Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Hướng đổi mới giờ học ngữ văn cho học sinh 11 bậc THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.56 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
HƯỚNG ĐỔI MỚI GIỜ HỌC NGỮ VĂN
CHO HỌC SINH LỚP 11 BẬC THPT

Người thực hiện: Lê Xuân Toàn
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Hoàng Hóa 4
SKKN thuộc lĩnh vực môn Ngữ Văn

THANH HÓA NĂM 2017
MỤC LỤC.
TRANG BÌA. 1
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ. 2,3,4
1. Lý do chọn đề tài
1


2. Mục đích nghiên cứu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
4. Đối tượng nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu.
6. Phương pháp nghiên cứu.
7. Lịch sử đề tài
8. Cấu trúc của SKKN..
PHẦN II : NỘI DUNG. 5


Chương 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 6,7,8.
1. Cơ sở lý luận chung 6
2. Các khái niệm cơ bản. 7
3. Các góc độ tác động của đổi mới. 7
Chương 2.
PHƯƠNG PHÁP ĐỔI MỚI. 8
1. Khảo sát số liệu. 8
2. Về phía giáo viên. 8
3. Về phía người học: 9
Chương 3. 10
THỰC NGHIỆM. 15
1. Tạo tâm thế học tập. 16
2. Linh hoạt, đa dạng trong phương pháp. 17
3. Ứng dụng công nghệ thông tin. 17
4. Lồng ghép các trò chơi trong dạy học Ngữ văn. 18
KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM. 18
1. Kết quả từ các phiếu hỏi. 19
2. Kết quả từ quan sát thực tế. 19
3. Kết quả kiểm tra. 19
PHẦN 3 : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 20
1. Kết luận. 20
2. Kiến nghị 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 22

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài

2



Đổi mới căn bản, toàn diện là yêu cầu của giáo dục hiện nay. Việc xây dựng, áp
dụng những phương pháp mới trong dạy học bộ môn để nâng cao hiệu quả dạy và
học là yêu cầu phải được giải quyết. Đặc biệt, với xu hướng học lệch, học theo ban,
chọn ngành nghề theo khối hiện nay, các môn xã hội bị coi nhẹ. Môn Ngữ văn cũng
không nằm ngoài tình trạng ấy.
Thời gian qua, ngành giáo dục đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tất
cả các môn học trong đó có môn Ngữ văn. Tuy nhiên, điều khiến cho những giáo
viên dạy văn băn khoăn, trăn trở hơn hết đó là học sinh thường lựa chọn các môn
học tự nhiên với mục tiêu chọn trường, ngành, nghề sau này có nhiều cơ hội tìm việc
làm hơn. Nhiều học sinh cho rằng Ngữ văn là môn khoa học xã hội, tính ứng dụng
không cao, không thiết thực với cuộc sống, công việc. Từ đó, dẫn đến tình trạng
chán học văn, hoặc học mang tính đối phó. Học sinh thích học văn ngày càng ít đi.
Vì vậy, đổi mới dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng thú, nâng cao năng lực học tập
cho học sinh, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp, biết cảm thông, yêu
thương chia sẻ với những số phận, cuộc đời thông qua mỗi trang sách, thông qua
từng tác phẩm là điều rất cần thiết. “Văn học là nhân học” học văn là để hình thành
nhân cách con người. Và Ngữ văn là môn học quan trọng giúp học sinh có kỹ năng
giao tiếp ứng xử trong cuộc sống. Từ đó tạo hứng thú trong học tập cho học sinh,
khơi gợi, đánh thức niềm đam mê với văn học, tìm về với giá trị đời sống tâm hồn
của con người.
Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không
bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc đẩy, nuôi
dưỡng tâm hồn học sinh. Người thầy biết tổ chức, điều khiển, xây dựng hơngs tiếp
cận mới đẻ phát huy tính tích cực sáng tạo, tạo hưng phấn, khơi gợi đam mê học tập
của học sinh.
Ngày nay, với xu thế, tác động của cơ chế thị trường, nhiều giá trị nhân văn,
nhiều yếu tố văn hóa đang trở nên bị coi nhẹ, bị lai tạp, giao thoa, mai một. Từ thực
tế ấy, đòi hỏi giáo viên dạy Ngữ văn - những kỹ sư tâm hồn phải nhận thức rõ vai trò

và trách nhiệm của mình là vô cùng quan trọng và nhiều thử thách. Thực tế ấy đòi
hỏi người giáo viên Ngữ văn ngoài chuyên môn vững vàng cần có tâm thế tốt, luôn
nhiệt huyết, yêu nghề, luôn trau dồi đổi mới phương pháp để tạo được hứng thú học
tập.
Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, tạo tâm thế hưng phấn, tích cực cho học
sinh dạy học theo hướng lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm, học trò
là người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến thức, người thầy đóng vai trò là người tổ
chức, chỉ đạo. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những hướng tiếp cận bài học linh hoạt,
khoa học, hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập của học sinh trong dạy học Ngữ văn là
rất cần thiết.

3


Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp kinh nghiệm giảng dạy thực tiễn của
bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong từng giờ học văn, học sinh luôn
hứng thú, chủ động, yêu thích môn học, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy và
học tôi chọn đề tài: “Hướng đổi mới giờ học ngữ văn cho học sinh lớp 11 bậc
THPT ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tôi khi nghiên cứu vấn đề này là đổi mới, tìm được những hướng
tiếp cận, phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo được hứng thú học tập môn Ngữ
văn của học sinh. Đồng thời, qua thực trạng, tìm hiểu được nguyên nhân, các yếu tố
ảnh hưởng tới việc học văn của học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng
thú học tập môn Ngữ văn, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Văn
cho học sinh THPT.
Hơn nữa, qua đề tài này tôi mong rằng có thể góp phần nào đó trong việc bồi dưỡng
tâm hồn người học, như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Học văn là làm cho
tâm hồn mỗi con người phong phú thanh cao và yêu đời hơn”.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp dạy học, hướng tiếp cận bài học nhằm tạo
sự hứng thú học tập cho học sinh. Đề xuất biện pháp đổi mới, hướng tiếp cận bài học
tạo được hứng thú.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Tìm hiểu phương pháp, hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú trong việc dạy và
học môn Ngữ văn ở THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu:

- Phạm vi kiến thức: Chương trình Ngữ văn bậc THPT.
- Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Học sinh các lớp được phân công giảng dạy tại nhà
trường đang công tác.Thời gian: Từ tháng 09 năm 2016 đến tháng 05 năm 2017.
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra (Phỏng vấn, phiếu). Phương pháp đối chứng.– Phương pháp
nghiên cứu tài liệu. – Phương pháp kiểm tra.
7. Lịch sử đề tài:

-

Vấn đề nghiên cứu Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi
học môn Ngữ văn bậc THPT đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như :
- “Đổi mới phương pháp dạy học trong các trường đại học, cao đẳng đào tạo giáo
viên THPT”. Hà Nội tháng 9/2003. [ 1 ].
- “Các phương pháp dạy học hiệu quả”- NXB trẻ, 2001. [ 2 ].
- M. Iacoplep. “Phương pháp và kỹ thuật lên lớp ở trường phổ thông”. NXB Giáo
dục, 1975 – 1978. [ 3 ]. Tuy nhiên các tác giả chỉ chỉ đề cập ở mức độ khái quát, có

