SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KỸ NĂNG TÍCH HỢP TRONG GIỜ ĐỌC VĂN
NHẰM GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG, TÌNH CẢM CHO HỌC
SINH LỚP 12
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thêm
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2017
MỤC LỤC
Nội dung
I. MỞ ĐẦU.................................................................................................................................
1.1. Lí do chọn đề tài...............................................................................................................
1.2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................................
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................................
1.4. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................
II. NỘI DUNG..........................................................................................................................
2.1. Cơ sở lí luận........................................................................................................................
2.2. Thực trạng vấn đề.............................................................................................................
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề...........................................................................
2.3.1.Tích hợp ngay từ khâu vào bài................................................................................
2.3.2. Tích hợp trong quá trình đọc hiểu chi tiết, kết hợp giảng bình ...............
2.3.3. Tích hợp khi tổng kết bài học.................................................................................
2.4. Hiệu quả................................................................................................................................
2.4.1. Về nhận thức...................................................................................................................
2.4.2. Kết quả cụ thể................................................................................................................
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.........................................................................................
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Trang
1
1
2
2
2
3
3
4
5
5
7
10
13
13
16
18
18
18
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Luật Giáo dục năm 2005 (Điều 2) ghi rõ:
"Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc". [1]
Quan điểm chỉ đạo trong Dự thảo “Chiến lược phát triển giáo dục Việt
nam giai đoạn 2009 - 2020” cũng nêu rõ: "Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào
tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần xây dựng nền văn hóa
tiên tiến của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng
và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. [2]
Đổi mới phương pháp dạy học cũng trở thành mục tiêu lớn của ngành
giáo dục và đào tạo nước ta trong những năm qua. Luật Giáo dục năm 2005 nêu
rõ ở Điều 28: Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông: "Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh". [1]
Như vậy, để đạt được một trong những mục tiêu giáo dục đó thì ngoài
việc trang bị kiến thức khoa học, ngành giáo dục còn chú trọng bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm cho học sinh. Việc giáo dục tư tưởng, tình cảm học sinh cũng đã
được lồng ghép vào một số môn học và hoạt động giáo dục trong nhà trường
trong đó có môn Ngữ văn. Tuy nhiên, trong thực tế giáo viên chưa thực hiện
Ghi chú:
- Ở mục 1.1: Các đoạn in nghiêng tác giả trích nguyên văn từ TLTK số 1,2.
1
nhiều. Bản thân tôi cũng nhận thấy môn Ngữ văn hiện nay vẫn còn nặng về khai
thác nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, người dạy chưa dành nhiều thời gian
để liên hệ giáo dục, giúp người học nhận thấy sự gần gũi và giá trị mà các tác
phẩm văn học mang lại.
Từ đó, có thể thấy mục tiêu giáo dục toàn diện khó có thể đạt được nếu
không chú trọng giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
Bản thân sau nhiều năm đứng lớp, đặc biệt là trong năm học 2016 - 2017,
tôi nhận thấy việc chú trọng giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh lớp 12 qua
việc tích hợp trong giờ đọc văn đã đem lại những hiệu quả nhất định. Bên cạnh
nội dung cốt lõi, mang tính chất ổn định của môn học, các giờ Đọc văn còn đem
đến các nội dung mang tính thời sự xã hội thiết thực, bổ ích, nhằm đáp ứng yêu
cầu hình thành ở học sinh tư tưởng, tình cảm, tốt đẹp để từ đó, các em có những
quan hệ ứng xử đúng đắn với những vấn đề của cuộc sống.
Đó là lí do tôi chọn đề tài Một số kỹ năng tích hợp trong giờ Đọc văn,
nhằm giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh lớp 12 để trao đổi cùng đồng
nghiệp.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh lớp
12 từ việc tích hợp trong các giờ Đọc văn.
- Đề tài này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Sách giáo khoa Ngữ văn 12 (Chương trình chuẩn).
- Học sinh lớp 12: 12C3, 12C5, 12C6, 12C7.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra (tìm hiểu).
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
2
II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Trong nhận thức của mình, Mác đã nói rõ quá trình nhận thức của con
người: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn”. Vì thế, người thầy trong quá trình giảng dạy phải cho các em trở
về với thực tế đời sống xã hội. Có như thế, mới phát huy được ở người học khả
năng cảm thụ, năng lực hiểu biết, hình thành và hoàn thiện nhân cách. Từ đó
giúp các em tưởng tượng và định hình được xã hội mình đang sống và những gì
mình phải làm, tạo hứng thú và niềm say mê khám phá của các em trong các giờ
học, nhất là giờ Đọc văn. Nhà văn Nga M. Gorki cũng đã khẳng định “Văn học
là nhân học”. Học văn chính là học làm người. Đó là một chân lí mà bất cứ giáo
viên dạy văn nào cũng phải trăn trở, suy nghĩ. Nói như Makarenco – nhà sư
phạm vĩ đại người Ukraina: “Giáo dục chủ nghĩa cộng sản mà không giáo dục
lòng yêu nước và nhân ái thì giáo dục cái gì nữa?”. Viện sĩ Mikhancốp, người
anh hùng của Liên Xô khi góp ý về việc dạy văn cũng đã nói “Không thể bớt
chất khoa học nhân văn, bớt văn trong chương trình vì bớt văn tức là bớt chất
người”. [3]
Giáo viên lên lớp, ngoài nhiệm vụ hướng dẫn học sinh tiếp nhận kiến thức
còn phải hình thành cho các em những khái niệm về tư tưởng, nhân cách, tâm
hồn,…Và xưa nay trong việc đào tạo con người, văn chương vẫn được sử dụng
như một công cụ đắc lực. Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn
chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội, đúng như vai trò xã hội nhân văn của nó. Nếu nói người giáo viên là những kỹ sư tâm hồn thì điều đó
đúng nhất đối với các thầy cô giáo dạy môn Ngữ văn. Vì văn học chính là bộ
môn dễ gây xúc động vui buồn, tác động nhiều nhất đến thế giới nội tâm của
con người. Hơn nữa việc bồi đắp tâm hồn dân tộc cho thế hệ trẻ lại càng cần
3
Ghi chú: Ở mục 2.1: Đoạn từ “Trong nhận thức…bớt chất người” tác giả tự viết, có tham
khảo TLTK số 3
thiết trong xu thế hội nhập thế giới hiện nay để họ không tự đánh mất mình mà
phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Với đặc trưng là môn khoa học xã hội và nhân văn, bên cạnh nhiệm vụ
hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp
nhận văn bản, môn Ngữ văn còn giúp học sinh hiểu biết về xã hội, văn hóa, lịch
sử, đời sống nội tâm của con người. Với tính chất là một môn học công cụ, môn
Ngữ văn giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để học tâp, giao tiếp và nhận thức.
