng
cố. Nhiều dịch vụ y tế mới được nghiên cứu và đưa ra áp dụng trong thực tế. Những vấn đề
như bảo hiểm y tế, nâng cao hoạt động hỗ trợ cho việc chi trả của người dân đối với các dịch
vụ y tế nhất là những người nghèo, dân tộc thiểu số dành được sự quan tâm lớn của nhà nước.
Các quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo cũng đã được thành lập đặc biệt dành cho vùng
nông thôn và dân tộc thiểu số, có tác động tích cực tới việc chăm sóc sức khỏe cho người
nghèo, nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cũng như giảm gánh nặng tài chính
cho người nghèo. Tuy nhiên việc triển khai Quỹ khám chữa bệnh còn gặp nhiều khó khăn do
chất lượng dịch vụ y tế tuyến xã còn hạn chếm kiến thức về vấn đề sức khỏe và chăm sóc sức
10


khỏe của người dân còn chưa đầy đủ và hạn chế trong các hoạt động truyền thông…. Tình
hình chăm sóc y tế còn yếu; Mạng lưới y tế phục vụ cho người cao tuổi chưa có; số nhân viên
y tế phục vụ tại cộng đồng vừa thiếu về số lượng vừa yếu về nghiệp vụ và kỹ năng trong khi
nhu cầu chăm sóc y tế rất lớn. Theo số liệu điều tra của Viện Lão khoa Quốc gia tại ba địa bàn
Hà Nội, Thừa Thiên Huế và Bà Rịa – Vũng Tàu, phần lớn người cao tuổi đều trả lời là không

được bác sỹ và nhân viên y tế tới nhà khám, cụ thể là ở Phương Mai (Hà Nội) là 51%, Phú
Xuân (Thừa Thiên Huế) là 83.6%, ở Hòa Long (Bà Rịa – Vũng Tàu) là 78.3%. Có tới 75.8%
các cụ cho rằng mình cần được khám chữa bệnh tốt hơn so với hiện tại. Tỷ lệ này cao nhất ở
Phương Mai là 86.6%, Hòa Long là 72.7%, cuối cùng là Phú Xuân 68.2%. Năm 2006, Viện
Lão khoa Quốc gia cũng đã tiến hành khảo sát điều tra các cơ sở y tế trong toàn quốc. Kết quả
cho thấy, mới có 22.4% số tỉnh có bệnh viện có chuyên khoa Lão khoa với nguồn nhân lực
gồm 139 bác sĩ, nghiên cứu viên và 237 điều dưỡng viên. Cả nước mới có 5 cơ sở chuyên
chăm sóc y tế lâu dài cho người cao tuổi, hơn một nửa số tỉnh có cơ sở lưu trú đối tượng
chính sách người cao tuổi neo đơn không nơi nương tựa. Cả nước có hai cơ sở đào tạo có bộ
môn Lão khoa, số lượng các hình thức đào tạo chuyên đề, ngắn hạn, các công trình nghiên
cứu cũng như các ấn phẩm chuyên ngành hầu như còn rất ít. Chăm sóc người cao tuổi là lĩnh
vực liên ngành nhưng hiểu biết của nhân viên y tế về các khía cạnh chính sách, chương trình
và sự phối hợp giữa các cơ cấu tổ chức y tế và xã hội còn hạn chế. (Phạm Thắng & Đỗ Khánh
Hỷ,2009)
Dựa vào số liệu điều tra của đề tài Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ của người cao tuổi ở Thái
Bình, nhu cầu khám sức khỏe định kì của người cao tuổi ở địa phương là khá cao (58.8%).
Trong khi đó, tỉ lệ người cao tuổi đi khám bệnh định kì lại thấp hơn nhiều chỉ có 29.4%.
Biểu 4. Thực trạng khám chữa bệnh và nhu cầu khám chữa bệnh của người cao
tuổi. (%)