4


tính chất lí luận, chứ chưa đi sâu tìm hiểu Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú

cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT một cách cụ thể.
8. Cấu trúc của SKKN Gồm : 3 phần
Phần I : Đặt vấn đề
Phần II : Nội dung
Phần III : Kết luận, kiến nghị
PHẦN II : NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1. Cơ sở lý luận
a. Cơ sở lí luận chung
Đảng và Nhà nước ta đã luôn xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.Và như
Jacques Delors đã nói : “Giáo dục là một trong những công cụ mạnh nhất mà chúng
ta có trong tay để đào tạo nên tương lai”. [ 4 ]. Chúng ta đang trên đà đổi mới, hội
nhập cùng xu thế chung của thời đại, đòi hỏi nền giáo dục nước ta có sự đổi mới, đổi
mới căn bản, toàn diện để bắt kịp thời đại.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản
lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập
trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp... Xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”. [ 5 ].
Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh”. [ 6 ].
Như vậy, vai trò của giáo dục là cực kì quan trọng, liên quan đến sự phát triển
bền vững của một quốc gia. Nhà nước ta luôn nhận thức rất rõ điều đó. Trong xu thế
mới, điều kiện phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giáo

dục càng được ưu tiên hàng đầu. Để đáp ứng nhu đổi mới toàn diện giáo dục, trong
đó, việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là với môn Ngữ văn là điều rất cần
thiết. Trong đó nhiệm vụ đầu tiên là làm cách nào để người học luôn sẵn tâm thế và
yêu thích môn học, từ đó say mê, chủ động tích cực coi học tập là nhiệm vụ hàng
đầu. Người giáo viên phải không ngừng học hỏi, tìm hiểu, nghiên cứu, đổi mới tìm
ra cách tiếp cận môn học, làm sao để học sinh không còn chán môn học nữa.

b. Các khái niệm cơ bản
Với đề tài đã lựa chọn “ Hướng đổi mới giờ học ngữ văn lớp 11 bậc
THPT” trước hết tôi muốn làm rõ một số vấn đề: Đổi mới là gì?
5


+ Đổi mới nội dung là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh
vực/môn học nào đó. Tức là tập trung xác định và trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn
học sinh cần biết cái gì? Cách tiếp cận này chủ yếu dựa vào yêu cầu nội dung học
vấn của một khoa học bộ môn nên thường mang tính “hàn lâm”, nặng về lý thuyết
và tính hệ thống, nhất là khi người thiết kế ít chú đến tiềm năng, các giai đoạn phát
triển, nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học.
+ Thứ hai là đổi mới kết quả đầu ra, là nêu rõ kết quả những khả năng hoặc kĩ năng
mà học sinh mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường ở
một môn học cụ thể. Nói cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi : chúng
ta muốn học sinh biết và có thể làm được những gì?
Như vậy, có thể hiểu "đổi mới" là phương pháp, cách thức, góc độ tìm hiểu làm rõ
một vấn đề, nội dung nào đó và hướng đến đạt được mục đích đề ra. Ở đây chúng ta
có thể hiểu đó là hướng tiếp cận bài học, hướng tìm hiểu nội dung nhằm tạo hứng
thú, say mê kích thích khả năng học tập của học sinh.
Khi có được sự say mê, thích thú con người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, dễ
thành công và thành công nhanh hơn, bởi lẽ hứng thú còn chính là động lực thúc đẩy
hoạt động của con người đi sâu vào bản chất của đối tượng nhận thức mà không

dừng lại ở bề ngoài của hiện tượng, nó đòi hỏi con người phải hoạt động tích cực,
chịu khó tìm tòi hoặc sáng tạo. Hứng thú có nhiều tác dụng trong cuộc sống nói
chung và trong dạy học nói riêng.

c. Các góc độ tác động của sự đổi mới tạo hứng thú
* Tác động của sự đổi mới tạo hứng thú trong cuộc sống
Hứng thú có tác dụng duy trì trạng thái tỉnh táo ở con người. Hứng thú định
hướng tính tích cực của con người, làm con người chịu khó tìm tòi và sáng tạo.
Hứng thú đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển và hình thành nhân cách con
người, nó tạo nên khả năng cho hoạt động trí tuệ, thẩm mỹ và các dạng hoạt động
khác. Hứng thú làm cho con người xích lại gần nhau hơn.
* Tác động của sự đổi mới tạo hứng thú trong giờ học
Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên là những “kỹ sư tâm hồn”, sản
phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người (nhân cách). Nó
không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt ra những yêu cầu khắt
khe đối với giáo viên. Theo William A. Ward thì:“ Người thầy trung bình chỉ biết
nói. Người thầy giỏi biết giải thích. Người thầy xuất chúng biết minh họa. Người
thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng” [ 7 ].
Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh, người
học là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể dạy ai làm
bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo Galileo
Galilei). [ 8 ].
6


Cho nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ
học tập tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để
đạt kết quả học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ
động và tự giác, không bị ép buộc.
Khi hứng thú học tập, người học sẽ: Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ

sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra.
Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ ràng. Chủ
động vận dụng kiến thức kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý
vào vấn đề đang học. Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản chí trước những tình
huống khó khăn…Hứng thú còn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ
thấp đến cao: Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạn…
Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau
về một vấn đề…Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Tóm lại, khi học sinh hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không khí thi đua
học tập sôi nổi, tích cực, say mê học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu… đây chính là một
trong những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài năng. Và tôi tin rằng quá trình dạy học
nhất định sẽ đạt được kết quả cao. “Hứng thú, ham mê học tập là một trong những
nguồn gốc chủ yếu nhất của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng
tạo và tài năng.”(Viện KHGD – “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.) [ 9 ]
2. Cơ sở thực tiễn đề tài
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc đối với giáo
dục nước ta hiện nay, đặc biệt đối với hệ thống giáo dục phổ thông, trong đó có việc
dạy và học môn Ngữ văn. Những năm gần đây, việc tích cực đổi mới, đổi mới căn
bản, toàn diện trong giáo dục của chúng ta đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Tuy
nhiên, vẫn còn đó nhiều khó khăn, bất cập và cần tích cực đổi mới hơn nữa. Dạy và
học môn Ngữ văn ở các trường THPT chưa đạt được yêu cầu chất lượng và hiệu quả
như mong muốn. Đặc biệt, sự mến mộ yếu thích của người học đối với môn học
không còn nhiều mặn mà.
* Khảo sát số liệu
Khảo sát số liệu học sinh yêu thích hứng thú với môn học đầu năm học 2016 –
2017lớp 11 A4. Tổng số 40 học sinh, lớp 11A4, với 26 nữ, 14 nam.
- Mức độ hứng thú:
Thích: 7 hs = 17.5%. BT: 23hs = 57.5%. Không thích: 10hs = 25%.
- Chất lượng đầu năm:
Giỏi: 0. Khá: 4 = 10%. TB: 16 = 40%. Yếu 17 = 42.5%. Kém 3 = 7.5%.