Với giá trị giáo dục, thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực
tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu để hoàn thiện nhân
cách. Vì vậy, môn Ngữ văn, đặc biệt là các giờ Đọc văn đã góp phần không nhỏ
trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh, giúp các em phát triển toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.2. Thực trạng vấn đề
Tích hợp trong giờ Đọc văn là rất tự nhiên vì thực tiễn đời sống là nơi
xuất phát và cũng là đích đến của văn học. Cùng với yêu cầu về dạy học theo
định hướng phát triển năng lực và nhiệm vụ giáo dục giá trị sống cho học sinh
thì yêu cầu gắn văn học với đời sống càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Tuy vậy, trong quá trình giảng dạy nói chung, và ở một số tiết dự giờ
đồng nghiệp nói riêng, tôi thấy các thầy, cô giáo chưa thực sự coi trọng điều
này. Phần đông chỉ chú trọng việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản, không
chú ý đến việc giáo dục tình cảm thái độ cho học sinh.
Về phía học sinh, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị
trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc
trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận học sinh nói chung, học sinh trường
THPT Nguyễn Trãi nói riêng đang có những biểu hiện đáng lo ngại về tư tưởng,
tình cảm: không xác định được động cơ học tập đúng đắn; thường xuyên vi
4
phạm nội quy của nhà trường: gây mất trật tự trong lớp, nói tục, chửi bậy, nói
dối thầy cô và bạn bè, tô son môi, nhuộm tóc, hành vi ngôn ngữ, ứng xử thiếu
văn hóa, thậm chí còn có hiện tượng gây gổ đánh nhau trong và ngoài nhà
trường,... Trong khi đó, năng lực cảm nhận tác phẩm văn chương của học sinh
lại rất hạn chế. Thái độ thờ ơ, lạnh lùng của các em trước nỗi đau buồn của con
người trong tác phẩm văn chương cũng như ở cuộc đời là điều khiến chúng ta
phải suy nghĩ, day dứt. Nếu học sinh không thể đồng cảm, xúc động được thì đó
là dấu hiệu không lành mạnh trong tâm hồn, tình cảm của các em. Có một số
học sinh sống ích kỉ với bạn bè, thậm chí là ngay cả với người thân trong gia
đình của mình. Ở độ tuổi từ 15 đến 18, các em chưa được trải nghiệm nhiều, vốn
hiểu biết còn hạn hẹp, kinh nghiệm sống ít nhưng lại rất nhạy cảm với đời sống
bên ngoài. Vì vậy, khi truyền thụ những kiến thức chỉ đơn thuần trên sách vở, sẽ
khiến các em không hứng thú học tập và cảm thấy điều thầy cô nói là xa vời,
thậm chí là không có thực. Đó cũng là điều khiến bản thân tôi luôn băn khoăn,
trăn trở ở mỗi giờ Đọc văn.
Chính vì vậy, ở bài viết này, tôi muốn đề cập đến việc tích hợp trong giờ
Đọc văn, giúp học sinh đến gần hơn với những trang sách, với cuộc đời. Cũng
có nghĩa là giúp các em nhận thức, tư duy được những vấn đề của cuộc sống, để
có thể lựa chọn sáng tạo, trau dồi cho mình những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp để
hoàn thiện bản thân.
2.3. Các giải pháp
Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào phương pháp giảng dạy, quy trình học
tập cũng như môi trường đào tạo. Vì vậy, việc tích hợp phải phù hợp, thiết thực.
Có nhiều giải pháp hướng đến việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh khi
tích hợp trong giờ Đọc văn. Trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm và
xuất phát từ thực tế đối tượng học sinh, tôi chỉ đưa ra một số giải pháp mà tôi đã
thực hiện và có hiệu quả.
2.3.1. Tích hợp ngay từ khâu vào bài
5
Thông thường, bắt đầu giờ học, giáo viên thường làm công tác tổ chức rồi
kiểm tra miệng (thường là kiểm tra bài cũ). Việc làm này có thể sẽ gây tâm lí ức
chế cho học sinh, do các em chưa kịp chuẩn bị bài hoặc chuẩn bị chưa kỹ, chưa
soạn bài, chưa làm bài tập,…dẫn đến bị điểm kém, rồi bị phê bình,…Cho nên
theo tôi, có thể kết hợp kiểm tra miệng khi học bài mới. Dựa vào đặc điểm tâm
lý của lứa tuổi học sinh lớp 12 mà người thầy tạo hứng thú học tập cho các em.