(Nguồn: Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ người cao tuổi ở Thái Bình hiện nay)
Chế độ bảo hiểm y tế ở nước ta chủ yếu liên quan đến việc chi trả chi phí khám, điều
trị bệnh trong thời gian hợp lý theo yêu cầu của người khám hoặc điều trị. Chế độ trợ cấp đối
với việc mất nguồn thu nhập do bệnh tật trong thời gian điều trị được thực hiện theo chế độ
ốm đau hoặc tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Theo khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh về người
cao tuổi thì người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập được
khám, chữa bệnh miễn phí. Ngoài ra, người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên được cấp miễn phí thẻ
bảo hiểm y tế với mệnh giá bằng mức của người nghèo hoặc khám chữa bệnh miễn phí theo
cơ chế thực thanh thực chỉ tại các cơ sở y tế quy định tại điều 1 của Quyết định số
139/2002/QĐ – TTg ngày 15.10. 2002 của Thủ tướng chính phủ về việc khám chữa bệnh cho

người nghèo. Cũng thuộc vào đối tượng người cao tuổi được hưởng ưu đãi về bảo hiểm y tế là
những người có công với nước theo Pháp lệnh ưu đãi người có công.
Cùng với độ tuổi ngày càng cao, có lẽ người cao tuổi sẽ là đối tượng có nhu cầu khám
chữa bệnh thường xuyên nhất. Chế độ khám chữa bệnh miễn phí đối với người cao tuổi cô
11


đơn không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập và cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho
người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên thể hiện rất rõ sự quan tâm của Nhà nước đối với việc chăm
sóc sức khỏe người cao tuổi và chế độ ưu đãi. Tuy nhiên, do khó khăn về kinh phí chi trả cho
người được bảo hiểm nên chế độ bảo hiệm y tế của chúng ta mới đặt trọng tâm vào việc khám
chữa bệnh (phát hiện và điều trị), chứ chưa chú ý nhiều đến việc phòng bệnh. Người già
thường hay mắc các bệnh về tim mạch, huyết áp cao, tai biến mạch máu não, ung thư, v.v..
Đây là những bệnh nguy hiểm, dễ gây tử vong hoặc di chứng cho người già. Nếu họ được
kiểm tra sức khỏe, khám chữa bệnh thường xuyên thì các bệnh này được phát hiện sớm và
điều trị kịp thời sẽ hạn chế được mức độ nguy hiểm.
4. Xu hướng.
Do mức sinh tiếp tục giảm và sẽ giữ ở mức thấp đồng thời tuổi thọ sẽ tiếp tục tăng lên
dẫn đến tốc độ già hóa của dân số Việt Nam sẽ tăng nhanh hơn thì nhu cầu cán bộ điều dưỡng
chăm sóc người cao tuổi sẽ tăng trong bối cảnh lực lượng lao động giảm và phụ nữ ngày một
tham gia tích cực hơn vào các hoạt động xã hội.
Mô hình gia đình truyền thống sẽ ngày một mai một dần đi và thay vào đó là gia đình
hạt nhân, người cao tuổi sẽ khó có thể được con cái chăm sóc và việc tìm người hỗ trợ chăm
sóc là rất cần thiết.
Xu hướng người cao tuổi tăng lên sẽ làm tăng gánh nặng kinh tế, xã hội để duy trì ổn
định cuộc sống khỏe mạnh của nhóm tuổi này. Nhu cầu chăm sóc người cao tuổi sẽ là một
thách thức lớn (y tế, xã hội, tài chính). Người cao tuổi có nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhiều
hơn nên chi phí chăm sóc cho người cao tuổi cũng cao hơn.
Công tác chăm sóc người cao tuổi không làm tốt sẽ dẫn đến làm giảm chất lượng dân
số, chất lượng cuộc sống của người cao tuổi sẽ thêm khó khăn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cản Diệu Linh, (2010), Nhu cầu dịch vụ hỗ trợ người cao tuổi ở Thái Bình hiện nay,

Khóa luận tốt nghiệp Xã hội học, Trường Đại học KHXH&NV (ĐHQG Hà Nội), Hà
Nội.
2. Lê Ngọc Hùng, (2011), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội.
3. Liên hợp quốc, (1/10/2010), Báo cáo tóm tắt: Già hóa thế kỉ 21- Thành tựu và thách
thức.
4. Phạm Thắng & Đỗ Khánh Hỷ, (2009), Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc
người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam, Tổng cục Dân số và Kế
hoạch hóa gia đình, Hà Nội.

MỤC LỤC
12


1.
2.
3.
4.

TRANG
Đặt vấn đề ................................................................................................................1
Cơ sở lý thuyết.........................................................................................................4
Giải quyết vấn đề ...................................................................................................6
Xu hướng ...............................................................................................................13
Danh mục tài liệu tham khảo


13



×