- Chất lượng cuối năm: Nhìn chung không thay đổi là mấy.
Nhận thấy, tỷ lệ học sinh yêu thích và hứng thú với môn học là không cao, chỉ
chiếm 17.5%. Kết quả khảo sát qua bài kiểm tra đánh giá kiến thức môn học của
7


học sinh cũng cho thấy số lượng học sinh có điểm môn học yếu, kém cao chiếm
50%.
Theo tôi, Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, cả nguyên nhân chủ quan lẫn
khách quan.
a. Về phía giáo viên
Việc thiếu thốn về trang thiết bị dạy học như tranh ảnh minh họa, đồ dùng trực
quan, dụng cụ nghe nhìn cho giáo viên cũng như học sinh khiến cho việc áp dụng
dạy học theo phương pháp mới gặp nhiều khó khăn.
Chính vì thế, dẫn đến việc dạy – học chay tràn lan, đơn điệu, nặng về thuyết
giảng một chiều, để trò ghi chép rồi học thuộc ý của thầy. Cách học theo lối thụ
động đó sẽ không gây được sự hào hứng tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ trong
mỗi giờ học. Tình trạng các bài văn mẫu trên mạng, xuất bản bày bán tràn ngập nhà
sách, học sinh sinh ra tính ỷ lại, lệ thuộc. Thi cử còn nặng kiến thức. Do đó, những
kiến thức học sinh thu nhận được thiếu sâu sắc, không để lại những ấn tượng lâu dài.
b. Về phía học sinh:
Thực tế là đa số học sinh hiện nay không thích học môn Ngữ văn, không có hứng
thú trong việc tiếp thu kiến thức văn chương. Do tính đặc thù môn học, là một môn
học mang tính cảm xúc, tư duy hình tượng, chịu chi phối rất nhiều bởi yếu tố văn
hóa, tâm lí, cảm xúc, đòi hỏi người học phải có trí tưởng tượng phong phú. Đây
cũng là môn học mà nội dung không chỉ hiện ra trên dạng câu từ mà nó còn bao
hàm, ẩn chứa nhiều tầng nghĩa sâu xa (đặc biệt phần văn học), vì thế việc tiếp nhận
môn học này đối với học sinh là rất khó khăn. Mà học sinh nhiều em rất thiếu lòng
quyết tâm học tập, cứ khó khăn là nản, bỏ…không học, dẫn đến yếu kém rồi chán
môn học đó.

Như vậy, dạy học theo hướng đổi mới bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi
học môn Ngữ văn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và tạo hứng thú cho
học sinh trong quá trình học môn Ngữ văn ở bậc THPT. Điều quan trọng đòi hỏi
phải tổ chức hoạt động học tích cực,và sáng tạo làm cho học sinh say mê học tập.
Dạy học theo hướng này có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho
học sinh, tăng cường khả năng vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình
huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức bài học một cách máy móc. Qua nghiên
cứu cơ sở thực tiễn, nghiên cứu đội ngũ giáo viên, học sinh và cơ sở thiết bị dạy học
Ngữ văn, cùng với yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học Ngữ văn tôi
nhận thấy đề tài hoàn toàn có khả năng thực thi ở trường THPT.
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP ĐỔI MỚI GIỜ HỌC NGỮ VĂN
CHO HỌC SINH LỚP 11 BẬC THPT
Trước đây, phương pháp dạy học thường thiên về truyền thụ, học ghi nhớ nhiều,
học sinh tái hiện máy móc những điều được ghi, gây áp lực đối với người học. Từ đó
8


tạo ra tâm lí sợ học, sợ học thuộc. Điều này phần nào đã thủ tiêu khả năng sáng tạo,
tư duy của người học, biến người học thành những người quen suy nghĩ và diễn đạt
bằng những ý thuộc lòng, bằng những lời có sẵn của thầy cô, sách vở. Do đó, học
sinh luôn lệ thuộc vào sách vở, học sinh không hào hứng chủ động, thiếu sáng tạo và
thiếu tự tin.
Làm sao học sinh của mình luôn yêu thích môn Ngữ văn; làm thế nào để chất
lượng học tập môn Ngữ văn được nâng cao và điều quan trọng là làm sao để người
học luôn chủ động tích cực, say mê, tự tin trong học tập; biết vận dụng kiến thức vào
thực tế; chủ động khám phá, phát hiện những cái hay, cái đẹp, các giá trị tác phẩm
văn chương; bồi dưỡng tình yêu đối với văn học, bồi dưỡng tâm hồn, giá trị nhân
văn… luôn là điều trăn trở đối với tôi và những đồng nghiệp.
Xuất phát từ thực trạng ấy, từ thực tế giảng dạy của bản thân, qua trao đổi học hỏi

kinh nghiệm của đồng nghiệp, tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, mong góp
phần nào sẽ cải thiện được thực trạng dạy và học Ngữ văn hiện nay, cải thiện được ý
thức học tâp của học sinh đối với môn Ngữ văn ở bậc THPT. Dưới đây, tôi có sử
dụng tài liệu tham khảo " SGK lớp 11 - tập 1,2". [ 10 ].

1. Tạo tâm thế học tập
a. Tác động bằng tình cảm
Để học sinh luôn chủ động, tích cực, tự giác đặc biệt có hứng thú với môn học,
trước hết, giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái tim và lòng tâm huyết
của mình, phải để người học cảm nhận được tâm hồn mình trong mỗi bài giảng.
Thực sự quan tâm đến học trò, biết lắng nghe, chia sẻ với những suy nghĩ, tâm tư
của học trò. Sẵn sàng là người bạn chia sẻ. Từ đó tạo được niềm tin, xóa bớt được
khoảng cách giữa giáo viên với học sinh (tâm lí, tuổi tác…), tạo ra không khí học
tập thân thiết, gần gũi… Theo quy luật lây lan tình cảm, từ chỗ yêu quí, trân trọng
thầy cô đến thích học môn học đó là một khoảng cách rất ngắn. Từ đó học sinh yêu
thích, say mê học môn học mà mình dạy.
b. Xây dựng không khí lớp học
Học tập căng thẳng thường làm chúng ta mệt mỏi về tinh thần. Chỉ có sự tận tình, tổ
chức giờ học một cách khoa học, sinh động mới kích thích sự hứng thú học tập
trong học sinh. Tạo ra bầu không khí học thoải mái, tích cực, có tính thi đua giữa các
học sinh là rất cần thiết.
Như vậy, không khí lớp học có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất
lượng dạy học, cảm xúc tích cực sẽ làm tăng hiệu suất của hoạt động nhận thức
trong học sinh. Có nhà giáo dục đã từng nói “Một ông thầy mà không dạy được cho
học trò ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi.” Cho nên, giáo
viên phải biết cách tạo không khí thoải mái khi vào lớp học. Giáo viên có thể tạo
không khí lớp học bằng dẫn các chuyện vui, các câu thơ, câu văn hay, bằng cách đặt
9



vấn đề bất ngờ, gợi được sự chú ý, bằng các tranh ảnh, sơ đồ… để gợi hứng thú,
kích thích trí tò mò muốn khám phá bài học cho học sinh.
Trong tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn với bài giảng, một mẩu truyện về nhà
văn… sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi tích cực; học sinh sẽ bị cuốn hút
vào những giai thoại, hay những liên hệ mà giáo viên kể. Từ đó học sinh sẽ hứng
thú và tiếp thu bài tốt hơn.
Chính sự chú ý, hứng thú do không khí lớp mang lại sẽ kích thích các học sinh tích
cực làm việc hơn, tư duy sẽ được thúc đẩy. Học sinh sẽ chủ động đi sâu tìm hiểu bản
chất, ý nghĩa của vự việc, hiện tượng; kết quả là học sinh nhanh hiểu bài và nhớ bài
lâu hơn.