Chỉ khi nào người học có tâm thế đón nhận giờ học thì khi đó người dạy mới có
thể nói đến chuyện bồi dưỡng tình cảm, thái độ cho các em được. Trong giờ đọc
văn, bước đầu tạo hứng thú cho học sinh chính là từ cách dẫn dắt vào bài một
cách hấp dẫn. Vào bài mới là tạo tâm thế ban đầu, tạo không khí, là để lại ấn
tượng trong học sinh, từ đó các em mới có ý thức tìm tòi, khám phá tác phẩm.
* Chẳng hạn, khi dạy bài Tây Tiến của Quang Dũng, tôi vào bài như sau:
Dòng sông Mã hôm nay vẫn thao thiết chảy dưới sắc xanh trong của mây
trời Tây Bắc. Càng thấy thấm thía hơn công ơn của một thế hệ “chẳng tiếc đời
xanh” quên mình vì đất nước. Một thế hệ tuổi mới mười tám, đôi mươi, cũng
đang ngồi trên ghế nhà trường như các em đây, nhưng theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc đã xếp lại bút nghiên để lên đường. Một thế hệ đã xác định
thật rõ rằng: "Chúng tôi ra đi không tiếc đời mình/ Nhưng tuổi hai mươi làm sao
không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?...". (Thanh
Thảo) Tinh thần ấy, lí tưởng ấy sẽ là ánh sáng soi đường cho cô trò chúng ta
hôm nay trong hành trình khám phá văn bản Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng,
để hiểu, tự hào và yêu thêm quê hương, đất nước, con người Việt Nam một thời
gian khổ, hy sinh nhưng cũng vô cùng anh dũng, hào hùng!
Với cách vào bài như trên, giáo viên đã đưa các em trở về với không khí
những ngày đầu kháng chiến chống Pháp: khó khăn, gian khổ nhưng bừng bừng
khí thế quyết chiến, quyết thắng của toàn dân tộc. Vì thế, không chỉ tạo ấn tượng
ban đầu và lôi cuốn học sinh vào bài học mà cách dẫn dắt đó còn tác động tới tư
tưởng, tình cảm của các em. Ngưỡng mộ, tự hào về thế hệ cha anh đi trước, các
6
em sẽ có được bài học nhận thức và hành động cho bản thân. Đó là một cách
tịch hợp để giáo dục lý tưởng sống cho học sinh.
* Khi dạy đến truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, tôi vào bài:
Là con dân nước Việt, không ai không biết đến nạn đói năm 1945 đã cướp
đi gần 2 triệu sinh mạng con người. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết ra những dòng
đẫm đầy nước mắt:
Con đói lả ôm lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi!
Nặng lòng trăn trở trước tình cảnh ấy, nhà văn Kim Lân cũng đã góp vào
bức tranh những nét vẽ ảm đạm nhất về thân phận con người. Chưa khi nào con
người bị coi thường như vậy! Cũng chưa khi nào giá trị con người rẻ rúng đến
có thể nhặt được một cách dễ dàng đến như vậy! Hôm nay, đến với truyện ngắn
Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân, chúng ta không chỉ đau nỗi đau một thời đất
nước lầm than, nô lệ, mà còn tự hào về cha ông - những con người đã vượt lên
hoàn cảnh, đi qua tăm tối để đến với ánh sáng của Cách mạng. Chúng ta càng
thêm trân trọng, yêu quý cuộc sống mà chúng ta có được hôm nay.
Việc dẫn dắt học sinh trở về nạn đói lịch sử năm 1945, không chỉ khơi
dậy sự xót xa cho thân phận người dân nô lệ mà còn dấy lên ở các em sự căm
phẫn tột độ bọn cướp nước và bán nước về những tội ác khủng khiếp mà chúng
đã gây ra. Đây cũng là cách để giáo viên hướng học sinh đến những nhận thức,
suy nghĩ đúng đắn, tích cực. Là cách giúp các em ý thức được sự rèn luyện,
phấn đấu để góp phần giữ gìn, phát huy những thành quả mà cha ông đã đổ bao
xương máu để lại cho chúng ta.
2.3.2. Tích hợp trong quá trình đọc hiểu chi tiết, kết hợp giảng bình
Đặc trưng của văn học là một môn nghệ thuật phản ánh đời sống bằng
hình tượng. Từ một hình tượng, một tâm trạng, một hoàn cảnh cụ thể,… người
7
thầy có thể hướng dẫn học sinh đọc hiểu, giảng bình, để học sinh cảm thấy gần
gũi mà không nghĩ đó chỉ là trong sách vở. Kết quả thẩm thấu, chuyển hóa vào
từng cá nhân học sinh, có khi bất ngờ, có khi ngẫu nhiên sẽ tác động đến tư
tưởng, tình cảm, làm đẹp và phong phú thêm tâm hồn các em. Tuy nhiên khi
giảng dạy còn tùy thuộc vào từng bài, từng đối tượng học sinh để Tích hợp một
cách linh hoạt và phù hợp.
Chẳng hạn, với văn bản kịch: Hồn Trương Ba, da hàng thịt của tác giả
Lưu Quang Vũ, sau khi đọc hiểu màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với người
thân, GV đặt câu hỏi: Màn đối thoại với xác hàng thịt đẩy hồn Trương Ba vào
thế đuối lí và tìm về với gia đình. Nhưng sau màn đối thoại với người thân, hồn
Trương Ba lại rơi vào trạng thái như thế nào? Điều đó đã tác động đến em ra
sao?