2. Linh hoạt, đa dạng trong phương pháp
a. Linh hoạt trong phương pháp
Giáo viên luôn vận dụng nhiều phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học, tạo
nên sự phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá trình dạy học sẽ làm cho học
sinh cảm thấy thoải mái, không bị ức chế về mặt tâm lí bởi sự nhàm chán, mệt mỏi
vì sự đơn điệu tẻ nhạt.
Ví dụ: Khi dạy phần Tiểu dẫn giáo viên cho học sinh điền thông tin vào phiếu, hoặc
ghi sẵn trên bảng và để trống phần thông tin cần điền:
Giáo viên yêu cầu học sinh điền vào chỗ còn trống. Học sinh thay nhau làm, có thể
phân theo nhóm thực hiện theo yêu cầu của giáo viên. Lớp học sẽ sinh động và học
viên hứng thú học tập hơn. Từ đó, ta thấy rằng các học sinh sẽ tiếp thu kiến thức tốt
hơn nếu trong giờ học có sự xen kẽ nhau giữa các hoạt động dạy học.
Hồ Chí Minh.
Năm sinh: ....................
Quê quán: ....................
Tên cha .....................
Tên mẹ: ......................
Tố Hữu: Năm sinh: ................ Quê quán: ...................
Xuân Diệu: Năm sinh............... Quê quán.......................

Tên cha: .................................. Tên mẹ:........................
b. Đưa ra các tình huống có vấn đề.
Dạy học theo tình huống là giáo viên không trình bày đơn thuần nội dung bài học
mà sắp xếp lại tài liệu sao cho toàn bộ bài giảng là vấn đề lớn được chia thành một
số vấn đề nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau, rồi kích thích hứng thú cho học sinh
và khéo léo đưa các học sinh vào những tình huống có vấn đề. Từ đó mà bắt đầu
những phần của bài giảng. Và như thế, hứng thú sẽ được duy trì đến khi nào chưa
tìm ra được câu trả lời.
Ví dụ 1: Khi dạy tác phẩm “Chí Phèo” – sách Ngữ văn 11, tập I, giáo viên đặt ra
những tình huống có vấn đề: Tại sao đến lúc cuối cùng Chí Phèo lại xách dao đến
thẳng nhà Bá Kiến? Tại sao Chí Phèo lại hay chửi và chửi nhiều đến thế mà hóa
10


chẳng chửi đích danh ai? Tại sao Nam Cao lại để cho 3 con chó “lên tiếng” đáp lại
tiếng chửi của Chí Phèo?
Tại sao Nam Cao lại xây dựng nhân vật thị Nở xấu ma chê, quỷ hờn như vậy ?
Ví dụ 2: Khi dạy bài Vội vàng của Xuân Diệu, giáo viên cũng đặt học sinh vào tình
huống có vấn đề:
- Thường khi nhắc đến sự vội vàng trong cuộc sống là muốn chỉ sự thiếu cẩn thận,
hấp tấp, khó thành. Nhưng tại sao Xuân Diệu lại muốn sống vội vàng, sự vội vàng
ấy có gì đặc biệt? Giáo viên, từng bước hướng dẫn học sinh giải quyết các vấn đề,
từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Từng bước chiếm lĩnh kiến thức, không
những tạo nên sự hưng phấn mà động lực thúc đẩy khả năng tự học, hiểu và sáng
tạo, giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống.
c. Liên hệ với thực tế
Việc gắn nội dung bài giảng với thực tế cuộc sống là một trong những biện pháp gây
hứng thú học tập môn Ngữ văn. Bởi lẽ, nếu chỉ sa đà với những lí thuyết khô khan
mà xa rời thực tế thì bài học sẽ thiếu tính thực tiễn, mất đi tính thuyết phục và sự lôi
cuốn, không kích thích được hứng thú học tập của học sinh. Ngữ văn là môn học đặc

thù, phản ánh thực tế cuộc sống qua những hoàn cảnh, tính cách, số phận xuất phát
từ ngoài đời sống. Nhiều kỹ năng, kiến thức các em học được sẽ được vận dụng vào
rất nhiều tình huống của cuộc sống. Vì vậy, gắn dạy học với thực tế cuộc sống không
những có tính chất bắt buộc trong dạy học Ngữ văn mà còn rất cần thiết để gây hứng
thú học tập cho học sinh.
Ví dụ: – Khi dạy bài Bản tin – Ngữ văn 11 – tập 2; cần lưu ý cho học sinh đặc điểm,
yêu cầu của bản tin, viết được bản tin về vấn đề đời sống, xã hội quan tâm. Viết các
bản tin về hoạt động thi đua chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam; văn hóa Tết của
gia đình…
- Khi dạy bài “Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn” – sách Ngữ văn 11 – tập I, cho học
sinh chuẩn bị và viết một số bài phỏng vấn về vấn đề thường gặp trong đời sống :
phỏng vấn và trả lời phỏng vấn khi xin việc, phỏng vấn về kinh nghiệm học tốt của
bạn bè, phỏng vấn về các vấn đề xã hội đang quan tâm : giao thông, môi trường, bạo
lực học đường, tình yêu tuổi học trò… sẽ tạo cho học sinh sự tự tin, yêu thích môn
học.
d. Ứng dụng công nghệ thông tin
Tích cực ứng dụng CNTT, phát huy khả năng hỗ trợ của CN vào các bài giảng:
lồng ghép những đoạn phim, những tranh ảnh, những khúc ngâm, bài thơ được phổ
nhạc… vào quá trình giảng dạy, không những tạo không khí hứng thú học tập, mà đó
là một kênh thông tin hữu hình, trực quan để học sinh nhận biết, hiểu bài sâu sắc.
Với việc ứng dụng CNTT trong dạy học đòi hỏi mỗi giáo viên cần nắm vững các
quy trình về soạn bài giáo án điện tử. Qua quá trình soạn giảng và giảng dạy, bản

11


thân tôi rút ra một số kinh nghiệm khi thiết kế bài giảng điện tử, giáo viên cần đạt
được những yêu cầu cơ bản sau:
*Yêu cầu về nội dung: Bài giảng điện tử khi trình bày nội dung lí thuyết cần cô đọng
và được minh hoạ sinh động có tính tương tác cao mà các phương pháp giảng bằng

lời khó diễn tả.
*Yêu cầu về phần câu hỏi giải đáp: Câu hỏi nêu ra nhằm để cho học sinh có thể vừa
nghe, (hoặc nhìn); giáo viên có thể đưa hệ thống câu hỏi trên màn trình chiếu. Các
câu hỏi nêu ra theo nhiều cấp độ (câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp có
tác dụng gợi mở, dẫn dắt học sinh nhằm hình thành kiến thức mới. Có thể dùng
nhiều câu hỏi: tái hiện, gợi mở, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, dùng phiếu học tập …)
nhằm phân loại được đối tượng. Có như vậy mới kích thích sự học tập của học sinh.
(Lưu ý tránh những câu hỏi quá dễ hay quá khó). Hệ thống câu hỏi thể hiện rõ tính
chất đổi mới phương pháp dạy học nêu vấn đề. Với câu trả lời trắc nghiệm khách
quan: Trong thiết kế, giáo viên cần kết hợp hiệu ứng của màu chữ, âm thanh, hình
ảnh để thể hiện sự tán thưởng, cổ vũ nồng nhiệt đối với học sinh cho câu trả lời
đúng. Với những câu trả lời chưa chính xác thì thông báo lỗi và gợi ý tìm chỗ sai
bằng cách nhắc nhở, đưa ra một gợi ý hoặc chỉ ra chỗ sai để học sinh suy nghĩ tìm
câu trả lời.
*Yêu cầu về phần trình bày khi thiết kế bài giảng điện tử: Mỗi bài giảng điện tử
phần thiết kế phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đầy đủ: Chuyển tải đủ yêu cầu về nội dung của bài học. (Đối với một bài đọc hiểu,
tiếng Việt hay Làm văn thì phần trình chiếu có thể chỉ giới thiệu hình ảnh, xem như
đó là bảng phụ còn phần trình bày nội dung chính ở bảng đen)
- Chính xác: Hình ảnh, âm thanh, video hay một số ví dụ và các phần nội dung của
bài học phải đảm bảo không có thông tin sai sót.
- Trực quan: Màu chữ, cỡ chữ, hình ảnh, âm thanh, bảng biểu, video clip phải sinh
động hấp dẫn, phù hợp với nội dung bài học.
Khi ứng dụng CNTT trong bài học thì việc sử dụng phương tiện băng đĩa hình trong
việc dạy và học môn Ngữ văn hiện nay rất cần thiết. Đây cũng là một nguồn tri thức
rất sinh động, vì vậy băng đĩa hình cũng có nhiều điều kiện thuận lợi cho HS khai
thác kiến thức trong từng bài học. Ngoài ra băng hình còn mang tính chất minh họa
và hỗ trợ cho bài giảng để tạo hứng thú cho HS.
Từ những thực tế trên trong quá trình dạy và học nếu như GV mà đưa thêm băng đĩa
hình vào bài giảng thì kết quả đạt được là rất tốt và còn gây hứng thú cho HS tốt

hơn. Mặt khác còn phát huy khả năng sáng tạo độc lập suy nghĩ của từng HS. HS tự
giác chủ động tìm tòi những kiến thức mới và giải quyết vấn đề trong mỗi bài học,
có ý thức vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống hàng ngày
4. Lồng ghép các trò chơi trong dạy học Ngữ văn

12


Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo dục
bằng trò chơi – một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới
vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với phương
pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay. Giải
pháp này sẽ thay đổi không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú
cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn
trong đề xuất của mình, phát huy tư duy sáng tạo.. Hứng thú và chủ động trong học
tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành kĩ năng và phát triển
nhân cách ở học sinh qua bộ môn Ngữ văn.
Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý mối quan hệ giữa trò chơi
và hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lý, đúng mức và đúng lúc để không xáo
trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trò chơi kết thúc;
trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho tất cả các
tiết học; trò chơi bao giờ cũng kết thúc bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử
phạt nhẹ nhàng cho vui đối với người (đội) thua cuộc từ đó tạo nên sự dí dỏm, hứng
thú.
+ Xem trò chơi là một hình thức tổ chức cho một đơn vị kiến thức nhỏ trong giờ
học, để triển khai ở các bước khác nhau của bài giảng (phần tìm hiểu chung, tìm
hiểu ngữ liệu, phần đọc – hiểu văn bản, phần luyện tập, củng cố bài…).
+ Tổ chức tiết học thành một trò chơi lớn đối với một số tiết ôn tập hoặc khái quát.
Giáo viên có thể tự sáng tác ra những trò chơi phù hợp với tiết học theo nguyên tắc
vừa phù hợp, vừa kích thích sự tò mò của các em. Ví dụ: Ô chữ, Hùng biện, Tiếp

sức, Điền bảng, Rung chuông vàng…
Do đặc thù của mỗi phân môn, việc vận dụng lồng ghép trò chơi có những điểm
khác nhau.
* Văn học: Tùy thuộc dạng bài ( bài khái quát, ôn tập, đọc – hiểu văn bản…), lượng
kiến thức, mục tiêu bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trò chơi: trò chơi nhỏ
dành cho một hoạt động dạy học hay trò chơi lớn cho cả tiết học. Do đặc thù của
phân môn với mục đích cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương, đòi hỏi
những cảm xúc tinh tế, nên mức độ vận dụng trò chơi chỉ vừa phải.
* Tiếng Việt: Lồng ghép trò chơi đối với phân môn này là khá phù hợp, đặc biệt là
đối với những tiết thực hành, luyện tập. Trò chơi cần phải gắn với các bài tập hoặc
các hình thức thực hành, luyện tập khác mà giáo viên nghĩ ra. Vận dụng tốt giải
pháp này, giờ học Tiếng Việt sẽ không còn khô cứng, học sinh cảm thấy thoải mái,
hứng thú, kích thích hoạt động tư duy của các em, quan trọng hơn là góp phần phát
triển năng lực sử dụng ngôn ngữ ở học sinh. Qua trò chơi, tư duy và khả năng ngôn
ngữ của học sinh sẽ được bộc lộ tự nhiên, giáo viên có thể phát hiện và uốn nắn kịp
thời những mặt còn hạn chế.

13


* Làm văn: Chính là phần thực hành Văn học và Tiếng Việt. Có thể vận dụng trò
chơi trong một số tiết học và không nên thực hiện hình thức này trong cả tiết. Với
phân môn này, việc lồng ghép hình thức trò chơi không thể thay thế được các
phương pháp cũng như hình thức tổ chức lớp học đặc thù như thực hành, luyện tập,
…hoạt động theo nhóm hay cá nhân tự luyện tập các kĩ năng…Do đó không nên
gượng ép để cố tình đưa trò chơi vào tất cả các giờ học làm văn.
Quy trình thực hiện:
* Chuẩn bị: Tùy theo mỗi trò chơi cụ thể sẽ có những phần chuẩn bị khác nhau.
* Bước 1: Giáo viên dự kiến chọn trò chơi cho phù hợp với nội dung của từng bài
học.