Với sự gợi ý, định hướng của giáo viên, học sinh (em Nguyễn Minh Hiếu
lớp 12 C5) đã cảm nhận, giảng bình:
Màn đối thoại với xác hàng thịt đẩy hồn Trương Ba vào thế đuối lí và tìm
về với gia đình. Nhưng sau màn đối thoại với người thân, hồn Trương ba lại
càng đau khổ và rơi vào trạng thái hụt hẫng. Thực tế cho thấy, con người khi
gặp khó khăn, thất bại, buồn khổ, luôn có ý thức tìm về với gia đình - chốn bình
yên, chỗ dựa, động lực để vượt qua, để vươn lên. Nhưng gia đình không phải
lúc nào cũng giúp được chúng ta, cũng như những người thân trong gia đình
Trương Ba cũng không giúp được gì cho Trương Ba khi ông rơi vào nghịch
cảnh trớ trêu. Và Trương Ba nhận thấy chỉ có ông mới cứu được chính mình.
Điều đó cho chúng ta thấy, cuộc sống của mỗi người, phải do chính người đó
quyết định. Cũng như với chúng em, gia đình rất quan trọng. Mọi người luôn
quan tâm, tạo điều kiện, động viên, nhưng gia đình không thể học hộ, thi thay
cho chúng em được. Trang giấy cuộc đời phải do chính tay mỗi người viết nên.
Vì vậy, ngay từ bây giờ, chúng em thấy mình phải xác định rõ mục đích, động
cơ cho việc học tập, rèn luyện của bản thân, để không rơi vào hoàn cảnh sống
8
nhờ, sống dựa, phụ thuộc vào người khác. Và chỉ khi đó thì cuộc sống mới thực
sự có ý nghĩa.
Với lời giảng bình như trên, thực sự giáo viên đã giúp học sinh tự mình
cảm nhận chi tiết trong tác phẩm, cũng như tự nhìn nhận, đánh giá về bản thân,
tức là có được kỹ năng tự nhận thức - một kỹ năng sống rất cơ bản của con
người. Khi đã hiểu đúng về mình, các em mới có thể có những quyết định,
những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện
thực tế và yêu cầu xã hội. Kỹ năng ra quyết định cũng rất cần thiết trong cuộc
sống, nhất là với học sinh lớp 12. Việc giáo viên giúp học sinh có được kỹ năng
tự nhận thức và ra quyết định cũng chính là đã giúp các em có thêm nhiều cơ hội
để thành công. [4]
Còn với “câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện” trong
văn bản Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, sau khi đọc hiểu, GV
nêu câu hỏi: Nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm đã để lại cho em
những cảm nhận, suy nghĩ gì?
Với sự dẫn dắt, gợi ý của giáo viên, em Lại Tuấn Vũ và em Lê Thị Ngọc,
học sinh lớp 12 C3 đã kết hợp và bổ sung phần suy nghĩ, cảm nhận của mình:
Người đàn bà hàng chài gợi ấn tượng về một cuộc đời cực nhọc, lam lũ.
Người đàn bà mà “…tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm
trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra
bề ngoài”. Với chồng, một lão đàn ông vũ phu thường xuyên đánh đập, hành hạ
dã man, bà vẫn thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau. Với con, bà là một người mẹ
thương yêu con vô bờ, tận tâm, che chở cho con, biết chịu đựng, hi sinh để
“sống cho con chứ không thể sống cho mình”, bà lo sợ con làm điều dại dột, cố
tránh cho con khỏi bị tổn thương. Trước vị chánh án huyện, bà tự tin, sắc sảo,
thông cảm và bộc bạch thành thực những suy nghĩ của mình. Qua những lời
giãi bày, ta càng thấy rõ mọi sự chịu đựng, hi sinh, gánh lấy khổ đau của bà chỉ
vì để sống cho con, nuôi con khôn lớn. Một sự cam chịu, nhẫn nhục thật đáng
9
để chia sẻ, cảm thông. Bà là một người mẹ khó nhọc, lam lũ, cam chịu mà nhân
hậu, giàu lòng vị tha, đức hi sinh. Người mẹ hàng chài ấy là bóng dáng của rất
nhiều những người phụ nữ, bà mẹ Việt Nam.
Ghi chú: Ở mục 2.3.2, đoạn cuối trang trước sang đầu trang này: “Với lời giảng bình …để
thành công” tác giả tự viết, có tham khảo TLTK số 4
Và mỗi chúng ta đây, ai cũng đều có một người mẹ. Nhưng mỗi chúng ta,
ngay cả bản thân em chẳng biết được bao nhiêu lần để ý đến những giọt mồ hôi
rơi trên khuôn mặt mẹ tảo tần? Cũng chẳng để ý đến mái tóc mẹ có thêm nhiều
sợi bạc?...Mỗi ngày được cắp sánh đến trường, những đứa con như chúng em
đây đâu biết mẹ đã đánh đổi bao nhiêu thời gian và tâm sức; cũng đâu biết sau
lưng mình là nỗi lòng mẹ đầy những âu lo,..? Thế mà, một lời cảm ơn hay một
câu xin lỗi, có lẽ chúng em chưa nói được bao nhiêu với mẹ của mình? Chúng
em tự biết mình có lỗi, còn làm mẹ buồn nhiều. Từ hôm nay và mãi mãi về sau,
chúng em tin rằng: mình sẽ quan tâm, trân trọng những người thân, đặc biệt là
mẹ của mình hơn.
Chúng ta đều biết giao tiếp là hoạt động diễn ra thường xuyên giữa mọi
người trong xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào hoạt động đó cũng mang lại
thành công, nhất là khi có sự khác nhau về lứa tuổi, trình độ, giới tính, quan
niệm sống,… Thực tế, trong mỗi gia đình, nhiều khi giữa cha mẹ và con cái khó
tìm được tiếng nói chung. Cha mẹ nào cũng mong muốn con mình chăm ngoan,
tiến bộ. Vì thế thường quan tâm, uốn nắn, dạy bảo,..và nhất là nhắc nhở việc học
hành. Con cái thì cho là bố mẹ kiểm soát, can thiệp nhiều, nói nhiều, dẫn đến
khó chịu, cãi lại, thậm chí là có những lời nói, hành vi hư hỗn. Vì vậy mà việc
giáo viên hướng dẫn học sinh đọc hiểu kết hợp giảng bình ở trên phần nào đã
giúp các em tự nhận thức lại bản thân, biết kiểm soát cảm xúc, lắng nghe một
cách tích cực và từ đó biết cảm thông, trân trọng, yêu quý hơn cha mẹ của mình.
[4]
2.3.3. Tích hợp khi tổng kết bài học
10
Việc tổng kết nhằm giúp học sinh xác định trọng tâm của bài học, khắc
sâu kiến thức, định hướng quá trình tự học. Mặt khác, việc tổng kết còn giúp học
sinh mở rộng, nâng cao kiến thức và biết vận dụng vào thực tiễn. Chính vì vậy,
Ghi chú:
- Trong trang này, đoạn cuối mục 2.3.2 tác giả tự viết, có tham khảo TLTK số 4
ở phần tổng kết của một số tiết Đọc văn, tôi đã tích hợp để giúp các em củng cố,
khắc sâu mở rộng kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.
* Chẳng hạn: sau khi đọc hiểu đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa
Điềm, tôi đã tích hợp lòng yêu nước cho học sinh ở phần tổng kết bài học bằng
việc đặt câu hỏi cho học sinh thảo luận: Từ cảm nhận độc đáo của Nguyễn Khoa
Điềm về Đất Nước, em hãy bày tỏ tình cảm của mình đối với Đất Nước?
Sau mấy phút thảo luận, em Nguyễn Trà My đại diện nhóm học sinh trả
lời: Đất Nước không ở đâu xa mà ở trong mỗi căn nhà, trong hạt gạo ta ăn hàng
ngày, trong môi trường học tập, sinh hoạt,…và ở ngay trong mỗi chúng ta. Vì
vậy, lòng yêu nước không còn là khái niệm trừu tượng hay đòi hỏi việc làm lớn
lao nào đó, mà biểu hiện ngay trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người. Yêu
nước là việc chúng ta biết trân trọng, yêu quý từ những gì gần gũi xung quanh:
là ngôi nhà thân thuộc, là con đường, hàng cây hằng ngày ta vẫn đến trường, là
chiếc cặp sách xinh xắn ta mang trên vai, là cuốn vở trắng tinh với những dòng
chữ xinh xinh ta vẫn viết lên đó mỗi ngày,...và còn là ông bà, cha mẹ, thầy cô,
bạn bè,… những người đang ngày đêm miệt mài quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ
chúng ta. Nhưng trước hết, lòng yêu nước hãy bắt đầu bằng việc mỗi chúng ta
biết trân trọng, yêu quý bản thân mình. Yêu quý bản thân là chúng ta có ý thức
trau dồi, rèn luyện để ngày càng hoàn thiện. Yêu quý bản thân là chúng ta
không muốn để ai nhắc nhở, phê bình mình, coi thường mình. Và khi mỗi chúng
ta có ý thức rèn đức, luyện tài để ngày mai lập thân, lập nghiệp cũng có nghĩa
là chúng ta đang cho mình cơ hội để có thể cống hiến thật nhiều cho Đất Nước,
để góp phần “Làm nên Đất Nước muôn đời”.
11
* Còn sau khi đọc hiểu tác phẩm kịch: Hồn Trương Ba, da hàng thịt của
tác giả Lưu Quang Vũ, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tổng kết trên những
nét chính về nội dung, nghệ thuật và rút ra giá trị tư tưởng, giá trị nhân văn của
tác phẩm. Sau đó giáo viên chốt kiến thức và tích hợp giáo dục tư tưởng, tình
cảm cho học sinh bằng việc nêu tình huống cho các em thảo luận: Phát biểu
quan điểm của bản thân nếu như em đang ở trong hoàn cảnh không mong
muốn, phải nói những điều không như mình suy nghĩ, phải làm những việc mà
mình không muốn làm?
Em Tống Thị Phương, học sinh lớp 12 C3 đã nêu quan điểm của bản thân:
được sống thật đáng quý, nhưng để được sống là mình, sống trọn vẹn với những
giá trị mình có và theo đuổi còn đáng quý hơn. Muốn vậy, mỗi chúng ta, hằng
ngày, hằng giờ phải tu dưỡng, rèn luyện để làm nên những giá trị cho bản thân.