* Bước 2: Giáo viên nêu thể lệ trò chơi
* Bước 3: Học sinh tiến hành chơi trò chơi (với tư cách một cá nhân hoặc một
nhóm), dưới sự kiểm soát của giáo viên.
* Bước 4: Giáo viên đánh giá, cho điểm hoặc phát thưởng tùy theo sự đóng góp của
mỗi cá nhân hoặc mỗi nhóm.
Cách thức tổ chức:
Có rất nhiều trò chơi có thể gây hứng thú cho học sinh trong việc dạy và học môn
Ngữ văn. Tuy nhiên trong phạm vi của một sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ xin nêu
một số trò chơi sau:
a. Trò chơi điền bảng (kết hợp với thảo luận nhóm):
* Đặc điểm: Trò chơi này dùng trong những giờ ôn tập, thay vì cho học sinh lập
bảng thống kê kiến thức bình thường, ta có thể chia lớp thành các nhóm khác nhau
và cho đại diện các nhóm lên bốc thăm để tìm công việc cho nhóm mình. Sau đó,
các nhóm sẽ thay phiên nhau giải quyết công việc của nhóm mình.
* Chuẩn bị: – Về phía giáo viên:
+ Kẻ sẵn một bảng tổng kết bao gồm các đơn vị kiến thức, trong đó chỉ có đề mục
và các tiêu chí thống kê.
+ Các phiếu bốc thăm ứng với các nhóm.
+ Các thẻ kiến thức trắng đều nhau được cắt ra từ giấy Ao.
+ Keo dán, bút viết bảng (4 màu ứng với 4 nhóm).
- Về phía học sinh: dựa vào SGK và soạn kĩ bài theo yêu cầu của giáo viên.
b.Trò chơi ô chữ (nhóm hoặc cá nhân)
* Đặc điểm: Đây là cách thức mô phỏng theo các sân chơi phổ biến hiện nay như:
Đường lên đỉnh Ôlympia, Chiếc nón kỳ diệu…[ 11 ].
Nó có thể sử dụng linh hoạt trong các tiết dạy hay trong các tiết ôn tập, thực hành.
Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều nhưng nó lại được sự đón
nhận rất nhiệt tình của các em học sinh. Chính vì thế nó mang lại hiệu quả rất cao.
* Chuẩn bị: Giáo viên soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương ứng
với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hàng ngang,
14



học sinh dần dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc. Đây là ô chính mà nội dung của nó
có tầm quan trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi nhớ.
- Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị sẵn ở bảng phụ hoặc giáo viên có thể áp dụng
công nghệ thông tin để trò chơi này hấp dẫn và mới lạ hơn.
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm
a. Mục đích thực nghiệm
- Thông qua các bài thực nghiệm nhằm kiểm tra tính khả thi của đề tài:“Hướng đổi
mới giờ học ngữ văn cho học sinh lớp11 bậc THPT”
- Căn cứ vào kết quả thực nghiệm, phân tích xử lý các số liệu thu được để đánh giá
khả năng áp dụng của đề tài.
b. Nhiệm vụ thực nghiệm: – Chọn lớp và chọn GV thực nghiệm, chọn lớp và GV
đối chứng để thực nghiệm
- Chọn các bài thực nghiệm đáp ứng được yêu cầu của đề tài.
- Chuẩn bị các điều kiện cần thiết về các mặt trong công tác thực nghiệm sư
phạm: các giáo án và các phương tiện thiết bị dạy bài thực nghiệm.
- Thống nhất với GV dạy thực nghiệm về nội dung, phương pháp dạy từng bài.
- Tổ chức triển khai các bài thực nghiệm đã được chuẩn bị.
- Đánh giá kết quả và rút ra kết luận.
2. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm.
- Phải đảm bảo tính khoa học, khách quan về khối lượng kiến thức trong SGK
Ngữ văn do Nhà xuất bản Giáo Dục phát hành.
- Tuân thủ theo chương trình giảng dạy do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Đảm
bảo kiến thức cơ bản của bài giảng trong SGK.
- Việc dạy thực nghiệm phải tôn trọng thời khoá biểu của nhà trường không
làm ảnh hưởng tới hoạt động dạy và học của lớp được chọn làm thực nghiệm.
Quá trình thực nghiệm và kết quả thực nghiệm được xử lý theo phương pháp thống
kê toán học.

3 Phương pháp thực nghiệm.
- Thực nghiệm được tiến hành song song trên 2 lớp (lớp thực nghiệm và đối
chứng) tại trường. Các lớp đối chứng được tiến hành trước, giáo viên giảng dạy theo
nội dung và phương pháp truyền thống. Với các lớp thực nghiệm, GV nghiên cứu
kĩ cách thiết kế bài giảng theo phương pháp mới trong đó đã xác lập các kiến
thức liên môn phù hợp với từng bài. Cả hai lớp đều do một giáo viên tiến hành giảng
dạy, kiểm tra (cùng bài, cùng đề kiểm tra). Sau khi nghiên cứu các thiết kế bài
giảng và dạy thực nghiệm, giáo viên rút ra những kết luận và nhận xét cần
thiết.
4. Nội dung thực nghiệm
15


Để tổ chức thực nghiệm có hiệu quả, tôi đã chọn trường tôi đang công tác và các lớp
tham gia thực nghiệm là lớp thực nghiệm: 11A1, 11A5, 11A8, lớp đối chứng: 11A6,
11A10, 11A11.
– Các GV tôi chọn giảng dạy là các GV đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp
11 tại trường. Các GV dạy thực nghiệm đều là những người công tác lâu năm và
trình độ chuyên môn khá đồng đều, đó là điều kiện cho việc dạy thực nghiệm sư
phạm, thể hiện được tính khách quan đúng đắn và yêu cầu của quá trình thực nghiệm
và kết quả thực nghiệm.
Chuẩn bị bài thực nghiệm
- Các bài soạn dạy thực nghiệm đều được chuẩn bị kỹ và sự tham khảo ý kiến của
đồng nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả của đề tài và GV dạy thực nghiệm trao đổi nhằm
hoàn thiện bài soạn đáp ứng mục đích và yêu cầu của đề tài.
- Trước giờ dạy, các bài soạn đều được chuẩn bị đồ dùng, phương tiện thiết bị dạy
học đầy đủ.
- Tôi đã chọn các bài trong SGK Ngữ văn lớp 11 để thực nghiệm. Dưới đây là các
phần trong từng bài tôi đã áp dụng thực nghiệm.
CHÍ PHÈO

Khi dạy bài Chí Phèo”- Sách Ngữ văn 11, tập I, giáo viên lồng ghép cho học sinh
xem một vài đoạn phim nhỏ nói về hình ảnh Chí Phèo cùng với tiếng chửi, hình ảnh
của thị Nở cùng với bát cháo hành, hình ảnh chí Phèo hiền lành sau khi ăn cháo
hành… Nó tác động trực tiếp đến nhiều giác quan của các em, tạo ấn tượng, kích
thích sự tò mò, hấp dẫn và lôi cuốn, từ đó sẽ gây hứng thú hơn trong việc tìm hiểu
tác phẩm, tìm hiểu về số phận. Khi dạy xong bài này, giáo viên có thể áp dụng trò
chơi ô chữ để củng cố nhằm khắc sâu kiến thức đã học.
- Giáo viên cho học sinh tham gia trò chơi theo nhóm hoặc cá nhân.
- Yêu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ bản về tác giả Nam
Cao và tác phẩm Chí Phèo. Đặc biệt khi kết thúc trò chơi, học sinh phải nắm được
một trong hai giá trị lớn của tác phẩm, đó là “giá trị hiện thực”.
- Giáo viên lần lượt nêu ra các câu hỏi cho các nhóm thực hiện, bắt đầu từ nhóm 1.
Các nhóm có quyền lựa chọn ô hàng ngang. Nếu nhóm nào không trả lời được theo
thời gian qui định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi.
- Nhóm nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô
hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ là đội thắng cuộc.
- Cụ thể về bảng ô chữ: (8 hàng)
Câu hỏi: – Hàng 1: Tên thật của tác giả Nam Cao ? (10 chữ cái)
- Hàng 2: Khi say, Chí chửi, đầu tiên là hắn chửi gì ? (4 chữ cái)
- Hàng 3: Ai là người trực tiếp đẩy Chí Phèo vào tù ? (6 chữ cái)
- Hàng 4: Nhân vật nào được miêu tả xấu ma chê quỷ hờn ? (5 chữ cái)

16


- Hàng 5: Tác phẩm Chí Phèo được nhà văn lấy bối cảnh ở đâu của nước ta trước
Cách mạng tháng Tám? (8 chữ cái)
- Hàng 6: Qua tác phẩm, Nam Cao muốn đề cập đến tình trạng nào của người nông
dân


1
T
R
A
N
H
U
U
T
R
I
2
T
R
O
I
3
B
A
K
I
Ê
N
4
T
H
I
N
O
5

N
O
N
G
T
H
O
N
6
T
H
A
H
O
A
7
Đ
O
I
T
H
Ư
A
8
B
À
C
Ô
trước cách mạng Tháng 8/1945? (6 chữ cái)
– Hàng 7: Một trong những tác phẩm viết về để tài người trí thức trước cách mạng

– Hàng 8: Ai là người đã ngăn cản tình cảm giữa Thị Nở và Chí Phèo? (4 chữ cái)
* Hàng dọc: Đây là một trong những giá trị cơ bản của tác phẩm Chí Phèo.
Ví dụ minh họa ứng dụng công nghệ thông tin khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về
cảnh đưa tang cụ cố Tổ kèm theo những lời giảng, giáo viên cho học sinh xem cảnh
đưa
Ví dụ thực tế: Hạnh phúc của một tang gia: Đám con cháu cụ cố tổ ngày đêm
trông cho cụ mau chết để chia gia tài. Khi cụ chết lại làm ma rất to để cho thiên hạ
phải trầm trồ khen là chí hiếu.
Ví dụ minh họa ứng dụng công nghệ thông tin khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về
cảnh đưa tang cụ cố Tổ kèm theo những lời giảng, giáo viên cho học sinh xem cảnh
đưa ma cụ cố Tổ, nó sẽ tác động và để lại ấn tượng sâu sắc hơn cho học sinh về một
đám ma to tát, đám ma của sự bát nháo, nhố nhăng,…
Đám tang cụ cố tổ – ảnh : cắt từ clip [ 12 ].
ÔN TẬP VĂN HỌC
* Ví dụ minh họa trò chơi điền bảng: Ở bài Ôn tập văn học, sách Ngữ văn 11, tập
2, giáo viên chuẩn bị:
+ Chia lớp thành 4 nhóm.
+ 4 phiếu bốc thăm – mỗi phiếu có 2 đơn vị kiến thức – các đơn vị kiến thức này
cách quãng nhau.
+ 8 thẻ kiến thức trắng, dài.
+ Keo dán, 4 bút lông viết bảng xanh, đỏ, tím, đen ứng với 4 nhóm 1, 2, 3, 4

17


+ Kẻ sẵn trên bảng 10 đơn vị kiến thức trong đó chỉ có đề mục và các tiêu chí thống
kê bao gồm các ô: Thứ tự – Tên tác phẩm, tác giả – Năm sáng tác – Thể loại – Nghệ
thuật và nội dung chủ yếu.
Tác phẩm - tác giả


Năm sáng tác

Thể loại

Nội dung - Nghệ thuật cơ
bản

1. Lưu biệt khi xuất
dương. Phan Bội Châu
2. Hầu trời - Tản Đà
3. Vội vàng - Xuân Diệu
4.Tràng giang - Huy Cận
5.Đây thôn vĩ Dạ - HMT
6. Từ ấy - Tố Hữu
7. Chiều tối - HCM
Tương tư - Nguyễn Bính
8.Tôi yêu em- Pu skin
9. Người trong bao - Sê
Khốp
10. Bài thơ thứ 28 - Ta
Go
+ Các nhóm học sinh nhận phiếu bốc thăm và tiến hành thảo luận để tìm ra kiến thức
phù hợp với các ô trống – ghi nội dung vào các thẻ kiến thức.
+ Đại diện học sinh lên dán thẻ kiến thức vào ô trống trên bảng ứng với phần mình
đã bốc thăm.
Trò chơi này giúp học sinh thống kê được kiến thức đã học mà không gây nhàm
chán. Cách này nhẹ nhàng mà huy động được sự tham gia của cả lớp. Học sinh sẽ
rất hứng thú khi tham gia bài.
Kết quả thực nghiệm
Sau khi áp dụng Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học

môn Ngữ văn lớp 11 THPT kết quả thu được như sau:
Kết quả từ các phiếu hỏi: Với 5 câu hỏi cho một phiếu thăm dò ý kiến được phát
đều cho 40 học sinh sau khi thống kê đã thu được kết quả như sau: Số phiếu: 40
phiếu.
Câu hỏi 1: Em yêu thích học môn Văn không ?
Số phiếu yêu thích học môn Văn là: 35 phiếu
Số phiếu trả lời bình thường là: 5 phiếu.
Số phiếu trả lời không thích là: Không
Câu hỏi 2: Em cảm thấy học môn Văn có khó không?
Số phiếu trả lời bình thường: 25 phiếu. Số phiếu trả lời môn Văn khó: 15 phiếu
Câu hỏi 3: Em thấy tập thể lớp 11A1 có thích học văn không?
18


Số phiếu trả lời cả lớp có thích: 35 phiếu. Số phiếu trả lời không biết rõ: 5 phiếu.
Số phiếu trả lời không thích lắm: 0 phiếu
Câu hỏi 4: Em sẽ làm gì khi gặp bài văn khó ?
Cố gắng tìm cách phân tích đề, dàn ý, tham khảo sách: 30 phiếu
Học hỏi người khác gợi ý: 10 phiếu.
Không hiểu và không làm: Không
Câu hỏi 5: Em có thích đọc thêm sách tham khảo về môn văn không ?
Số người rất thích là: 35 phiếu. Số người không trả lời: 5 phiếu
Theo như kết quả thống kê từ phiếu hỏi, ta thấy học sinh yêu thích môn văn đã
chiếm 75% tổng số học sinh trong lớp, đây là một kết quả phản ánh thái độ tích cực
của học sinh đối với môn học. Tuy nhiên vẫn có tới 15% học sinh trong lớp trả lời
bình thường, và cho rằng môn văn là một môn học khó. Nhưng nhìn chung các học
sinh đã có ý thức tìm tòi, lập dàn ý, tham khảo sách khi gặp bài khó hoặc hỏi người
khác gợi ý… Điều đó chứng tỏ các học sinh đã có thái độ tích cực đối với việc học
môn văn. Như vậy là sự hứng thú học tập môn Ngữ văn của các học sinh đã tốt hơn,
từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn trong nhà trường.