Những giá trị đó sẽ là nền móng vững chắc giúp mỗi người vững vàng trước
những thử thách của cuộc sống. Đồng thời phải biết đấu tranh với những xấu
xa, dung tục, tầm thường để vươn tới lẽ sống cao đẹp. Cuộc sống luôn tiềm ẩn
những cám dỗ, cạm bẫy, thử thách, đòi hỏi mỗi người, nhất là lứa tuổi học sinh
như chúng em phải luôn tỉnh táo, chủ động và có bản lĩnh để vượt qua. Trong
mọi hoàn cảnh, phải luôn là chính mình, không để bị phụ thuộc, lại càng không
để bị sai khiến. Vì cuộc sống của mỗi người, tương lai của mỗi người là do
chính người đó quyết định.
Theo giáo sư Phạm Minh Hạc, mục tiêu giáo dục trong nhà trường phổ
thông là truyền đạt cho học sinh hiểu được giá trị của mỗi người - của chính
mình, từ đó có trách nhiệm với bản thân, với xã hội;…Thể hiện được giá trị của
bản thân vào cuộc sống. [5]
Như vậy, việc tích hợp của giáo viên đã giúp học sinh nhận thức được các
giá trị và định hướng rèn luyện, tu dưỡng theo những giá trị đó. Bản thân các em
cũng vì thế mà có được sự chủ động, vững vàng và tự tin trong cuộc sống, nhất
là khi phải đối mặt trước những tình huống thử thách của môi trường sống tiêu
12
cực. Với nền tảng giá trị vững vàng, chắc chắn là động lực để khuyến khích học
sinh khám phá, tìm hiểu và phát triển các giá trị cũng như những kỹ năng sống,
thái độ sống, nhằm giúp các em phát huy hết tiềm năng sẵn có của mình [5]
Ghi chú:
- Trong trang này, đoạn cuối mục 2.3.3 tác giả tự viết, có tham khảo TLTK số 5
2.4. Hiệu quả
2.4.1. Về nhận thức
Việc chú trọng Tích hợp khi đọc hiểu tác phẩm văn học đã làm cho những
tiết Đọc văn không còn khô khan, nặng về lí thuyết mà linh hoạt, sống động hơn.
Học sinh có cảm giác như bản thân đang được chứng kiến, gần gũi với cuộc
sống và trải nghiệm về cuộc sống. Lớp học vì thế trở nên thân thiện, học sinh
hoạt động tự giác hơn, tích cực hơn. Có nhiều em lúc đầu còn nhút nhát, e dè
nhưng về sau đã mạnh dạn bày tỏ cảm nhận, suy nghĩ của bản thân. Đặc biệt,
nhiều em có sự cải thiện đáng kể trong mối quan hệ, tình cảm với thầy cô, bạn
bè, người thân trong gia đình.
Em Phạm Trang Nhung, lớp 12C5 đã viết cho cô những dòng tâm sự mộc
mạc mà thật xúc động nhân ngày 20-11: “Em nhớ những bài học hay, những lẽ
sống phải mà cô đã giảng dạy cho chúng em. Trong trí nhớ của em, những vần
thơ hào hùng về đoàn quân Tây Tiến từ lời giảng của cô cứ vang mãi. Cô đã
truyền cho chúng em ngọn lửa, đã khơi dậy ở chúng em lí tưởng sống cao đẹp
sao cho xứng đáng với thế hệ cha anh đi trước. Em tự thấy mình phải luôn nỗ
lực học tập và rèn luyện, để trở thành một công dân tốt, biết yêu thương, biết hi
sinh, biết không sợ lùi bước trước sóng gió cuộc đời”
Em Lê Thị Huyền Trang (lớp 12C5) cũng viết: “Em mong cô sẽ giữ được
tình yêu với nghề như bây giờ. Mỗi khi cô giảng bài, em cảm nhận được nhiệt
huyết và tình yêu với nghề của cô. Từ những trang văn, từ lời cô giảng, đã cho
em biết cuộc sống này thật đáng sống biết bao! Em cảm thấy bà cụ Tứ như một
13
bà tiên bước ra từ thế giới cổ tích. Từ tăm tối, thảm đạm của nạn đói, của chết
chóc, bà đã gieo ánh sáng niềm tin cho những đứa con của mình để họ cùng
nhau bước tới tương lai. Bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo mà nhân hậu, bao
dung, khiến em rất nể phục.”
Em Lê Thị Tú Uyên (lớp 12C5) cũng gửi tới cô những lời thành thực
nhất: “Cảm ơn cô vì những tiết học giảng dạy say mê, những kiến thức bổ ích,
những cách đối nhân xử thế, những bài học về lẽ sống mà cô đã truyền dạy cho
chúng em. Cô đã cho chúng em thấy giữa những năm kháng chiến ác liệt, vẫn
có những vần thơ “tươi xanh" vút lên từ những tâm hồn trẻ trung, sôi nổi với
khát vọng hạnh phúc đời thường. Những vần thơ từ bài “Sóng” cứ vang mãi
trong em như khúc hát ngợi ca tâm hồn người phụ nữ đang yêu: bình dị, đời
thường nhưng cũng vô cùng trong sáng, thánh thiện. Một tình yêu đủ sức mạnh
để con người vượt lên thử thách của cuộc sống và sự khốc liệt của chiến tranh.
Con người Việt Nam là thế. Em còn nhớ câu thơ mà cô đã đọc cho bọn em:
“Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa”. Một lần nữa, em chân thành cảm ơn
cô vì tất cả!”.