Kết quả từ quan sát thực tế
Với việc trực tiếp giảng dạy ở lớp 11A1, trong giờ học văn, các học sinh có ý thức
học bài cũ, một số học sinh do nhút nhát nên không xung phong trả lời bài cũ hay
tham gia xây dựng bài mới; nhưng đa số các học sinh đều có khả năng trả lời các câu
hỏi ở những mức độ khác nhau. Một số học sinh còn có khả năng trả lời những câu
hỏi nâng cao kiến thức để bài học được khắc sâu.Ý thức của học sinh trong việc học
tập bộ môn hiện nay khá nghiêm túc, ý thức đó thể hiện qua việc tích cực trong xây
dựng bài, chú ý nghe giảng và chép bài đầy đủ và được phản ánh qua chất lượng bài
kiểm tra của học sinh .
Kết quả kiểm tra
Trong học kì II năm học 2016 – 2017, tôi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào
thực tế giảng dạy. Qua điều tra thăm dò lớp 11A1 mà tôi phụ trách giảng dạy, kết
quả như sau:
- Học sinh hứng thú học tập: 45 hs = 90%.
- Học sinh đạt điểm TB trở lên: 40 hs = 100%.
Với kết quả khảo sát như trên, qua việc đối chiếu, so sánh kết quả, tôi nhận thấy
rằng việc áp dụng các biện pháp gây hứng thú học tập vào giảng dạy Ngữ văn: tỉ lệ
học sinh thích học văn tăng lên hơn 75%. Từ đó cho thấy việc áp dụng các biện pháp
gây hứng thú học tập hướng vào việc tạo tinh thần hưng phấn, thoải mái, xây dựng
không khí lớp học sôi nổi, học sinh có thiện cảm môn Ngữ văn bước đầu đạt hiệu
quả. Nó đã góp phần nâng cao hơn chất lượng của các giờ học môn Ngữ văn.
PHẦN 3 : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
19


Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục là yêu cầu cấp thiết của giáo dục nước ta.
Nó được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trú trọng. Đó cũng là cơ sở, là tiền đề, yêu
cầu, động lực tạo nên một sự đổi thay toàn diện, cả về chiều sâu và chiều rộng; đổi
mới từ nội dung đến phương pháp giảng dạy… Vấn đề nghiên cứu của đề tài này

này chính là hệ quả tất yếu của quá trình ấy.
Sau khi thực hiện đề tài: “Hướng đổi mới giờ học ngữ văn cho học sinh lớp 11
bậc THPT ”, tuy gặp nhiều khó khăn về thời gian, kinh nghiệm tổ chức thực hiện
nghiên cứu… nhưng so với mục đích và nhiệm vụ của đề tài đặt ra, về cơ bản đề tài
cũng đã giải quyết được một số nhiệm vụ sau:
- Bước đầu xác định được các hướng tiếp cận bài học : Nội dung – kết quả.
- Góp phần xây dựng hệ thống lí luận về hứng thú học tập.
- Xây dựng tìm hiểu và vận dụng được một số biện pháp gây hứng thú học tập môn
Ngữ văn cho người học.
Đó là những kinh nghiệm của cá nhân, những vấn đề của đề tài đặt ra cũng mới chỉ
là bước khởi đầu có tính định hướng, gợi ý; việc thực hiện nó như thế nào, hiệu quả
ra sao còn tùy thuộc rất nhiều vào nghệ thuật vận dụng của thầy cô giáo và môi
trường, cũng như hoàn cảnh, đối tượng học sinh….
Tôi mong rằng, những kinh nghiệm này góp phần giúp người học có được sự hứng
thú trong việc học tập môn Ngữ văn. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng học tập
bộ môn và hơn nữa là góp phần “đánh thức” tình yêu của người học đối với môn
Ngữ văn.

2. Kiến nghị
* Đối với nhà trường: - Cần có sự công bằng các môn học. Không nên coi trọng các
môn khoa học tự nhiên, coi nhẹ môn khoa học xã hội nhân văn dẫn đén tình trạng
học lệch của học sinh.
- Thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy với nhau, nhất là
phương pháp giảng dạy theo tinh thần đổi mới sách giáo khoa.
- Cần đầu tư thêm tài liệu tham khảo đổi mới ( tài liệu định hướng, gợi ý), về môn
Ngữ văn để giáo viên và học sinh dễ dàng tiếp cận với tri thức mới.
* Đối với tổ chuyên môn:
- Thay đổi hình thức sinh hoạt tổ chuyên môn sao cho đa dạng hơn không đơn thuần
chỉ là dự giờ, góp ý, mà tổ chức hội thảo bằng những chuyên đề cụ thể.
- Tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa sinh động, hấp dẫn, đa dạng nhằm gây hứng

thú cho học sinh đối với bộ môn Ngữ văn. ( mời nhà văn, nhà thơ về nói chuyện).
* Đối với giáo viên Ngữ văn
- Ngoài việc nắm vững chuyên môn còn phải rèn luyện, nghiên cứu thêm về nghệ
thuật sư phạm, tìm tòi các biện pháp gây hứng thú học tập, tạo một không khí học
tập vui vẻ, thoải mái giúp học sinh ngày càng yêu thích bộ môn Ngữ văn.
20


- Bên cạnh đó, phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, phát huy
thế mạnh của công nghệ thông tin vào dạy học bằng cách tìm các thông tin mới, hấp
dẫn trên mạng internet, đưa vào giáo án điện tử làm cho các tiết học sinh động,
lượng thông tin học sinh thu được nhiều và chính xác hơn so với phương pháp dạy
học truyền thống.
Trong quá trình xây dựng, thực hiện đề tài, do sự hạn chế về năng lực, tư liệu và
kinh nghiệm, Dù tác giả đã đầu tư, tìm tòi song không tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế ; tác giả hi vọng đề tài này sẽ góp phần làm thay đổi không khí lớp học, làm
cho học sinh của mình ngày càng yêu mến và hứng thú học tập môn Ngữ văn hơn.
Đồng thời, người viết rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo, bạn bè
đồng nghiệp để đề tài có tính thực tiễn, có thể áp dụng có hiệu quả trong quá trình
dạy và học môn Ngữ văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ.

Thanh Hóa, ngày 20/5/2017.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viêt, không sao
chép nội dung của người khác.
Họ và tên.

Lê Xuân Toàn


TÀI LIỆU THAM KHẢO
21


1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án đào tạo giáo viên trung học phổ thông. Đổi mới
phương pháp dạy học trong các trường đại học, cao đẳng đào tạo giáo viên trung học
phổ thông. Hà Nội tháng 9/2003.
2. Các phương pháp dạy học hiệu quả - NXB trẻ 2001.
3. M IACopLep: " Phương pháp và kĩ thuật lên lớp ở trường phổ thông.
NXB GD 1975 - 1978.
4. Jac Que S DeLoRS: " Giáo dục học phổ thông" - NXB trẻ - 2000.
5. Văn kiện Đại hội Đảng XII.
6. Luật giáo dục. NXB QG, Hà Nội , 1998.
7. Wi LLi Am A. Ward nói về giáo dục.
8. GaLiLeo.GaLiLei nói về giáo dục.
9. Viện khoa học giáo dục Việt Nam - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.
10. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 – NXB Giáo dục.
11. Vận dụng các trò chơi - Đài truyền hình Việt Nam.
12. Tạp chí Văn học & Tuổi trẻ 2017.

22



×