Còn em Nguyễn Trà My (lớp 12C5) thì lại viết: “…sẽ nhớ lắm ánh mắt
trìu mến, nụ cười hiền hậu khi cô lên lớp, không chỉ truyền kiến thức bộ môn
Văn, cô còn dạy cho chúng em những kỹ năng, lẽ sống, những bài học về đạo lí,
…. Chất giọng truyền cảm khi cô giảng những vần thơ trong bài “Đất nước”
của Nguyễn Khoa Điềm làm sao em quên được! Cô đã thắp lên trong em không
chỉ tình yêu với môn văn, mà lớn hơn, còn là tình yêu quê hương, đất nước, là
nhiệt huyết, lí tưởng sống của tuổi trẻ chúng em. Tất cả sẽ chỉ còn là những ký
ức đẹp được em khắc sâu trong tim. Em chân thành tri ân tới cô. Và những bài
giảng, những lời dạy bảo của cô sẽ theo em tới suốt chặng đường”.
Vào những ngày cuối năm học (với học sinh lớp 12 là cuối cấp), cảm giác
xa thầy cô, mái trường, bạn bè, khiến các em ngậm ngùi, xúc động. Nhiều em
không nói nên lời đã mượn trang giấy trò chuyện, tâm sự cùng thầy cô của mình.
14
Em Nguyễn Thị Phương Ly (lớp 12C3) đã viết: “Em cảm ơn cô đã theo
lớp và dạy dỗ lớp suốt 3 năm học vừa qua. Cô lúc nào cũng tận tình chỉ bảo bọn
em từ việc học hành đến cả những vấn đề trong cuộc sống. Mỗi giờ học, cô
không chỉ đem lại cho bọn em kiến thức mà còn nhiều bài học làm người. Em
còn nhớ lắm giọng cô nghẹn lại khi đọc khổ thơ cuối bài “Đò Lèn” của nhà thơ
Nguyễn Duy. Rồi mắt cô rưng rưng khi giảng hai câu cuối cùng khiến bọn em
rất xúc động. Cô thực sự đã khơi dậy, chỉ bảo cho bọn em biết yêu thương, biết
quan tâm tới những người xung quanh, nhất là người thân trong gia đình khi
còn có thể. Em rất cảm ơn cô!”.
Em Đào Ngọc Linh (lớp 12C3) cũng viết: “Cô là một người rất nghiêm
khắc, gương mẫu. Trong lúc giảng bài, cô cũng thường liên hệ với thực tế cuộc
sống, và vì vậy mà em thấy bài học gần gũi hơn, dễ hiểu hơn, đi sâu vào tâm trí
bọn em hơn. Em còn nhớ cái hôm cô dạy truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
của nhà văn Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là lời giảng chốt lại sau khi cô hướng
dẫn bọn em tìm hiểu về nhân vật người đàn bà hàng chài. Cô có nói về việc nhìn
nhận, đánh giá con người trong cuộc sống: không nên đơn giản, một chiều hay
chỉ dừng lại ở vẻ bên ngoài mà phải chịu khó tìm hiểu nội dung bên trong, phải
nhìn nhận từ nhiều phương diện, đặt trong hoàn cảnh và các mối quan hệ,… Cô
còn đem đến cho bọn em nhiều bài học rất quý giá như phải có lòng tự trọng và
ý thức hoàn thiện bản thân, phải biết quan tâm, yêu quý những người thân xung
quanh mình, phải có phương pháp học sao cho hiệu quả,…Lời cuối cùng em
muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến cô - một người tâm huyết và tận tâm với
những bài giảng của mình, với nghề của mình!”
Em Tống Thị Phương (lớp 12C3) - đạt giải trong kỳ thi chọn học sinh giỏi
cấp Tỉnh) - đã có những dòng tri ân đầy xúc động:
Cô ơi! Nhờ bộ môn Văn và cách giảng bài của cô, tụi em không chỉ được
học trong sách vở mà còn cả ở ngoài đời. Nhờ cô, em biết được cách quan tâm
và yêu thương những người xung quanh. Cũng nhờ cô mà em định hướng thật
15
rõ ràng việc tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Em nhớ hôm học bài “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ, cô đã dạy bọn em điều đầu tiên và cơ bản
nhất ở mỗi người là phải có lòng tự trọng. Cô đã chỉ cho bọn em thấy, lòng tự
trọng sẽ khiến con người luôn là chính mình, không nhờ vả, phụ thuộc vào
người khác. Có lòng tự trọng, con người sẽ không bao giờ phải xấu hổ, cúi đầu
mà luôn ngẩng cao đầu, chủ động, tự tin, vượt lên thử thách để đến với thành
công. Những bài giảng ấy đã đi vào cuộc sống của em, là hành trang để em tự
tin bước vào đời”
Em Lê Thị Ngọc (lớp 12C3) - đã từng bị cô nhắc nhở, phê bình trong giờ
học - lại có những xúc cảm, suy nghĩ thật sâu sắc: “Trong 3 năm THPT, có lẽ
người gần gũi, ân cần nhiều với lớp 12C3 chúng em không ai khác, chính là cô.
Cô không chỉ dẫn dắt chúng em khám phá những trang văn thơ, cô còn dạy cho
chúng em về lẽ sống, về đạo lý,... Em không thể quên những giờ học mà cả lớp
lặng đi khi giọng cô nghẹn ngào, mắt cô mọng nước trong những bài giảng xúc
động. Em còn nhớ hôm cả lớp học bài “Chiếc thuyền ngoài xa”, cô đã cho
chúng em thấy người đàn bà hàng chài đã chịu đựng, hy sinh, tất cả vì con.
Nhưng quan trọng hơn, cô đã giúp cho mỗi chúng em thấy được mẹ của mình
cũng thật vĩ đại. Chính điều đó đã truyền đến lũ học trò chúng em những cảm
xúc, những suy nghĩ đúng đắn hơn. Nhờ đó mà bọn em biết sống có trách
nhiệm, tình cảm và biết yêu thương hơn, nhất là với mẹ của mình”.
Những tâm sự của các em là kết quả của một quá trình không chỉ tiếp
nhận kiến thức mà còn là ý thức rèn luyện, tu dưỡng những tư tưởng, tình cảm
tốt đẹp. Đó là những phẩm chất cần có, cần thiết cho cho các em trong hành
trình lập thân, lập nghiệp. Tôi tin các em, cũng như các em đã tự nhận thức được
bản thân và tự tin vững bước vào đời.
2.4.2. Kết quả cụ thể
Việc Tích hợp trong quá trình đọc hiểu tác phẩm văn học đã góp phần
giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Nhiều em đã thực sự tiến bộ và kết
16
quả học tập vì thế cũng khả quan hơn (Qua bảng so sánh kết quả Học kì II với
Học Kì I về xếp loại 2 mặt: hạnh kiểm và học lực)
Kết quả xếp loại hạnh kiểm
Lớp
12C3
12C5
12C6
12C7
Sĩ số
45
42
44
45
Tốt
Khá
Trung bình
Học kì I Học kì II Học kì I Học kì II Học kì I Học kì II
37
32
31
37
41
34
37
41
8
9
11
8
4
8
7
4
0
1
2
0
0
0
0
0
Kết quả xếp loại học lực
Lớp
12C3
12C5
12C6
12C7
17
Sĩ số
45
42
44
45
Giỏi
Khá
Trung bình
Học kì I Học kì II Học kì I Học kì II Học kì I Học kì II
3
3
1
7
4
8
3
9
36
27
37
38
38
27
36
36
6
12
6
0
3
7
5
0
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Việc Tích hợp trong giảng dạy nói chung và trong các giờ Đọc hiểu tác
phẩm văn học là rất cần thiết. Hơn nữa, trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiên
nay, việc làm này cũng đi đúng quỹ đạo chung của việc cải cách giáo dục; quan
tâm đến đối tượng trung tâm của quá trình dạy và học là học sinh.
Chú trọng Tích hợp trong các giờ Đọc văn cũng giúp tôi giáo dục học trò
của mình hiệu quả hơn. Cùng với lượng kiến thức cơ bản, các em có thêm nhiều
bài học làm người. Giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh cũng đồng nghĩa
với việc hạn chế những tác nhân xấu đang có nguy cơ ảnh hưởng nhiều đến các
em như: thái độ lạnh lùng vô cảm, vô trách nhiệm, mờ nhạt ý chí, ứng xử thiếu
văn hóa, bạo lực học đường, hoặc những trò tiêu khiển vô bổ khác,...
3.2. Kiến nghị
Giáo viên Ngữ văn trong quá trình giảng dạy cần chú trọng hơn đến việc
tích hợp giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. “Văn học là nhân học” - văn
là người, dạy văn cũng là dạy người. Tôi thiết nghĩ, người thầy dạy Ngữ văn khi
làm tròn thiên chức của mình cũng là đã góp phần đào tạo những con người
trong xã hội hiện đại không chỉ có tri thức, mà còn có tư tưởng đúng đắn, có
phẩm chất, tâm hồn đẹp. Tư tưởng ấy, phẩm chất, tâm hồn ấy chính là hành
trang giúp các em vào đời vững vàng, tự tin và gặt hái được nhiều thành công.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hoá, ngày 25 tháng 5 năm
2017
18
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Nguyễn Thị Thêm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
*********
[1]. Luật Giáo dục năm 2005.
[2]. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009 - 2020. (Dự
thảo)
[3]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
[4]. Mô đun THPT 35 “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ
thông ” của Bộ giáo dục và Đào tạo.
[5]. Mô đun THPT 36 “Giáo dục giá trị cho học sinh trung học phổ thông ” của
Bộ giáo dục và Đào tạo.
19
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thêm
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn, Tổ Ngữ văn - Trường
THPT Nguyễn Trãi
Cấp đánh
giá xếp loại
TT Tên đề tài SKKN
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)
1. Cách ghi bảng trong giờ dạy văn
Sở
2. Công tác chủ nhiệm lớp ở
Sở
3.
Trường Bán công
Vận dụng thao tác so sánh khi
Kết
quả
Năm học
đánh
giá
đánh giá
xếp loại (A,
xếp loại
B, hoặc C)
C
2005
B
2008
Sở
A
2010
Sở
B
2012
Sở
B
2013
hướng dẫn học sinh đọc - hiểu
4.
văn bản văn học
Vai trò của giáo viên chủ nhiệm
lớp trong công tác giáo dục đạo
đức và rèn kỹ năng sống cho học
5.
sinh
Cách dạy phần Tiểu dẫn góp
phần nâng cao hiệu quả giờ đọc
văn
20
6
Hướng dẫn học tập cho học sinh,
Sở
A
2014
Tỉnh
A
2015
Sở
B
2015
Sở
B
2016
góp phần nâng cao hiệu quả giờ
7
học Ngữ văn
Hướng dẫn học tập cho học sinh,
góp phần nâng cao hiệu quả giờ
8
học Ngữ văn
Rèn kỹ năng sống cho học sinh
THPT qua đọc hiểu một số tác
phẩm trong chương trình Ngữ
9
văn 10
Rèn luyện kỹ năng tìm hiểu đề,
lập dàn ý bài văn nghị luận cho
học sinh lớp 11 THPT
----------------------------------------------------
21